Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

bai giang môn tài chính tiền tệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.21 KB, 102 trang )

CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TIỀN TỆ
Tiền tệ và tài chính là những phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất và lưu
thông hành hóa. Nó có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia, cũng như trên phạm vi quốc tế; đặc biệt trong nền kinh tế thị trường - nền
kinh tế được tiền tệ hóa cao độ.
Để thấy rõ vai trò đó, chương này cho phép chúng ta hiểu một cách cơ bản: Tiền tệ là gì?
Tiếp đến là nhận thức được quá trình ra đời, phát triển và các chức năng của tiền tệ.
Đồng thời cũng cho thấy một cách khái quát về tiền tệ hiện nay được đo lường như thế
nào? Và chúng ta biết được tài chính được biểu hiện thông qua những quan hệ kinh tế
chủ yếu nào?
I. LỊCH SỨ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TIỀN TỆ
1. Khái quát quá trình phát triển của tiền tệ
Sự ra đời của tiền tệ gắn liền với quá trình phát triển của sản xuất và lưu thông hàng
hoá. Trong thời kỳ đầu chế độ cộng sản nguyên thuỷ với công cụ lao động thô sơ người
ta tự cung cấp cho nhau số sản phẩm ít ỏi thu về sau một ngày săn bắn, hái lượm. Khi đời
sống cộng đồng phát triển ý thức phân công lao động được hình thành và với lượng sản
phẩm dư thừa này đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc. Trong giai đoạn này
trao đổi mang tính ngẫu nhiên và được thực hiện bằng cách trao đổi trực tiếp (H-H'). Đây
là một bước tiến lớn để xã hội công xã thoát khỏi tình trạng tự cung tự cấp. Tuy nhiên, ở
hình thức trao đổi này vì hai giai đoạn mua và bán cùng thống nhất trong một quá trình
nên đôi bên mua và bán phải có nhu cầu phù hợp về hàng hoá như: người có thóc muốn
đổi vải song ngược lại người có vải cũng đang cần có thóc. Như vậy, việc thực hiện giá
trị hàng hoá phụ thuộc vào giá trị sử dụng của hàng hoá. Ngoài ra, trong hình thức trao
đổi này người ta còn phải thoả thuận về tỷ lệ giá trị của hàng hoá, về số lượng hàng
hoá...với những bất tiện của trao đổi hiện vật nêu trên, nên hình thức này chỉ phù hợp
trong giai đoạn nền sản xuất còn sơ khai và quan hệ trao đổi chưa mở rộng. Cùng với
việc cải tiến công cụ lao động và quá trình phân công lao động xã hội ngày một sâu hơn,
nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh do đó quan hệ trao đổi không còn ngẫu nhiên,
không chỉ dựa trên sự định giá giản đơn. Mặt khác, hàng hoá trên thị trường đã phong
phú và đa dạng hơn đòi hỏi phạm vi trao đổi cần được mở rộng hơn. Để giải quyết khó


khăn trên người ta đã đặt ra vật trung gian làm phương tiện trao đổi nghĩa là hai giai đoạn
mua - bán được tách thành hai quá trình độc lập.
H - vật trung gian - H
Có thể nói sự ra đời của vật trung gian trao đổi đánh dấu giai đoạn mở đầu cho sự
xuất hiện của tiền tệ đồng thời là bước chuyển hoá từ nền kinh tế đổi chác sang nền kinh
tế tiền tệ. Trải qua tiến trình phát triển, tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức để đáp ứng
yêu cầu ngày càng đa dạng của đời sống kinh tế.
2. Các thời kỳ phát triển của tiền tệ
- Tiền tệ dưới dạng hàng hóa
Trong thời kỳ đầu vật trung gian trao đổi thường được chọn từ một loại hàng hóa có
có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người, có thể bảo tồn lâu ngày đồng thời
mang tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra quan hệ trao đổi.
Vì vậy, trong lịch sử đã có nhiều mặt hàng được sử dụng lúc này hay lúc khác để
làm phương tiện trao đổi. Thời cổ đại ở Trung Quốc đã từng dùng lúc thì da, lúc thì vỏ
1


trai, gạo, vải..làm vật ngang giá. Ơ Hy lạp, La mã đã dùng súc vật, ở Tây tạng, Mông cổ,
Indonesia dùng chè...Và cho đến hiện nay ở một số bộ lạc thổ dân châu Phi, châu Úc
dùng cá khô, thuốc lá làm vật trung gian trao đổi.
Tuy nhiên, tiền tệ dưới dạng hàng hóa dẫn đến nhiều bất lợi, ví dụ như gia súc khó
phân chia những tỉ lệ trao đổi, chất lỏng (Dầu) thì có thể chia nhỏ như ý muốn song lại
khó bảo quản. Mặt khác, theo đà phát triển của nền sản xuất, sự hình thành một thị
trường rộng lớn không giới hạn chỉ trong khuôn khổ một địa phương đã đòi hỏi vật trung
gian cần mang tính chất phổ biến, đồng nhất, dễ phân chia. Đo đó, các loại hàng hóa
thông thường được dùng làm tiền tệ dần dần bị đào thải nhường chỗ cho thời kỳ sử dụng
tiền kim khí.
- Tiền tệ kim loại
Cùng với sự phân công lao động xã hội lớn lần thứ hai, thủ công nghiệp tách khỏi
nông nghiệp, vai trò tiền tệ chuyển dần sang các kim loại.

Kim loại được sử dụng là tiền tỏ rõ ưu thế hơn so với các hàng hóa khác. Trong lịch
sử sắt, đồng, bạc vàng...đã từng là tiền, thời kỳ tiền kim loại tồn tại khá lâu. Trong giai
đoạn đầu để thanh toán cho nhau người ta thường phải cân, đong những lượng kim loại
phù hợp. Để tạo điều kiện dễ dàng một số thương nhân đã tự in đúc tiền và sau này nhà
nước chính thức ban hành tiêu chuẩn giá cả cho đồng tiền quốc gia và thống nhất kỹ thuật
in đúc tiền để đảm bảo uy tín, tính chất pháp lý của đồng tiền đồng thời chứng thực
quyền lực của nhà nước.
Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, nền sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển mạnh
mẽ đòi hỏi vật trung gian trao đổi phải có giá trị cao, tồn tại như một hình thức được
nhiều người chấp nhận và phải có độ bền để bảo tồn giá trị theo thời gian. Từ đó vàng và
bạc đã loại dần các kim loại kém giá, dễ bị gỉ sét để trở thành tiền kim loại phổ biến trong
khoảng thế kỷ 18 và 19. Trong giao đoạn này có những nước đã thực hiện chế độ song
bản vị là cùng thừa nhận vàng và bạc là tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên, cùng tồn tại
bên cạnh vàng, vai trò của bạc trong lưu thông bị giảm sút không chỉ về hình thức bạc dễ
bị sĩn mà giá trị quý hiếm của vàng trên thị trường ngày càng cách xa khoảng cách với
bạc.
Cho đến cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 khi giá trị bạc trên thị trường bị giảm mạnh
hầu hết các nước Phương Tây đã áp dụng chế bản vị vàng và trong mối quan hệ giao
thương bị phụ thuộc nhiều vào Châu âu nên sau đó các nước Châu á như Nhật, Ấn độ,
các nước Đông Dương, Trung Quốc ..cũng lần lượt chuyển sang chế độ bản vị vàng. Sử
dụng tiền kim loại mặc dù cũng có những ưu điểm so với hóa tệ không kim loại nhưng
cũng có những hạn chế như cồng kềnh, khó chuyên chở. Mặt khác, với quy mô Sản xuất
và trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao đổi
trong khi nguồn vàng dự trữ không đủ đáp ứng. Do đó, thay vì dùng vàng trực tiếp là
tiền, các nước đã có xu hướng chuyển sang sử dụng tiền dấu hiệu ngày càng phổ biến
hơn.
- Tiền giấy - Tiền tín dụng
Tiền giấy chỉ là một loại tiền dấu hiệu nên để được sử dụng là phương tiện trao đổi
phải dựa vào sự tín nhiệm của con người.
Lúc đầu những tờ giấy bạc ngân hàng là những dấu hiệu đại diện cho vàng đáng lẽ

phải có trong lưu thông. Những giấy bạc ngân hàng đó được tự do chuyển đổi ra vàng
theo luật định, về sau do ngân hàng phát hành ra nhiều giấy bạc hơn so với số vàng dự
trữ, làm cho nó không còn được tự do chuyển đổi ra vàng, thời đại ngày nay, việc sử
2


dụng tiền giấy đã trở thành phổ biến, do tính thuận tiện của nó trong việc làm phương
tiện trao đổi hàng hóa, đó là:
- Dễ mang theo để làm phương tiện trao đổi hàng hóa, dễ thanh toán nợ.
- Thuận tiện khi thực hiện chức năng phương tiện dự trữ của cải dưới hình thức giá
trị.
Bằng cách thay đổi các con số trên mặt đồng tiền, một lượng giá trị lớn hay nhỏ
được biểu hiện.
- Các hình thức khác của tiền tệ
+Tiền qua ngân hàng (bút tệ): thông qua bút toán chuyển khoản hoặc thanh toán bù
trừ trên tài khoản ký thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ cùng với các chứng từ thanh toán như
séc giấy chuyển ngân, giấy nhờ thu.. làm đa dạng các phương tiện thanh toán bằng tiền
mặt, đồng thời còn tạo điều kiện giảm bớt những chi phí lưu hành tiền giấy. Vì vậy, việc
sử dụng tiền qua ngân hàng được coi là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế phát
triển.
+Tiền điện tử: các loại thẻ thanh toán
II. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA TIỀN TỆ
1. Bản chất của Liền tệ
Qua quá trình phát triển của tiền tệ cho thấy tiền tệ đã tồn tại dưới nhiều hình thức
từ những dạng hoá tệ, kim tệ và ngày nay chủ yếu là thời đại của tiền giấy và tiền qua
ngân hàng là những loại tiền hoàn toàn dựa trên sự tín nhiệm không có giá trị bản thân.
Do vậy, đã hình thành nhiều quan điểm khi nghiên cứu thực chất của tiền tệ.
Học thuyết tiền tệ kim thuộc ra đời từ thế kỷ 16 với đại diện là Thomas-men (15761641) đã khẳng định rằng: vàng, bạc tự nhiên là tiền tệ. Vàng, bạc là của cải chính tông.
Với sự đề cao quá mức tiền kim loại trường phái này đã nhận định sai lầm rằng chỉ có
kim loại quý mới thực hiện chức năng của tiền tệ.

