Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

skkn xây dựng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo chuẩn định tính và định lượng các môn giáo dục nghề phổ thông sử dụng trong kiểm tra, đánh giá và thi nghề phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 76 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH BÌNH
TRUNG TÂM TH NN - HN
-----    -----

SÁNG KIẾN
ĐỀ TÀI:
XÂY DỰNG NGÂN HÀNG CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM KHÁCH
QUAN THEO CHUẨN ĐỊNH TÍNH VÀ ĐỊNH LƯỢNG CÁC MÔN
GIÁO DỤC NGHỀ PHỔ THÔNG SỬ DỤNG TRONG KIỂM TRA,
ĐÁNH GIÁ VÀ THI NGHỀ PHỔ THÔNG

Phòng: Khoa học – Kĩ thuật tổng hợp
1. Hồ Ngọc Vĩnh
2.
3.
4.
5.

Phạm Thanh Lịch
Nguyễn Thanh Khiết
Trần Văn Nhận
Lê Hoàng Yến

Ninh Bình: 4/2015

- P. Giám đốc
- Trưởng phòng
- P. Trưởng phòng
- GV
- GV



TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình dạy học nói chung và quá trình dạy nghề phổ thông nói riêng,
kiểm tra và đánh giá là một trong những bộ phận chủ yếu và hợp thành một chỉnh thể
thống nhất trong quá trình đào tạo. Do vậy, chiến lược phát triển giáo dục 20012010 nêu rõ: “Đổi mới giáo dục bao gồm cả đổi mới chế độ thi cử, tuyển sinh, xây
dựng phương pháp, quy trình và hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, chất lượng
học sinh, sinh viên một cách khách quan, chính xác, xem đây là biện pháp cơ bản
khắc phục tính chất đối phó với thi cử của nền giáo dục hiện nay, thúc đẩy việc lành
mạnh hóa giáo dục”.
Chính vì vậy, đổi mới phương pháp dạy và học, thay đổi cách thức kiểm tra
đánh giá đã và đang là một hoạt động cấp thiết trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Kiểm tra đánh giá kiến thức của học sinh là một phần quan trọng trong quá trình dạy
học. Ngoài công việc chính là đánh giá chất lượng học sinh, kiểm tra đánh giá còn
được xem là đòn bẩy để nâng cao chất lượng giáo dục, là động lực để học sinh cố
gắng phấn đấu trong quá trình học tập của mình. Do đó đổi mới phương pháp kiểm
tra đánh giá đang được tiến hành sâu, rộng trên phạm vi cả nước và ở tất cả các cấp
học.
Thực tế cho thấy hệ thống Giáo dục - Đào tạo nước ta hiện nay, mặc dù mục
tiêu đào tạo đã có những thay đổi để phù hợp với yêu cầu và xu thế phát triển của xã
hội, phương pháp dạy học đã được nâng cao, nhưng cách thức và công cụ kiểm tra
đánh giá mà chúng ta đang sử dụng thì chưa thực sự đổi mới. Lâu nay, chúng ta hầu
như chỉ sử dụng loại bài kiểm tra tự luận để đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Loại câu hỏi có nhiều bất cập vì những câu hỏi thường dài, tốn nhiều thời gian cho
việc làm bài, khối lượng kiến thức được kiểm tra hạn chế, khó sử dụng các phương
tiện hiện đại trong kiểm tra đánh giá chẳng hạn như máy vi tính.

Để khắc phục những nhược điểm trên, nhiều nước trên thế giới đã và đang sử
dụng dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan để đánh giá thành quả học tập của học
sinh. Ở Việt Nam hiện nay, hình thức kiểm tra trắc nghiệm đã được dùng khá phổ
biến, từ năm học 2005- 2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm
khách quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh Đại học, cao đẳng.
Đối với các môn giáo dục nghề phổ thông sở giáo dục và đào tạo Ninh Bình đã
tổ chức thi trắc nghiệm từ năm 2007. Vì thế rất cần thiết phải có một ngân hàng câu
2


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

hỏi trắc nghiệm đạt chuẩn để sử dụng trong kiểm tra đánh giá và đặc biệt là trong thi
Nghề phổ thông.
Đáp ứng yêu cầu đổi mới về công tác kiểm tra đánh giá của ngành Giáo dục và
Đào tạo, nhằm phổ biến các kiến thức về kiểm tra, đánh giá bằng trắc nghiệm khách
quan cũng như cách thiết kế và sử dụng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan
cho giáo viên, góp phần nâng cao hiệu quả trong việc dạy và học các môn giáo dục
nghề phổ thông lớp 11, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Xây dựng ngân
hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo chuẩn định tính và định lượng các
môn giáo dục nghề phổ thông sử dụng trong kiểm tra, đánh giá và thi nghề phổ
thông”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là xây dựng một ngân hàng câu hỏi trắc
nghiệm khách quan nhằm kiểm tra và đánh giá học sinh trong dạy và học Nghề phổ
thông, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng và làm cơ sở cho việc kiểm tra đánh
giá kiến thức của học sinh trong quá trình học giáo dục nghề phổ thông.
3. Giả thuyết khoa học

Nếu xây dựng thành công các nguyên tắc, quy trình thiết kế bộ câu hỏi trắc
nghiệm khách quan đủ tiêu chuẩn và sử dụng hợp lý vào các khâu của quá trình dạy
học, đặc biệt là khâu kiểm tra đánh giá, sẽ nâng cao chất lượng dạy và học nghề phổ
thông.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài đặt ra như sau:
- Nghiên cứu lý luận về quá trình dạy học, lý luận về đổi mới phương pháp dạy
học, các phương pháp kiểm tra đánh giá;
- Nghiên cứu về phương pháp kiểm tra đánh giá bằng phương pháp trắc nghiệm,
đi sâu vào phương pháp trắc nghiệm khách quan;
- Nghiên cứu cấu trúc chương trình các môn nghề phổ thông;
- Xây dựng thành công ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm các nghề điện tử, điện
dân dụng, cắt may, thêu tay, sửa chữa xe máy;
- Thực nghiệm sử dụng ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm trong việc kiểm tra đánh
giá ở trung tâm TH NN - HN tỉnh Ninh Bình, nhằm kiểm nghiệm tính khả thi
và tác dụng của việc sử dụng câu hỏi trắc nghiệm trong kiểm tra và đánh giá.

3


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

5. Phạm vi đề tài
5.1 Phạm vi nghiên cứu
Năm môn nghề phổ thông đang được giảng dạy tại trung tâm Tin học – ngoại
ngữ và hướng nghiệp tỉnh Ninh Bình: Điện dân dụng, điện tử, cắt may, thêu tay, sửa
chữa xe máy
5.2 Phạm vi áp dụng

Trung tâm Tin học – ngoại ngữ và hướng nghiệp tỉnh Ninh Bình, Các trường
THPT, trung tâm GDTX trực thuộc Sở GD&ĐT tỉnh Ninh Bình.
6. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phối hợp các phương pháp:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp lý luận: Nghiên cứu các tài liệu lý luận có
liên quan tới kiểm tra, đánh giá và phương pháp dạy học nghề phổ thông;
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Tìm hiểu xem thực trạng tình hình dạy học
nghề phổ thông và phương pháp kiểm tra, đánh giá ở các trung tâm KTTH
HN;
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thực nghiệm nhằm xác định tính khả thi,
hiệu quả của đề tài và chất lượng của hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan
nêu trong đề tài;
- Phương pháp sử dụng toán học: sử dụng thống kê toán học để xử lý và phân
tích kết quả thực nghiệm.
7. Những đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc kiểm tra, đánh giá và thiết kế bộ câu hỏi
trắc nghiệm sử dụng trong kiểm tra và đánh giá;
- Xây dựng quy trình thiết kế câu hỏi trắc nghiệm khách quan về từng loại kiến
thức trong các môn nghề phổ thông;
- Thiết kế bộ câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo nội dung chương trình các
môn nghề phổ thông và được kiểm định đạt tiêu chuẩn định tính, định lượng
và có độ tin cậy cao để đảm bảo sử dụng trong dạy học Nghề phổ thông.

