Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

skkn sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn lịch sử cấp THPT tỉnh ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 50 trang )

Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

MỤC LỤC
TT
*
*
*
A
B
I
1
1.1
1.2
1.3
2
II
1
2

3
C
1
2
*
*

NỘI DUNG
Mục lục
Lời cảm ơn
Danh mục các chữ viết tắt
Đặt vấn đề


Giải quyết vấn đề
Cơ sở nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Phân loại và các khái niệm
Ý nghĩa của việc sử dụng di sản đối với hoạt động dạy học nói
chung, dạy học lịch sử địa phương nói riêng
Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể địa phương (huyện Gia
Viễn - tỉnh Ninh Bình)
Cơ sở thực tiễn
Nội dung nghiên cứu
Các bước giáo dục di sản văn hóa cho học sinh THPT
Kết quả thực hiện nội dung giáo dục di sản văn hóa thông qua hoạt
động ngoại khóa của học sinh trường THPT
Giáo dục di sản văn hóa cho học sinh trường THPT thông qua tiết
dạy Lịch sử địa phương lớp 11: “Di tích lịch sử - văn hóa ở Ninh
Bình”
Kết thúc vấn đề
Kết luận và ý nghĩa quan trọng nhất của đề tài
Những kiến nghị làm tăng tính khả thi của đề tài
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

Trường THPT Gia Viễn C

TRANG
1
2
3
4
9

9
9
9
10
10
12
13
13
14

27
36
36
37
39
40

1


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành sáng kiến với nội dung đề tài: “Sử dụng di sản văn hóa địa
phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT”, chúng tôi xin cảm ơn sự khích lệ
động viên, sự giúp đỡ nhiệt tình của Ban Chi ủy, Ban giám hiệu, Hội đồng sư phạm
nhà trường và của tổ, nhóm chuyên môn; Sự giúp đỡ của Ban quản lý di tích lịch sử ở
địa phương và sự tham gia nhiệt tình của học sinh các khối lớp của trường THPT Gia
Viễn C. Đặc biệt, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ đạo của Sở Giáo
dục và đào tạo Ninh Bình đã quyết định đến sự thành công của Chuyên đề cấp tỉnh

môn Lịch sử với nội dung “Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn
Lịch sử cấp THPT tỉnh Ninh Bình” đã được tổ chức ở trường THPT Gia Viễn C vào
ngày 09 tháng 02 năm 2015 vừa qua.

Sáng kiến này là kết quả của việc tìm tòi, khám phá, sáng tạo và thực nghiệm
trong suốt thời gian dạy học và thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy học
trên tinh thần phát triển năng lực học tập của học sinh. Hy vọng rằng sáng kiến sẽ góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn lịch sử và hiệu quả của việc sử dụng di sản
văn hóa trong dạy học môn lịch sử nói riêng, trong dạy học các môn xã hội nói chung;
từ đó giúp giáo dục học sinh một cách toàn diện. Trên cơ sở đó, sáng kiến nhằm tạo sự
chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng, hiệu quả giáo dục và phát triển con
người Việt Nam như chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về “đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo’’ hiện nay.
Xin chân thành cảm ơn!
Gia Viễn, tháng 05 năm 2015
Nhóm các tác giả

Trường THPT Gia Viễn C

2


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Stt

Viết tắt

Nội dung


1

CNTT

Công nghệ thông tin

2

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

3

GDCD

Giáo dục công dân

4

GDTX

Giáo dục thường xuyên

5

GV

Giáo viên


6

HS

Học sinh

7

THPT

Trung học phổ thông

Trường THPT Gia Viễn C

3


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

A/ ĐẶT VẤN ĐỀ:
I/ Lý do chọn đề tài:
Xu thế hội nhập quốc tế ngày nay đòi hỏi các dân tộc phải lưu giữ những giá trị
tốt đẹp về vật chất và tinh thần của đời sống xã hội loài người. Chính vì thế, cho đến
nay, hàng loạt các công trình kiến trúc, danh lam thắng cảnh có giá trị đã và đang được
xem xét, công nhận là di sản văn hóa từ cấp địa phương, cấp tỉnh, cấp quốc gia cho
đến quốc tế. Những mặt trái của xã hội thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
khiến cho chúng ta cần phải có được trạng thái cân bằng, sự kết hợp hài hòa giữa
truyền thống và hiện đại. Có thể là như vậy nên trong sách lược phát triển kinh tế ở
những năm gần đây của các địa phương luôn luôn có một đề tài đáng chú ý là: “Di sản

văn hóa với hội nhập và phát triển”.

Ngay trong tháng 01 năm 2013, Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Bộ Văn hóa, thể
thao và du lịch có công văn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL về việc hướng dẫn sử
dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm GDTX nhằm góp
phần giáo dục toàn diện học sinh, giữ gìn và phát huy giá trị của di sản văn hóa vì lợi
Trường THPT Gia Viễn C

4


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

ích của toàn xã hội và truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong hướng dẫn này, Bộ đã chỉ rõ việc lồng ghép nội dung dạy học di sản văn hóa
vào các môn học, hoạt động giáo dục trong chương trình giáo dục phổ thông (nội khóa
hoặc ngoại khóa).
Do vậy, từ năm học 2013-2014, đến năm 2014-2015, chủ trương sử dụng di sản
văn hóa trong dạy học lại tiếp tục được Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT đưa vào trở thành
một trong những nhiệm vụ trọng tâm (Công văn số 3008-CT/BGDĐT, Chỉ thị nhiệm
vụ trọng tâm của giáo dục phổ thông năm học 2014 – 2015, ngày 18 tháng 8 năm 2014
của Bộ Giáo dục và đào tạo về dạy học thông qua di sản; Hướng dẫn số 938/SGDĐTGDTrH của Sở GD&ĐT Ninh Bình ngày 06/9/2014 V/v sử dụng di sản văn hóa trong
dạy học ở trường phổ thông).
Mặt khác, trong những năm gần đây, học sinh ngày càng xa rời với các bộ môn
xã hội, đặc biệt là môn lịch sử. Việc học sinh nắm bắt được lịch sử đất nước còn rất
hạn chế, chứ chưa nói gì đến việc hiểu được lịch sử của địa phương mình. Thực trạng
hiểu biết lịch sử của học sinh như vậy thật đáng báo động: “Một thế hệ mà không
thông hiểu được lịch sử của dân tộc, của địa phương mình thì không biết tương lai đất
nước sẽ đi về đâu” (Giáo sư Trần Văn Giầu). Thực tế kết quả học sinh đăng kí môn thi
tốt nghiệp năm học 2013 – 2014 và thi THPT quốc gia năm học 2014 - 2015 đối với

môn Lịch sử là quá thấp đã phần nào chứng minh điều đó.
Lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành nên lịch sử dân tộc, vì vậy việc
hiểu lịch sử địa phương góp phần hiểu sâu sắc hơn lịch sử dân tộc. Giáo dục địa
phương hiệu quả sẽ bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, ý thức trách nhiệm đối
với xã hội. Hoạt động lồng ghép giáo dục di sản văn hóa vào dạy học lịch sử địa
phương, đặc biệt là các di sản văn hóa ở nơi học sinh sinh sống sẽ khiến cho bài giảng
lịch sử được sinh động, gần gũi và lôi cuốn học sinh hơn. Cho đến nay, việc thực hiện
công tác giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường còn gặp nhiều khó khăn và hiệu
quả đạt được chưa cao. Có thể kể đến một số nguyên nhân như: Nguồn tư liệu về địa
phương ở cấp huyện, xã, thôn còn ít hoặc thiếu thiết bị, dụng cụ hỗ trợ giảng dạy lịch
sử địa phương như bản đồ, ảnh tư liệu, sa bàn minh họa, băng hình tư liệu... nên khi
dạy đến các tiết học này, gần như học sinh chỉ được học chay, cộng với trí tưởng tượng
về những gì đã được tiếp cận ở địa phương mình; Mặt khác, với thời lượng chỉ 1 đến 2
tiết trong một năm học đối với 1 khối lớp nên có khi nội dung giảng dạy này còn bị
xem nhẹ, hoặc coi như là bài học ngoại khóa. Trong khi mỗi địa phương đều có những
lượng di sản văn hóa (vật thể và phi vật thể) rất phong phú được cấp địa phương
(huyện, tỉnh) và cấp nhà nước, thậm chí cấp thế giới công nhận. Thực trạng này dẫn
đến hậu quả nghiêm trọng là nhiều người ngoại quốc, người địa phương khác còn am
hiểu về tỉnh Ninh Bình hơn cả cư dân bản địa do du lịch đang trở thành một xu thế
phát triển mạnh mẽ trong nước và trên thế giới.
Một thực trạng nữa tồn tại trong các tiết dạy lịch sử nói chung là GV còn ngại
hoặc chưa quyết tâm đổi mới phương pháp giảng dạy, chưa mạnh dạn ứng dụng hiệu
Trường THPT Gia Viễn C