Đến thế kỷ 18 khi các loại tiền dấu hiệu như tiền giấy, tiền tín dụng ra đời nhưng
vẫn phục vụ cho trao đổi thì trường phái tiền tệ duy danh lại đề cao tiền dấu hiệu, họ cho
rằng, tiền giấy và tiền kim loại là như nhau chỉ là dấu hiệu thanh toán hay nhãn hiệu mà
nhờ đó hàng hoá được lưu thông, từ đó họ kết luận: tiền tệ chỉ là một công cụ kỹ thuật
tiện cho trao đổi hàng hoá, nó chỉ là đơn vị tính toán trừu tượng nên bản thân tiền tệ
không cần có giá trị nội tại và nhà nước hoàn toàn có thể phát hành tiền giấy và những
dấu hiệu quy ước là có thể phục vụ cho trao đổi.
K.Marx dưới cái nhìn của nhà biện chứng ông đã nghiên cứu nguồn gốc ra đời của
tiền tệ qua sự phát triển của các hình thái và đã khẳng định: tiền tệ có nguồn gốc từ hàng
hoá, từ thế giới hàng hoá tách ra. Ông đã chỉ ra rằng vàng chỉ trở thành tiền tệ trong
những điều kiện lịch sử nhất định trước khi là tiền tệ và sau khi được thừa nhận đóng vai
trò là tiền tệ thì vàng vẫn giữ nguyên bản chất là hàng hoá. Ngày nay học thuyết tiền tệ
của K.Marx vẫn mang giá trị lý luận rất lớn để chúng ta nghiên cứu và vận dụng sáng tạo.
Bước vào thế kỷ 20 cùng với sự phong phú của đời sống kinh tế khi đề cập đến tiền tệ
người ta không nhìn nó một cách hạn hẹp và giản đơn rằng tiền tệ chỉ là tiền kim loại hay
là tiền giấy mà đã xem xét tiền tệ ở giác độ rộng hơn kể cả các loại séc, số dư tiền gửi tại
ngân hàng...nếu chúng có thể chuyển đổi dễ dàng thành tiền mặt thì cũng có thể xem là
tiền và ngay cả các loại chứng khoán cũng được hiểu là tiền theo nghĩa rộng.
Trên quan điểm toàn diện và có chọn lọc, chúng ta đưa khái niệm về tiền tệ như sau:
Tiền tệ là một phương tiện trao đổi được pháp luật thừa nhận và người sở hữu nó
sử dụng để phục vụ cho những nhu cầu trong đời sống kinh tế xã hội.
3


Tóm lại, quan điểm tiền tệ theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp hoàn toàn phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế tiền tệ ở mỗi nước và để đi đến một khái niệm thống nhất về
tiền tệ là điều không đơn giản. Song một thuộc tính vốn có đặc trưng của tiền là bất cứ
vật gì được chấp nhận trong việc thanh toán cho hàng hoá, dịch vụ hoặc hoàn trả các món
nợ...đều được xem là tiền.
Để hiểu rõ hơn bản chất về tiền tệ, chúng ta sẽ đi phân tích các chức năng của tiền tệ.

2. Chức năng của tiền tệ
Khi đề cập đến vấn đề chức năng của tiền tệ. Từ lâu phần lớn các nhà kinh tế học
đều cho rằng tiền tệ có 3 chức năng, đó là: Đo lường giá trị, làm trung gian trao đổi và
bảo tồn giá trị. Tuy nhiên, cũng có một số nhà kinh tế học lại thêm một chức năng thứ tư
là: Phương tiện thanh toán.
Theo Mác, khi giả định vàng là hàng hóa tiền tệ, ông đã cho rằng tiền tệ có 5 chức
năng: Thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện thanh toán, phương tiện cất
trữ và tiền tệ thế giới.
Trải qua quá trình lịch sử, khoa học tiền tệ không ngừng phát triển, trong nền kinh
tế hiện đại các chức năng ban đầu của tiền tệ vẫn có ý nghĩa nhất định. Chúng ta có thể
nêu lên 3 chức năng chủ yếu của tiền tệ như sau:
2.1. Chức năng thước đo giá trị
Tiền tệ là đơn vị đo lường giá trị, nghĩa là nó được dùng để đo lường giá trị các
hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện trao đổi. Người ta do giá trị của hàng hóa và dịch
vụ bằng tiền giống như người ta đo trọng lượng của 1 vật bằng kilôgam, do chiều dài một
vật bằng mét.
Với chức năng này tiền tệ đã trở thành thước đo chung để biểu thị và so sánh giá cả
của tất cả hàng hóa, từ đó làm cho đời sống kinh tế được đơn giản hóa rất nhiều. Bởi lẽ,
trong nền kinh tế phát triển với sự tham gia của hàng nghìn mặt hàng trên thương trường
nếu không có một đơn vị thanh toán chung người ta sẽ tốn nhiều thời gian để xác định
những quan hệ tỉ lệ giữa các hàng hóa với nhau khi muốn thực hiện trao đổi. Nhưng nếu
có một đơn vị thanh toán chung người ta không chỉ quy định giá cả hiện tại và hơn nữa
còn dự đoán cả mức giá trong tương lai. Mặt khác, thông qua biểu hiện giá trị hàng hóa
bằng thước đo chung, tiền tệ còn tạo điều kiện để người ta có thể so sánh, đánh giá và lựa
chọn các loại hàng hóa trên thị trường.
Ví dụ:
Trong quá trình trao đổi trực tiếp, có 3 mặt hàng đưa ra trao đổi: A,B,C thì chúng ta
chỉ cần biết 3 giá để có thể trao đổi các hàng hóa này với nhau, đó là:
- Giá của hàng hóa A được tính bằng bao nhiêu hàng hóa B.
- Giá của hàng hóa A được tính bằng bao nhiêu hàng hóa C

- Giá của hàng hóa C được tính bằng bao nhiêu hàng hóa B
Tương tự, nếu có 10 mặt hàng đưa ra trao đổi, chúng ta phải cần biết 45 giá để có
thể trao đổi hàng này lấy một hàng hóa khác, với 100 mặt hàng cần 4.950 giá và với
1.000 mặt hàng thì chúng ta cần biết 499.500 giá (Theo công thức tổng quát tính số cặp
khi có N phân tử = N (N- 1 )/2)
Nhưng nếu nền kinh tế có tiền tệ làm môi giới, thì người ta định giá bằng đơn vị
tiền tệ cho tất cả các hàng hóa đem trao đổi trên thị trường. Do vậy, có bao nhiêu hàng
hóa đưa ra trao đổi thì có bấy nhiêu giá cả. Có nghĩa là, nếu có 3 hàng hóa đưa ra trao đổi
thì có 3 giá, có 10 hàng hóa trao đổi thì có 10 giá, có 1.000 hàng hóa trao đổi thì có 1.000
giá.
4


Vậy là, việc dùng tiền làm đơn vị đánh giá sẽ thuận lợi rất nhiều cho quá trình trao
đổi hàng hóa, giảm được chi phí trong trao đổi đã giảm được số giá cần xem xét.
Trong nền kinh tế thị trường vận dụng chức năng này của tiền tệ đã giúp cho các
doanh nghiệp có thể hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm và qua
đó đánh giá hiệu quả kinh doanh để chọn hướng đầu tư thích hợp. Hơn nữa, ở tầm vĩ mô
trong hệ thống kế toán quốc gia, đồng tiền với chức năng thước đo giá trị đã được vận
dụng để tính toán tổng mức GDP, GNP trong từng thời kỳ. Từ đó, ngoài việc phục vụ cho
quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân còn giúp chúng ta đánh giá hiệu quả nền
kinh tế để có biện pháp tận dụng những nguồn tài nguyên quốc gia phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng đất nước.
2.2. Chức năng phương tiện trao đổi
Trong nền kinh tế, tiền tệ làm phương tiện trao đổi khi nó được dùng để mua bán
hàng hóa, dịch vụ hoặc thanh toán các khoản nợ trong và ngoài nước. Việc dùng tiền làm
phương tiện trao đổi đã nâng hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, bởi nó đã tiết kiệm
được các chi phí quá lớn trong quá trình trao đổi trực tiếp (hàng lấy hàng). Trong nền
kinh tế trao đổi trực tiếp hàng đổi hàng, các chi phí giao dịch thường rất cao, bởi vì người
mua, người bán phải tìm được những người trùng hợp với mình về nhu cầu trao đổi, thời

gian trao đổi, không gian trao đổi. Quá trình trao đổi chỉ được diễn ra khi có sự phù hợp
đó.
Tiền tệ làm môi giới trung gian trong trao đổi đã hoàn toàn khắc phục được các hạn
chế đó của quá trình trao đổi trực tiếp. Người có hàng bán lấy tiền, sau đó sẽ mua được
hàng mà họ có. Bởi vậy, người ta coi tiền như thứ dầu mỡ bôi trơn, cho phép nền kinh tế
hoạt động trôi chảy hơn, khuyến khích chuyên môn hóa và phân công lao động.
Thực hiện chức năng phương tiện trao đổi, tiền không chỉ góp phần thúc đẩy lưu
thông hàng hóa mà qua quá trình đưa sản phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng còn giúp
chúng ta phát hiện những khiếm khuyết trong sản xuất như mẫu mã, chất lượng hàng hóa
cũng như điều tiết cung - cầu hàng hóa trong từng khu vực của nền kinh tế.
2.3. Chức năng phương tiện tích lũy
Đồng tiền không chỉ được sử dụng tất cả cho chi tiêu mà người ta còn thực hiện tích
lũy để đề phòng rủi ro trong tương lai hoặc tích lũy để mua sắm, nghĩa là người ta muốn
chuyển nhu cầu tiêu dùng từ thời điểm này sang thời điểm khác.
Trước đây trong chế độ lưu thông tiền kim loại, người ta có quan niệm tích lũy tiền
tệ như một dạng của cải xã hội nên việc chôn dấu kim loại quý trong những chum, lọ là
phổ biến. Và ngày nay, trong giai đoạn mà nền kinh tế có lạm phát người ta cũng có xu
hướng quay về tích lũy tiền vàng như một hình thức bảo tồn tài sản của mình. Trong điều
kiện nền kinh tế phát triển, khi các doanh nghiệp muốn đầu tư mở rộng sản xuất, khi tầng
lớp dân cư có nhu cầu mua sắm những vật phẩm có giá trị cao để thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt, người ta thường tích lũy dưới dạng tiền giấy hoặc số dư trên tài khoản ký thác tại
ngân hàng.
Với chức năng này cho phép người sở hữu nó dự trù một sức mua cho các giao dịch
trong tương lai. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng chức năng tích lũy này không phải chỉ có tiền
mới có mà phần lớn các dạng động sản, vật trang sức, chứng khoán đều có thể đóng vai
trò lưu giữ giá trị thậm chí trong một số trường hợp như nền kinh tế có lạm phát thì tích
lũy một số dạng tài sản khác có tính ưu việt hơn là tích lũy tiền mặt.