4


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Giới thiệu chung về phương pháp kiểm tra đánh giá
1.1. Khái niệm kiểm tra, đánh giá
- Kiểm tra:
Là quá trình giáo viên thu thập thông tin về kết quả học tập của học sinh. Các
thông tin này giúp cho giáo viên kiểm soát được quá trình dạy học, phân loại và giúp
đỡ học sinh. Những thông tin thu thập được so sánh với tiêu chuẩn nhất định.
- Đánh giá:
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập và xử lý thông tin về trình độ,
khả năng thực hiện mục tiêu học tập của học sinh, về tác động và nguyên nhân của
tình hình đó nhằm tạo cơ sở cho những quyết định sư phạm của giáo viên và nhà
trường, cho bản thân học sinh để học sinh ngày một học tập tiến bộ hơn. Kết quả của
việc đánh giá được thể hiện bằng điểm số theo thang điểm đã được quy định, ngoài
việc đánh giá thể hiện bằng lời nhận xét của giáo viên.
Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kiểm
tra là để đánh giá, đánh giá dựa trên cơ sở của kiểm tra.
1.2. Vị trí, vai trò, chức năng của kiểm tra đánh giá
1.2.1 Vị trí của kiểm tra đánh giá
Kiểm tra đánh giá là một khâu quan trọng không thể thiếu được trong quá trình
giáo dục. Đánh giá thường nằm ở giai đoạn cuối cùng của một giai đoạn giáo dục và
sẽ trở thành khởi điểm của một giai đoạn giáo dục tiếp theo với yêu cầu cao hơn,
chất lượng mới hơn trong cả một quá trình giáo dục.
Ta có thể thấy rõ vị trí của kiểm tra đánh giá qua sơ đồ sau:

5


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH


Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận cấu thành và là
giai đoạn cuối cùng của quá trình dạy học.
Vị trí của kiểm tra - đánh giá trong quá trình dạy học được thể hiện thông qua
sơ đồ dưới đây:

1.2.2 Vai trò của kiểm tra và đánh giá
Kiểm tra, đánh giá là một khâu quan trọng của quá trình dạy học, thông qua
kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh giúp cho giáo viên thu được những
thông tin ngược từ học sinh, phát hiện thực trạng kết quả học tập của học sinh cũng
như nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng kết quả đó. Đó là cơ sở thực tế để giáo

6


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

viên điều chỉnh, hoàn thiện hoạt động học của học sinh và hướng dẫn học sinh tự
điều chỉnh, tự hoàn thiện hoạt động học của bản thân.
Đánh giá kết quả học tập của học sinh là một bộ phận hợp thành rất quan trọng
và tất yếu của toàn bộ quá trình dạy học. Kết quả toàn bộ quá trình dạy học ở một
mức độ quan trọng phụ thuộc vào việc tổ chức kiểm tra và đánh giá kết quả của học
sinh một cách đúng đắn. Công tác đánh giá trong dạy học - giáo dục là một việc làm
phức tạp, bởi lẽ kết quả cuối cùng là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố tác động.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh vừa đóng vai trò bánh lái, vừa
giữ vai trò động lực của dạy học. Nó định hướng, thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động dạy
học và hoạt động quản lý giáo dục. Kiểm tra, đánh giá có tác động đến việc cách tân
trong đào tạo. G.K.Miler đã khẳng định: “Thay đổi một chương trình hoặc những kỹ

thuật giảng dạy mà không thay đổi hệ thống đánh giá, chắc chắn là chẳng đi tới đâu!
Thay đổi hệ thống đánh giá mà không thay đổi chương trình giảng dạy, có thể có một
tiếng vang lớn đến chất lượng học tập hơn là một sự sửa đổi chương trình mà không
sờ đến kiểm tra, đánh giá, thi cử.”
Trong mọi sự đánh giá, vai trò hàng đầu của kiểm tra, đánh giá là giúp thực
hiện được quyết định cho điểm, cho lên lớp. Vì quá trình đánh giá cung cấp những
cơ sở cho một sự phán xét về giá trị. Sự phán xét này cho phép giáo viên ra được
những quyết định sư phạm tốt nhất.
Kiểm tra, đánh giá không chỉ đóng vai trò kích thích mà còn đóng vai trò dạy
học. Kiểm tra, đánh giá là nhiệm vụ cần thiết để tổ chức quá trình dạy học, điều
chỉnh quá trình dạy học, cũng như giúp lựa chọn những phương pháp làm việc và
tính chất tài liệu học tập, phân hóa bài tập một cách hợp lý đối với học sinh.
Kiểm tra, đánh giá không những là một nhân tố dạy học mà còn là một nhân tố
kích thích. Hai yêu cầu này liên quan mật thiết với nhau: Nếu đánh giá mà không
kích thích học sinh học tập thì nó chỉ là nhân tố dạy học đơn thuần và ngược lại nếu
vai trò dạy học mất đi hay bị lu mờ thì tất yếu điều đó sẽ được phản ánh lên tác dụng
của đánh giá. Đánh giá càng chính xác bao nhiêu thì càng giúp giáo viên trong việc
cải tiến, hoàn thiện được nội dung đào tạo, quy định chính xác tài liệu, phương pháp,
phương tiện, hình thức tổ chức dạy học thích hợp bấy nhiêu.
Vai trò của kiểm tra, đánh giá có thể được tóm lược thông qua từng đối tượng
cụ thể như sau:
- Đối với giáo viên: Kiểm tra và đánh giá cung cấp cho giáo viên những thông
tin “liên hệ ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy. Việc kiểm tra,
7