5


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

quả công nghệ thông tin và đa dạng hóa các hình thức dạy học. Vì vậy, một tiết học

trôi qua hết sức tẻ nhạt, HS trở thành đối tượng “thụ động” tiếp nhận kiến thức “chay”
từ phía GV.
Quê hương Ninh Bình được biết đến là mảnh đất “địa linh nhân kiệt”. Nơi đây
còn được xem là địa phương “ngàn năm văn vật” với những di tích lịch sử - văn hóa đã
trở thành di sản văn hóa nổi tiếng. Đặc biệt, trong di sản văn hoá Ninh Bình, phải kể
đến văn hoá dân gian được hình thành rất sớm, đồng hành và trải dài suốt tiến trình
lịch sử dân tộc. Văn học dân gian Ninh Bình khá đa dạng, phong phú cả về đề tài, thể
loại và số lượng. Song, phong phú và đa dạng hơn cả là ca dao, tục ngữ, thành ngữ,
truyền thuyết, cổ tích và giai thoại. Tuy vậy, với các giải pháp cũ thường làm, HS ở
các trường phổ thông không thể biết được và không thể tự hào về truyền thống lịch sử
- văn hóa của quê hương mà các thế hệ cha ông đi trước đã dựng xây.
Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông hiện nay đang trở thành một
giải pháp mới và hiệu quả nhằm khắc phục những hạn chế do các giải pháp dạy học cũ
đã làm. Tuy nhiên, việc đưa di sản văn hóa vào dạy học lịch sử địa phương là một giải
pháp hoàn toàn mới mà trước đó chưa từng được đặt ra nhằm nâng cao hơn nữa chất
lượng dạy học nội dung giáo dục địa phương nói riêng và dạy học môn Lịch sử nói
chung.
Việc định hướng học sinh vào tìm hiểu những di sản văn hóa ở địa phương sẽ
giúp các em cảm thấy bài học lịch sử gắn bó hơn với cuộc sống ở xung quanh các em.
Qua đó, sẽ bồi dưỡng học sinh tình cảm tự hào với những giá trị văn hóa truyền thống
do ông cha để lại, càng thêm yêu quê hương, yêu đất nước mình hơn. Và trên hết, các
em sẽ tự nảy sinh ý thức trách nhiệm đối với việc bảo tồn di sản văn hóa, cũng như kế
thừa, phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp từ ngàn xưa trong lịch sử quê hương, đất
nước.
II/ Mục đích nghiên cứu:
Thông qua những kiến thức cơ bản về khai thác và sử dụng di sản trong các tiết
dạy lịch sử địa phương và bằng một bài dạy cụ thể là bài “Di tích lịch sử - văn hóa ở
Ninh Bình” – (Chương trình Lịch sử lớp 11) giúp giáo viên có nhận thức và hướng đi
tích cực khi sử dụng di sản văn hóa vào việc soạn giảng các bài dạy về nội dung giáo
dục địa phương.

Đáp ứng các chủ trương và Đề án đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo
dục phổ thông mới được Thủ tướng chính phủ phê duyệt vào tháng 4/2015 vừa qua
nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng, hiệu quả giáo dục và phát triển
con người Việt Nam: Chủ trương dạy học theo hướng tích hợp (Lịch sử, Ngữ văn, Địa
lý, GDCD), đáp ứng yêu cầu và góp phần tạo động lực đẩy mạnh đổi mới phương
pháp dạy và học, đổi mới thi, kiểm tra đánh giá chất lượng giáo dục; Đổi mới phương
pháp dạy học bằng việc đa dạng hóa và sử dụng hợp lý các hình thức dạy học theo
hướng phát triển năng lực học sinh, lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính chủ
động, sáng tạo, tự học của học sinh, rèn luyện, phát triển cả về phẩm chất và năng lực;
Trường THPT Gia Viễn C

6


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

chú trọng giáo dục tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, đạo đức, lối sống và phát
hiện, bồi dưỡng năng khiếu cho mỗi học sinh…
Thông qua hoạt động ngoại khóa về di sản văn hóa: Bổ sung, cung cấp thêm
nguồn tư liệu có giá trị về di tích lịch sử - văn hóa ở địa phương (huyện Gia Viễn)
trong tình trạng nguồn tư liệu này đang hết sức ít ỏi nhằm phục vụ cho việc dạy học di
sản ở cấp THPT.
Học sinh hứng thú hơn khi được tham gia chuẩn bị cho tiết học lịch sử địa
phương bằng các kiến thức và nguồn tư liệu mà các em có thể tự sưu tầm hoặc tiếp cận
được và thích thú với các hoạt động học về lịch sử địa phương.
Giúp học sinh nâng cao kỹ năng thực hành môn lịch sử, khả năng tư duy gắn lý
thuyết với thực tiễn, “học đi đôi với hành”. Trên cơ sở đó hình thành thái độ hứng thú,
say mê của các em đối với môn học này cũng như góp phần giáo dục đạo đức, nhân
cách của các em một cách toàn diện.
III/ Nhiệm vụ nghiên cứu:

- Hệ thống, thu thập, sưu tầm và xử lý thông tin những nguồn tư liệu quý báu về
di tích lịch sử - văn hóa nhằm khắc phục hạn chế về nguồn tư liệu lịch sử địa phương.
- Các phương pháp nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả một số di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp tỉnh, cấp quốc gia của tỉnh, của huyện và các di sản văn
hóa phi vật thể gắn liền với các di tích – di sản vật thể đó ở trong các giờ học lịch sử ở
THPT.
- Khai thác và thực hiện một số phương pháp, hình thức dạy học, ứng dụng hiệu
quả CNTT, nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự học của học sinh, đáp ứng chủ
trương đổi mới phương pháp dạy học trong quá trình chuẩn bị và tiến hành bài học ở
trên lớp.
- Tích hợp nội dung giáo dục địa phương của các bộ môn xã hội, trong đó: Lịch
sử, Ngữ văn, Địa lý, Giáo dục công dân nhằm tạo ra sự thống nhất về nội dung giáo
dục di sản ở địa phương, góp phần giảm tải, khơi dậy sự hứng thú trong mỗi học sinh
khi được tìm hiểu về các di sản văn hóa địa phương một cách toàn diện.
- Thông qua hoạt động giáo dục di sản cho học sinh trường THPT Gia Viễn C,
sáng kiến giúp giáo viên và học sinh hiểu rõ khái niệm, giá trị của di sản văn hóa cũng
như ý nghĩa của việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở các trường THPT nói
chung.
IV/ Đối tượng nghiên cứu:
- Hoạt động của học sinh lớp 11 trong một tiết học lịch sử địa phương (ở trên
lớp và quá trình học của các ở nhà trước và sau tiết học)
- Hoạt động ngoại khóa của học sinh nhà trường cả ba khối lớp 10, 11, 12.
V/ Phạm vi nghiên cứu:
Chương trình Lịch sử THPT phần giáo dục địa phương lớp 11, cụ thể là bài “Di
tích lịch sử - văn hóa ở Ninh Bình”.