5



Mặc dù vậy, đồng tiền thực hiện chức năng tích lũy đã tạo điều kiện lưu giữ một
khả năng sử dụng ngay tức khắc (Có tính lỏng cao nhất), trong khi các dạng dự trữ tài sản
khác đòi hỏi thời gian và chi phí giao dịch khi cần chuyển sang tiền để sử dụng.
III.CUNG - CẦU TIỀN TỆ
1. Các loại tiền trong nền kinh tế hiện đại
1.1. Tiền có quyền lực cao
Loại này thuận tiện nhất khi thực hiện các quan hệ trao đổi và đây cũng là tính chất
nổi bật so với các loại tiền tài sản khác. Vì thế, tiền có quyền lực cao được xếp vào khối
tiền giao dịch trong các phép đo tổng lượng tiền của ngân hàng Trung ương các nước.
Tiền có quyền lực cao bao gồm 2 loại:
a.Tiền pháp định.
Bao gồm các loại tiền giấy, tiền kim khí do nhà nước phát hành với tên gọi tiền
pháp định đã cho thấy các loại tiền này được nhà nước thống nhất phát hành và cho phép
lưu thông với mệnh giá được in trên đồng tiền theo luật định.
Đồng tiền pháp định thể hiện quyền lực của nhà nước trong quá trình điều tiết lưu
thông tiền tệ qua hoạt động phát hành cũng như thu hồi tiền từ lưu thông nhằm thực hiện
những mục tiêu nhất định của chính phủ trong từng thời kỳ. Mặt khác, đồng tiền pháp
định còn thể hiện chủ quyền kinh tế chính trị và kinh tế của quốc gia đó trên trường quốc
tế. Do vậy, về hình thức tiền pháp định luôn có dấu quốc huy trên đồng tiền, đặc biệt với
các loại tiền giấy còn phải có số seri phát hành và chữ ký của một quan chức chính phủ.
Trong lưu thông tiền pháp định có thể được gọi bằng nhiều thuật ngữ khác nhau
như tiền mặt, tiền ngân hàng trung ương, tiền nhà nước. Tiền pháp định có mức sinh lời
thấp nhất.
b. Tiền gửi không kỳ hạn hay các khoản tiền gửi trên tài khoản thanh toán tại các
ngân hàng là một loại tiền có quyền lực cao nhưng tính lỏng thấp hơn so với tiền pháp
định vì phải thông qua một số thủ tục thanh toán theo quy định khi thực hiện giao dịch.
Tuy nhiên, trong điều kiện những dịch vụ ngân hàng trở nên tiện ích thì vấn đề thanh
toán từ tiền gửi không kỳ hạn hay các tài khoản thanh toán có thể phát hành séc...sẽ góp
phần giảm đáng kể những chi phí không cần thiết trong thanh toán bằng tiền mặt.

Ngoài ra, một số ngân hàng thương mại còn thực hiện trả lãi cho các khoản tiền gửi
thanh toán nên so với tiền mặt thì nó còn đáp ứng phần nào mục tiêu sinh lời cho người
sở hữu tiền tệ. Điều đó lý giải vì sao bộ phận này chiếm đến 3/4 trong tổng khối tiền
dùng cho giao dịch tại các nước phát triển.
1.2. Các loại tiền tài sản
Xét thực chất tiền tài sản không phải là tiền giao dịch vì người ta không thể sử dụng
nó như một phương tiện trao đổi không hạn chế về thời gian như tiền mặt cũng như
không thể đáp ứng nhu cầu giao dịch ngay lập tức như các loại tiền có quyền lực cao,
nhưng chúng được xem là tiền vì người ta có thể chuyển chúng thành tiền mặt thông qua
hoạt động của thị trường tài chính. Mặt khác với tên gọi tiền tài sản cho thấy đây là loại
tài sản được người sở hữu nắm giữ như một hình thức đầu tư sinh lợi song chúng lại có
khả năng hoán chuyển linh hoạt sang tiền mặt trong một thời gian ngắn.
Từ đó việc thừa nhận loại tiền tài sản trong kết cấu khối tiền của ngân hàng trung
ương các nước sẽ phụ thuộc rất nhiều vào mức độ phát triển kinh tế thị trường của nước
đó mà đặc biệt là một thị trường tài chính năng động.
Các loại tiền tài sản bao gồm:

6


a. Các loại tiền gửi có kỳ hạn, đem lại mức sinh lợi khá ổn định cho người sở hữu và
được thực hiện với nguyên tắc thời hạn càng dài lãi suất càng cao, bao gồm:
- Tiền gửi tiết kiệm của công chúng tại các qũy tiết kiệm, các ngân hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn của các cá nhân và doanh nghiệp tại các tổ chức tín dụng.
b. Tài khoản tiền gửi ở thị trường tiền tệ
c. Các chứng từ nợ ngắn hạn, trung hạn được mua bán trên thị trường tiền tệ.
d. Các loại tiền tài sản khác: Thương phiếu, hối phiếu thương mại đã được ngân hàng
chấp nhận...
2. Phép đo tổng lượng Liền trong nền kinh tế hiện đại
Tại các nước phát triển phép đó tổng lượng tiền được ngân hàng trung ương công

bố thông thường gồm 3 khối tiền chính đó là:
* Khối M1 bao gồm:
- Tiền pháp định
- Tiền gửi không kỳ hạn hay tiền gửi thanh toán có thể phát hành séc
- Séc du lịch
* Khối M2 bao gồm:
- M1
- Các loại tiền gửi có kỳ hạn loại nhỏ
- Tiền gửi tiết kiệm
Tiền gửi thị trường tiền tệ ngắn hạn
*Khối M3 bao gồm:
- M2
- Các loại tiền gửi có kỳ hạn loại lớn
- Các chứng từ nợ, tiền gửi trên thị trường tiền tệ dài hạn.
Ngoài ra, phép đo cuối cùng về tổng lượng tiền mà ở Anh gọi là khối M4 còn ở Mỹ
và nhiều nước phát triển khác gọi là khối L bao gồm:
- M3
- Các loại tiền theo nghĩa rộng hơn đó là các loại chứng khoán, chứng từ có giá có
khả năng hoán chuyển trên thị trường tài chính.
3. Cầu tiền tệ
Qua phân tích về nguồn gốc của tiền tệ cho thấy tiền tệ ra đời là kết quả của quá
trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hoá. Nói cách khác, tiền tệ là sản phẩm tất yếu
của sản xuất hàng hoá, như vậy, còn sản xuất hàng hoá thì nhu cầu về tiền tệ còn là sự
cần thiết mang tính chất khách quan.
Trong thời đại ngày nay với nền kinh tế tiền tệ đang phát triển mạnh mẽ thì một
thực tế khách quan là hầu hết giao dịch giữa các cá nhân hoặc các tổ chức đều được giải
quyết bằng tiền. Do vậy, nhu cầu về tiền tệ và việc sử đụng tiền có ý nghĩa quan trọng đối
với đời sống kinh tế - xã hội.
Từ phân tích trên có thể thấy rằng, nếu xét một cách tổng quát trong nền kinh tế tiền
tệ thì hai nhu cầu lớn chi phối đời sống xã hội đó là nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng.

Ai đầu tư? Đó là các doanh nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất, muốn sử dụng
có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi. Đó là các cá nhân muốn kiếm lợi nhuận từ đồng tiền tiết
kiệm của mình. Và tiêu dùng vào những mục đích nào? Các doanh nghiệp, cá nhân cần
tiền để phục vụ các giao dịch của mình như mua sắm hàng hoá, dịch vụ, thanh toán công
nợ, nộp thuế hoặc dành một phần thu nhập bằng tiền cho mục đích dự phòng những rủi

7


ro, những tổn thất có thể gặp trong sản xuất và đời sống...Chính phủ muốn thực hiện các
chương trình cải cách kinh tế hay thực hiện các chính sách xã hội...
Nhu cầu về tiền tệ để phục vụ cho đầu tư sẽ phụ thuộc vào hai nhân tố quan trọng
đó là lãi suất tín dụng của ngân hàng và mức lợi nhuận:
+ Lãi suất tín dụng ngân hàng là mức thu nhập mang tính bình quân của các
phương án đầu tư trong nền kinh tế, là cột mốc để so sánh với các mức tỷ suất lợi nhuận
của các ngành khác và nó cũng là nhân tố kích thích những nguồn tiết kiệm trong dân cư
đi tìm hoạt động đầu tư và cũng là nhân tố kích thích những nguồn tiết kiệm trong dân cư
đi tìm nơi trú ngụ an toàn của mình.
+ Mức lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư như sản xuất, kinh doanh dịch vụ hoặc
những hoạt động đầu tư tài chính như kinh doanh địa ốc, kinh doanh chứng khoán, kinh
doanh ngoại hối cũng là những nhân tố tác động đến nhu cầu đầu tư.
- Nhu cầu về tiền dành cho tiêu dùng sẽ phụ thuộc vào nhân tố đầu tiên là mức thu
nhập vì nếu nền kinh tế có tăng trưởng, thu nhập quốc dân tăng lên để từ đó tác động đến
thu nhập của từng thành viên trong xã hội theo chiều hướng thu nhập bình quân đầu
người tăng thì mức cầu về tiêu dùng mới có cơ sở nâng cao.
+ Nhân tố thứ hai ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng đó là giá trị của những hoạt
động giao dịch. Ở đây nếu chúng ta giả sử các nhân tố khác như số lần và số lượng giao
dịch trong một thời gian nhất định không đổi thì sự biến động của hệ thống giá cả hàng
hoá, dịch vụ sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến mức cầu tiêu dùng.
+ Nhân tố thứ ba ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu dùng là lãi suất. Trong điều kiện

những tác động khác của đời sống kinh tế là không đổi thì lãi suất tăng sẽ làm giảm mức
cầu tiền tệ trong quỹ các doanh nghiệp hoặc trong tay các tầng lớp dân cư, người ta sẽ
kiềm chế bớt nhu cầu tiêu dùng, mua sắm để tăng nguồn tích luỹ nhằm sinh lời cho đồng
tiền.
Về phương diện lý thuyết, trong hơn một thế kỷ qua, vấn đề tính toán khối lượng
tiền cần thiết cho lưu thông đã được các nhà kinh tế đưa ra nhiều công thức đề xác định:
* Quan điểm của K.Marx:
Khi nghiên cứu về nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản K.Marx đã dày công nghiên
cứu về sự vận động của tiền tệ và rút ra quy luật lưu thông tiền tệ. Nội dung quy luật là:
“Khối lượng tiền cần thiết trong lưu thông sẽ bằng tổng số giá cả hàng hóa cần lưu thông
chia cho tốc độ luân chuyển trong một thời gian nhất định (thường tính cho 1 năm)”.
Kc = H/V Với Kc: Khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông
KT: Khối lượng tiền thực tế trong lưu thông
H: Tổng số giá cả hàng hóa
* Nếu KT < Kc (Thiếu tiền), trường hợp này hàng hóa lớn hơn tiền hay nhu cầu có khả
năng thanh toán bằng tiền của dân cư nhỏ hơn quỹ hàng hóa xã hội cung cấp, tức là yêu
cầu của của quy luật lưu thông tiền tệ bị vi phạm, làm cho sản xuất và lưu thông hàng hóa
bị trì trệ do thiếu phương tiện thanh toán.
Biện pháp khắc phục là tăng thu nhập bằng tiền của dân cư, giảm giá hàng, giảm
thuế, tăng cường xuất khẩu...
* Nếu KT > Kc (Thừa tiền), trường hợp này tiền lớn hơn hàng hay nhu cầu có khả năng
thanh toán bằng tiền lớn hơn khả năng cung cấp hàng hóa cho xã hội, do vậy có một bộ
phận thu nhập bằng tiền của dân cư không có hàng hóa thỏa mãn, tức là yêu cầu của quy
luật lưu thông tiền tệ không được tôn trọng.

8


Biện pháp khắc phục là rút bớt lượng tiền thừa trong lưu thông và gia tăng số sản
phẩm để đáp ứng nhu cầu của dân cư.