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH


đánh giá được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc cung cấp cho giáo viên những
thông tin về trình độ chung của cả tập thể học sinh và giúp cho giáo viên đánh giá
chính xác năng lực học tập và nhận thức của từng cá nhân học sinh để kịp thời có
biện pháp giúp đỡ, bồi dưỡng thích hợp. Kết quả bài kiểm tra của học sinh còn là cơ
sở để dựa vào đó giáo viên có thể phân loại kết quả học tập của học sinh từng lớp;
- Đối với học sinh: Kiểm tra và đánh giá giúp cung cấp những thông tin “liên hệ
ngược trong”, giúp cho người học tự điều chỉnh hoạt động học. Qua kiểm tra, đánh
giá người học tự thấy mình đã tiếp thu những điều đã học đến mức nào, có những lỗ
hổng nào cần phải bổ khuyết trước khi bước vào một phần mới của chương trình học
tập. Cũng qua kiểm tra, đánh giá học sinh còn có cơ hội thể hiện, phát triển năng lực
hoạt động trí tuệ như: ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, phân tích, tổng hợp,… Kiểm
tra và đánh giá còn tạo động cơ khuyến khích học sinh phát huy tinh thần học tập, tự
học và nâng cao ý thức tự giác, tổ chức, kỷ luật. Học sinh sẽ so sánh kết quả của các
bạn và thi đua học tập với bạn bè, đề ra phương hướng phấn đấu, ý chí vươn lên đạt
kết quả học tập cao hơn;
- Đối với các cấp quản lý: Kiểm tra, đánh giá cung cấp những thông tin cơ bản
về thực trạng giảng dạy và học để có thể có những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn những
lệch lạc, khuyến khích và hỗ trợ những sáng kiến hay, đảm bảo thực hiện tốt mục
tiêu giáo dục. Kiểm tra, đánh giá cũng giúp cho các cơ quan quản lý đánh giá kết quả
giáo dục, đào tạo để cấp chứng chỉ, văn bằng được chính xác và có những biện pháp
quản lý giáo dục thích hợp.
1.2.3 Chức năng của kiểm tra và đánh giá
Chức năng định hướng: Kiểm tra và đánh giá để dự báo khả năng của học sinh
có thể đạt được trong quá trình học tập, đồng thời xác định những điểm mạnh và yếu
của học sinh. Việc kiểm tra, đánh giá cũng làm cơ sở cho việc lựa chọn bồi dưỡng
năng khiếu, đồng thời giúp cho giáo viên có thể chọn cách dạy phù hợp với khả năng
của học sinh. Kiểm tra, đánh giá thường diễn ra ở giai đoạn trước, thể hiện ở những
bài ôn tập, kiểm tra đầu năm, có thể là những bài thử sức ở giai đoạn đầu các môn
học theo chương trình phân môn, đó là những cách xác định mức độ nắm tri thức ở
người học để dự kiến những khó khăn, từ đó có cách thức tác động phù hợp;

Chức năng chuẩn đoán: Kiểm tra và đánh giá chuẩn đoán nhằm hỗ trợ việc học
tập. Yêu cầu của kiểm tra và đánh giá chuẩn đoán đòi hỏi phải có cách xử lý thông
tin để vừa thâu tóm được các thời điểm khác nhau của quá trình học tập, vừa có tính
chất thúc đẩy, củng cố, mở rộng và nâng cao chất lượng tri thức. Kiểm tra và đánh
8


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

giá chuẩn đoán được tiến hành thường xuyên và cung cấp cho người học những tín
hiệu ngược về việc học tập của họ, từ đó giúp họ khắc phục những thiếu sót, điều
chỉnh cách học cho phù hợp;
Chức năng xác nhận: Đánh giá xác nhận cung cấp những số liệu để thừa nhận
hay bác bỏ sự hoàn thành hay chưa hoàn thành nhằm xếp loại người học theo mục
đích nào đó, thường được tiến hành sau một giai đoạn học tập. Chức năng này có ý
nghĩa quan trọng về nhiều mặt, đặc biệt là ý nghĩa xã hội của nó. Đánh giá xác nhận
bộc lộ tính hiệu quả của một hệ thống đào tạo;
Việc đánh giá này đòi hỏi phải thiết lập một ngưỡng trình độ tối thiểu và xác
định đúng vị trí kết quả của người học đối với ngưỡng này.
1.3. Một số phương pháp kiểm tra đánh giá cơ bản
1.3.1 Phương pháp kiểm tra vấn đáp
Kiểm tra bằng phương pháp vấn đáp là phương pháp giáo viên tổ chức hỏi và
đáp giữa giáo viên và học sinh, qua đó thu được thông tin về kết quả học tập của học
sinh, được sử dụng sau khi học xong một bài hay nhiều bài, một hay nhiều chương
hay toàn bộ sách.
Kiểm tra vấn đáp có thể sử dụng ở mọi thời điểm trong tiết học cũng như trong
khi thi cuối học kì hoặc cuối năm học, học sinh cần trình bày bằng ngôn ngữ nói.
Ưu điểm của phương pháp này là: Giáo viên có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với

người học, nhờ đó có thể đánh giá được thái độ của người học, mặt khác, bằng những
câu hỏi đa dạng, giáo viên không chỉ thu thập được thông tin về hiểu biết của người
học theo tiêu chuẩn chung mà còn có thể phát hiện ra những năng lực đặc biệt hoặc
những khó khăn, thiếu sót của từng cá nhân người học.
Nhược điểm của phương pháp này là: Với số lượng câu hỏi rất ít nên khó bao
quát toàn bộ chương trình môn học, việc đánh giá bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ
quan, học sinh được hỏi những câu hỏi khác nhau với thời lượng, ở điều kiện không
như nhau, do đó ảnh hưởng đến tính khách quan. Vấn đáp được sử dụng chủ yếu để
kiểm tra kiến thức của người học, phương pháp kiểm tra vấn đáp thường tốn thời
gian để tiến hành.
1.3.2 Phương pháp kiểm tra viết
Bài kiểm tra viết yêu cầu học sinh xây dựng câu trả lời hoặc làm bài tập do
giáo viên giao cho dưới hình thức viết. Kiểm tra viết là hình thức kiểm tra phổ biến,
được sử dụng đồng thời với nhiều học sinh cùng tại một thời điểm, được sử dụng sau
9


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

khi học sinh học xong một phần của chương, một chương hay nhiều chương, hoặc
sau khi học xong toàn bộ chương trình sách giáo khoa, nội dung kiểm tra có thể bao
quát từ vấn đề lớn có tính chất tổng quát đến vấn đề nhỏ, học sinh phải diễn đạt câu
trả lời bằng ngôn ngữ viết. Xét theo dạng thức của bài kiểm tra có hai loại kiểm tra
viết là kiểm tra viết dưới dạng tự luận và kiểm tra viết dưới dạng trắc nghiệm khách
quan.
1.3.3 Phương pháp trắc nghiệm khách quan
Một bài trắc nghiệm khách quan thường bao gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu
thường được trả lời bằng một dấu hiệu đơn giản hay một từ, một cụm từ. Câu trắc

nghiệm khách quan bao gồm các loại sau:
- Loại câu nhiều lựa chọn;
- Loại câu đúng – sai;
- Loại câu điền vào chỗ trống;
- Câu ghép đôi.
1.3.4 Phương pháp kiểm tra thực hành
Phương pháp kiểm tra thực hành là phương pháp giáo viên tổ chức cho học
sinh tiến hành các hoạt động thực tiễn, qua đó thu được những thông tin về kỹ năng
thực hành của học sinh.
Trong thực tế nhiều yếu tố của các bài kiểm tra thực hành không thể kiểm tra
trên giấy bút được nhưng có thể đo lường bằng công cụ và kỹ thuật quan sát
Quan sát trực tiếp, có hệ thống là kỹ thuật quan trọng để thu thập số liệu đánh
giá học sinh về kỹ năng, thái độ.
Đánh giá kỹ năng bao gồm: Đánh giá cách thức tiến hành hoạt động và đánh
giá sản phẩm.
Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là kiểm tra được kỹ năng thực hành của
người học, giúp cho việc rèn luyện kỹ năng, khắc phục tình trạng học tập lý luận xa
rời thực tiễn.
Tuy nhiên kiểm tra bằng phương pháp này cần nhiều thời gian hơn, công tác tổ
chức và việc chuẩn bị công phu hơn so với các phương pháp khác.

