Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

RÈN tư DUY PHẢN BIỆN CHO học SINH GIỎI văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (394.19 KB, 14 trang )

MÔN VĂN

M C

M

ỂM V

C UYÊN Ề T AM G A TRẠ È ÙNG VƯƠNG
MÔN NGỮ VĂN
TÊN C UYÊN Ề "RÈN TƯ DUY PHẢN BIỆN CHO HỌC
SINH GIỎI VĂN"

Năm học 2 4 - 2015

1


A. Mở đầu
Trong cuộc sống hội nhập và phát triển hôm nay của đất nước, bản thân
mỗi người phải đối mặt với rất nhiều vấn đề. Một trong những vấn đề quan trọng
đó là tiếp nhận và xử lí thông tin. Xã hội ngày càng phát triển thì lượng thông
tin càng lớn, mỗi người trong chúng ta hằng ngày phải tiếp nhận một khối lượng
thông tin khác nhau, trong đó không ít thông tin thiếu chính xác và gây nhiễu.
Trước vấn đề này, bản thân mỗi chúng ta phải biết trang bị cho mình các kĩ năng
tư duy cần thiết để biết cách tiếp cận vấn đề trên nhiều phương diện, khả năng
suy nghĩ thấu đáo, thực tế và sâu sắc, góp phần tạo ra những thay đổi tích cực
trong suy nghĩ và hành động. Kĩ năng tư duy phản biện là một kĩ năng quan
trọng giúp chúng ta khám phá những khía cạnh khác nhau của vấn đề, biết hoài
nghi và đặt câu hỏi về mọi sự vật hiện tượng xung quanh mình, sự phản biện
chính là động lực và con đường giúp chúng ta tìm ra chân lí. Đứng trước thực tế


này, trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo học sinh cũng đã có những chuyển biến
tích cực và phù hợp nhằm phát huy tối đa năng lực của người học. Đặc biệt đối
việc ra đề và kiểm tra đánh giá theo hướng mở, đòi hỏi học sinh phải tự biết bày
tỏ suy nghĩ, đáng giá của mình về mọi vấn đề trong cuộc sống, từ đó có nhận
thức và hành động phù hợp đối với xã hội. Riêng đối với bộ môn Ngữ văn, việc
ra đề mở không chỉ cần thiết đối với học sinh nói chung mà còn có ý nghĩa quan
trọng đối với học sinh giỏi văn. Để làm tốt các đề mở thuộc dạng đề nghị luận
văn học và nghị luận xã hội một cách có hiệu quả, ngoài các kĩ năng làm văn
cần thiết, quen thuộc; các em cần phải trang bị thêm cho mình kĩ năng tư duy
phản biện để không thụ động trong tiếp nhận ý kiến, không dễ dàng thỏa hiệp
với những luồng quan điểm khác nhau. Biết suy nghĩ toàn diện, nhiều chiều, biết
bày tỏ những quan điểm, suy nghĩ riêng về các vấn đề của đời sống xã hội hay
trong văn học. Từ đó, các em sẽ biết cách đưa ra và bảo vệ những kết luận hợp
lí và toàn diện của riêng mình, thuyết phục người đọc, người nghe.

B. Nội dung
1 Xu hướng ra đề theo hướng mới
Hiện nay xu hướng ra đề theo hướng mới là ra đề mở. Thế nào là một “đề
mở”?. Có thể hiểu đó là loại đề văn mà nội dung chỉ nêu ra vấn đề cần bàn luận
trong bài nghị luận hoặc chỉ nêu đề tài để viết văn bản tự sự, miêu tả..., không
nêu mệnh lệnh cụ thể về thao tác lập luận như "hãy chứng minh, hãy giải thích,
hãy phân tích..." hoặc về phương thức biểu đạt như "hãy kể, hãy tả, hãy phát
biểu cảm nghĩ...". Cũng có dạng đề mở theo hướng nêu ra một gợi dẫn, HS sẽ
tiếp tục phát triển theo các mạch cảm nhận và suy nghĩ riêng của mỗi cá
nhân. Đề mở khác với loại đề theo truyền thống, thường có đầy đủ các yếu tố, từ
lời dẫn đến yêu cầu về nội dung, thao tác cụ thể (trước đây gọi là kiểu bài),
nguồn tư liệu cần huy động. Đề mở còn có thể được thể hiện ở những câu hỏi
mở, những câu hỏi có thể chấp nhận nhiều cách trả lời, thậm chí có những câu
2