* Nếu KT = Kc (Tiền hàng cân đối)
Như vậy, để đảm bảo tôn trọng quy luật lưu thông tiền tệ, theo quan điểm của Marx
đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt nhu cầu về tiền trong lưu thông, qua đó đưa tiền vào lưu
thông cho phù hợp, nói cách khác, cầu về tiền tệ thực sự đóng vai trò chủ động và nguồn
cung về tiền tệ thường có tính thụ động, nó sẽ tăng, giảm và được chúng ta điều chỉnh để
phù hợp với nhu cầu về tiền tệ.
* Quan điểm của lrving - Fisher ( 1887 - 1947)
Nửa đầu thế kỷ 20, một trong những đại biểu của thuyết số lượng tiền tệ đầu tiên là
I.Fisher nhà kinh tế học người Mỹ đã đưa ra phương trình trao đổi nổi tiếng với vế phải là
tổng giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ tham gia giao dịch và vế trái là tổng khối lượng
chi trả:
M.V = P.Y
Trong đó: - M: Tổng khối lượng tiền lưu hành (Bao gồm tiềm mặt và kể cả các phương
tiện thanh toán trên các tài khoản séc).
-V: Tốc độ lưu hành của lượng tiền trong lưu thông.
- P: Mức giá trung bình.
-Y: Tổng lượng hàng hóa và dịch vụ được trao đổi.
Với phương trình trên đầu tiên I.Fisher nêu lên lý thuyết “sức mua tiền tệ” và cho
rằng: sức mua của tiền tệ được đo bằng P, nếu P tăng nghĩa là sức mua của đồng tiền
giảm, tiền mất giá và P giảm nghĩa là sức mua của đồng tiền được nâng cao.
Mặt khác, Fisher cho rằng V là nhân tố gần như bất biến trong một thời gian ngắn vì
nó phụ thuộc vào những thói quen của cá nhân trong giao dịch và sau đó Fisher nêu lên
học thuyết về số lượng tiền tệ:
Số lượng thu nhập danh nghĩa P.Y được quyết định bởi số lương tiền tệ, khi M tăng,
M.V tăng và P.Y sẽ tăng với tỷ lệ tương ứng, từ đó, mức giá cả hàng hóa biến động tùy
thuộc số lượng tiền tệ trong lưu thông.
Trên quan điểm V là một hằng số, M = (1/V) . P. Y
Gọi K=1/V là thời gian trung bình mà người dân giữ tiền mặt.
P.Y: Mức thu nhập danh nghĩa.
Fisher đi đến kết luận: Cầu về tiền tệ là một hàm số được xác định bởi:

- Mức thu nhập danh nghĩa.
- Thói quen tiến hành các giao dịch của dân chúng và nguồn cung ứng tiền vào lưu
thông tăng hay giảm là do chính sách phát hành của ngân hàng trung ương và chính sách
cưng ứng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
5.1.3.Quan điểm của trường phái Cambridge.
Với những đại biểu như A.Marshall, A.C Pigou... cũng nghiên cứu học thuyết về
cầu tiền tệ. Theo họ, sở dĩ người ta muốn giữ tiền vì:
- Tiền là phương tiện trao đổi.
- Tiền là phương tiện cất giữ tài sản.
Và nêu lên hàm số biểu thị cầu về tiền tệ:
M = K.P.Y
Hàm số này các nhân tố M, P, Y cũng giống như của I.Fisher với quan điểm chung
là M tỷ lệ với P.Y nhưng khác với Fisher chỉ nhấn mạnh ở các nhân tố kỹ thuật và không

9


đề cập đến nhân tố lãi suất có thể ảnh hưởng đến cầu tiền tệ. Trường phái Cambridge
nhấn mạnh rằng:
Cá nhân có sự linh hoạt trong việc quyết định giữ tiền đồng thời không loại trừ ảnh
hưởng của lãi suất đến mức cầu về tiền tệ. Tuy nhiên, với quan niệm K là hằng số vì V là
hằng số đã làm hạn chế tính thuyết phục của I.Fisher cũng như những nhà kinh tế thuộc
trường phái Cambridge.
5.1.4. Quan điểm của J.M Keynes (1883 - 1946)
Trên cơ sở phát huy tư tưởng của trường phái Cambridge, Keynes nêu lên học
thuyết về ưa thích tiền mặt, với 3 nhân tố tác động đến mức cầu về tiền tệ là:
- Động cơ giao dịch.
- Động cơ dự phòng.
- Động cơ đầu cơ.
Trong đó hai nhân tố đầu sẽ tỷ lệ với mức thu nhập, trong phạm vi cả nước là thu

nhập quốc dân, trong phạm vi cá nhân là tiền lương và lợi nhuận, nhân tố thứ 3 sẽ chịu
ảnh hưởng trực tiếp bởi lãi suất.
Lập luận của Keynes có phần cụ thể hơn so với trường phái Cambride về lý do
người ta muốn giữ tiền. Ngoài ra, Keynes cũng không thừa nhận quan điểm về tính bất
biến của V và cho rằng V sẽ biến động cùng với lãi suất.
* Quan điểm thuyết số lượng tiền tệ hiện đại
Từ giữa những năm 50 trở lại đây, M. Friedman nhà kinh tế thuộc trường phái
Chicago đã làm hồi sinh học thuyết số lượng tiền tệ với tên "Chủ nghĩa tiền tệ mới".
Theo Friedman, số cung tiền tệ hoặc được xác định bằng số lượng tiền kim loại đưa
vào lưu thông hoặc bởi số lượng tiền tệ do nhà nước hoặc hệ thống ngân hàng tạo ra. Nhu
cầu về tiền là hàm số với nhiều biến số trong đó có thu nhập, giá cả, lãi suất, cơ cấu tài
sản và sự ưa thích cá nhân.
Luận điểm của M.Friedman được diễn tả bằng công thức sau:
M = K. P. Y
Với: M là số lượng tiền tệ
K là tương quan của thu nhập tiền tệ trong thu nhập
P là chỉ số giá cả
Y là thu nhập quốc dân tính theo giá không đổi.
Từ đó rút ra kết luận là sự thay đổi của M có thể dẫn đến hoặc là sự thay đổi của thu
nhập quốc dân hoặc là sự gia tăng của giá cả.
* Quan điểm của P.A.Samuelson
P.A.Samuelson được coi là người phát huy xuất sắc học thuyết tiền tệ trong thời đại
ngày nay, ông cho rằng mức cầu tiền tệ phụ thuộc vào hai nhân tố:
Mức cầu giao dịch từ phía các doanh nghiệp, từ nhân dân cần tiền làm phương tiện
giao dịch. Mức cầu về giao dịch sẽ chịu tác động lớn từ lãi suất nếu trong điều kiện
những tác động khác của đời sống kinh tế là không đổi thì lãi suất tăng sẽ làm giảm mức
cầu về tiền tệ. Nghĩa là lãi suất trở thành một công cụ hấp dẫn để giảm lượng tiền trong
tay dân cư hoặc trong quỹ của các doanh nghiệp.
Bên cạnh giữ tiền đảm bảo nhu cầu giao dịch người ta còn giữ tiền để tích lũy nhằm
dự phòng những khoản chi trong tương lai. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế thị trường

phát triển ngày nay, người ta không dại gì cất giữ tiền tại quỹ riêng vì dễ gặp rủi ro như
mất cắp, hỏa hoạn...mà với khoản tiền tích lũy người ta thường tìm biện pháp để sinh lời

10


thực hiện đầu tư vào nhiều lĩnh vực vừa phân tán rủi ro vừa đa dạng hình thức sử dụng
vốn.
Trên cơ sở mức cầu về tiền tệ, trong từng thời kỳ nhà nước sẽ chủ động cung ứng
tiền vào lưu thông và vận dụng những công cụ điều tiết vĩ mô để cân đối cung - cầu như
lãi suất tái chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay thực hiện nghiệp vụ thị trường mở...
Qua các quan điểm nêu trên chúng ta thấy rằng vấn đề cung - cầu về tiền tệ là vấn
đề đã được đặt ra và gây nhiều tranh luận giữa các nhà kinh tế qua các thời đại. Vì vậy,
đối với mỗi quốc gia việc nghiên cứu và vận dụng một cách khoa học các học thuyết tiền
tệ là điều cần thiết khách quan trong quá trình xây dựng và thực hiện một chính sách tiền
tệ phù hợp với hoàn cảnh của mỗi nước.
Ở Việt Nam theo thông tư hướng dẫn thực hiện quyết định của ngân hàng nhà nước
về "Chế độ tổ chức điều hòa lưu thông tiền tệ trong hệ hóng ngân hàng" đã nêu rõ nguồn
cung ứng tiền tăng thêm mỗi năm sẽ được dựa trên các căn cứ sau đây:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm: Nghĩa là ở đây chúng ta vẫn thừa nhận mối liên
hệ thực tiếp giữa nhu cầu về tiền tệ với khối lượng hàng hóa dịch vụ trong lưu thông và
với mục đích bảo đảm cân đối tiền hàng, ngân hàng trung ương sẽ chủ động đưa tiền vào
lưu thông, phù hợp với nhu cầu của sản xuất và lưu thông hàng hóa.
- Chỉ số trượt giá của hàng hóa.
- Mức thâm hụt cán cân ngân sách.
- Mức thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế.
Hiện nay, trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ ngân hàng nhà nước Việt nam
đã từng bước vận dụng linh hoạt các công cụ như: Tỉ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín
dụng, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tín dụng...nhằm điều tiết cung - cầu tiền tệ. Việc làm
này đã đóng góp tích cực trong quá trình kìm giữ và đẩy lùi lạm phát ở nước ta trong

những năm qua.
4. Mức cung về tiền tệ
Xuất phát từ chức năng của ngân hàng Trung ương là độc quyền phát hành tiền vào
lưu thông nên việc cung ứng tiền vào lưu thông thường do ngân hàng trung ương đảm
nhiệm. Nói cách khác, quá trình điều tiết khối cung tiền tệ hoàn toàn quyết định thông
qua quá trình xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.
Ngân hàng trung ương mỗi nước đều thiết lập phép đo các khối tiền trong lưu
thông, như vậy vấn đề đặt ra là sẽ phải lựa chọn khối tiền nào; M1, M2 hay M3.. làm đối
tượng để xử lý cân đối cung cầu tiền tệ.
Vào những thập niên 70, 80 của thế kỷ XX nhiều nước đã chọn M1 làm đối tượng
xử lý, song trên thực tế bên cạnh các loại tiền trong kết cấu của M1 thì các tài sản tài
chính trong kết cấu khối M2 cũng đáp ứng khá kịp thời cho các quan hệ giao dịch trong
nền kinh tế. Từ đó, khuynh hướng phổ biến từ thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay đa số
ngân hàng trung ương các nước đều chọn M2 làm đối tượng để xử lý cung cầu tiền tệ.
Hàng năm trên cơ sở tính toán nhu cầu tiền trong lưu những biểu hiện qua các chỉ
tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng kinh tế, chỉ số trượt giá của nền kinh tế, mức thâm hụt
ngân sách nhà nước, thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế. ngân hàng trung ương sẽ lên kế
hoạch cung ứng tiền vào lưu thông qua các kênh chủ yếu là:
+ Kênh tín dụng
+ Kênh thị trường mở
+ Kênh thị trường hối đoái
+ Kênh ngân sách.
11


Qua các kênh trên, ngân hàng trung ương sẽ trực tiếp làm thay đổi bộ phận thiết yếu
của quá trình cung ứng tiền là cơ số tiền tệ (MB), cơ số tiền tệ còn được gọi là tiền có
quyền lực cao bao gồm: tổng số tiền mặt đang lưu hành cộng với tổng lượng tiền dự trữ
trong hệ thống ngân hàng. Và để biết được lượng tiền cung ứng thay đổi bao nhiêu đối
với một thay đổi đã cho của cơ số tiền tệ thì phải xác định biến số m gọi là Số nhân tiền.