10


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

1.4. Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá
1.4.1 Thực trạng của việc kiểm tra đánh giá trong giai đoạn hiện nay ở các

trường THPT, Trung tâm GDTX, trung tâm KTTH - HN
Hiện nay, việc kiểm tra và đánh giá nói chung vẫn còn phổ biến ở hình thức ra
đề tự luận. Kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết (45 phút), … đều bằng
thi viết.
Câu hỏi kiểm tra chủ yếu dùng tự luận, hình thức này phần nào đã đánh giá
được kết quả học tập của trò và phương pháp dạy của thầy, song trong giai đoạn hiện
nay nó đã bộc lộ một số hạn chế như:
- Do thời gian làm bài kiểm tra hạn chế trong nên mỗi bài kiểm tra viết bằng
hình thức tự luận chỉ tập trung vào một số kiến thức trọng tâm, không bao quát rộng.
Cũng do đó, học sinh có thể đoán được và chỉ học tủ một số vấn đề và bỏ qua các
kiến thức khác. Trong quá trình làm bài kiểm tra học sinh có thể quay cóp, sử dụng
tài liệu, trao đổi bài, …
- Đề kiểm tra không bao trùm được nội dung học bài, phụ thuộc vào giáo viên ra
đề nên độ tin cậy không cao;
- Việc đánh giá làm bài của học sinh phụ thuộc vào người chấm, mất nhiều thời
gian, đôi khi gây cảm giác nặng nề cho giáo viên;
- Kết quả khó xác định đúng trình độ học tập của học sinh do chưa xác định
được các chuẩn mực mới để đánh giá kết quả học tập của học sinh;
- Cách tổ chức kiểm tra đánh giá phức tạp, tốn kém nhất là trong các kỳ thi lớn
như thi tốt nghiệp THPT, thi tuyển sinh vào các trương Đại học, Cao đẳng.
Năm học 2005-2006 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thi trắc nghiệm khách
quan cho kỳ thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh Đại học, Cao đẳng với môn Ngoại
ngữ. Tuy nhiên, ngoài tài liệu hướng dẫn học sinh cách làm bài thi trắc nghiệm,
hướng dẫn giáo viên cách coi thi và thu bài thi giáo viên không được hướng dẫn gì
thêm. Cho nên hình thức kiểm tra và đánh giá này vẫn còn xa lạ đối với học sinh và
cả giáo viên do bởi cả những lý do sau:
- Đa số các trường THPT chưa có phần mềm soạn thảo, chấm điểm và đánh
giá hệ thống câu hỏi trắc nghiệm;
- Việc sử dụng hệ thống kiểm tra bằng phương pháp trắc nghiệm chỉ được nhà
trường khuyến khích giáo viên sử dụng dưới góc độ thử nghiệm;


11


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

- Các tổ bộ môn chưa có kế hoạch xây dựng ngân hàng đề thì trắc nghiệm
khách quan cho bộ môn mình giảng dạy;
- Đa số các giáo viên chưa nắm bắt được cách thức xây dựng một bài kiểm tra
bằng phương pháp trắc nghiệm khách quan, cách đánh giá một câu hỏi trắc nghiệm
theo độ tin cậy và độ phân biệt;
- Học sinh còn ít được kiểm tra, đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm khách
quan nên chưa có kỹ năng làm bài thi trắc nghiệm.
1.4.2 Tại sao phải đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá

Hiện nay việc kiểm tra và đánh giá ở các trường phổ thông còn chưa được coi
trọng và bị phê phán là thiếu chính xác, không đủ độ tin cậy và làm sai lệch chất
lượng giáo dục. Phần lớn các giáo viên đều quan niệm, việc ra đề kiểm tra cho học
sinh đơn giản là có điểm số ghi vào sổ điểm. Từ đó, có căn cứ để cuối học kỳ, cuối
năm đánh giá học sinh. Còn các cán bộ quản lý giáo dục thì cho rằng, đó là công việc
của giáo viên chứ không phải của hiệu trưởng. Trong tình hình đó vấn đề đổi mới
trong đánh giá chất lượng dạy và học đang được quan tâm và cần được nghiên cứu.
Đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá là khâu quan trọng trong quá trình
đổi mới phương pháp dạy học, bởi lẽ dạy học là một quá trình bao gồm các khâu cơ
bản như: Thiết kế bài giảng, thực hiện bài giảng và kiểm tra đánh giá.
Đổi mới phương pháp dạy học với mục tiêu nhằm nâng cao chất lượng dạy
học, trong đó đổi mới kiểm tra đánh giá có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đảm
bảo tính hiệu quả của đổi mới dạy học nói chung, do đó phương pháp kiểm tra đánh

giá cũng cần phải đổi mới.
1.4.3 Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá

Đổi mới phương pháp dạy học được chú trọng để đáp ứng những yêu cầu mới
của mục tiêu nên việc kiểm tra, đánh giá phải được chuyển biến mạnh theo hướng
phát triển trí thông minh sáng tạo của học sinh, khuyến khích vận dụng linh hoạt các
kiến thức, kỹ năng đã học vào những tình huống thực tế, làm bộc lộ những cảm xúc,
thái độ của học sinh trước những vấn đề nóng hổi của đời sống cá nhân, gia đình và
cộng đồng. Chừng nào việc kiểm tra đánh giá chưa thoát khỏi quỹ đạo học tập thụ
động thì chưa thể phát triển dạy và học tích cực.
Thống nhất với quan điểm đổi mới phương pháp đánh giá như trên, việc kiểm
tra, đánh giá sẽ hướng vào việc bám sát mục tiêu của từng bài, từng chương và mục

12


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

tiêu giáo dục môn học ở từng lớp, cấp. Các câu hỏi bài tập sẽ đo được mức độ thực
hiện các mục tiêu đã được xác định.
Hướng tới yêu cầu kiểm tra đánh giá công bằng, khách quan kết quả học tập
của học sinh, bộ công cụ đánh giá được bổ sung các hình thức đánh giá khác nhau
như đưa thêm dạng câu hỏi, bài tập trắc nghiệm, chú ý hơn tới đánh giá cả quá trình
lĩnh hội tri thức của học sinh, quan tâm tới mức độ hoạt động tích cực, chủ động của
học sinh trong từng tiết học, kể cả ở tiết tiếp thu tri thức mới lẫn tiết thực hành, thí
nghiệm. Điều này đòi hỏi giáo viên bộ môn đầu tư nhiều công sức hơn cũng như
công tâm hơn. Lãnh đạo nhà trường cần quan tâm và giám sát hoạt động này.
Xóa bỏ tư tưởng thành tích trong đánh giá, xóa bỏ dạy thêm, học thêm tràn lan

ở các cấp học.
Xây dựng ngân hàng đề thi kiểm tra theo qui trình khoa học và trình độ chuẩn
của chương trình để tiến tới kiểm tra đồng loạt trong phạm vi cả nước hoặc từng
vùng theo các bộ đề chung cho từng giai đoạn học tập.
1.4.4 Định hướng đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá kết quả học tập các môn
Nghề phổ thông