Trường THPT Gia Viễn C

7



Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

Nội dung ngoại khóa tìm hiểu lịch sử địa phương huyện Gia Viễn, cụ thể ở các
xã là nơi học sinh trường THPT Gia Viễn C sinh sống (6 xã: Gia Sinh, Gia Lạc, Gia
Minh, Gia Phong, Gia Trung và Gia Tiến) trên địa bàn huyện Gia Viễn.
VI/ Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp liên hệ, so sánh
- Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, điền dã
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát.

Trường THPT Gia Viễn C

8


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

B/ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ CƠ SỞ NGHIÊN CỨU
1/ Cơ sở lý luận:
1.1/ Phân loại và các khái niệm:
- Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể,
là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ
thế hệ này qua thế hệ khác.
- Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể
hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn dân gian;
Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội truyền thống;

Nghề thủ công truyền thống; Tri thức dân gian.

Hình ảnh minh họa: Phân loại di sản văn hóa phi vật thể
- Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia.
+ Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học.
+ Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp
giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa
học.
+ Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Trường THPT Gia Viễn C

9


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

+ Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa,
khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên.
+ Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm
tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Phân loại và xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa:
+ Phân loại: Di tích lịch sử - văn hóa chia làm 4 loại là Di tích lịch sử (lưu niệm
sự kiện, lưu niệm danh nhân; Di tích kiến trúc nghệ thuật; Di tích khảo cổ; Danh lam
thắng cảnh.
+ Di tích lịch sử - văn hóa được xếp thành 3 hạng là di tích cấp tỉnh, di tích cấp
quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt.

1.2/ Ý nghĩa của việc sử dụng di sản đối với hoạt động dạy học nói chung,
dạy học lịch sử địa phương nói riêng
Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy
học nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ
thông có ý nghĩa như sau:
- Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh.
- Giúp học sinh phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức.
- Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh.
- Phát triển trí tuệ của học sinh.
- Giáo dục nhân cách học sinh.
+ Giáo dục tình cảm yêu mến, tự hào về địa phương mình, trân trọng những giá
trị truyền thống tốt đẹp của quê hương.
+ Giáo dục ý thức trách nhiệm trong việc phát huy truyền thống tốt đẹp của quê
hương, kế tục sự nghiệp của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương.
+ Giáo dục ý thức trách nhiệm của HS đối với các di sản văn hóa, lịch sử của
địa phương.
- Góp phần phát triển một số kĩ năng sống ở học sinh:
+ Kĩ năng giao tiếp.
+ Kĩ năng lắng nghe tích cực.
+ Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng.
+ Kĩ năng hợp tác.
+ Kĩ năng tư duy phê phán.
+ Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.
+ Kĩ năng đặt mục tiêu.
+ Kĩ năng quản lí thời gian.
+ Kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin.
- Tạo điều kiện tổ chức quá trình hoạt động của giáo viên và học sinh một cách
hợp lí.
1.3/ Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể địa phương (huyện Gia Viễn
– tỉnh Ninh Bình)

Trường THPT Gia Viễn C

10


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

Gia Viễn là vùng đất cổ có bề dày lịch sử và giàu truyền thống văn hóa. Huyện
Gia Viễn có nhiều di tích lịch sử - văn hóa đã được xếp hạng như:
Di sản vật thể/ phi
vật thể
1
Núi chùa Bái Đính
Xã Gia Sinh
Di sản vật thể
2
Đình Đông Khê
Xã Gia Trung
Di sản vật thể
3
Đền Thánh Nguyễn
2 xã Gia Tiến, Di sản vật thể
Gia Thắng
4
Chùa và động Địch Lộng
Xã Gia Thanh
Di sản vật thể
5
Đền thờ vua Đinh Tiên Xã Gia Phương Di sản vật thể
Hoàng

6
Động Hoa Lư
Xã Gia Hưng
Di sản vật thể
7
Đình Trùng Hạ
Xã Gia Tân
Di sản vật thể
8
Đình Trùng Thượng
Xã Gia Tân
Di sản vật thể
9
Chùa Lỗi Sơn
Xã Gia Phong
Di sản vật thể
10 Chùa Lạc Khoái
Xã Gia Lạc
Di sản vật thể
11 Nhà thờ và mộ Nguyễn Bặc Xã Gia Phương Di sản vật thể
12 Nhà thờ Đinh Huy Đạo
Xã Gia Phong
Di sản vật thể
13 Khu vực núi Kiếm Lĩnh
Xã Gia Tiến
Di sản vật thể
14 Đình Vân Thị
Xã Gia Tân
Di sản vật thể
15 Đình và chùa Giá Thượng

Xã Gia Hòa
Di sản vật thể
16 Chùa Phúc Hưng và núi Xã Gia Minh
Di sản vật thể
Hang Toàn
17 Chùa Hưng Quốc
Xã Gia Hưng
Di sản vật thể
18 Chùa Linh Viên
Xã Gia Hưng
Di sản vật thể
19 Đình, đền chùa Tập Ninh
Xã Gia Vân
Di sản vật thể
20 Đền Thượng
Xã Gia Phú
Di sản vật thể
21 Đình Núi Thiện
Xã Gia Tân
Di sản vật thể
22 Đền làng Đoan Bình
Xã Gia Phú
Di sản vật thể
23 Đình Trai
Xã Gia Hưng
Di sản vật thể
24 Đền và chùa Me
Thị trấn Me
Di sản vật thể
25 Đền Vò làng Lỗi Sơn

Xã Gia Phong
Di sản vật thể
26 Đình làng Đồng Xuân
Xã Gia Xuân
Di sản vật thể
27 Đình và chùa Liên Huy
Xã Gia Thịnh
Di sản vật thể
28 Đình Kính Chúc
Xã Gia Phú
Di sản vật thể
29 Đình thôn Ngô Đồng
Xã Gia Phú
Di sản vật thể
30 Nhà thờ Lê Khả Lãng
Xã Gia Vân
Di sản vật thể
31 Đình Vũ Nhì làng Vũ Nhì
Xã Gia Trấn
Di sản vật thể
32 Chùa Chính Dương
Xã Gia Phong
Di sản vật thể
Các lễ hội truyền thống của 32 di sản vật thể nói trên là di sản phi vật thể
Stt

Tên gọi di sản

Trường THPT Gia Viễn C


Địa điểm

Được công
nhận cấp
Quốc gia
Tỉnh
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh

Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
Tỉnh
11


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

33
34
35

Làng nghề đan cót
Nghề làm mắm tép
Ngữ văn dân gian

Xã Gia Tân
Di sản phi vật thể
Huyện Gia Viễn Di sản phi vật thể
Huyện Gia Viễn Di sản phi vật thể

2/ Cơ sở thực tiễn: Đặc điểm giáo dục di sản trường THPT Gia Viễn C:
- Địa điểm trường THPT Gia Viễn C: Xóm 1 - thôn Lương Sơn - xã Gia Sinh huyện Gia Viễn - tỉnh Ninh Bình.