Số nhân tiền phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: Tỉ lệ dự trữ bắt buộc, mức độ rò rỉ
tiền mặt từ ngân hàng ra lưu thông, tỉ lệ dự trữ quá mức tại các ngân hàng thương mại....
Vì vậy, số nhân tiền còn được gọi là bội số tiền gửi, nếu lượng tiền gửi gia tăng sẽ
góp phần mở rộng cơ số tiền tệ. Do đó, nếu gọi m là lượng tiền cung ứng thì mối liên hệ
giữa M với cơ số tiền tệ và số nhân tiền m là :
M = m x MB
Vấn đề điều tiết cung ứng tiền của ngân hàng TW luôn có quan hệ hữu cơ với điều
tiết kinh tế nhằm đạt mục tiêu kinh tế của chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn là cung
ứng tiền phù hợp để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
VII. LẠM PHÁT
7.1. Khái niệm
Lạm phát là sự tràn đầy các kênh lưu thông những tờ giấy bạc thừa, gây ra sự mất
giá đồng tiền và sự phân phối lại sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
Lạm phát ở Việt nam trong những năm 80 (thời kỳ khủng hoảng kinh tế): Năm
1986: 91,6%; năm 1987: 482,2%; năm 1988: 30,3%
Trong đời sống hàng ngày, lạm phát là một trong những vấn đề vĩ mô, đã trở thành
mối quan tâm lớn của các nhà chính trị và công chúng. Việc kiểm soát lạm phát như thế
nào là vấn đề hàng đầu trong cuộc tranh luận về chính sách kinh tế. Vậy lạm phát là gì?
Do đâu có lạm phát? Tại sao người ta lại quan tâm nhiều đến lạm phát? Chương này sẽ
giải đáp tất cả các câu hỏi đó.
I. Khái niệm, phân loại lạm phát
1.1. Khái niệm
Lạm phát đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà
kinh tế. Trong mỗi công trình của mình, các nhà kinh tế đã đưa ra các khái niệm khác
nhau về lạm phát, nhưng nói chung chưa có một sự thống nhất hoàn toàn có quan điểm
cho rằng lạm phát xảy ra khi số tiền lưu hành vượt quá dự trữ vàng làm đảm bảo của
ngân hàng phát hành. Cụ thể, người ta dựa vào tỷ lệ đảm bảo của tiền tệ để xem xét có
lạm phát hay không. Chẳng hạn, nếu pháp luật ấn định rằng tỷ lệ đảm bảo tối thiểu của
tiền tệ là 40%, khi tỷ lệ đó xuống dưới mức pháp định tức là ngân hàng đã phát hành tiền
quá mức. Quan điểm này quá coi trọng cơ sở đảm bảo của tiền tệ.

Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng giá của các loại hàng hoá. Lạm phát
xảy ra khi mức giá chung của giá cả và chi phí tăng. Theo quan điểm này thì giá cả tăng
lên cho dù bất cứ nguyên nhân nào đều gây ra lạm phát. Lạm phát và giá cả tăng đều
cùng một ý nghĩa. Thật ra giá cả đồng loạt tăng lên chỉ là một trong những biểu hiện cơ
bản của lạm phát mà thôi.
Vậy lạm phát là gì? lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu
cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hoá tăng lên
đồng loạt. Lạm phát có những đặc trưng cơ bản:
- Hiện tượng gia tăng quá mức của số lượng tiền có trong lưu thông dẫn đến đồng
tiền bị mất giá
- Mức giá cả chung tăng lên
12


Chính vì vậy, khi tính mức độ lạm phát, các nhà kinh tế sử dụng chỉ số giá cả. Chỉ
số giá cả thường được sử dụng nhất là chỉ số giá tiêu dùng (consumer price index – CPI)
Phân loại
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hoá, nên các nhà
kinh tế thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát.
- Lạm phát vừa phải
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng chậm ở mức độ một con số hàng
năm (dưới 10% một năm). Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát nước kiệu hay
lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc
tác để thúc đẩy nền kinh tế phát triển
- Lạm phát cao
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng ở mức độ hai con số hàng năm
(từ 10% - 100% một năm). Lạm phát cao còn được gọi là lạm phát phi mã. Thật ra, cũng
có một số nhà kinh tế cho rằng lạm phát phi mã bao gồm cả lạm phát ở mức độ ba con số
(như 100% - 200%...) Lạm phát phi mã gây nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã
hội

- Siêu lạm phát
Loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hoá tăng ở mức độ ba con số hàng năm trở
lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì tốt khi nền kinh tế
rơi vào tình trạng siêu lạm phát. Người ta thường ví siêu lạm phát như căn bệnh ung thư
gây chết người, có những tác hại rất lớn đến nền kinh tế - xã hội. Lịch sử lạm phát của
thế giới đã ghi nhận những tác hại của siêu lạm phát xảy ra ở Đức năm 1920 - 1923, ở
Nga sau mạng tháng 10, ở Trung Quốc sau thế chiến thứ hai...
II.Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
2.1. Lạm phát do cầu kẻo
Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức cầu
dẫn đến lạm phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu.
Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu hàng (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông
tiền tệ (V) tăng. Số lượng tiền tăng do nhiều yếu tố, trong đó quang trọng hơn hết và
thường xảy ra là do thiếu hụt ngân sách nhà nước. Số thiếu hụt này được tài trợ bằng
nhiều cách: phát hành trái phiếu, vay mượn ở nước ngoài và vay mượn ở ngân hàng trung
ương. Một khi ngân hàng trung ương tài trợ thâm hụt ngân sách nhà nước tức là NHTWƯ
đã trực tiếp làm tăng khối cung tiền. Vay mượn của nước ngoài cũng làm tăng khối tiền
tệ. Khối tiền tệ tăng làm cho tổng số chi trả tăng, do đó gây ra áp lực lạm phát.
Tốc độ lưu thông tiền tệ gia tăng chủ yếu là do hệ thống chính trị khủng hoảng, kinh
tế suy thoái làm cho lòng tin của dân chúng vào chế độ tiền tệ nhà nước bị xói mòn, từ đó
gây tâm lý chạy trốn đồng tiền mất giá.
2.2. Lạm phát do chi phí đẩy
Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố
sản xuất chưa được sử dụng đầy đủ, chúng ta gọi đó là lạm phát do chi phí đẩy.
Vấn đề đặt ra là tại sao khi chi phí tằng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương
tăng lên là một nguyên nhân đẩy chi phí tăng lên khi tốc độ tăng tiền lương cao hơn tốc
độ tăng năng suất lao động. Một số nhà kinh tế cho rằng việc đẩy chi phí tiền lương tăng
lên là do Công đoàn gây sức ép. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế khác lại cho rằng, chính.
Công đoàn lại đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm tốc độ tăng của lạm phát và
giữ cho lạm phát không gảm xuống quá nhanh vì các hợp đồng lương của công đoàn

13


thường là dài hạn và khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hàng về nhiên liệu, nguyên
vật liệu cơ bản cũng làm cho giá cả của nó tăng lên và đẩy chi phí sản xuất tăng lên dẫn
đến sức ép làm tăng giá bán
2.3. Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung.
Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công,
nguyên vật liệu... gần như đã được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung hàng hoá và dịch
vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng tắc nghẽn của thị
trường cũng làm giới hạn mức cung hàng hoá. Đó là tình trạng mất cân đối các yếu tố sản
xuất giữa các khu vực nhưng thị trường lại không tạo cơ chế điều phối có hiệu quả, khiến
cho khối lượng hàng hoá không đáp ứng tết nhu cầu tăng lên của thị trường. Hàng hoá
khan hiếm làm cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu.
III. TÁC động của lạm phát
1. Lạm phát và lãi suất
Từ thực tế diễn biến lạm phát của các nước trên thế giới, các nhà kinh tế cho rằng,
lạm phát cao và triền miên có ảnh hưởng xấu đến mọi mặt của đời sống kinh tế, chính trị
và xã hội của một quốc gia.
Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất
Để duy trì và ổn định sự hoạt động của mình, hệ thống ngân hàng luôn phải duy trì
tính hiệu quả của cả tài sản nợ và tài sản có của mình, tức là luôn luôn phải giữ cho lãi
suất thực ổn định. Ta biết rằng:
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát.
Do đó, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thực ổn định, lãi suất danh
nghĩa phải tăng lên cùng tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất danh nghĩa sẽ dẫn đến hậu quả
mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế và thất nghiệp gia tăng.
2. Lạm phát và thu nhập thực tế
Trong trường hợp thu nhập danh nghĩa không đổi, lạm phát xảy ra sẽ làm giảm thu
nhập thực tế của người lao đông.

Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thực của những tài sản không có lãi (tức là tiền
mặt) mà nó còn làm hao mòn giá trị của những tài sản có lãi, tức là làm giảm thu nhập
thực từ các khoản lãi, các khoản lợi tức.
3. Lạm phát và phân phối thu nhập không bình đẳng
Trong quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay, khi lạm phát.tăng cao,
người cho vay sẽ là người chịu thiệt và người đi vay sẽ là người được lợi. Điều này đã tạo
nên sự phân phối thu nhập không bình đẳng giữa người đi vay và người cho vay. Hơn thế
nữa, nó còn thúc đẩy những người kinh doanh tăng cường thu hút vốn tiền vay để đầu cơ
kiếm lợi. Do vậy, càng tăng thêm nhu cầu tiền vay trong nền kinh tế, đẩy lãi suất lên cao.
Lạm phát tăng cao còn khiến những người thừa tiền và giàu có, dùng tiền của mình
vơ vét và thu gom hàng hoá, tài sản, nạn đầu cơ xuất hiện, tình trạng này càng làm mất
cân đối nghiêm trọng quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá cũng
lên cơn sốt cao cuối cùng, những người dân nghèo càng trở nên khốn khó hơn. Họ thậm
chí không mua nổi những hàng hoá tiêu dùng thiết yếu, trong khi đó, những kẻ đầu cơ đã
vơ vét sạch hàng hoá và trở nên càng giàu có hơn. Tình trạng lạm phát như vậy sẽ có thể
gây nên những rối loạn trong nền kinh tế và tạo khoảng cách lớn về thu nhập, về mức
sống giữa người giàu và người nghèo.
4. Lạm phát và nợ quốc gia