Việc kiểm tra đánh giá bao gồm cả lý thuyết và thực hành, hình thức có thể là
tự luận hoặc trắc nghiệm, kiểm tra vấn đáp, trên giấy hoặc trên máy. Nội dung các
môn Nghề phổ thông rất thuận lợi cho ra đề thi trắc nghiệm. Do đó cần tăng cường
sử dụng phương pháp này để có thể kiểm tra trên phạm vi kiến thức rộng và tiết kiệm
thời gian.
Đặc điểm khá đặc trưng của môn Nghề phổ thông là kiến thức đi đôi với thực
hành. Tuy nhiên không nên lạm dụng quá nhiều phần thực hành. Có nhiều phần cần
nắm chắc nguyên lý hoạt động trước khi có thể thao tác trực tiêp trên máy móc.
Có thể đánh giá học sinh thông qua:
- Mức độ nắm vững kiến thức cơ bản: có thể thực hiện thông qua bài kiểm tra
bằng trắc nghiệm;
- Mức độ thành thạo các kĩ năng: Thông qua các bài tập thực hành, thao tác trên
máy và tạo ra các sản phẩm;
- Khả năng giải quyết vấn đề thể hiện qua khả năng biết đề xuất phương hướng
giải quyết và biết lựa chọn công cụ thích hợp để giải quyết: có thể thực hiện
kiểm tra bằng giao vấn đề, bài tập lớn;
- Khả năng làm việc theo nhóm: có thể giao nhiệm vụ, chủ đề, đề án nhỏ.
13


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH


2. Phương pháp kiểm tra trắc nghiệm
2.1. Khái niệm, phân loại
2.1.1 Khái niệm

Trắc nghiệm theo nghĩa rộng là một hoạt động được thực hiện để đo lường
năng lực của các đối tượng nào đó nhằm những mục đích xác định.
Trắc nghiệm mà đối tượng là con người có thể được hiểu theo định nghĩa sau:
“Trắc nghiệm là một phương pháp khoa học cho phép dùng một loạt những tác động
xác định để nghiên cứu một hay nhiều đặc điểm nhân cách phân biệt được bằng thực
nghiệm với mục tiêu đi tới những mệnh đề lượng hóa tối đa có thể được về mức độ
biểu hiện tương đối của đặc điểm cần nghiên cứu”.
Trắc nghiệm là một phương pháp khoa học, trắc nghiệm phải được phát triển
dựa trên những quy tắc có căn cứ khoa học, chẳng hạn: thử nghiệm trắc nghiệm,
phân tích bài tập, đánh giá độ tin cậy và xác định tính hiệu quả.
Trong giáo dục, trắc nghiệm được tiến hành thường xuyên ở các kì thi, kiểm
tra để đánh giá kết quả học tập, đối với một phần của môn học, toàn bộ môn học, đối
với cả một cấp học, hoặc để tuyển chọn một số người có năng lực nhất vào một khoá
học.
2.1.2 Phân loại

Có thể chia trắc nghiệm ra thành 3 loại như sau:
1. Loại quan sát: Giúp xác định những thái độ, những phản ứng vô ý thức, những
kỹ năng thực hành và một số kỹ năng về nhận thức, chẳng hạn cách giải quyết vấn đề
trong một tình huống đang được nghiên cứu.
2. Loại vấn đáp: Có tác dụng tốt khi nêu các câu hỏi phát sinh trong một tình
huống cần kiểm tra. Trắc nghiệm vấn đáp thường được dùng khi tương tác giữa
người chấm và người học là quan trọng, chẳng hạn cần xác định thái độ phản ứng khi
phỏng vấn, …
3. Loại viết: Thường được sử dụng nhiều nhất vì nó có những ưu điểm sau:

- Cho phép kiểm tra nhiều học sinh cùng một lúc;
- Cho phép học sinh cân nhắc nhiều hơn khi trả lời;
- Đánh giá được một loại tư duy ở mức độ cao;
- Cung cấp bản ghi rõ ràng các câu trả lời của thí sinh để dùng khi chấm;
- Dễ quản lý hơn vì bản thân người chấm không tham gia vào bối cảnh kiểm tra.
14


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Trắc nghiệm viết thường được chia thành hai nhóm: Trắc nghiệm Tự luận
(Essay) và Trắc nghiệm Khách quan (Objective test).
- Trắc nghiệm tự luận (Essay): Là nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc trả lời
theo dạng mở, học sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết để giải quyết vấn
đề mà câu hỏi nêu ra. Phương pháp tự luận này khá quen thuộc với tất cả mọi người;
- Trắc nghiệm khách quan (Objective test): Là nhóm các câu trắc nghiệm mà
trong đó đề thi thường gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn cùng với
những thông tin cần thiết sao cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu.
Ta có sơ đồ về các phương pháp trắc nghiệm như sau:

2.2. Phương pháp kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan
2.2.1 Các kiểu câu hỏi trắc nghiệm khách quan

Trắc nghiệm khách quan là phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan. Gọi là khách quan vì
cách cho điểm (đánh giá) hoàn toàn không phụ thuộc vào người chấm.
Trắc nghiệm khách quan được chia thành các kiểu câu hỏi cơ bản sau:
a. Trắc nghiệm Đúng/Sai (Yes/No questions)

Trước một câu dẫn xác định (thông thường không phải là câu hỏi), học sinh
đưa ra nhận định và lựa chọn một trong hai phương án trả lời Đúng hoặc Sai.
Loại câu hỏi này có 50% xác suất trả lời đúng nên chỉ thích hợp cho việc kiểm
tra những kiến thức sự kiện, khái niệm, công thức. Chúng thường đòi hỏi trí nhớ, ít
kích thích suy nghĩ, khả năng phân loại học sinh rất thấp.
15


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Ưu điểm:
- Đây là loại câu hỏi đơn giản nhất để trắc nghiệm kiến thức về những sự
kiện;
- Loại câu hỏi trắc nghiệm “đúng – sai” giúp cho việc trắc nghiệm bao
gồm một lĩnh vực rộng lớn trong một khoảng thời gian ít ỏi;
- Có thể viết được nhiều câu hỏi trong một khoảng thời gian ngắn hơn so
với việc soạn câu hỏi nhiều lựa chọn. Ngoài ra nó cũng mang tính chất
khách quan khi chấm điểm.
Nhược điểm:
- Có thể khuyến khích sự đoán mò;
- Khó dùng để chẩn định yếu điểm của học sinh;
- Có độ tin cậy thấp;
- Khoảng lựa chọn quá hạn hẹp.
Các lưu ý khi soạn câu trắc ngiệm “đúng – sai”:
- Nên dùng những chữ chính xác và thích hợp để câu hỏi đơn giản và rõ
ràng;
- Nếu có thể được, nên cố gắng soạn các câu hỏi thế nào cho nội dung có
nghĩa hoàn toàn đúng hoặc hoàn toàn sai;