trả lời đối ngược nhau miễn là học sinh bộc lộ được nhận thức và lập luận lôgic
trong quá trình đi đến câu trả lời. Làm văn trong nhà trường là hình thức để học
sinh luyện tập viết các văn bản theo một chương trình định sẵn. Để học sinh
luyện tập làm văn thầy cô giáo phải ra các đề văn. Đề văn có tác dụng dịnh
hướng tư tưởng, tư duy, quy định phạm vi vấn đề, tri thức, giới hạn tư liệu, thao
tác lập luận và cũng có tác dụng gây hứng thú viết văn đối với học sinh nữa. Đề
văn hay gây hứng thú cho học sinh, đề văn khô khan, cứng nhắc có thể gây ức
chế hứng thú của người làm văn. Đề mở là loại đề có khả năng tạo không gian
thoáng cho học sinh suy nghĩ.
Trước đây trong dạy học làm văn giáo viên thường ra đề văn hạn định,
trong đó bao giờ cũng có một phạm vi vấn đề, tri thức và một yêu cầu dưới hình
thức mệnh lệnh. Đặc điểm của đề văn đó là hướng dẫn học sinh suy nghĩ và viết
về một vấn đề cụ thể, vận dụng một số thao tác, huy động một phạm vi kiến thức
nhất định. Đặc điểm thứ hai là giáo viên có thể quy định một đáp án để dùng cho
tất cả học sinh cùng làm một đề. Nhược điểm của nó là tính chất bắt buộc, gò
bó, khả năng lựa chọn dành cho học sinh ít, chưa tạo cơ hội cho học sinh chủ
động lựa chọn phương án và hào hứng làm văn.
Đề mở có tác dụng cho học sinh được tự mình chủ động lựa chọn, gây hứng
thú, phát huy sở trường và cá tính của học sinh, nhưng không có nghĩa là loại đề
hạn định không còn ý nghĩa nữa. Trong nhiều trường hợp loại đề đó có tác dụng
luyện tập thao tác làm việc cho học sinh trong kiểu bài cụ thể. Đề mở có ý nghĩa
và tác dụng trong các kì thi cuối năm, thi chuyển cấp, thi tốt nghiệp, thi đại học.
Loại đề này có tác dụng thử tài tư duy sáng tạo, phân hóa khả năng ứng phó linh
hoạt của học sinh.
Để học sinh làm được bài văn theo đề mở người giáo viên phải nghiên cứu,
tập ra đề, trao đổi tập thể, thử các khả năng thực hiện đề mở, có biện pháp dạy
học sinh làm quen, làm thử thì học sinh mới làm được. Đề mở đòi hỏi học sinh
ngay trong khâu tìm hiểu đề đã phải tư duy nhiều, phải đọc hiểu đề, tìm ra các ý
nghĩa ẩn chìm trong các đề tài và tài liệu mới có khả năng đề ra chủ đề và đặt

nhan đề cho bài làm văn. Đặt nhan đề có nghĩa là xác định chủ đề cho mình và
tự viết bài để thể hiện chủ đề ấy. Đề mở không phải là loại đề dễ làm hơn so với
đề hạn định, mà phần nào còn khó hơn, vì bản thân sự lựa chọn là khó hơn việc
học sinh không cần lựa chọn gì cả, cứ làm theo lệnh, chỉ đâu đánh đó. Đối với
các học sinh quen học thụ động thì khi tự mình phải lựa chọn là đã cảm thấy
khó. Cho nên đề mở đòi hỏi học sinh vượt qua tính thụ động của mình trong làm
văn, và khi đã quen thì học sinh sẽ trở nên một con người khác, luôn luôn chủ
động. Đề mở là một hướng tiến bộ trong dạy học làm văn, những vẫn đang là
một vấn đề mới, chưa được nghiên cứu sâu, còn có những khía cạnh chưa rõ,
phải qua thực tiễn thì mới nhìn thấy hết được. Vấn đề này đòi hỏi các giáo viên
nghiên cứu, suy nghĩ, nhìn thấy chỗ mạnh, chỗ khó, thậm chí chỗ yếu của nó,
nghiên cứu phương pháp dạy học phù hợp thì phương hướng này mới phát huy
được tác dụng tích cực của nó. Một trong những kĩ năng cần thiết để rèn luyện
cho học sinh hiện nay có thể làm tốt các đề mở là kĩ năng tư duy phản biện.
3


2. Tầm quan trọng của kĩ năng tư duy phản biện
Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và
đánh giá một thông tin đã có theo một cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm
làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải
rõ ràng, lôgíc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm. Tư duy phản biện không
đơn thuần chỉ là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động. Đó có thể tóm tắt là
quá trình tư duy tìm lập luận phản bác lại kết quả của một quá trình tư duy khác
để xác định lại tính chính xác của thông tin. Vì vậy việc hình thành cho học sinh
tư duy phản biện là hết sức cần thiết với những lợi ích quan trọng như sau:
Thứ nhất, tư duy phản biện giúp học sinh vượt ra khỏi cách suy nghĩ theo
khuôn mẫu, thói quen, truyền thống có sẵn. Với tinh thần phản biện, học sinh sẽ
vượt khỏi những quan niệm truyền thống, thoát ra khỏi những rào cản của định
kiến trong suy nghĩ, nỗ lực tìm cách tiếp cận cái mới. Học sinh sẽ tập trung tìm