Trường THPT Gia Viễn C trên địa bàn huyện Gia Viễn
- Đối tượng học sinh của trường THPT Gia Viễn C: bao gồm học sinh có hộ
khẩu thường trú tại 6 xã trên địa bàn huyện Gia Viễn, thuộc khu vực hai bên bờ sông

Hoàng Long là các xã: Gia Sinh, Gia Lạc, Gia Minh, Gia Phong, Gia Trung và Gia
Tiến. Trong đó, đa số học sinh thuộc các xã Gia Sinh, Gia Lạc, Gia Minh, Gia Phong.
Còn lại, các em ở 2 xã còn lại chiếm số lượng ít hơn (do ở vùng tả ngạn sông Hoàng
Long, giao thông đi lại khó khăn nên nhiều học sinh ở Gia Trung, Gia Tiến còn học ở
trường THPT Gia Viễn A, THPT Gia Viễn B và Trung tâm GDTX Gia Viễn).
Phần lớn học sinh ở các lớp đều có khả năng thu thập, tìm kiếm tư liệu (tư liệu
sử, tranh ảnh) thông qua hoạt động thực tế, trải nghiệm ở các di tích gần khu vực nơi
cư trú.
- Về phương tiện dạy học: nhà trường đã lắp đặt mạng Internet ở các phòng tổ,
cung cấp đầy đủ máy tính, phòng học có hệ thống máy chiếu phục vụ tốt cho việc tìm
kiếm, xử lý nguồn tư liệu và tiến hành bài giảng trên lớp.
Với hy vọng lồng ghép nội dung dạy học di sản văn hóa thông qua việc khai
thác, sử dụng một số di tích lịch sử - văn hóa ở địa phương và một số di sản phi vật thể
sẽ phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, từ đó góp phần nâng cao chất
lượng bộ môn, nên chúng tôi đã chọn đề tài “Sử dụng di sản văn hóa địa phương
trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT”.
Trường THPT Gia Viễn C

12


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

II/ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1/ Các bước giáo dục di sản văn hóa cho học sinh trường THPT:
- Bước 1: Giáo viên phải xây dựng kế hoạch giáo dục, soạn giáo án chi tiết, tỉ
mỉ dựa trên các tài liệu Hướng dẫn dạy học lịch sử Ninh Bình, tài liệu giáo dục địa
phương tỉnh Ninh Bình...
- Bước 2: Lập bảng hệ thống về các di sản văn hóa được sử dụng trong bài
giảng nội khóa hoặc bài học ngoại khóa.

Chẳng hạn: Một số di tích lịch sử - văn hóa được chọn lọc để giáo dục di sản
trong lịch sử địa phương cho học sinh trường THPT Gia Viễn C:
Căn cứ vào những di tích - văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia và cấp tỉnh trên
địa bàn huyện Gia Viễn ở trên và dựa vào cơ sở thực tiễn của nhà trường, có thể thống
kê được 9 di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia và cấp tỉnh thuộc địa phương nơi sinh
sống, gần gũi với học sinh trường THPT Gia Viễn C. Cụ thể như sau:
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

Tên gọi
Đền Thánh Nguyễn
Núi chùa Bái Đính
Chùa Lỗi Sơn
Chùa Lạc Khoái
Nhà thờ Đinh Huy Đạo
Khu vực núi Kiếm Lĩnh
Chùa Phúc Hưng và núi Hang Toàn
Đình Đông Khê
Đền Vò làng Lỗi Sơn

Địa điểm
Xã Gia Tiến và Gia Thắng

Xã Gia Sinh
Xã Gia Phong
Xã Gia Lạc
Xã Gia Phong
Xã Gia Tiến
Xã Gia Minh
Xã Gia Trung
Xã Gia Phong

Ghi chú
Di tích lịch
sử - văn hóa
cấp quốc gia

Di tích lịch
sử - văn hóa
cấp tỉnh

- Bước 3: Trên cơ sở lựa chọn những di sản gắn liền với địa điểm học sinh cư
trú, giáo viên phân công học sinh tìm hiểu, sưu tầm, thu thập các nguồn tư liệu có liên
quan.
Nguyên tắc lựa chọn để nghiên cứu một số di tích lịch sử - văn hóa:
+ Là một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, gần gũi với đối tượng giảng dạy
ở trường THPT trên địa bàn huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Ninh Bình.
+ Các di tích này khi được đưa vào giảng dạy trong bài lịch sử địa phương Ninh
Bình: Bên cạnh di tích tiêu biểu xung quanh địa bàn trường THPT, học sinh cần được
giới thiệu những di tích tiêu biểu của cả tỉnh Ninh Bình. Vì vậy, số lượng di tích của
địa phương không được lựa chọn quá nhiều (chỉ lựa chọn khoảng 2-3 di tích tiêu biểu
nhất: với huyện Gia Viễn có thể là Núi chùa Bái Đính, Đền Thánh Nguyễn; với huyện
Kim Sơn là nhà thờ đá Phát Diệm, nhà thờ Nguyễn Công Trứ; Huyện Yên Khánh là

Nhà thờ và mộ Vũ Duy Thanh; Thành phố Ninh Bình là Núi Non Nước, Núi Cánh
Diều; Huyện Yên Mô là Nhà thờ Ninh Tốn...).
Trường THPT Gia Viễn C

13


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

+ Đặc biệt, trong thời gian qua, gắn với phong trào: “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”, hầu như mỗi trường phổ thông trong tỉnh đều tự nhận chăm
sóc và bảo vệ một di tích tiêu biểu ở địa phương mình. Vì vậy, GV cần thiết phải lựa
chọn di sản này vào bài học nội khóa để giúp HS hiểu được lý do: Tại sao bản thân
mình khi học ở nhà trường phải có trách nhiệm với di tích đó?
+ Với bài học ngoại khóa tìm hiểu về di sản văn hóa địa phương học sinh sinh
sống: Không giới hạn số lượng di tích lịch sử - văn hóa, mà có thể tìm hiểu về cả 9 di
tích như bảng thống kê như trên. Cần động viên, khích lệ học sinh tham gia hoạt động
theo nhóm từng xã. Ví dụ, đối với hoạt động này ở trường THPT Gia Viễn C:
Ghi chú (Khoảng cách với
Nhóm
Đơn vị xã
Di tích lịch sử - văn hóa
trường THPT Gia Viễn C)
1
Gia Sinh
Núi chùa Bái Đính
2 km
Đền Thánh Nguyễn
5 km
2

Gia Tiến
Khu vực núi Kiếm Lĩnh
5 km
Chùa Lỗi Sơn
3 km
3
Gia Phong
Nhà thờ Đinh Huy Đạo
2 km
Đền Vò làng Lỗi Sơn
3 km
4
Gia Lạc
Chùa Lạc Khoái
1,5 km
5
Gia Trung
Đình Đông Khê
2 km
6
Gia Minh
Chùa Phúc Hưng
11 km
- Bước 4: Thiết kế bài giảng, hoàn thiện hồ sơ dạy học hoàn chỉnh dựa trên kết
quả đã thu thập được và xử lý hợp lý các nguồn thông tin tư liệu.
- Bước 5: Giáo viên và học sinh cùng tiến hành nội dung bài học trên lớp.
- Bước 6: Tổ chức các hoạt động về nhà của học sinh: Liên hệ thực tiễn (suy
nghĩ và hành động) của học sinh về di sản văn hóa của địa phương mình.
2/ Kết quả thực hiện nội dung giáo dục di sản văn hóa thông qua hoạt động ngoại
khóa của học sinh trường THPT

Với nội dung ngoại khóa: Khai thác nguồn tư liệu một số di tích lịch sử - văn
hóa tiêu biểu của huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình nơi học sinh cư trú và hoạt động
chia học sinh thành các nhóm theo đơn vị từng xã. Bằng các phương tiện khai thác tư
liệu tự có trên nhiều kênh thông tin khác nhau, các nhóm học sinh đã có kết quả về tư
liệu sử và tranh ảnh minh họa về các di tích lịch sử - văn hóa địa phương mình. Cụ thể
như sau:
2.1/ Đền Thánh Nguyễn - Xã Gia Tiến và Gia Thắng
Từ xưa, người dân Gia Viễn có câu:
“Đại Hữu sinh vương, Điềm Dương (Giang) sinh thánh”.
Đại Hữu là quê hương của Vua Đinh Tiên Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương,
Gia Viễn), còn Điềm Dương (Điềm Giang, nay thuộc xã Gia Tiến và Gia Thắng, Gia
Viễn) là quê hương của Nguyễn Minh Không - vị Quốc sư đời Lý. Câu phương ngôn
Trường THPT Gia Viễn C

14


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

này thể hiện niềm tự hào của người dân nơi đây về vùng đất “địa linh nhân kiệt” quê
hương mình.