- Cần chú trọng điểm văn phạm;
- Tránh dùng các câu ở thể phủ định;
- Nên cố viết những câu để áp dụng kiến thức đã học;
- Nên dùng các từ định lượng hơn định tính để chỉ các số lượng;
- Tránh khuynh hướng dùng số câu trả lời đúng nhiều hơn câu sai hay
ngược lại.
b. Trắc nghiệm nhiều lựa chọn (multiple choice questions)
Đây là loại trắc nghiệm thông dụng nhất. Loại này thường có hai phần: phần
đầu được gọi là phần dẫn, nêu ra vấn đề, cung cấp thông tin cần thiết hoặc nêu một
câu hỏi; phần sau là các phương án để chọn thường được dấnh dấu bằng các chữ cái
A, B, C, D hoặc các số 1, 2, 3, 4. Trong các phương án đã chọn chỉ có duy nhất một
phương án đúng hoặc một phương án đúng nhất còn các phương án khác được đưa
vào với tác dụng gây nhiễu, còn gọi là câu mồi. Do vậy khi các câu lựa chọn được
chuẩn bị tốt thì một người không có kiến thức chắc chắn về vấn đề đó sẽ không thể
16


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

nhận biết được trong tất cả các phương án đã chọn đâu là phương án đúng, đâu là
phương án nhiễu.
Ưu điểm:
- Có thể đo được khả năng tư duy. GV có thể dùng loại này để đánh giá
mục tiêu giảng dạy, học tập khác nhau như:
+ Xác định mối tương quan “nhân – quả”.
+ Nhận biết các điều sai lầm.
+ Ghép các kết quả hay điều quan sát với nhau.
+ Định nghĩa các thành ngữ.

+ Tìm nguyên nhân của một số sự kiện.
+ Nhận biết đặc điểm tương đồng hay dị biệt giữa 2 hay nhiều vật.
+ Xác định nguyên lý hay ý niệm tổng quát từ các sự kiện.
+ Xác định thứ tự hay cách xếp đặt giữa nhiều vật.
+ Xác định nhiều vấn đề đang được tranh luận dưới nhiều quan
điểm.
- Độ tin cậy cao hơn. Yếu tố đoán mò may rủi giảm đi so với các loại
TNKQ khác khi số phương án lựa chọn tăng lên;
- Học sinh phải xét đoán và phân biệt rõ ràng khi trả lời các câu hỏi;
- Tính chất giá trị tốt hơn. Loại trắc nghiệm này có độ giá trị cao hơn nhờ
tính chất có thể dùng đo mức độ tư duy khác nhau;
- Có thể phân tích được tính chất mỗi câu hỏi. Dùng phương pháp phân
tích tính chất mỗi câu hỏi, chúng ta có thể xác định câu hỏi nào quá dễ,
câu hỏi nào quá khó, câu hỏi nào mơ hồ hay không có giá trị với mục
tiêu cần trắc nghiệm;
- Tính chất khách quan khi chấm.
Nhược điểm:
- Khó soạn câu hỏi. Điều khó do ở chỗ phải cho được câu trả lời đúng
nhất trong lúc các câu, các phương án trả lời khác để chọn cũng phải có
vẻ hợp lý. Thêm vào đó các câu hỏi phải đo được các mục tiêu ở mức
năng lực nhận thức cao hơn ở mức nhớ. Vì vậy cần yêu cầu cao ở GV
khi soạn câu hỏi;

17


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH


- Thí sinh có óc sáng kiến có thể tìm ra những câu trả lời hay hơn phương
án đúng đã cho, nên họ có thể không thỏa mãn hay cảm thấy khó chịu;
- Các câu trắc nghiệm có nhiều phương án trả lời để lựa chọn có thể đo
được khả năng phán đoán tinh vi và khả năng giải quyết vấn đề khéo léo
một cách hiệu nghiệm bằng câu hỏi tự suy luận soạn kỹ.
Các lưu ý khi soạn câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn:
- Phần chính hay phần dẫn của câu hỏi phải diễn đạt rõ ràng một vấn đề.
Các câu trả lời để chọn phải là các câu khả dĩ thích hợp với vấn đề đã
nêu;
- Phần chính hay câu dẫn của câu hỏi nên mang trọn ý nghĩa và phần câu
trả lời để chọn nên ngắn gọn;
- Nên bỏ bớt các chi tiết không cần thiết;
- Tốt nhất nên có 4 phương án trả lời để chọn cho mỗi câu hỏi;
- Nên tránh 2 thể phủ định liên tiếp;
- Các câu trả lời để chọn phải có vẻ hợp lý;
- Phải chắc chắn chỉ có một câu trả lời đúng;
- Độ dài của các câu trả lời trong các phương án cho sẵn để chọn phải gần
bằng nhau;
- Các câu trả lời trong các phương án để chọn lựa phải đồng nhất với
nhau;
- Các câu trả lời nhằm đo sự hiểu biết, suy luận, hay khả năng áp dụng
các nguyên lý vào những trường hợp mới nên được trình bày dưới hình
thức mới;
- Lưu ý đến các điểm liên hệ về văn phạm có thể giúp HS nhận biết câu
trả lời;
- Các câu trả lời đúng nhất hay hợp lý nhất phải được đặt ở các vị trí khác
nhau một số lần tương đương nhau;
- Vị trí các câu trả lời để chọn lựa nên được sắp xếp theo một thứ tự “tự
nhiên” nào đó có thể được;
- Nên tránh dùng câu dẫn dạng phủ định. Nếu dùng phải gạch dưới hoặc

in đậm chữ “không” để nhắc học sinh thận trọng khi trả lời;

18


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

- Rất hạn chế dùng các phương án như: Các câu trên đều đúng; Các câu
trên đều sai; Em không biết; Một kết quả khác….
c. Trắc nghiệm điền khuyết (supply items)
Còn được gọi là trả lời ngắn (short answer), đây là dạng trắc nghiệm khách
quan có câu trả lời tương đối tự do. Thường chúng ta nêu ra một mệnh đề có khuyết
một bộ phận, học sinh nghĩ ra nội dung trả lời thích hợp để điền vào chỗ trống,
thường là những câu trả lời có nội dung ngắn ngọn hoặc một vài từ.
Ưu điểm:
- Thí sinh có cơ hội trình bày những câu trả lời khác, thường phát huy óc
sáng kiến;
- Thí sinh mất cơ hội đoán mà câu trả lời như trong các loại trắc nghiệm
khách quan khác;
- Dễ soạn hơn các loại trắc nghiệm khác;
- Loại này rất thích hợp cho những vấn đề như tính toán, cân bằng
phương trình hóa học, nhận biết các vùng trên bản đồ, giản đồ;
- Giúp học sinh luyện trí nhớ và vận dụng chúng trong giờ học.
Khuyết điểm:
- Người soạn thường trích nguyên văn các câu trả lời từ sách giáo khoa;
- Việc chấm bài mất nhiều thời gian và không khách quan;
- Khi có nhiều chỗ chừa trống trong câu hỏi, người làm sẽ rối trí hơn.
Các lưu ý khi soạn câu trắc nghiệm điền khuyết :

- Lời chỉ dẫn phải rõ ràng, tránh viết các câu diễn tả mơ hồ;
- Tránh lấy các câu nguyên văn từ sách ra để khỏi khuyến khích học sinh
học thuộc lòng;
- Đừng nên chừa trống quá nhiều chữ trọng yếu;
- Các khoảng cách nên có chiều dài bằng nhau cho người làm không đoán
được câu trả lời.
d. Trắc nghiệm ghép đôi (matching items)
Có thể xem đây là một dạng đặc biệt của dạng trắc nghiệm khách quan nhiều
lựa chọn, dạng câu hỏi này thường gồm hai cột thông tin, một cột là những câu hỏi
(hay câu dẫn) một cột là những câu trả lời (hay còn gọi là câu lựa chọn), yêu cầu học

19


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

sinh phải tìm cách ghép các câu trả lời ở cột này với câu hỏi ở cột khác sau cho hợp
lý.
Ưu điểm:
- Các câu ghép đôi dễ viết và dễ dùng, đặc biệt rất thích hợp khi cần
khẳng định các mục tiêu ở tư duy thấp;
- Khi được soạn kỹ, loại câu ghép đôi đòi hỏi người làm phải chuẩn bị rất
tốt kiến thức vì yếu tố đoán mò giảm đi rất nhiều, nhất là phải ghép
những cột có ít nhất 8 đến 10 phần tử với nhau;
- Người ta có thể dùng trắc ngiệm loại ghép đôi để đo các mức trí năng
khác nhau. Nếu được khéo léo soạn thảo, loại trắc nghiệm này có thể
được dùng như loại có nhiều trả lời cho sẵn để tránh trắc nghiệm ở
những mức trí năng cao hơn.