hiểu những ý tưởng mới hoặc tìm cách phát hiện những giá trị mới của vấn đề
tưởng như đã là muôn thủa, cũ kỹ. Từ đó, có tâm thế sẵn sàng đón nhận cái mới,
cái tiến bộ trong suy nghĩ, trong cuộc sống. Khi có ý thức rõ ràng trong việc phải
nhìn nhận mọi vấn đề dưới góc nhìn mới, chắc chắn sẽ đưa lại những kết quả
khác, mới lạ, có tính sáng tạo cao. Vì vậy, việc rèn luyện cho học sinh suy nghĩ
theo lối phản biện sẽ kích thích khả năng sáng tạo trong tư duy của các em.
Thứ hai, tư duy phản biện giúp học sinh suy nghĩ một vấn đề theo nhiều
chiều hướng khác nhau với những cách giải quyết khác nhau với những cách
giải quyết khác nhau. Do đó, học sinh sẽ có cái nhìn đa chiều trước một vấn đề
cần giải quyết trong cuộc sống, trong học tập, tránh được hiện tượng nhìn nhận
xem xét vấn đề một chiều, phiến diện. Như vậy, việc suy nghĩ để giải quyết mọi
vấn đề theo hướng xem xét kỹ mọi góc độ, mọi khía cạnh, đưa ra nhiều phương
án khác nhau sẽ giúp học sinh biết lựa chọn được phương án tối ưu với những
lập luận có cơ sở vững chắc.
Thứ ba, tư duy phản biện giúp học sinh có ý thức rõ ràng hơn trong lắng
nghe và tôn trọng ý kiến người khác trong lúc tranh luận, giảm tự ái (nếu có) và
sẵn sàng chấp nhận sự thật hơn, cho dù có thể sự thật đó không làm bản thân hài
lòng. Có tư duy phản biện, học sinh sẽ phát triển khả năng lắng nghe các ý kiến
khác với ý kiến của mình và cố gắng tìm hiểu sự thật, tìm hiểu bản chất của vấn
đề, thấu hiểu vấn đề trước khi đưa ra kết luận về vấn đề đó. Học sinh sẽ dám
thừa nhận cái sai của mình, sẵn sàng hơn khi thừa nhận cái đúng của người khác
và vì vậy dễ thiết lập được quan hệ tốt với mọi người.
Thứ tư, tư duy phản biện giúp cho học sinh - với tư cách là chủ thể tư duy
có phương pháp tư duy độc lập, nhìn ra những hạn chế và những sai lầm dễ mắc
phải trong quá trình tư duy của chính mình. Từ đó, giúp học sinh đưa ra những
nhận định, phán đoán tối ưu nhất có thể. Ngoài ra, học sinh sẽ nhận thức được
rằng có nhiều ý tưởng là điều rất tốt nhưng quan trọng hơn là việc thực hiện ý
tưởng có khả thi hay không? Làm thế nào để thực hiện được ý tưởng đó?
Thứ năm, tư duy phản biện giúp cho học sinh suy nghĩ theo hướng tích
cực, giảm đươc trạng thái tâm lí buồn rầu, thất vọng, chán đời, mất lòng tin khi

4


gặp thất bại trong cuộc sống, trong học tập, trong các mối quan hệ...Khi từng
học sinh đều suy nghĩ theo hướng tích cực, các em sẽ khám phá những tiềm
năng vốn có trong bản thân mình và những tiềm năng này khi được khám phá,
khai thác sẽ trở thành những "nội lực" giúp học sinh vượt lên chính mình, tự
khẳng định mình, góp phần hình thành nhân cách tự chủ, độc lập và sáng tạo.
Thứ sáu, tư duy phản biện giúp học sinh nỗ lực cập nhật, chắt lọc được
thông tin cần thiết, có giá trị, bổ ích cho bản thân trong một biển thông tin rộng
lớn. Từ đó nâng cao kĩ năng tiếp cận mọi nguồn tin, tìm tin và xử lí thông tin
một cách sáng tạo. Việc học và rèn luyện tư duy phản biện một cách tích cực sẽ
hỗ trợ quá trình tiêu hóa kiến thức của học sinh. Giúp các em suy nghĩ độc lập,
tư duy theo hướng mở, nhận thức mọi vấn đề một cách rõ ràng hơn, biết phân
tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá, từ đó suy nghĩ chín chắn hơn, tự ra quyết định
và hành động phù hợp.
3. Một số biện pháp thực hành tư duy phản biện cho học sinh
a. Hệ thống lí thuyết
Môn Văn là môn học đặc thù, vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Việc
cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi theo thời gian và theo thị
hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Có những vấn đề hôm nay là đúng
nhưng ngày mai thì chưa chắc. Ngược lại, có những vấn đề ngày trước sai, ngày
nay lại đúng. Một vấn đề có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi nhiều thập kỉ mà
không tìm ra chân lí. Vì vậy, trong học văn, rất cần có cái nhìn mới, cách cảm
mới để tìm ra những giá trị mới. Học sinh như những bạn đọc sáng tạo có thể lập
luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn cho vấn đề.
Đặt trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con người
toàn diện, phát huy hết năng lực, năng động, sáng tạo trong công việc thì việc
phát huy khả năng phản biện của học sinh cần thiết hơn bao giờ hết. Trang bị
cho thế hệ trẻ tư duy phản biện cũng có nghĩa là trang bị cho các em khát vọng

đổi mới và khát vọng thành công trong cuộc sống. Phát huy khả năng phản biện
của học sinh cũng là một cách đề cao, coi trọng tính dân chủ trong giáo dục,
thúc đẩy sự phát triển tiến bộ trong giáo dục. Muốn phát huy được khả năng
phản biện cho học sinh nói chung và học sinh giỏi văn nói riêng, trước hết cả
người dạy và người học đều phải có tư duy phản biện.
Trong quá trình học tập, tiếp thu tri thức, đặc biệt tri thức về các tác phẩm
văn học, học sinh phải luôn suy nghĩ về những điều giáo viên trình bày, biết đặt
ra và trả lời được các câu hỏi như: "Tại sao lại như vậy?", "Như thế thì đã thực
sự đúng đắn chưa?"...; không tiếp thu kiến thức một cách thụ động, một chiều
mà phải chủ động, chọn lọc, luôn luôn hướng tới chân lí của vấn đề. Nhìn nhận,
đánh giá vấn đề một cách biện chứng. Người học phải biết nhìn nhận, đánh giá
mọi vấn đề theo những cách mới mẻ, thậm chí, khi cần thiết có thể phủ nhận lại
cách đáng giá của giáo viên. Nhiều người sẽ boăn khoăn vì học sinh thì sao đáp
ứng được yêu cầu này. Nhưng đây chính là yếu tố thúc đẩy người học luôn luôn
có ý thức tìm tòi, khám phá nếu muốn vươn tới đỉnh cao tri thức. Thực tế, có
5