14


Lạm phát cao làm cho Chính phủ được lợi do thuế thu nhập đánh vào người dân,
nhưng những khoản nợ nước ngoài sẽ trở nên trầm trọng hơn. Chính phủ được lợi trong
nước nhưng sẽ bị thiệt với nợ nước ngoài.
IV. Những biện pháp kiềm chế lạm phát
Ngày nay, trong thời đại lưu thông tiền giấy bất khả hoán, lạm phát hầu như là một
hiện tượng tất yếu ở các nước song chỉ khác nhau ở mức độ cao, thấp. Trải qua lịch sử
lạm phát hiện đại hầu như chưa có một nước nào có thể dập tắt hoàn toàn lạm phát, mà
chỉ có thể kiềm chế, kiểm soát lạm phát ở mức độ phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh

tế, giải quyết công ăn việc làm.
Các biện pháp kiềm chế lạm phát rất đa dạng; tuỳ theo điều kiện của mỗi quốc gia
mà có thể áp dụng những biện pháp khác nhau. Có thể chia các biện pháp kiềm chế lạm
pháp thành hai loại:
1. Những biện pháp cấp bách
Những biện pháp cấp bách còn được gọi là biện pháp tình thế. Áp dụng những biện
pháp này với mục đích giảm tức thời cơn sốt lạm phát để có cơ sở để áp dụng những biện
háp ổn định tiền tệ lâu dài.
Khi nền kinh tế xảy ra tình trạng lạm phát cao hoặc siêu lạm phát, để kiềm chế lạm
phát các nước thường áp dụng các biện pháp tình thế sau:
- Biện pháp về chính sách tài khoá
Áp dụng biện pháp về chính sách tài khoá có ý nghĩa quan trọng và then chốt vì
trong nhiều trường hợp ngân sách nhà nước bị thâm hụt là nguyên nhân chính của lạm
phát, do đó nếu dập tắt được nguyên ngân này thì tiền tệ sẽ được ổn định, lạm phát sẽ
được kiềm chế. Khi lạm phát tăng ở mức độ phi mã hoặc siêu tốc, nhà nước có thể thực
hiện các biện pháp như:
* Tiết kiệm triệt để trong chi tiêu ngân sách nhà nước, cắt giảm những khoản chi chưa
cấp bách.
* Tăng thuế trực thu, đặc biệt là đối với những cá nhân và doanh nghiệp có thu nhập cao,
chống thất thu thuế
* Sử dụng tín dụng nhà nước bằng cách vay nợ trong nước và vay nợ nước ngoài
- Biện pháp thắt chặt tiền tệ
Để góp phần giảm lượng tiền thừa trong lưu thông, nhà nước có thể thực hiện chính
sách siết chặt lượng cung tiền tệ bằng nhiều biện pháp khác nhau:
* Ngừng phát hành tiền lưu thông hay còn gọi là “đóng băng tiền tệ” Ngân hàng trung
ương tạm ngừng thực hiện các nghiệp vụ tái chiết khấu, tái cấp vốn, cho vay theo hồ sơ
tín dụng..đối với các tổ chức tín dụng. Ngay cả số bội chi của ngân sách nhà nước cũng
không được sử dụng vốn phát hành. Mục đích của biện pháp này là không cho tiền tăng
thêm trong lưu thông.
* Nâng cao lãi suất tín dụng

Lãi suất tiền gửi tăng, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm có tác dụng thu hút tiền mặt của
dân cư và doanh nghiệp vào ngân hàng một tai biến có thể xảy ra là nếu lãi suất tiền gửi
cao hơn lợi tức đầu tư thì các nhà kinh doanh sẽ không đầu tư cho sản xuất nữa mà tìm
cách đưa vốn của mình vào ngân hàng vì nó đưa tới lợi tức cao mà không chịu sức ép của
rủi ro lớn. Mặt khác, lãi suất cho vay tăng cũng làm giảm khả năng mở rộng tín dụng của
các ngân hàng.
Quản lý và hạn chế thật mạnh khả năng “tạo tiền” của các ngân hàng thương mại
bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
15


- Biện pháp kiềm chế giá cả
Để chống lại sự tăng giá của hàng hoá, nhà nước có thể thực hiện chính sách kiềm
giữ giá cả bằng nhiều biện pháp khác nhau như:
* Nhập hàng hoá của nước ngoài để bổ sung cho khối lượng hàng hoá trong nước tạo ra
một sự cân bằng giữa cung và cầu hàng hoá. Đây là biện pháp “chữa cháy” tuy rất hữu
hiệu trong việc chặn đứng sự khan hiếm hàng hoá, nhưng có nhiều mặt hạn chế.
* Nhà nước bán vàng và ngoại tệ nhằm thu hút tiền mặt trong lưu thông, ổn định giá
vàng, ổn định giá cả các mặt hàng khác.
* Quản lý thị trường, chống đầu cơ tích trữ
- Biện pháp đóng băng lương và đóng băng giá
Ở đây trước hết cần có sự cam kết của các lãnh tụ công đoàn chấp nhận đóng băng
lương vì việc tăng lương không giúp ích gì thực sự cho giới có đồng lương cố định, thông
thường sau khi tăng lương thì giá cả cũng tăng. Mặt khác, đại diện hiệp hội các chủ
doanh nghiệp cũng phải cam kết đóng băng giá. Thoả hiệp đó phải được nhà nước công
nhận và về phần mình nhà nước cam kết cố gắng hết sức giữa các yếu tố khác không diễn
biến xấu hơn như không làm tăng thêm số thiếu hụt của nhà nước. Cố gắng giảm thiểu số
thiếu hụt đó. Đạt được một sự thoả hiệp như vậy là một yếu tố rất quan trọng trong tiến
trình kiềm chế lạm phát.
- Biện pháp cải cách tiền tệ

Đây là biện pháp tình thế bắt buộc khi lạm phát ở mức độ cao mà việc vận dụng các
biện pháp trên không đưa lại kết quả mong muốn. Ở đây nhà nước huỷ hoặc thu hồi tiền
cũ, phát hành tiền mới để lập lại trật tự mới trong lưu thông tiền tệ.
2. Những biện pháp chiến lược
Đây là biện pháp nhằm tác động một cách đồng bộ lên mọi mặt hoạt động của nền
kinh tế, với ý tưởng tạo ra một sức mạnh về tiềm lực kinh tế của đất nước, tạo cơ sở để
ổn định tiền tệ vững chắc. Trong thực tiễn, những biện pháp thường được áp dụng là:
- Xây dụng và thực hiện chiến lược phát triển tinh tế - xã hội đúng đắn.
Do lưu thông hàng hoá là tiền đề của lưu thông tiền tệ nên nếu quỹ hàng hoá được
tạo ra có số lượng lớn, chất lượng cao, chủng loại phong phú thì đây là tiền đề vững chắc
nhất để ổn định lưu thông tiền tệ, nhằm huy động tốt các nguồn lực để phát triển kinh tế
cần xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn, trong đó cần
chú trọng điều chỉnh cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển ngành mũi nhọn xuất khẩu.
- Soát xét thường xuyên chính sách thu chi của nhà nước
Chính sách thu phải khai thác và quản lý chặt chẽ các nguồn thu, tăng cường thu
thuế chủ yếu dựa trên cơ sở mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu có hiệu
quả.
Ngân sách nhà nước phải đảm bảo tính hiệu quả và tiết kiệm. Thực hiện cân đối
ngân sách tích cực làm cơ sở cho các cân đối khác trong nền kinh tế.
- Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn toàn
Ở đây các nhà kinh tế chủ trương cần xoá bỏ mọi ngăn cản đối với hoạt động của
thị trường. Nếu quá trình cạnh tranh được nâng lên ở mức độ hoàn hảo thì giá cả sẽ có xu
hướng giảm xuống. Mặt khác, cạnh tranh thúc đẩy các nhà kinh doanh cải tiến kỹ thuật,
cải tiến quản lý, giảm được giá bán hàng hoá. Dùng lạm phát để chống lạm phát.
Đối với các quốc gia còn nhiều tiềm năng về lao động, đất đai, tài nguyên... nhà
nước có thể tăng chỉ số phát hành để chi phí cho việc mở rộng đầu tư và hy vọng các
công trình đầu tư này mang lại hiệu quả và góp phần kiềm chế lạm phát. Áp dụng biện
16



pháp này đòi hỏi phải có một tiềm lực mạnh về các yếu tố sản xuất, có trình độ khoa học
kỹ thuật tiên tiến, trình độ quản lý kinh tế cao thì mới có thể thành công được.

17


CHƯƠNG II
TÀI CHÍNH VÀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
( 6 TIÊT )
I. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÀI CHÍNH:
* Sự hình thành những quan hệ kinh tế là cơ sở của sự ra đời của hoạt động tài
chính
Trao đổi của cải vật chất trong đời sống xã hội giữa con người có mầm mống từ xã
hội nguyên thủy, có nghĩa là mặc dù trình độ và tính chất của những hình thức trao đổi ấy
như thế nào thì chúng đều là những quan hệ kinh tế đã xuất hiện cùng với sự xuất hiện và
phát triển của trao đổi.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự ra đời và phát triển của phân công lao động
xã hội làm hình thành và phát triển quan hệ phân phối sản phẩm.
Sự ra đời tiền tệ nhanh chóng trở thành cơ sở đo lường tất cả mọi hoạt động của nền
kinh tế, làm thước đo hữu hiệu trong mọi quan hệ trao đổi, phân phối của cải vật chất, tài
nguyên trong nền kinh tế. Sự ra đời của tiền thúc đẩy nhanh chóng mọi hoạt động giao
lưu kinh tế xã hội.
Tiền tệ trở thành thước đo giá trị trong mọi quan hệ kinh tế của sản xuất, phân phối
và tiêu dùng của cải vật chất, tài nguyên kinh tế đáp ứng yêu cầu của quá trình tích tụ tập
trung hóa sản xuất và do đó phạm trù tài chính ra đời và phát triển.
* Sự ra đời và phát triển của tài chính Nhà nước
Chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia thành giai cấp, nhà nước đầu tiên ra đời: Đó
là nhà nước của chế độ nô lệ. Nhà nước ra đời làm xuất hiện một cỗ máy chính trị với
đầy đủ cấu trúc thượng tầng chính trị, quân đội cảnh sát, nhà tù... nhằm duy trì quyền lực
và lợi ích của giai cấp thống trị, những tài nguyên của cải được tập trung vào giai cấp

thống trị bằng cống nộp, thuế khoá, quan hệ trao đối bất công... Hình thành nên hệ thống
những quan hệ kinh tế giữa giai cấp thống trị mà đại diện là nhà nước với các tầng lớp
nhân dân lao động và những quan hệ kinh tế giữa các nhà nước đại diện cho các quốc gia.
Quá trình này làm xuất hiện tài chính Nhà nước.
* Tài chính là gì?
Là hệ thống những mối quan hệ giữa các thực thể tài chính, phát sinh trong quá
trình hình thành phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm thu được lợi
nhuận, đáp ứng nhu cầu xã hội khác, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
*Tài chính là một phạm trù kinh tế, ra đời, phát triển gắn liền với sự ra đời phát triển
của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ.
- Quan hệ kinh tế: Là những quan hệ trong quá trình sản xuất, phân phối trao đổi và tiêu
dùng của cải vật chất, tài nguyên.
- Những thực thể tài chính: Là những tổ chức kinh tế xã hội, các cá nhân thành viên xã
hội, Chính phủ đại diện Nhà nước . . . tham gia vào những quan hệ sản xuất lưu thông
phân phối và tiêu dùng của cải vật chất (tài nguyên kinh tế) trong nền kinh tế thị trường.
- Những nguồn lực tài chính: Quá trình tái sản xuất mở rộng không ngừng của nền kinh
tế, tài nguyên kinh tế luôn vận động, chuyển hoá giữa các lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng,
với không gian và thời gian khác nhau giữa các thực thể tài chính. Tiền tệ với thức do giá
trị là phương tiện đắc lực nhất cho sự vận động và chuyển hoá những tài nguyên kinh tế
này, tạo ra hệ thống những mối quan hệ kinh tế. Những tài nguyên kinh tế này được gọi
18


là những nguồn lực tài chính thể hiện dưới dạng tiền tê, của cải xã hội, tài sản quốc gia,
tổng sản phẩm quốc dân, nguồn nhân lực . . . tồn tại dưới dạng vật chất, tiềm năng luân
chuyển theo những kênh khác nhau trong nền kinh tế xã hội.
* Đặc trưng cơ bản của tài chính
- Tài chính không phải là tiền, nhưng nhờ chức năng thước đo giá trị mà tiền trở
thành phương tiện của các thực thể tài chính trong các quan hệ kinh tế mà nhờ đó những
dòng nguồn lực tài chính vận động được thuận lợi.