Khuyết điểm:
- Trắc nghiệm loại này không thích hợp cho thẩm định các khả năng như
sắp đặt, áp dụng kiến thức nguyên lý;
- Người đọc sẽ mất nhiều thời gian để đọc cả một cột mỗi lần muốn ghép
đôi;
- Dễ trả lời thông qua loại trừ;
- Không cho thấy khả năng sử dụng các thông tin ghép đôi.
Các lưu ý khi soạn câu hỏi ghép đôi:
- Phải xác định rõ tiêu chuẩn để ghép một phần tử của cột trả lời và phần
tử tương ứng của cột câu hỏi;
- Số phần tử để chọn lựa trong cột trả lời nên nhiều hơn số phần tử trong
cột câu hỏi hoặc mỗi phần tử trong cột trả lời có thể dùng nhiều lần;
- Các câu hỏi nên có tính chất đồng nhất hoặc liên hệ nhau.
2.2.2 Các nguyên tắc, yêu cầu, mức độ nhận thức khi ra đề kiểm tra và thi trắc
nghiệm khách quan.

Việc ra đề thi dựa trên cơ sở phát triển năng lực, trí tuệ học sinh ở 6 mức độ từ
đơn giản đến phức tạp: Nhận biết, ghi nhớ tri thức; Thông hiểu, lí giải; Vận dụng;
Phân tích; Tổng hợp; Đánh giá, bình xét. Trước hết học sinh phải nhớ các kiến thức
đơn giản đó là nền tảng vững vàng có thể phát triển năng lực nhận thức ở mức độ
khác nhau của nhận thức. Tùy theo tính chất, yêu cầu của mỗi kỳ thi để định ra lượng
kiến thức đưa vào phù hợp với từng mức độ nhận thức.
20


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

Đề thi, kiểm tra phải có độ khó hợp lý, phù hợp với thời gian làm bài của học

sinh, tránh những đề thi hoặc đề kiểm tra đánh đố học sinh. Không nên ra đề thi,
kiểm tra kiểu phải học thuộc lòng, học vẹt. Đề thi, kiểm tra phải đánh giá được khả
năng lý giải, ứng dụng, phân biệt và phán đoán của học sinh.
Nội dung đề thi, kiểm tra tập trung đánh giá phạm vi kiến thức rộng, bao quát
chương trình học, tránh tập trung nhiều vào những mảnh nhỏ kiến thức sẽ dẫn đến
mảnh rời rạc, chắp vá trong kiến thức của học sinh.
Đề thi hoặc đề kiểm tra phải đảm bảo chuẩn về kiến thức và kỹ năng:
2.2.2.1 Về kiến thức: (với 6 mức độ nhận thức)
a. Nhận biết:
Nhận biết thông tin, ghi nhớ, tái hiện thông tin là mức độ yêu cầu thấp nhất
của trình độ nhận thức thể hiện ở chỗ học sinh có thể và chỉ cần nhớ hoặc nhận ra
khi đưa ra hoặc dựa trên những thông tin có tính đặc thù của một khái niệm, một
sự vật, một hiện tượng.
Học sinh phát biểu đúng một định nghĩa, định lý, định luật nhưng chưa giải
thích và vận dụng được chúng.
Có thể cụ thể hóa mức độ nhận biết như sau:
- Nhận ra, nhớ lại các khái niệm, định lý, tính chất;
- Nhận dạng (không giải thích) được các khái niệm, hình thể vị trí tương
đối giữa các đối tượng trong các tình huống đơn giản;
- Liệt kê, xác định các vị trí đối tượng, các mối quan hệ đã biết giữa các
yếu tố.
b. Thông hiểu:
Hiểu được ý nghĩa của các khái niệm, sự vật, hiện tượng. Giải thích được,
chứng minh được, là mức độ cao hơn nhận biết nhưng là mức độ thấp nhất của
việc thấu hiểu sự vật, hiện tượng, nó liên quan đến ý nghĩa của các mối quan hệ
giữa các khái niệm, thông tin mà học sinh đã biết.
Có thể cụ thể hóa mức độ thông hiểu như sau:
- Diễn tả bằng ngôn ngữ cá nhân về khái niệm, định lý, định luật, tính
chất, chuyển đổi được từ hình thức ngôn ngữ này sang hình thức ngôn
ngữ khác;


21


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

- Biểu thị, minh họa, giải thích được ý nghĩa của khái niệm, định nghĩa,
định lý, định luật;
- Lựa chọn, bổ sung, sắp xếp lại những thông tin cần thiết để giải quyết
một vấn đề nào đó;
- Sắp xếp lại lời giải bài toán theo cấu trúc logic.
c. Vận dụng:
Vận dụng nhận biết, hiểu biết thông tin để giải quyết vấn đề đặt ra là khả năng
đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng kiến thức, biết sử dụng phương pháp, nguyên
lý hay ý tưởng để giải quyết một vấn đề nào đó.
Yêu cầu áp dụng được các quy tắc, phương pháp, khái niệm, nguyên lý, định
lý, công thức để giải quyết một vấn đề trong học tập hoặc trong thực tiễn. Đây là
mức độ cao hơn của mức độ thông hiểu ở trên.
Có thể cụ thể hóa mức độ vận dụng như sau:
- So sánh các phương án giải quyết vấn đề;
- Phát hiện lời giải có mâu thuẫn, sai lầm và chỉnh sửa được;
- Giải quyết các tình huống mới bằng cách vận dụng các khái niệm, định
nghĩa, định lý, tính chất đã biết;
- Khái quát hóa, trừa tượng hóa từ tình huống quen thuộc, tình huống đơn
lẻ sang tình huống mới, tình huống mới phức tạp hơn.
d. Phân tích:
Chia thông tin ra thành các phần thông tin nhỏ sao cho có thể hiểu được cấu trúc,
tổ chức của nó và thiết lập mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.