Đền Thánh Nguyễn

Đền Thánh Nguyễn ở phía bắc trong
không gian Hoa Lư tứ trấn

Đền Thánh Nguyễn là một ngôi đền cổ thuộc làng Điềm, phủ Tràng An nay là
hai xã Gia Thắng, Gia Tiến huyện Gia Viễn, Ninh Bình. Theo sử sách cũ nói về việc
lập Kinh đô nhà Đinh, lúc đầu Đinh Bộ Lĩnh “Chọn được chỗ đất đẹp ở Đàm Thôn

(Gia Thắng, Gia Tiến ngày nay), muốn xây dựng Đô ở đó, nhưng vì thế đất chật hẹp
lại không có lợi về việc đặ hiểm nên vẫn đóng đô ở Hoa Lư”. Chính vùng đất Đàm
thôn (hay gọi là Điềm) ấy có Nguyễn Minh Không, là danh nhân được sinh ra trên đất
này. Đền được xây dựng trên nền ngôi chùa có tên là Viên Quang do Nguyễn Minh
Không lập vào năm 1121. Khi ông mất, nhân dân Đàm Xá biến chùa Viên Quang
thành đền thờ Thánh Nguyễn. Đền Thánh Nguyễn được xếp hạng di tích kiến trúc
nghệ thuật quốc gia tháng 2 năm 1989.
Về kiến trúc:
Đền quay hướng nam, song song với đường Vua Đinh hướng về cố đô Hoa Lư
nên được xem như là một di tích thuộc Hoa Lư tứ trấn. Đền nằm trên mảnh đất dài
100m rộng hơn 40m, tổng thể công trình kiến trúc khá quy mô, được xây dựng theo
kiểu “nội công ngoại quốc”. Vào đền đi theo hai lối Đông Tây thấy có hai cột cờ hai
bên vút cao. Đầu tiên là Vọng Lâu. Bên hồi của Vọng Lâu có cây đèn đá, cao hơn một
mét, biểu tượng cái đèn của Nguyễn Minh Không ngày xưa ngồi thắp sáng để ngồi
thiền tịnh. Huyền thoại kể rằng, cây đèn tự nhiên mọc lên, Nguyễn Minh
Không thường đêm đêm ngồi bên cây đèn. Các loài chim, loài thú về chầu xung
quanh, ánh sáng cây đèn chiếu sáng đến tầng mây trên không. Chính vì thế nhân dân
tôn hiệu ông là Minh Không và từ đó trở đi tục gọi thiền sư là Minh Không.

Trường THPT Gia Viễn C

15


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

Đền có 4 toà làm theo kiểu tiền nhất, hậu công (trước theo kiểu chữ nhất 一 sau
là chữ công 工). Năm gian tiền đường làm theo kiểu chồng rường, hồi có mái đại, trụ
non xà đuôi chuột, các cặp xà dọc, xà ngang, xà nách, được bám vào cột chắc khoẻ
như những ngấn mộng chính xác kín kít, phân bổ ở vị trí không để ảnh hưởng tới sự

chịu tải của cột. Gian giữa trên cao ở phía ngoài có cuốn thư chạm khắc bốn chữ
Hán Thiên khái Thánh sinh (trời sinh ra Thánh). Bên trong để đồ tế khí, có hai chiếc
trống rất quý hiếm, mặt trống đường kính 1,4 m. Trong cùng là chính tẩm gồm 5 gian,
thờ Nguyễn Minh Không và cha mẹ ông. Phía sau chính tẩm là gác chuông hai tầng,
tám mái, cũng toàn bằng gỗ lim. Gác chuông đây treo một quả chuông nặng hơn 1 tấn,
cao 1,60 m. Quanh đền có nhiều cây cổ thụ tán là xanh tươi và những cây cảnh điểm
trang cho đền, tạo thành một bức tranh phong cảnh làng quê thâm nghiên, tĩnh mịch.
Về nhân vật: Đức Thánh Nguyễn Minh Không sinh ngày 15 tháng 10 (10651141), tên tự là Chí Thành. Năm 11 tuổi Ngài xuất gia, thụ giáo đạo Phật với Từ Đạo
Hạnh (?-1117) là bậc cao tăng nổi tiếng lúc bấy giờ.
Sau khi mất ông được tôn hiệu là Lý Quốc Sư, tên gọi này để chỉ ông là một
cao tăng có chức vị đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam. Vì có nhiều
công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo sau này là
những nhân vật lịch sử có thật được người Việt tôn sùng là đức Thánh Nguyễn, đức
Thánh Trần. Trong dân gian, Nguyễn Minh Không còn được coi là một
vị Thánh trong tứ bất tử ở Việt Nam và ông tổ nghề đúc đồng.
Quốc sư Nguyễn Minh Không là con người mang ánh xạ của thời đại nhà Lý.
Ông đã học hỏi, sưu tầm những kiến thức y học dân gian, hàng ngày tìm thuốc trong
vườn Sinh Dược mà trở thành danh y, chữa bệnh lạ cho Vua, sưu tầm và phục hưng
nghề đúc đồng – tinh hoa của văn minh Đông Sơn – văn minh Việt cổ mà trở thành tổ
sư nghề đúc đồng. Ông khó công tầm sư học đạo, để từ một nhà sư ở từ phủ Tràng
An ra kinh thành làm Quốc sư, đứng đầu hàng tăng ni trong nước, danh vọng và đạo
pháp đạt đến đỉnh cao. Hành trạng của ông thể hiện nên cái không khí của Phật
Giáo thời Lý thần bí, kỳ dị, đầy rẫy sự hoang đường nhưng đóng góp hết sức tích cực
vào công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá dân tộc Việt Nam về nhiều mặt: triết
Trường THPT Gia Viễn C

16


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT


lý, văn học, kiến trúc, mỹ thuật, kỹ nghệ… làm nền tảng cho sự phát triển của văn hoá
Việt sau này.
Tại quê hương Ninh Bình rất nhiều đền thờ đức Thánh Nguyễn khác. Trong số
đó phải kể đến đền thờ Thánh Nguyễn ở khu văn hóa tâm linh núi chùa Bái Đính là nơi
ông đã phát hiện ra các động và biến chúng thành chùa khi đến đây tìm cây thuốc chữa
bệnh cho vua Lý Thần Tông. Tại chùa Địch Lộng ở huyện Gia Viễn, nơi được mệnh
danh là “Nam thiện đệ tam động”, tức động đẹp thứ 3 của trời Nam cũng có đền thờ và
tượng của ông. Khu di tích động Hoa Lư thì phối thờ tượng ông cùng với tượng
vua Đinh Tiên Hoàng trong ngôi đền cổ. Lý Quốc Sư còn được thờ ở đình Ngô Đồng,
xã Gia Phú, Gia Viễn và đền thờ Tô Hiến Thành dưới chấn núi Cắm Gươm ở bên sông
Hoàng Long, chùa Nhất Trụ và động Am Tiên ở cố đô Hoa Lư. Tại đền Thượng xã
Khánh Phú và đền Tam Thánh ở xã Khánh An, Yên Khánh ông được suy tôn là đức
Thánh cả.
Lễ hội đền Thánh Nguyễn diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 3 âm lịch. Đây
là dịp nhân dân địa phương tri ân đức Thánh Nguyễn Minh Không, người con của
đất Gia Viễn. Lễ hội chính được tổ chức 5 năm một lần hoặc 10 năm một lần (tuỳ theo
điều kiện kinh tế); lễ hội còn được tổ chức hàng năm vào dịp tháng Giêng. Trong phần
lễ chính có tục rước nước từ sông Hoàng Long về đền; tế lục khúc, tế nam quan, nữ
quan… phần hội có tổ chức các trò chơi dân gian kéo co, cờ 32 quân, chọi gà, thi bóng
chuyền, bóng đá.