- Tài chính không phải là sản phẩm của Nhà nước mà là sản phẩm của sự phát triển
của lịch sử nhân loại gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ và thị
trường.
- Tài chính gồm hệ thống những quan hệ kinh tế trong phân phối những nguồn lực
tài chính của quá trình tái sản xuất kinh tế xã hội, phản ánh những quan hệ lợi ích kinh tế
giữa người với người trong quá trình phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính .
- Tài chính là một khoa học độc lập về các quy luật và tính quy luật của sự vận động
trong quá trình tạo lập, sử dụng các nguồn lực sản xuất, về sự lựa chọn giữa nhu cầu của
thị trường, của xã hội của con người và khả năng cho phép để đưa ra các quyết định sử
dụng những nguồn lực vào hoạt động sản xuất kinh doanh tiết kiêm hiệu quả.
- Là công cụ thực hiện chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước.
* Đối tượng nghiên cứu của môn khoa học tài chính:
- Đối tương nghiên cứu của tài chính không phải là tiền, mà là những quan hệ kinh tế
trong qua trình hình thành, phân phối và sử dụng những nguồn lực tài chính vào tái sản
xuất nền kinh tế xã hội. Nghiên cứu những quy luật và tính quy luật của quá trình hình
thành, tập trung, phân phối và sử dụng những tài nguyên kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu
quá trình tái sản xuất nền kinh tế và những nhu cầu khác của xã hội, với mục đích tối đa
hóa lợi nhuận, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế xã hội.
II. NHỮNG CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH
2.1. Chức năng phân phối.
Chức năng phân phối của tài chính biểu hiện bản chất của phạm trù tài chính và
được vận dụng vào đời sống kinh tế xã hội để phân phối của cải vật chất thông qua tiền tệ
Phân phối của tài chính là sự phân chia các nguồn tài chính mà chủ yếu là tổng sản
phẩm quốc dân theo những tỷ lệ và xu hướng nhất định cho tiết kiệm và tiêu dùng
nhằm tích tụ, tập trung vốn để đầu tư phát triển kinh tế và thỏa mãn các nhu cầu
chung của nhà nước, xã hội và dân cư.
Đối tượng phân phối của tài chính là các nguồn tài chính mà chủ yếu là tổng sản
phẩm quốc dân (GNP). Quá trình phân phối của tài chính chỉ diễn ra dưới hình thức giá
trị và luôn luôn gắn liền với việc hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế.
* Quy trình phân phối của tài chính .

Phân phối của tài chính bao gồm quá trình phân phối lần đầu và quá trình phân phối
lại, trong đó phân phối lại là chủ yếu.
Phân phối lần đầu sản phẩm xã hội: Là sự phân phối được tiến hành trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh và dịch vụ cho những chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo ra của cải
vật chất hay thực hiện các dịch vụ, phân phối lần đầu nguồn tài chính được tạo ra trong
khu vực kinh doanh hình thành những bộ phận của các quỹ tiền tệ như sau:

19


- Phần bù đắp những chi phí vật chất đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh
doanh. Phần này hình thành quỹ khấu hao tài sản cố định và quỹ bù đắp vốn lưu động đã
ứng ra.
- Phần hình thành quỹ tiền lương để trả lương, tiền công cho người lao động.
- Phần đóng góp vào việc hình thành các quỹ bảo hiểm: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm
thương mại.
- Một phần là thu nhập cho các chủ sở hữu và vốn hay nguồn tài nguyên.
Như vậy, kết quả phân phối lần đầu các nguồn tài chính của xã hội dưới hình thức
giá trị mới chỉ hình thành nên những phần thu nhập cơ bản của các chủ thể, hình thành
các khoản thu cho các quỹ tiền tệ. Dừng lại ở đó chưa thể đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của
toàn xã hội. Do đó, nảy sinh yêu cầu khách quan của xã hội đối với tái phân phối.
* Phân phối lại là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản được hình thành trong
phân phối lần đầu ra phạm vi toàn xã hội để đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu dùng của
các chủ thể trong xã hội.
Phân phối lại được thực hiện bằng 2 phương pháp:
- Huy động, tập trung một phần thu nhập của các tổ chức và dân cư vào các quỹ tiền
tệ dưới các hình thức: thuế, các khoản vốn nhàn rỗi gửi vào hệ thống tín dụng ngân hàng,
mua các loại bảo hiểm phí, các loại cổ phiếu, trái phiếu và các loại giấy tờ có giá.
- Sử dụng các quỹ tiền tệ của các chủ thể trong xã hội.
* Khi vận dụng chức năng phân phối của tài chính vào thực tiễn để phân phối các nguồn

tài chính đòi hỏi phải đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau đây:
- Trước hết phân phối của tài chính phải xác định quy mô, tỷ trọng của đầu tư trong
tổng sản phẩm quốc dân phù hợp với khả năng và sự tăng trưởng kinh tế ở mỗi thời kỳ
nhất định.
- Phân phối vốn của tài chính phải đảm bảo giải quyết mối quan hệ giữa tiết kiệm,
đầu tư và tiêu dùng.
- Phân phối của tài chính phải giải quyết thỏa đáng các quan hệ về lợi ích kinh tế
của những chủ thể tham gia phân phối.
2.2.Chức năng giám đốc của tài chính.
* Giám đốc của tài chính
Chức năng giám đốc của tài chính bắt nguồn từ sự cần thiết khách quan phải theo
dõi, kiểm soát tiến trình thực hiện các quan hệ tài chính trong phân phối các nguồn tài
chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
Chức năng giám đốc của tài chính được thực hiện dựa vào sự vận động của tiền tệ
trong nền kinh tế quốc dân để kiểm tra việc phân phối các nguồn tài chính và tạo lập, sử
dụng các quỹ tiền tệ, được thực hiện thông qua sự vận động của tiền vốn nhưng không
phải với tất cả các chức năng của tiền tệ mà chỉ sử dụng chức năng thước đo giá trị và
phương tiện trao đổi của đồng tiền.
- Sử dụng chức năng thước đo giá trị của tiền tệ để kiểm tra sự ăn khớp giữa giá trị
với mức độ tiêu dùng và với mức độ lao động.
- Sử dụng chức năng tiền tệ là phương tiện trao đổi khi thực hiện các nghĩa vụ tài
chính, thực hiện các hợp đồng kinh tế cho mục đích xác định. Sự vận động thực tế của
tiền vốn được chuyển từ người có nghĩa vụ thanh toán đến người nhận.

20


Giám đốc bằng đồng tiền của tài chính được thực hiện không những đối với sự vận
động của các nguồn tài chính mà còn đối với sự vận động của các quỹ hiện vật và lao
động.

Như vậy, đối tượng giám đốc của tài chính là giám đốc phân phối các nguồn tài
chính trong xã hội, giám đốc việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ ở tất cả
các khâu của hệ thống tài chính.
Đặc điểm giám đốc tài chính là giám đốc bằng đồng tiền đối với các hoạt động tài
chính. Ở đâu có sự vận động của tiền tệ thuộc phạm trù tài chính thì ở đó có giám đốc tài
chính.
Mục đích của giám đốc tài chính nhằm thúc đẩy phân phối các nguồn tài chính của
xã hội cân đối và hợp lý, phù hợp với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ theo mục
đích đã định với hiệu quả cao, thúc đẩy chấp hành tết luật tài chính.
Chức năng giám đốc của tài chính có hai khía cạnh:
- Thực hiện việc kiểm tra các mặt hoạt động tài chính - mặt kiểm tra kiểm soát thuần túy
của tài chính. Cho chúng ta nắm được một cách tổng quát kết quả thực tế của hoạt động
tài chính cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả này trong một thời gian nhất
định.
- Trên cơ sở thực hiện kiểm tra các mặt hoạt động của tài chính, đặc biệt trên cơ sở phân
tích tài chính và thẩm tra tài chính cho phép đề ra những biện pháp cải tiến các hoạt động
tài chính trong thời gian tiếp theo và như vậy sẽ tạo tiền đề cho quá trình phân phối sau
diễn ra tết hơn, phù hợp với các quy luật và đáp ứng yêu cầu xã hội.
Chức năng giám đốc tài chính không phải là một sắc lệnh hay pháp lệnh được ấn
định từ trên đưa xuống và phải thực hiện, tức không xuất phát từ ý thức chủ quan của con
người. Đây là chức năng vốn có tồn tại trong phạm trù tài chính và chức năng này phát
huy tác dụng khi được con người vận dụng trong thực tiễn.
III. HỆ THỐNG TÀI CHÍNH .
3.1. Hệ thống tài chính
Hệ thống tài chính gồm những khâu tài chính trong những lĩnh vực khác nhau, có
mối liên hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập phân phối và sử dụng các nguồn lực
tài chính. Là một bộ phận của hệ thống tài chính mỗi khâu tài chính phải được thỏa mãn
các điều kiện:
- Gắn liền với sự vận động của các luồng tiền tệ để hình thành các tụ điểm tài chính
và luôn luôn gắn với sự hình thành các quỹ tiền tệ tương ứng.