khá nhiều học sinh có hiểu biết sâu rộng ở nhiều lĩnh vực mà chưa có điều kiện
hay môi trường thể hiện. Học sinh cũng cần có kĩ năng lập luận ( bao gồm các kĩ
năng phân tích, tổng hợp, so sánh..) mới có thể phản biện tốt. Đối với các đề bài
nghị luận theo hướng mở, học sinh hoàn toàn có thể lập luận đưa ra những suy
nghĩ riêng của mình, tạo sự thuyết phục với người đọc. Như vậy, trong phản
biện cần thuyết phục người khác hướng tới những kết luận chính xác hơn. Phản
biện phải mang tính khánh quan, khoa học, tránh lấy "phản đối" làm "phản
biện". Phản biện cần có tâm sáng, tầm cao, cách đúng.
Giáo viên cần coi tư duy phản biện là tư duy của con người hiện đại, việc
phản biện của học sinh là việc bình thường trong dạy và học. Trong quá trình
dạy học sinh kĩ năng đọc - hiểu tiếp cận với các văn bản văn học, văn bản nhật
dụng..., giáo viên cần đưa ra những câu hỏi mở, khuyết khích học sinh có nhiều

cách trả lời độc đáo, sáng tạo....Giáo viên không nên tự cho mình luôn đúng,
cũng không nên xấu hổ, ngại ngùng khi một học sinh đưa ra cách giải quyết vấn
đề thuyết phục hơn thầy. Trong trường hợp này, quan hệ thầy - trò phải thực sự
thân thiện, chân lí của vấn đề phải được đưa lên hàng đầu. Đối với kĩ năng viết,
việc rèn luyện tư duy phản biện sẽ giúp các em xử lí tốt các đề mở. Đứng trước
một vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội hoặc văn học, học sinh có thể đưa ra nhiều
cách suy nghĩ khác nhau, bổ sung, hoàn chỉnh thêm ý nghĩa của vấn đề. Giáo
viên tạo môi trường thuận lợi cho những phản biện của học sinh, bằng các biện
pháp động viên, khích lệ làm cho học sinh thấy tự tin, hào hứng. Phản biện của
học sinh có thể chưa đạt đến chân lí thì giáo viên cũng nên kết thúc bằng những
lời động viên, tránh chỉ trích gây căng thẳng. Phản biện rất cần thiết trong quá
trình dạy học nói chung và dạy văn nói riêng, nhất là trong bối cảnh đổi mới
giáo dục hiện nay. Nó góp phần quan trọng vào việc đào tạo con người mới:
toàn diện, năng động, sáng tạo. Hình thành tư duy phản biện cho học sinh, đặc
biệt đối với học sinh giỏi văn không phải ngày một ngày hai mà có được, mà
phải luyện tập trong một thời gian dài, đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của cả giáo
viên và học sinh để đạt được ý nghĩa thiết thực và hiệu quả cao nhất trong quá
trình dạy và học.
b. Hệ thống đề thực hành
b1. Dạng đề nghị luận xã hội
Nghị luận xã hội trong nhà trường trung học xoay quanh các vấn đề về tư
tưởng, đạo đức, lối sống gần gũi với tuổi trẻ, bày tỏ ý kiến, suy nghĩ về một hiện
tượng xấu hoặc tốt trong đời sống xã hội. Trong các bài văn nghị luận xã hội ở
nhà trường, các em cần phát biểu những suy nghĩ nghiêm túc, chín chắn của
mình về một vấn đề có ý nghĩa xã hội đặt ra cho mình, lứa tuổi mình. Bài văn
nghị luận xã hội ở đây trước hết đòi hỏi người viết phải bày tỏ được tư tưởng
của mình. Đó là tư tưởng phù hợp đạo lí, lẽ phải, thể hiện trách nhiệm của người
viết đối với đất nước, gia đình, xã hội, con người. Tư tưởng trong bài văn nghị
luận xã hội phải thể hiện nhiệt tình xây dựng, vun đắp cho xã hội ngày càng tốt
đẹp, lên án, phê phán các hành vi trái đạo đức, trái lẽ phải, có hại cho đất nước,

xã hội và văn hóa Việt Nam. Như vậy, với tư duy phản biện sẽ giúp các em có
6


những nhận thức toàn diện, đầy đủ về mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Các em
sẽ có những suy nghĩ riêng, độc lập, khách quan để bổ sung và hoàn thiện hơn
cho nhận thức, đạt tới chân lí từ các vấn đề xã hội quen thuộc hay mới mẻ, phù
hợp với xu thế phát triển của xã hội. Tư duy phản biện cần được phát huy và rèn
luyện tốt hơn khi các em vận dụng để giải quyết các dạng đề nghị luận xã hội:
* Nghị luận về một tư tưởng đạo lí
Đề tài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường là quan điểm đạo đức, lẽ
sống, về văn hóa, tín ngưỡng, phương pháp tư tưởng...Với học sinh những vấn
đề chung này bao gồm các nội dung vô cùng phong phú: về nhận thức (Lí tưởng,
mục đích sống, nghề nghiệp...), về tâm hồn, tính cách ( lòng yêu nước, nhân ái,
vị tha, bao dung, độ lượng; tính trung thực, dũng cảm, thái độ hòa nhã, khiêm
tốn, thói ích kỉ, vụ lợi...), về các quan hệ gia đình (tình mẫu tử, tình anh em...),
về các quan hệ xã hội (tình đồng bào, tình thầy trò, tình bạn...). Những vấn đề
nghị luận phong phú và đa dạng như thế đòi hỏi học sinh phải huy động vốn
kiến thức xã hội và những trải nghiệm sâu sắc của bản thân để giải quyết vấn đề.
Đồng thời việc vận dụng các thao tác lập luận như: giải thích, chứng minh, bình
luận, so sánh...là hết sức cần thiết. Ngoài ra, để nâng cao hơn hiệu quả bài viết
của mình, các em còn cần biết sử dụng tư duy phản biện để thể hiện những suy
nghĩ, nhận thức riêng, độc lập của mình về những điều tưởng chừng như rất
quen thuộc. Các em hoàn toàn có thể đưa ra những suy nghĩ riêng, thậm chí đối
lập với vấn đề của đề. Điều quan trọng là những ý kiến, quan điểm riêng đó có
những lí lẽ phù hợp và thuyết phục người đọc. Có thể thấy rõ nét điều đó qua
một số đề bài sau:
ề bài : "Nhẫn nhịn là học phí phải trả để có được thiên nhiên, xã hội
và bản thân con người. Nhẫn nhịn là phẩm chất của kẻ mạnh có tầm nhìn xa. "
Bằng những hiểu biết và trải nghiệm của mình, anh/chị hãy bàn luận về ý