Hình ảnh lễ hội đền Thánh Nguyễn
2.2/ Núi chùa Bái Đính - Xã Gia Sinh
Chùa nằm ở cửa ngõ phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, bên quốc lộ 38B, thuộc
xã Gia Sinh – Gia Viễn – Ninh Bình, cách thành phố Ninh Bình 15 km, cách Hà Nội
95 km. Khu Chùa cổ được khởi lập năm 1136. Người sáng lập là Thiền sư Nguyễn
Minh Không, Tước hiệu là Lý Quốc Sư (1065 - 1141).

Trường THPT Gia Viễn C


17


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

Tam quan chùa Bái Đính cổ trên đỉnh Non Thần
Chùa Bái Đính cổ (Bái Đính cổ tự) nằm cách điện Tam Thế của khu chùa mới
khoảng 800 m về phía đông nam men theo sườn núi Đính. Khu chùa này nằm gần trên
đỉnh của một vùng rừng núi khá yên tĩnh, gồm có một nhà tiền đường ở giữa, rẽ sang
bên phải là hang sáng thờ Phật, rồi đến đền thờ thần Cao Sơn ở sát cuối cửa sau của
hang sáng; rẽ sang bên trái là đền thờ thánh Nguyễn rồi đến động tối thờ mẫu và tiên.
Nơi đây nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt
Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần. Năm 1997 chùa được công nhận là
di tích lịch sử - văn hóa - cách mạng cấp quốc gia. Mặc dù khu chùa có lịch sử hình
thành từ thời Đinh với đền thờ Cao Sơn trấn tây Hoa Lư tứ trấn nhưng chùa Bái Đính
cổ có nhiều chi tiết kiến trúc và cổ vật mang dấu ấn đậm nét của thời Lý.

Tượng Phật trong hang động
ở khu chùa cổ

Đền thờ thánh Nguyễn

Về kiến trúc: bao gồm
Hang sáng, động tối
Lên thăm hang động ở núi Bái Đính phải bước trên 300 bậc đá, qua cổng tam
quan ở lưng chừng núi. Lên hết dốc là tới ngã ba: bên phải là hang sáng thờ Phật và
Thần, bên trái là động tối thờ Mẫu và Tiên. Phía trên cửa hang sáng có 4 chữ đại tự
Trường THPT Gia Viễn C


18


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

"Minh Đỉnh Danh Lam" khắc trên đá do Lê Thánh Tông ban tặng có nghĩa là: “Lưu
danh thơm cảnh đẹp”.
Động dài 25m, rộng 15m, cao trung bình là 2m, nền và trần của động bằng
phẳng. Đi tiếp theo ngách đá bên trái cuối hang sẽ dẫn tới một cửa hang sáng và rộng,
một thung lũng xanh hiện ra. Nếu đi tiếp xuống các bậc đá sẽ đến đền thờ thần Cao
Sơn. Quay trở lại ngã ba đầu dốc, theo đường rẽ trái khoảng 50m là tới động Tối.
Động Tối lớn hơn hang Sáng, gồm 7 buồng, có hang trên cao, có hang ở dưới sâu, các
hang đều thông nhau qua nhiều ngách đá, có hang nền bằng phẳng, có hang nền trũng
xuống như lòng chảo, có hang trần bằng, có hang được tạo hóa ban tặng cho một trần
nhũ đá rủ xuống muôn hình vạn trạng. Trong động tối có giếng ngọc tạo thành do
nước lạnh từ trần động rơi xuống. Các vị Tiên được thờ ở nhiều ngách trong động.
Đền thờ Thánh Nguyễn
Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không là người sáng lập chùa Bái Đính. Ông là một
thiền sư, pháp sư tài danh được vua phong Quốc sư và nhân dân tôn sùng gọi là đức
thánh Nguyễn. Khu vực núi Đính nằm cách quê hương đức thánh Nguyễn Minh
Không 4 km. Tương truyền khi ông đến đây tìm cây thuốc chữa bệnh hóa hổ cho
vua Lý Thần Tông đã phát hiện ra các hang động đẹp liền dựng chùa thờ Phật và tạo
dựng một vườn thuốc quý để chữa bệnh cho dân. Đền thánh Nguyễn nằm ngay tại ngã
ba đầu dốc, xây theo kiểu tựa lưng vào núi, trong đền có tượng của ông được đúc bằng
đồng.
Đền thờ thần Cao Sơn
Đi hết hang sáng có một lối dẫn xuống sườn thung lũng của rừng cây sưa là đền
thờ thần Cao Sơn, vị thần cai quản vùng núi Vũ Lâm. Đinh Bộ Lĩnh từ thưở còn hàn vi
đã được mẹ đưa vào sống cạnh đền sơn thần trong động. Khi xây dựng kinh đô Hoa
Lư, Đinh Tiên Hoàng Đế cũng cho xây dựng 3 ngôi đền để thờ các vị thần trấn giữ ở 3

vòng thành mà dân gian gọi là Hoa Lư tứ trấn. Theo đó, thần Thiên Tôn trấn giữ cửa
ngõ vào vòng thành phía Đông, thần Quý Minh trấn giữ cửa ngõ vào thành Nam
và thần Cao Sơn trấn giữ cửa ngõ vào vòng thành phía Tây. Ngôi đền thần Cao
Sơn hiện tại được tu tạo có kiến trúc gần giống với đền Thánh Nguyễn, cũng xây tựa
lưng vào núi, có hành lang ngăn cách với thung lũng ở phía trước. Theo truyền
thuyết, thần Cao Sơn là một trong 50 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ. Đền thờ
chính của thần ở Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình). Vị thần này có công phù trợ
quân Lê Tương Dực diệt được Uy Mục, sau cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ
và được phong là Cao Sơn đại vương trấn phía Nam kinh thành, một trong Thăng
Long tứ trấn.
Theo như thần phả của đền núi Hầu (xã Yên Thắng, Yên Mô, Ninh Bình) thì
Cao Sơn đại vương là Lạc tướng Vũ Lâm, con thứ 17 vua Lạc Long Quân, khi đi tuần
từ vùng Nam Lĩnh đến vùng Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng
làm bánh thay bột gạo, lấy tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương
vẫn gọi là cây quang lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân
Trường THPT Gia Viễn C

19


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

làm ăn sinh sống đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được nhân dân
lập đền thờ. Thần Cao Sơn cùng với thần Thiên Tôn và thần Quý Minh là ba vị thần
trấn ngự ở ba cửa ngõ phía tây, đông và nam của cố đô Hoa Lư.
Giếng ngọc

Giếng ngọc của chùa Bái Đính cổ nằm gần chân núi Bái Đính. Tương truyền
đây là nơi thiền sư Nguyễn Minh Không đã lấy nước để sắc thuốc chữa bệnh cho dân
và chữa bệnh cho Vua Lý Thần Tông. Giếng xây lại hình mặt nguyệt, rất rộng, có