- Thể hiện tính đồng nhất về hình thức các quan hệ tài chính và tính mục đích của
quỹ tiền tệ trong những lĩnh vực hoạt động.
- Gắn với sự hoạt động của các chủ thể phân phối, điều hành tổ chức quản lý nhất
định.
3.2. Cấu trúc của hệ thống tài chính .
Cấu thành hệ thống tài chính trong cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam bao gồm các
khâu: tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính hộ gia đình và và các tổ chức
xã hội. Hệ thống tài chính được khái quát hóa bằng sơ đồ sau đây:
HỆ THỐNG TÀI CHÍNH

21


Tài
chính
nhà
nước

TC
Doanh
nghiệp

TC
Quốc tế

TC tư
và hộ
gia
đình


TC các
tổ chức
xã hội

*Tài chính Nhà nước
Tài chính nhà nước gồm các hoạt động kinh tế tài chính gắn liền với các chức năng
của nhà nước, là bộ phận tài chính tập trung với hạt nhân là quỹ NSNN
- Chức năng
a) Phân phối nguồn lực tài chính trong nền kinh tế
Cung cấp những nguồn lực tài chính để thỏa mãn những yêu cầu về hàng hóa dịch
vụ công cộng mà những khu vực tài chính khác không thể đáp ửng được, nhằm tạo ra sự
cân bằng về hàng hóa dịch vụ giữa các khu vực kinh tế và tạo ra sự phối hợp hài hòa
trong việc phân bố những nguồn vốn của nền kinh tế.
b) Điều chỉnh thu nhập
Tài chính nhà nước sử dụng những cơ chế chính sách vĩ mô, những công cụ phân
phối lần đầu và phân phối lại để thực hiện điều chỉnh những mặt mất công bằng trong
phân phối thu nhập của nền kinh tế xã hội .
c) Ổn định kinh tế vĩ mô
Tài chính nhà nước sử dụng những cơ chế chính sách vĩ mô, những công cụ điều
tiết vĩ mô như chính sách thuế, chính sách ngân sách, chính sách tín dụng ngân hàng
v.v.v , thiết lập môi trường kinh doanh, cơ chế thị trường vận hành có hiệu quả đảm bảo
sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế xã hội.
- Hệ thống tài chính
+ Ngân sách Nhà nước
+ Hệ thống thuế
+ Tài chính các tổ chức kinh tế nhà nước và dịch vụ công cộng.
* Tài chính doanh nghiệp
+ Tài chính doanh nghiệp là gì: Gồm những quan hệ kinh tế vận hành theo cơ chế
kinh doanh và dịch vụ, đáp ứng yêu cầu nguồn lực tài chính cho quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ của doanh nghiệp, nhu cầu của Nhà nước và nhu cầu khác của

xã hội.
+ Vai trò: Là tụ điểm tích tụ và tập trung những nguồn lực tài chính gắn với sản xuất sản
phẩm và cung ứng dịch vụ xã hội. Là cơ sở hình thành những nguồn lực tài chính của nền
kinh tế, nền tảng của nền tài chính quốc gia.
* Tài chính khu vực tài chính
+ Tài chính khu vực tài chính là gì: Là tài chính thuộc các trung gian tài chính:
Gồm các ngân hàng thương mại, công ty tài chính, các HTX tín dụng, công ty bảo
hiểm các tổ chức môi giới . . .
+ Chức năng của tài chính khu vực tài chính
- Tập trung những nguồn lực tài chính nhàn rỗi tạm thời của tất cả các tổ chức cá
nhân mọi thành viên trong xã hội đưa vào đầu tư cho nền kinh tế.
- Thực hiện các chức năng của tài chính .
+ Vai trò của tài chính khu vực tài chính

22


Là khâu quan trọng của hệ thống tài chính, cầu nối cung cầu về nguồn lực tài chính
giữa các thực thể tài chính với nhau và với thị trường tài chính
* Tài chính khu vực tư nhân và các hộ gia đình
- Tài chính tư
Là tài chính gắn với các hoạt động kinh doanh, dịch vụ của các doanh nghiệp tư
nhân, các cá nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần .
- Chức năng của tài chính tư
Tạo lập và sinh lời vốn. Được hình thành từ các nguồn thu nhập khác nhau sử dụng
cho mục đích tiêu dùng đời sống sinh hoạt, sinh lời qua đầu tư hoạt động kinh doanh,
hoạt động tài chính .
- Vai trò của tài chính tư
Là tụ điểm vốn quan trọng, nguồn tài trợ quan trọng cho ngân sách nhà nước, cung
ứng vốn cho nền kinh tế.

* Tài chính các tổ chức xã hội
- Tài chính các tổ chức xã hội là gì
Là những quan hệ kinh tế trong việc hình thành phân phối và sử dụng những nguồn
lực tài chính thuộc các nhóm tổ chức xã hội nhằm mục đích phục vụ lợi ích của những
thành viên trong tổ chức .
- Vai trò của tài chính các tổ chức xã hội
Là một kênh tích tụ và tập trung vốn quan trọng góp phần quan trọng vào hoạt động
của hệ thống tài chính. Nguồn vốn hình thành chủ yếu từ các nguồn kinh phí đóng góp
của các hội viên, một số từ hỗ trợ ngân sách nhà nước,
IV. VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯƠNG .
4.1. Công cụ phân phối sản phẩm quốc dân (GNP)
- Xác định quy mô,tỷ trọng của đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân cho phù hợp
với khả năng và sự tăng trưởng kinh tế ở mỗi thời kỳ nhất định
Nhà nước tiến hành thông qua các chính sách, các công cụ tài chính theo hướng: ưu
tiên cho tích lũy để ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội. Chi tiêu từ tích lũy của Nhà
nước chủ yếu vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội, dự trữ nhà nước.
- Giải quyết các quan hệ lợi ích kinh tế của những chủ thể tham gia phân phối
+ Thông qua công cụ tài chính thực hiện phân phối theo lao động, theo lượng vốn
đóng góp, hình thành thu nhập của các cá nhân thành viên trong xã hội.
+ Bảo đảm duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước, an ninh quốc phòng .
- Giải quyết quan hệ cân đối nền kinh tế quốc dân và từng ngành
+ Bảo đảm cung cấp các nguồn lực thỏa mãn nhu cầu hàng hóa công cộng mà
những lĩnh vực khác không thể đáp ứng.
- Tạo lập và chu chuyển nguồn vốn, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất xã hội
thuận lợi.
+ Nhà nước phân phối những nguồn lực tài chính cho sự phát triển nền kinh tế.
- Giải quyết quan hệ cân đối NSNN với cán cân xuất nhập khẩu..
+ Thông qua thực hiện các chức năng của tài chính Nhà nước.
- Công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
4.2. Mục tiêu can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường.

- Khắc phục những khuyết tật vốn có của cơ chế thị trường .
- Sử dụng mặt tích cực của thị trường giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội của đất
nước.
23


+ Tăng trưởng kinh tế.
+ Giải quyết việc làm
+ Kiềm chế lạm phát .
+ Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
4.3. Các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
- Pháp luật .
- Kế hoạch
- Các công cụ hành chính
- Các công cụ tài chính

CHƯƠNG III
TÀI CHÍNH CÔNG
( 10 TIẾT )
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH CÔNG
1.1. Khái niệm
Tài chính là một phạm trù kinh tế, sự ra đời và tồn tại của tài chính gắn liền với sự
ra đời và tồn tại của nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ. Còn tài chính nhà nước ra đời và tồn
tại gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ và nhà nước. Đối
với tài chính nhà nước cổ điển, nó được xem là một phạm trù lịch sử, còn tài chính nhà
nước hiện đại là một phạm trù kinh tế đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử. Bởi lẽ
cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa - tiền tệ, tài chính nhà nước đã tham gia
vào quản lý nền kinh tế. Tức là nhà nước đã tận dụng phạm trù tài chính để điều hành nền
kinh tế, thúc đẩy kinh tế đất nước phát triển.
Tài chính nhà nước bao gồm các bộ phận:

- Ngân sách nhà nước.
- Ngân sách nhà nước trung ương.
- Dự trữ nhà nước.
- Tài chính các cơ quan hành chính nhà nước.
- Tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước.
- Tài chính các doanh nghiệp nhà nước.
Tài chính công là một bộ phận và là bộ phận quan trọng nhất của tài chính nhà
nước. Nói cách khác tài chính công là bộ phận tài chính nhà nước gắn liền với các hoạt
động thuộc chức năng quản lý, điều hành và phục vụ của nhà nước.
Trong số các nội dung nêu trên, tài chính công bao quát toàn bộ các bộ phận cấu
thành của tài chính nhà nước, chỉ trừ tài chính doanh ngghiệp nhà nước. Tài chính công
khác với tài chính nhà nước ở hai điểm sau:
- Tài chính công không gắn liền với các hoạt động mang tính kinh doanh thu lợi
nhuận, tài chính nhà nước bao gồm cả các hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận của các
doanh nghiệp nhà nước.
24


- Tài chính công gắn với nhiệm vụ chi tiêu phục vụ thực hiện các chức năng vốn có
của nhà nước. Tài chính nhà nước không chỉ phục vụ các chức năng của nhà nước mà
còn bao gồm các hoạt động chi tiêu phục vụ việc cung ứng những hàng hóa và dịch vụ
thông thường tại các doanh nghiệp nhà nước.
Từ việc phân tích trên, có thể rút ra khái niệm về tài chính công như sau:
Tài chính công: là thuật ngữ dùng để chỉ “các hoạt động thu, chi bằng tiền của nhà
nước, phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình
thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước nhằm phục vụ việc thực hiện các chức
năng vốn có (không nhằm mục tiêu thu lợi nhuận) của nhà nước đối với xã hội.
Khái niệm trên chỉ ra rằng:
- Xét về tính chất, tài chính công là những quan hệ tài chính gắn với sở hữu tài sản
công; xét về nội dung vật chất là những quỹ tiền tệ thể hiện tài sản công.

- Các quỹ tiền tệ thuộc tài chính công rất đa dạng, phong phú, trong đó quan trọng
nhất là các quỹ của nhà nước; bên cạnh đó còn có các quỹ của các tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội, các tổ chức tôn giáo tín ngưỡng, các quỹ của người lao động đóng
góp, các quỹ của các pháp nhân và thể nhân đóng góp...
- Các quỹ đó phục vụ cho lợi ích chung ở phạm vi lớn nhỏ khác nhau, nhưng không
bao giờ vì lợi ích tư riêng của một cá nhân, một tư nhân.
Khi xây dựng khái niệm tài chính công, phải dựa trên tổng thể các tiêu thức cấu
thành tài chính công (từ việc phải xuất phát từ khái niệm tài chính để phân biệt tài chính
với tín dụng đến việc nhận thức đầy đủ các mặt ngữ nghĩa của thuật ngữ "công" trong tài
chính công).
Như vậy, tài chính công trước hết là tài chính và là tài chính của nhà nước, của các
cấp chính quyền địa phương, của các đơn vị tổ chức công như hệ thống bảo hiểm và an
sinh xã hội, các đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp ở trung ương và địa phương. Tài
chính công phản ánh các quan hệ kinh tế - tiền tệ phát sinh trong quá trình hình thành và
sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung của các chủ thể công - khác biệt với tài chính của các
chủ thể là cá nhân, hộ gia đình, hoặc doanh nghiệp - Tài chính công phục vụ các hoạt
động vì lợi ích cộng đồng và chịu sự điều chỉnh của hệ " luật công". Hoạt động tài chính
công là hoạt động tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ gắn liền với các chủ thể công mà
trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận cấu thành quan trọng nhất.
Khái niệm luật công và luật tư mới được hình thành và chưa thông dụng ở nước ta.
Trong các nước công nghiệp phát triển, tất cả các loại hình doanh nghiệp khi tổ chức hoạt
động kinh doanh kiếm lời đều thuộc phạm vi điều chỉnh của luật tư "(Ví dụ như luật
doanh nghiệp, luật kinh doanh chứng khoán, luật ngân hành tín dụng...). Các hoạt động
của nhà nước trung ương, của các cấp chính quyền địa phương, của các tổ chức xã hội,
tập thể...mà không vì mục đích tìm kiếm lợi nhuận, vì lợi ích chung của cộng đồng, thuộc
sở hữu của nhà nước, của chính quyền, của cộng đồng, ảnh hưởng đến quyền lợi của
công chúng thì thuộc phạm vi điều chỉnh của hệ luật công".
1.2.Vai trò của tài chính công
Tài chính công là công cụ để nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ quản lý và
điều hành đất nước. Do vậy có các chức năng sau:

- Thứ nhất, vai trò tài chính công trong huy động nguồn lực tài chính để đảm bảo
tăng trưởng kinh tế thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế hiện vật, vai trò tài chính nói chung,
tài chính công nói riêng không được phát huy, nguồn tài chính của ngân sách nhà nước
25


×