kiến trên.
ề bài 2 "Những ai không bao giờ bằng lòng với mình sẽ chẳng bao giờ
biết quý trọng những gì hiện có. Ngược lại, những người luôn bằng lòng với
những gì đã có sẽ không bao giờ có khát vọng vươn lên."
(Bí mật của hạnh phúc - David Niven, NXB Trẻ, 2013)
Hãy bàn luận ý kiến trên.
ề bài 3 Suy nghĩ của anh/chị về câu nói của Frank A.clark : Ai cũng
muốn làm điều gì đó rất lớn lao nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được
tạo thành từ những điều rất nhỏ.
( Dẫn theo Hành trang vào đời, NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh 2008, trang 38)
Để làm tốt ba đề bài trên, ngoài việc tìm hiểu đề, lập dàn ý, vận dụng tốt
các thao tác lập luận quen thuộc, các em có thể nhất trí với những khía cạnh
đúng đắn, hợp lí của vấn đề xã hội được đặt ra trong đề bài. Ở đề bài 1, phẩm
chất nhẫn nhịn là phẩm chất tốt đẹp trên con đường chinh phục tự nhiên, xã hội
và con người. Nhẫn nhịn thể hiện sức mạnh của trí tuệ và ý chí. Các em có thể
khẳng định, đồng tình với điều đó, tuy nhiên cũng hoàn toàn có thể tạo thêm độ
7


sâu sắc cho bài viết khi phản biện rằng không phải bất cứ ở đâu, lúc nào con
người cũng phải nhẫn nhịn. Nhẫn nhịn quá trở thành yếu hèn, nhẫn nhục. Nhẫn
nhịn quá mức đôi khi sẽ khiến hành động thiếu quyết đoán, đánh mất thời cơ, ý
chí trở nên bạc nhược. Ở đề bài 2, các em không chỉ đồng ý với ý kiến của đề có
thể đưa ra những ý kiến phản biện của riêng mình. Trong cuộc sống đôi khi phải
biết bằng lòng chính mình, khả năng, năng lực của mỗi người là có giới hạn và
phải biết chấp nhận kết quả đạt được khi đã làm hết khả năng của mình. Phải
biết sống với những gì mình đang có nhưng không thực dụng, yếu đuối, hèn
nhát mà phải luôn có ước mơ, ý chí vươn lên. Ước mơ, ý chí phải phù hợp với
bản thân mình, không mơ ước viển vông, không ảo tưởng về bản thân. Ở đề bài
3, các em hoàn toàn có thể đồng ý với ý nghĩa của cả câu nói : Mọi con người

đều luôn mơ ước làm được những điều thật lớn lao cho bản thân, gia đình và xã
hội. Nhưng thường không ý thức được một điều muốn làm nên việc lớn thì trước
hết phải làm tốt những việc nhỏ. Câu nói đề cao ý nghĩa của những điều nhỏ những việc làm nhỏ của con người trong cuộc sống. Tuy nhiên, bài viết sẽ tốt
hơn nếu các em biết phản biện lại vấn đề. Đó là biết trân trọng những việc làm
nhỏ bé song không có nghĩa là phủ nhận mà cần phải khuyến khích, động viên
để con người phấn đấu và vươn tới những điều lớn lao khi có đủ điều kiện, khả
năng để khẳng định sự trưởng thành của bản thân và góp phần thúc đẩy sự phát
triển của xã hội.
* Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Ngoài những nét tương đồng với kiểu bài nghị luận về một tư tưởng, đạo
lí, kiểu bài nghị luận về một hiện tượng đời sống có những điểm khác biệt cần
lưu ý. Kiểu bài này lấy những hiện tượng xảy ra trong đời sống, hiện tượng xã
hội đã hoặc đang diễn ra, đáng khen, đáng chê hay chứa đựng vấn đề đáng suy
nghĩ để bàn bạc. Từ hiện tượng đời sống, học sinh phải phân tích, tìm ra ý nghĩa
xã hội về tư tưởng, đạo đức mà bàn bạc, đánh giá. Đề tài để bàn bạc thường gần
gũi với đời sống, sát hợp với trình độ nhận thức của học sinh như: tình trạng tai
nạn giao thông, hiện tượng môi trường bị ô nhiễm, tiêu cực trong thi cử, nạn bạo
hành trong gia đình, những tấm gương người tốt việc tốt...Trước những hiện
tượng đời sống phong phú, đa dạng, đòi hỏi học sinh phải có vốn sống và nhận
thức sâu sắc hơn, cách thể hiện nhận thức, tư tưởng, thái độ và hành động trước
những hiện tượng đời sống hàng ngày cũng cần rõ ràng và dứt khoát hơn. Để
làm tốt kiểu bài này, ngoài các thao tác lập luận giải thích, phân tích, bình luận,
so sánh...các em cũng cần thiết nên phát huy tốt tư duy phản biện để bày tỏ cách
nhìn nhận, đánh giá hiện tượng đời sống theo nhiều chiều, nhiều hướng để việc
đánh giá trở lên khánh quan, toàn diện, hợp lí. Đồng thời, với tư duy phản biện,
các em sẽ có được những suy nghĩ, nhận thức riêng sâu sắc và có ý nghĩa quan
trọng với bản thân các em và mọi người, với xã hội, góp phần thúc đẩy xã hội tốt
đẹp hơn. Qua một số đề bài cụ thể về một hiện tượng đời sống sẽ thấy rõ nét hơn
vai trò quan trọng của tư duy phản biện:
ề bài : Có một vụ tai nạn giao thông, nạn nhân đang quằn quại. Có