đường kính 30 m, độ sâu của nước là 6 m, không bao giờ cạn nước. Miệng giếng xây
lan can đá. Khu đất xung quanh giếng hình vuông, có diện tích 6.000 m², 4 góc là 4 lầu
bát giác. Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam đã cấp bằng “Xác nhận kỷ lục”: “Ngôi chùa
có giếng lớn nhất Việt Nam”, ngày 12 tháng 12 năm 2007.
Sự kiện lịch sử có liên quan:
Núi chùa Bái Đính chính là nơi Đinh Tiên Hoàng Đế lập đàn tế trời cầu mưa
thuận gió hòa, sau này tiếp tục được vua Quang Trung chọn để làm lễ tế cờ động viên
quân sĩ trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh. Thế kỷ XVI núi Đính là địa bàn
tranh chấp giữa 2 tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh với nhà Mạc, khi mà chính
quyền nhà Mạc chỉ kiểm soát được vùng lãnh thổ từ Ninh Bình trở ra. Núi chùa Bái
Đính cũng là một di tích cách mạng thuộc chiến khu Quỳnh Lưu, nơi lãnh đạo Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên truyền cách mạng tới nhân dân.
Lễ hội chùa Bái Đính:
Lễ hội chùa Bái Đính là một lễ hội xuân, diễn ra từ chiều ngày mùng 1 tết, khai
mạc ngày mùng 6 tết và kéo dài đến hết tháng 3, khởi đầu cho những lễ hội hành
hương về vùng đất cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Ngoài thời gian trên trong năm, du
khách chỉ có thể vãn cảnh chùa mà không được thăm thú các hoạt động văn hóa của lễ
hội.
Lễ hội chùa Bái Đính gồm 2 phần. Phần lễ gồm các nghi thức thắp hương thờ
Phật, tưởng nhớ công đức Thánh Nguyễn Minh Không, lễ tế thần Cao Sơn và chầu
thánh Mẫu Thượng Ngàn. Lễ hội chùa Bái Đính bắt đầu bằng nghi thức rước kiệu
mang bài vị thờ Thần Cao Sơn, Đức Thánh Nguyễn và Bà chúa Thượng Ngàn từ khu
chùa cổ ra khu chùa mới để tiến hành phần hội.
Trường THPT Gia Viễn C

20


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT


Phần hội chùa Bái Đính gồm có các trò chơi dân gian, thăm thú hang động, vãn
cảnh chùa, thưởng thức nghệ thuật hát Chèo, Xẩm đất Cố đô. Phần sân khấu hóa
thường do Nhà hát Chèo Ninh Bình đảm nhiệm có tái hiện lễ đăng đàn xã tắc của Đinh
Tiên Hoàng Đế và lễ tế cờ của Vua Quang Trung trên núi Đính trước giờ xung trận.
Từ năm 2003, khu chùa Bái Đính mới được khởi công xây dựng ngay bên cạnh
khu vực núi chùa Bái Đính cổ đã biến nơi đây trở thành khu trung tâm tâm linh về
Phật giáo nổi tiếng được cả nước và thế giới biết đến.

Đại lễ Phật đản Vesak 2014 tại Chùa Bái Đính
2.3/ Chùa Lạc Khoái - Xã Gia Lạc
Chùa Lạc Khoái nằm trên thôn Lạc Khoái, xã Gia Lạc, huyện Gia Viễn, tỉnh
Ninh Bình. Chùa nằm ở đầu làng. Cấu trúc của chùa được xây dựng theo lối kiến trúc
cổ. Lối kiến trúc này có ý nghĩa và giá trị lớn đối với các nhà nghiên cứu sử học, văn
hóa, mỹ thuật, hội họa…..

Chùa Lạc Khoái – Gia Lạc – Gia Viễn

Trường THPT Gia Viễn C

Năm 1999, chùa Lạc Khoái được Bộ
Văn hóa cấp bằng Di tích lịch sử - văn
hóa cấp quốc gia

21


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

Về kiến trúc: Chùa có hai ngôi là chùa Thượng và chùa Hạ.
Chùa Thượng

Chùa được xây dựng giữa lưng chừng núi Bảng, tạo dáng như cỗ ngai. Chùa
kiến trúc kiểu chữ Đinh : Tiền đường 5 gian, tam bảo 2 gian. Tiền đường làm kiểu
chồng giường, bẩy kẻ. Chùa có chuông cao 90 cm, đường kính 50 cm, đúc năm Mậu
Tý (1888). Chuông được trạm khắc tứ linh, cùng nhiều họa tiết mền mại. Trước cửa
chùa có bức nghinh phong còn gọi là Tắc Môn.
Nếu đứng quay nhìn vào chùa thì gian giáp đốc phía tay phải là gian đặt bệ thờ
tượng Đức Ông. Phía tay trái ở gian giáp đốc đặt bệ thờ tượng Đức Thánh Hiền. Hệ
thống tượng pháp trong chùa rất đa dạng và phong phú. Đáng chú ý có hai pho tượng
là tượng Phật Bà Quan Âm nghìn tay nghìn mắt và tượng phật Quan Âm Thị Kính rất
đẹp. Giữa tòa tam bảo chùa Thượng có một bát hương đá hình bát giác (8 mặt) theo
phương vị hậu thiên bát quái.
Chùa Hạ
Chùa nằm ở chân núi Bảng, trong lòng tay ngai. Từ chùa Hạ có 99 bậc đá lên
chùa Thượng, tạo nên tổng thể công trình hài hòa với cảnh quan hấp dẫn. Chùa Hạ xây
dựng trước chùa Thượng 10 năm. Chùa Hạ được xây dựng vào năm Kỷ Mùi (1859).
Chùa thờ Phật và Tam vị Thánh Mẫu (tiền phật, hậu thánh).
Về lễ hội: hàng năm được tổ chức vào 2 ngày mùng sáu và mùng bảy tháng
giêng. Khi tổ chức lễ hội thì nhà chùa, chính quyền và nhân dân địa phương là 3 chủ
thể không thể thiếu và quan trọng ngang nhau. Nhà chùa trọng trách phần lễ. Dân xã
trọng trách phần hội (rước kiệu, phục vụ việc lễ, tổ chức các trò chơi…). Chính quyền
phân công các công việc cho từng đoàn thể, cá nhân, đảm bảo an ninh trật tự… Hội
chùa mở trước hội đình. Phần lễ là nghi thức tưởng nhớ công đức của Phật và Thánh.
Được tổ chức bằng các hình thức rước kiệu và tế. Lễ hội có tục thắp nến vào bát thả
xuống giếng chùa cầu cho mưa, nắng thuận hòa, cầu được phong đăng hòa cốc, mùa
màng bội thu. Hội chùa còn có tục tống thuyền rồng. Thuyền được làm bằng hàng mã,
khá lớn. Các nhà sư và hội tế, tay cầm hương, tay cầm cành phan hoặc gậy tích truợng
đi quanh thuyền hành lễ.
Hệ thống tượng pháp chùa Hạ khá đa dạng và phong phú. Ngoài tượng Phật và
tượng Tam tòa Thánh mẫu, còn nhiều tượng khác. Đặc biệt có tòa Cửu Long. Tòa này
tạc 9 con rồng uốn lượn tạo nên vòm trời và ở giữa là hình tượng phật Thích Ca lúc sơ

sinh, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất “thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn”. Chín con
rồng đang phun nước rất sinh động.
Sự kiện lịch sử có liên quan: Trong kháng chiến chống Pháp, chùa Lạc Khoái
là nơi làm việc sơ tán của nhà tài chính, tỉnh đội, ủy ban kháng chiến tỉnh Ninh Bình
và trường cấp 3 Hoa Lư. Trong kháng chiến chống Mỹ, trường cấp I, cấp II đều học ở
chùa.
2.4/ Nhà thờ Đinh Huy Đạo – Xã Gia Phong
Trường THPT Gia Viễn C

22


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

Đinh Huy Đạo, một nho sĩ yêu nước thời Tây Sơn. Công lao của ông đối với
cuộc chiến chống quân Thanh là rất lớn và được chính vua Quang Trung, Cảnh Thịnh
ghi nhận.