Yêu cầu chỉ ra được các bộ phận cấu thành, xác định được mối liên hệ giữa các
bộ phận, nhận biết và hiểu được nguyên lý cấu trúc của các bộ phận cấu thành. Đây
là mức độ cao hơn vận dụng vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu cả về nội dung lẫn hình thái
cấu trúc của thông tin, sự vật hiện tượng.
Có thể cụ thể hóa mức độ phân tích như sau:
- Phân tích các sự kiện, dữ kiện thừa, thiếu hoặc đủ để giải quyết được vấn
đề;
- Xác định được mối quan hệ giữa các bộ phận;
- Cụ thể hóa được những vấn đề trừu tượng;
- Nhận biết và hiểu được cấu trúc các bộ phận cấu thành.
22


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

e. Tổng hợp:
Sắp xếp, thiết kế lại thông tin, các bộ phận từ các nguồn tài liệu khác nhau và trên
cơ sở đó tạo lập nên một mô hình mới.
Yêu cầu tạo ra được một chủ đề mới, một vấn đề mới. Kết quả học tập trong lĩnh
vực này nhấn mạnh vào các hành vi sáng tạo đặc biệt là trong việc hình thành các mô
hình hoặc cấu trúc mới.
Có thể cụ thể hóa mức độ tổng hợp như sau:
- Kết hợp nhiều yếu tố riêng thành một tổng thể hoàn chỉnh;
- Khái quát hóa những vấn đề riêng lẻ;
- Phát hiện những mô hình mới đối xứng, biến đổi hoặc mở rộng mô hình đã
biết ban đầu.
f. Đánh giá:
Bình xét, nhận định, xác định được các giá trị của một tư tưởng, một phương pháp

hay một nội dung kiến thức. Đây là một bước tiến mới trong việc lĩnh hội kiến thức
được đặc trưng bởi việc đi sâu vào bản chất của đối tượng, sự vật, hiện tượng.
Yêu cầu xác định được các tiêu chí đánh giá và vận dụng được để đánh giá. Đây
là mức độ cao nhất của nhận thức và nó chứa đựng các yếu tố của mọi mức độ nhận
thức trên.
Có thể cụ thể hóa mức độ đánh giá như sau:
- Phân tích những yếu tố, dữ kiện đã cho để đánh giá sự thay đổi và chất các
sự vật, hiện tượng;
- Nhận định nhân tố mới xuất hiện khi thay đổi các mối quan hệ cũ;
- Đánh giá, nhận định giá trị của các thông tin, tư liệu theo một mục đích,
yêu cầu xác định;
- Xác định được các tiêu chí đánh giá khác nhau và vận dụng để đánh giá
thông tin, sự vật, sự kiện.
2.2.2.2 Về kỹ năng:
Với 2 mức độ là: Làm được (biết làm) và thông thạo (làm thành thạo).
2.2.3 Ưu, nhược điểm của phương pháp kiểm tra đánh giá bằng câu hỏi trắc nghiệm
khách quan.

* Ưu điểm:

23


TRUNG TÂM TH NN - HN

KH KTTH

- Trong một thời gian ngắn có thể kiểm tra được nhiều kiến thức cụ thể, từng
khía cạnh khác nhau;
- Phạm vi kiểm tra rộng tránh được học tủ. Số câu hỏi nhiều nên bao hàm tính

dàn trải khá lớn;
- Tốn ít thời gian thực hiện trong khâu chấm bài;
- Bảo đảm tính khách quan, độ tin cây cao khi chấm điểm;
- Giúp giáo viên có thể dùng các phương pháp thống kê toán học nhằm phát
hiện được sự tiếp thu đồng bộ hay không trong lớp học;
- Cho phép lượng hoá được việc giảng dạy;
- Học sinh có thể tự đánh giá bài làm của mình;
- Giúp cho học sinh kỹ năng phán đoán 1 vấn đề;
- Do cần có thao tác và tư duy nhanh nên tránh được quay cóp.
* Nhược điểm:
- Tổ chức thi tốn kém thời gian và chi phí, phải huy động nhiều phòng thi để tổ
chức thi nghiêm túc;
- Khó khăn và tốn kém cho việc biên soạn được những đề bài có chất lượng;
- Không đánh giá đúng được từng cá nhân thí sinh nếu khâu coi thi không thực
sự nghiêm túc (do thí sinh dễ dàng trao đổi kết quả bài làm và nhìn bài của thí
sinh khác);
- Không đánh giá được tất cả mọi kỹ năng (ví dụ kỹ năng tư duy lập luận, viết
luận, làm văn hay giải toán sáng tạo);
- Có khả năng không gạn lọc đánh giá hết được mức độ kiến thức của thí sinh
do thí sinh không có cơ hội tự trình bày toàn bộ hiểu biết về vấn đề được hỏi;
- Có nguy cơ khuyến khích học sinh đoán mò hay sử dụng các kỹ năng thi mà
không thực sự học để lấy kiến thức, hiểu sâu vấn đề;
- Có nguy cơ đẩy người học rơi vào tình trạng học với mục đích tái tạo lại kiến
thức chứ không phải là vận dụng kiến thức.

24


TRUNG TÂM TH NN - HN


KH KTTH

CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG NGÂN HÀNG CÂU HỎI TRẮC
NGHIỆM NGHỀ PHỔ THÔNG
1. Tiêu chuẩn đánh giá một bài trắc nghiệm khách quan
Với những ưu khuyết điểm như phân tích ở trên, nhóm tác giả xây dựng bộ câu
hỏi trắc nghiệm khách quan bao gồm các câu trắc nghiệm dạng nhiều lựa chọn.
Khi xây dựng câu hỏi, bài toán trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn phải
đảm bảo các tiêu chuẩn của nó thì mới đảm bảo độ giá trị và độ tin cậy khi sử dụng.
Câu trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn có các tiêu chuẩn định tính và định
lượng.
* Tiêu chuẩn định lượng
- Theo nhiều tác giả, các câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn dùng
để đánh giá thành quả học tập thường có độ khó trong khoảng 20 → 80%, tốt nhất
nằm trong khoảng 40 → 60%, độ phân biệt từ 0,2 trở lên, độ tin cậy của bài trắc
nghiệm phải từ 0,6 → 1,0; …
* Tiêu chuẩn định tính
- Câu dẫn: Phải bao hàm tất cả những thông tin cần thiết về vấn đề được trình
bày một cách rõ ràng, ngắn gọn, súc tích và hoàn chỉnh.
- Các phương án chọn: Phương án chọn phải bảo đảm là chính xác hoặc chính
xác nhất. Câu nhiễu phải có tính hấp dẫn và có vẻ hợp lý đối với người chưa nắm
vững vấn đề. Các phương án chọn phải tương tự hoặc đồng nhất về mặt ngữ pháp.
2. Đánh giá chất lượng câu trắc nghiệm khách quan
Để đánh giá chất lượng của câu trắc nghiệm khách quan (TNKQ) hoặc của đề
thi TNKQ, người ta thường dùng một số đại lượng đặc trưng.
* Độ khó (hoặc độ dễ)
Khi nói đến độ khó, ta phải xem xét câu TNKQ là khó đối với đối tượng nào.
Nhờ việc thử nghiệm trên các đối tượng HS phù hợp, người ta có thể xác định độ khó
như sau:
Chia loại HS làm 3 nhóm:

- Nhóm giỏi: gồm 27% số HS có điểm cao nhất của kì kiểm tra.
- Nhóm kém: Gồm 27% số HS có điểm thấp của kì kiểm tra.
- Nhóm trung bình: Gồm 46% số HS còn lại, không phụ thuộc hai nhóm trên.
Khi đó hệ số về độ khó của câu hỏi (K ) được tính như sau:
25


×