người lấy điện thoại ra quay phim, chụp ảnh; có người không ngớt chỉ trỏ, hỏi
8


han; có người nhanh chóng lặng lẽ rời đi; và cũng có người lao vào sơ cứu, đưa
bệnh nạn nhân đi bệnh viện.
Hãy viết một bài văn nêu suy nghĩ của anh/chị về những người ấy.
ề bài 2: Giữa một vùng sỏi đá khô cằn, cây hoa dại vẫn mọc lên và nở
những chùm hoa thật đẹp.
Phát biểu những suy tưởng của anh/chị được gợi ra từ hiện tượng nêu trên.
ề bài 3 Suy nghĩ của anh/chị về hiện tượng hiện nay một số giá trị văn
hóa truyền thống của dân tộc đang bị mai một.
Cả ba đề bài trên đều nêu lên các hiện tượng đời sống đáng suy ngẫm và
có ý nghĩa với mọi người trong xã hội. Trước các hiện tượng đời sống này, học
sinh hoàn toàn có thể bộc lộ được rõ nét những suy nghĩ thái độ, cách đánh giá
độc lập, khách quan, hợp lí, thuyết thục của mình. Ở đề bài 1, đây là hiện tượng
đời sống rất quen thuộc song có ý nghĩa quan trọng thể hiện rõ nét đạo đức và
văn hóa ứng xử của con người trong cộng đồng. Các em có thể bày tỏ thái độ
phê phán, lên án những người thiếu đạo đức và văn hóa. Họ thờ ơ, vô cảm trước
hoạn nạn của người khác. Ngược lại những người có đạo đức, văn hóa, họ sẵn
sàng cứu giúp người gặp nạn dù có thể đôi lúc bị thiệt thòi. Đó là cách sống
nhân đạo, vị tha và giàu tính hi sinh. Họ đáng trân trọng. Vì vậy, có thể thấy
lòng tốt là điều đáng quý của con người, nhưng trước hết mỗi người phải hành
xử có trách nhiệm, có văn hóa, không thờ ơ, vô cảm trước nỗi đau, hoạn nạn
của người khác. Trong cuộc sống, càng giúp được nhiều người càng tốt, nhất là
trong hoàn cảnh hoạn nạn. Mỗi người, nếu có điều kiện hãy cư xử và hành động
một cách có đạo đức, văn hóa. Ở đề bài 2, từ hiện tượng tự nhiên, học sinh có
thể suy ra những ý nghĩa quan trọng đối với con người. Chính trong hoàn cảnh
nhiều thử thách, nghị lực và sức sống tiềm tàng của con người càng được bộc lộ
rõ hơn bao giờ hết. Vì vậy, trong cuộc sống đầy rẫy những khó khăn thử thách,

con người cần rèn luyện cho mình bản lĩnh ý chí để thay đổi cuộc sống, thay đổi
số phận. Các em có thể phản biện về hiện tượng này ở những góc độ khác như:
Có nhiều người sống trong điều kiện thuận lợi nhưng không biết tận dụng để
phát triển năng lực của mình mà luôn ỉ lại, dựa dẫm, chỉ biết hưởng thụ, lãng
phí thời gian, tiền bạc...Cũng có những người vì không được gặp may mắn
trong cuộc sống mà buông xuôi và chấp nhận thất bại. Những người như thế sẽ
không bao giờ thành công trên bước đường đời của mình. Ở đề bài 3, học sinh
có thể đồng ý với hiện tượng này, đó là nhiều giá trị văn hóa truyền thống đang
bị mai một do nhiều nguyên nhân như: Do ảnh hưởng của nền kinh tế thị
trường, do quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa rộng rãi, do một số lĩnh vực
văn hóa chậm đổi mới, chưa thu hút được thế hệ trẻ. Tuy nhiên, các em cũng có
thể đưa ra ý kiến phản biện, vẫn có nhiều bạn trẻ yêu mến, say mê với nhiều giá
trị văn hóa truyền thống. Điều quan trọng ở đây là cần có nhiều giải pháp phù
hợp để giúp các bạn trẻ có thêm hiểu biết về giá trị văn hóa dân tộc, thêm yêu
và gắn bó, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đó.

9


b2. Dạng đề nghị luận văn học

Hiện nay xu hướng ra đề mở không chỉ ở dạng đề nghị luận xã hội mà còn
ở cả dạng đề nghị luận văn học. Đề nghị luận văn học theo hướng mở yêu cầu
học sinh không chỉ có kiến thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về các tác phẩm văn
học, có kĩ năng lập luận tốt mà còn đòi hỏi học sinh có những cách cảm thụ
riêng, suy nghĩ riêng độc đáo của mình về các vấn đề được đặt ra trong tác
phẩm. Đặc biệt với các dạng đề có các ý kiến, nhận định về tác phẩm văn học,
đòi hỏi học sinh phải có khả năng phản biện tốt, các em có thể đồng tình hoặc
phản đối, hoặc chỉ đồng tình một nửa, hoặc có thể bổ sung thêm ý nghĩa của tác
phẩm theo cách cảm nhận, cách hiểu và lí giải của riêng các em. Điều này là vô