Nhà thờ Đinh Huy Đạo và tượng thờ Đinh Huy Đạo
tại xã Gia Phong – Gia Viễn – Ninh Bình
Ông sinh năm Đinh Tỵ (1737) trong gia đình nhà nho nghèo tại làng Ngọc
Động, tổng Lê Xá nay là làng Ngọc Động, xã Gia Phong, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh
Bình.
Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi. Năm 1753, ông đỗ Sinh đồ (Tú
tài), năm 1756 đỗ Hương cống (Cử nhân), năm 1767, đỗ Tam trường, được bổ Huấn
đạo phủ Hà Trung (Thanh Hoá), năm 1773 được thăng Tri huyện Thần Khê (Thái
Bình), đến năm 1780, lại được thăng lên Hữu công bộ thị lang.
Cuối năm 1786, Nguyễn Huệ kéo đại binh ra Bắc lật đổ nhà Trịnh, đinh Huy
Đạo được vua Cảnh Hưng triệu vời ra kinh đô phong Trung Tín Bá tước. Cuối năm
1788, quân Tây Sơn đồn trú ở Thăng Long rút lui chiến lược về lập phòng tuyến Tam

Điệp – Biện Sơn, tránh đòn tấn công mãnh liệt của 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh.
Đinh Huy đạo đã có mặt cùng tham gia thiết lập phòng tuyến quân sự chiến lược này
của quân Tây Sơn. Ông là người trực tiếp trình bày với Ngô Văn Sở, Ngô Thì Ngâm
Và thực hiện kế sách dẫn 2000 quân vào phủ dụ Cai Giá đang tập trung quân dân các
huyện vùng Nho Quan, Gia Viễn, Thạch Thành, Cẩm Thuỷ, Lạc Sơn, Lạc Thuỷ để
phò Lê, chống “giặc Cỏ” (chỉ quân Tây Sơn) về theo hàng quân Tây Sơn.
Theo gia phả họ Đinh ở thôn Ngọc Động khi vua Quang Trung xuất quân ra
đánh đuổi giặc Mãn Thanh, đại quân kéo đến Tam Điệp, Đinh Huy Đạo đã được nhà
vua vời đến bản doanh để hỏi kế sách phá giặc. Đinh Huy Đạo đã tâu trình kế sách
phá giặc Mãn Thanh, được nhà vua khen ngợi. Đất nước thanh bình, Đinh Huy Đạo
được vua Quang Trung ban phong chức Quốc tử trợ giáo, trực tiếp dạy 2 Hoàng tử.
Ngày 17 – 6 năm Quang Trung thứ 3, tức ngày 28-7-1790, ông lại được vua Quang
Trung Thăng chức Cẩn Sự tá lang, Hàn lâm Viện hiệu thảo, tước Viễn Mưu bá hạ
ban, đến ngày 2-8-1791, ông lại được vua Quang trung ban khen” Có lòng trung
Trường THPT Gia Viễn C

23


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

thành hết sức với nước, lại có học hành” và được gia phong Thượng thư Bộ Công.
Khi tuổi đã cao, Đinh Huy Đạo mắc chứng ưu phiền. Vua Quang Trung đã ban tặng
ông “viên ngọc giải phiền” khi anh em Quang Trung bất hoà, ông đã dâng sớ can
ngăn Vua Quang Trung chẳng may mất đột ngột, ông vô cùng đau xót, đã viết bài
văn tế. Bài văn tế này hiện được ghi chép trong sách “ Tiền đạo di cảo “ ( Di cảo của
đời trước), được lưu giữ tại nhà thờ họ Đinh ở thôn Ngọc Động.
Dưới thời vua Cảnh Thịnh, Đinh Huy Đạo vẫn được trọng dụng. Năm Cảnh
Thịnh thứ 2 (1794), ông được thăng lên Quang lộc Thượng đại phu, Bí thư thự trực
học sĩ, Viễn mưu hầu. Vua Cảnh Thịnh còn ban khen ông là “ Kẻ túc nho đất Bắc,

bậc thạc vọng trời Nam, đứng đầu 4 vị quan to ở cung Thái tử”.
Năm Kỷ Mùi (1799), Đinh Huy Đạo mất, hưởng thọ 63 tuổi: Vua Cảnh
Thịnh cho em là Quang Thuỳ về tế thầy học tại quê. Trong bài tế điếu có câu: “Nhớ
Tiên sinh xưa, tính tình ngay thẳng, đạo đức nhân từ, sớm chăm lo công việc lớn.
Gió mây nhẹ bước chốn đan trì, học rông tài cao, tài giảng…”.
Ngày 2 – 8 – 1999, Bộ Văn hóa Thông tin đã công nhận nhà thờ Đinh Huy Đạo
ở xã Gia Phong – Gia Viễn – Ninh Bình là di tích lịch sử, chính là sự ghi nhận tài đức,
công lao to lớn đó của Đinh Huy Đạo.
2.5/ Đình Đông Khê - Xã Gia Trung
Về tên gọi của di tích: Gọi là đình Đông Khê là gọi theo tên làng Đông Khê –
xã Gia Trung – huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình. Đông Khê nghĩa là làng phía đông
con ngòi.
Về loại hình di tích: Đình Đông Khê thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật.

Sự kiện nhân vật:
Đình Đông Khê thờ hai ông bà: Lê Chương Vũ đại vương và Bạch Sam nương
hoàng bà. Theo truyền thuyết, Lê Chương Vũ đại vương là một vị tướng được vua Lê
giao cho nhiệm vụ trấn giữ miền đất này, án ngữ con đường Cố Lê nối từ Rịa đến
đường Thiên Lý ra Bắc vào Nam. Khi đóng quân ở đây, ông là người nhân đức, thanh
Trường THPT Gia Viễn C

24


Sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học môn Lịch sử cấp THPT

liêm, chính trực, quý trọng nhân dân, giữ gìn gia phong. Ông được vua Lê phong là Lê
Chương Vũ đại vương. Bà là người có công coi giữ quân lương, lo cho quân sĩ ăn no,
mặc ấm, được vua Lê phong là Bạch Sam nương hoàng bà. Đến tuổi già sức yếu, ông
từ quan về làng Đông Khê sống cùng nhân dân. Ông, bà dạy lễ nghĩa, đạo lý, khuyến

khích nhân dân chăm lo cầy cấy. Khi hai ông bà qua đời, dân làng thương tiếc lập đình
thờ.
Về kiến trúc: Đình Đông Khê là một ngôi đình có quy mô tương đối lớn, điêu
khắc đẹp, là một trong số ít ngôi đình còn giữ được hình ảnh của làng quê Việt Nam:
cây đa, giếng nước (hồ), mái đình. Đình còn lưu giữ một số hiện vật quý như long
ngai, bài vị, đồ thờ, mười đạo sắc phong trong đó có sắc phong thời vua Quang Trung
và các vua thời nhà Nguyễn.
Sự kiện lịch sử có liên quan: Trước cách mạng tháng Tám 1945, đình là nơi
dạy học của trường Tổng sư, Hương sư. Tháng 3/1939, các chiến sĩ cách mạng đã dán
truyền đơn ở Tam môn, kêu gọi nhân dân chống sưu, thuế, đấu tranh chống áp bức bóc
lột. Tháng 3/1945, Đình là nơi thành lập đội tự vệ chống Nhật. Ngày 19/8/1945, Đình
là nơi nhân dân tập trung tế cờ khởi nghĩa, đi giành chính quyền huyện Gia Viễn và
tỉnh Ninh Bình. Tháng 11/1945, đình là nơi tiễn đưa một số thanh niên lên đường Nam
tiến chống Pháp. Tháng 12/1946, khi Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, Đình là nơi hội họp bàn việc rào làng kháng chiến, luyệ tập tự vệ và là trụ sở
của Ủy ban hành chính kháng chiến xã. Thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Đình
là trạm giao liên đường dây 559 đưa quân từ Bắc vào Nam và tiếp đón bộ đội từ Nam
ra.
Lễ hội: Hàng năm, đình Đông Khê có hai ngày lễ lớn: Ngày 4/4 (Âm lịch) là
ngày giỗ thánh, dân làng tổ chức rước kiệu từ bến Giáp lên đình và tế lễ. Ngày 14 và
15 (Âm lịch) là ngày lễ kỳ phúc làng mở hội, có rước sắc, cờ, kiệu, tàn, tán, gươm đao,
giáo mác, rìu đồng, phủ việt ... Ban ngày có các trò chơi vật võ, múa đao, kiếm côn
quyền, kéo co, múa lân, múa rồng, đánh đu, cờ tướng. Ban đêm có hát chèo rất đông
vui.

Trường THPT Gia Viễn C

25



×