cùng quan trọng với các em học sinh giỏi văn trong việc thể hiện được tư duy
phản biện của mình. Có như vậy, các em mới có thể giải quyết tốt các đề mở về
nghị luận văn học với các dạng sau:
* Nghị luận về tác phẩm thơ trữ tình
Tác phẩm thơ là một hiện tượng thẩm mĩ độc đáo, được sáng tạo theo quy
luật riêng của tình cảm. Nó tiềm ẩn khả năng khơi gợi ở ở người đọc những rung
động sâu xa. Vì thế, nguyên tắc trước tiên đối với người tìm hiểu, đánh giá tác
phẩm văn học là phải đến với nó bằng tất cả tâm hồn, tình cảm của mình. Để làm
tốt bài nghị luận về tác phẩm thơ, càng cần nhấn mạnh vai trò của tình cảm, của
sự rung động nơi người viết. Người viết cần thâm nhập, phân tích tác phẩm thơ
bằng tất cả tâm hồn, tình cảm, cần sống với không khí cảm xúc của bài thơ. Đồng
thời trong quá trình nghị luận phải đảm bảo tính chỉnh thể, toàn vẹn của tác phẩm.
Tác phẩm văn học là một cơ thể sống, là một chỉnh thể toàn vẹn, trong đó mỗi bộ
phận chỉ là nó khi tồn tại, tương tác với các bộ phận, yếu tố khác. Bên cạnh đó,
học sinh khi làm bài nghị luận về tác phẩm thơ trữ tình cũng cần bộc lộ được
những cảm xúc, suy nghĩ riêng của mình, có những cách lí giải độc đáo về các giá
trị nội dung tư tưởng của tác phẩm thơ một cách hợp lí, thuyết phục. Như vậy, tư
duy phản biện cũng hết sức cần thiết để giúp các em làm bài nghị luận về tác
phẩm thơ trữ tình đạt hiệu quả hơn. Sau đây là một số đề cho thấy rõ nét điều đó:
ề bài 1: Bàn về hình tượng "em" trong bài thơ Sóng của nhà thơ Xuân
Quỳnh có ý kiến cho rằng: Bài thơ thể hiện vẻ đẹp truyền thống của người phụ
nữ trong tình yêu. Ý kiến khác lại cho rằng: Hình tượng em thể hiện vẻ đẹp hiện
đại của người phụ nữ đang yêu.
Từ cảm nhận về hình tượng "em" trong bài thơ Sóng, anh/chị hãy bình
luận về các ý kiến trên.
ề bài 2: Cùng tái hiện vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận mỗi nhà thơ
lại có cách khám phá thể hiện riêng. Trong bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng viết:
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm".
10


Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu viết:
"Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan".
Cảm nhận của anh/chị về hai đoạn thơ trên.
Với hai đề bài nghị luận về tác phẩm thơ, đoạn trích thơ như trên,
học sinh ngoài việc có thể đồng ý với ý kiến đánh giá nêu trong đề, các
em hoàn toàn có thể đưa ra ý kiến phản biện nhằm bổ sung, hoàn thiện
hơn cho giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, đoạn trích thơ. Ở đề
bài 1, các em có thể khẳng định tính đúng đắn của ý kiến đề cập tới vẻ đẹp
truyền thống của người phụ nữ trong tình yêu được thể hiện ở sự đằm thắm, dịu
dàng, hồn hậu, dễ thương, ở sự chung thủy, son sắt. Và ở ý kiến khác là hình
tượng em thể hiện vẻ đẹp hiện đại của người phụ nữ đang yêu. Đó là người phụ
nữ mạnh dạn, chủ động bày tỏ khao khát yêu thương mãnh liệt, những rung
động rạo rực của lòng mình. Người phụ nữ không nhẫn nhục, cam chịu; không
chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp mà luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng
cảm, đồng điệu với mình. Nét đẹp hiện đại táo bạo, mãnh liệt, dám vượt qua mọi
trở ngại để đến với hạnh phúc .Khát vọng có được một tình yêu vĩnh hằng, bất
tử ; được sống trọn vẹn trong tình yêu. Đồng thời các em có thể phản biện đưa ra
cách đáng giá đầy đủ, toàn diện và sâu sắc hơn về giá trị bài thơ. Đó là nhân vật
em vừa có nét dịu dàng, đằm thắm, dễ thương của người phụ nữ truyền thống
vừa mang lại vừa mang nét đẹp hiện đại đáng trân trọng của người phụ nữ đang
yêu. Ở đề bài 2, sau khi phân tích làm rõ vẻ đẹp của từng đoàn quân ra trận
trong hai đoạn thơ của hai bài thơ nổi tiếng của Quang Dũng và Tố Hữu, các em
có thể đưa ra thêm những ý kiến, đánh giá so sánh để thấy rõ nét điểm giống và

khác ở hai hình ảnh thơ của hai đoạn thơ này. Sự tương đồng đó là cả hai bài thơ
đều viết trong thời chống Pháp. Đều sử dụng bút pháp sử thi, lãng mạn để miêu
tả đoàn quân. Nhất là cảm hứng lãng mạn được hai nhà thơ khai thác triệt để.
Người lính trong thơ Quang Dũng có cái đẹp vừa bi hùng, vừa hào hoa lãng
mạn. Tố Hữu chủ yếu miêu tả cái đẹp toàn thể, hướng tới số đông. Tầm vóc
người lính thật lớn lao, vĩ đại. Cả hai đoạn thơ, hình ảnh người lính hiện lên thật
đẹp, thật hào hùng. Và sự khác biệt tạo nên nét riêng cho từng đoạn thơ. Quang
Dũng viết bài thơ "Tây Tiến" trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Do
đó, hình ảnh người lính hiện lên rất hiện thực với nhiều khó khăn gian khổ.
Nhưng không vì thế mà mất đi chất thép vốn có của người lính. Người lính trong
bộ dạng dị thường mà cũng rất đỗi mộng mơ đượm chất lính Hà Thành. Bài thơ
"Việt Bắc" được Tố Hữu viết sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hồn thơ Tố Hữu
là hồn thơ trữ tình chính trị nên thiên về ngợi ca, biểu dương nên hình ảnh thơ
bay bổng, tự hào. Hình ảnh đoàn quân ra trận mang tầm vóc lớn lao, kì vĩ. Tóm
lại, cùng thể hiện hình ảnh những đoàn quân ra trận nhưng cảm hứng từ hai nhà
thơ rất khác nhau. Chính vì vậy mà hình ảnh người lính thời chống Pháp hiện

11


lên trong hai đoạn thơ vừa có điểm chung vừa có điểm riêng biệt mang đến cho
người đọc những ấn tượng khó phai nhòa.
* Nghị luận về tác phẩm văn xuôi tự sự
Tự sự là phương thức tái hiện đời sống qua các sự kiện, biến cố và hành vi
con người trong toàn bộ tính khách quan của nó. Ở đây, tư tưởng và tình cảm
của nhà văn thâm nhập sâu sắc vào sự kiện và hành động của con người, nhà văn
kể lại, tả lại những gì xảy ra bên ngoài mình, khiến cho người đọc có cảm giác
rằng hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là một thế giới tạo hình xác định
đang tự tồn tại, phát triển, không phụ thuộc vào tình cảm, ý muốn của người
viết. Để hiểu được nội dung phản ánh, để phân tích được các giá trị về mặt tư

tưởng lẫn nghệ thuật của một tác phẩm tự sự, cần tóm tắt được chính xác cốt
truyện, nắm chắc ý nghĩa tình huống truyện, đặc điểm nổi bật về phẩm chất, tính
cách của nhân vật...Như vậy, trước tiên để làm tốt kiểu đề nghị luận về tác phẩm
văn xuôi tự sự đòi hỏi học sinh cần có hiểu biết đầy đủ, sâu sắc về tác phẩm, có
kĩ năng lập luận tốt với các thao tác lập luận như: Phân tích, chứng minh, bình
luận, so sánh...Tuy nhiên, để làm tốt các đề mở hiện nay, tất cả những điều đó là
chưa đủ, các em còn cần thiết phải có tư duy phản biện ngay từ khi tiếp cận tác
phẩm. Các e hoàn toàn có thể đưa ra những cách lí giải khác nhau về nội dung tư
tưởng của tác phẩm, đó có thể là cách lí giải mới mẻ nhưng hợp lí, thuyết phục.
Và khi tiếp cận với các đề bài theo hướng mở, học sinh cũng rất nên mạnh dạn
đưa ra các ý kiến riêng, độc đáo, sâu sắc của mình. Thông qua một số đề bài sau
có thể thấy rõ nét điều đó:
ề bài
Bàn về nghệ thuật xây dựng hai chân dung phụ nữ điển hình
trong truyện “Vợ nhặt” (Kim Lân), có kiến cho rằng: Chị vợ nhặt được khắc họa
ở phương diện bên ngoài, còn bà cụ Tứ lại hiện lên qua những khắc họa nội tâm
bên trong. Ý kiến của bạn?
ề bài 2 Cảm nhận của anh/chị về hình ảnh giọt nước mắt của nhân vật
quản ngục sau khi Huấn Cao cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù của
Nguyễn Tuân và hình ảnh giọt nước mắt Chí Phèo sau khi thưởng thức bát cháo
hành của Thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao.
Để làm tốt hai đề bài này, ngoài các yêu cầu cơ bản về kiến thức, kĩ năng,
học sinh cũng có thể dùng kĩ năng tư duy phản biện để giải quyết vấn đề được
toàn diện, sâu sắc hơn. Ở đề bài 1, đề bài này yêu cầu học sinh nghị luận về
nghệ nghệ thuật xây dựng hình tượng hai người phụ nữ trong truyện “Vợ nhặt”
(Kim Lân). "Chị vợ nhặt được khắc họa ở phương diện bên ngoài" nghĩa là hình
tượng được xây dựng qua diện mạo, lời nói, cử chỉ, hành động. Còn "bà cụ Tứ
lại hiện lên qua những khắc họa nội tâm bên trong" nghĩa là người mẹ hiện lên
qua thế giới nội tâm bên trong với những diễn biến tâm lý, tình cảm...Học sinh
có thể phản biện bổ sung thêm cho ý kiến của đề, đó là Chị vợ nhặt được khắc

họa ở phương diện bên ngoài là nhận xét đúng nhưng chưa đủ. Chưa đủ bởi,
hình tượng người vợ nhặt còn hiện lên qua những biểu hiện nội tâm khá tinh vi
dưới ngòi bút của nhà văn. Và hình tượng bà cụ Tứ cũng vậy, đúng nhưng chưa
12


đủ bởi hình tượng người mẹ cũng được Kim Lân xây dựng thông qua phương
diện bên ngoài, ở những chi tiết vô cùng đắt giá.
Như vậy, nếu đánh giá về nghệ thuật xây dựng hình tượng hai nhân vật
phụ nữ tiêu biểu trong “Vợ nhặt”, mỗi hình tượng dù được xây dựng nghiêng về
phương diện bên ngoài (chị vợ nhặt) hay bên trong (bà cụ Tứ) thì sự tham gia
của các phương diện còn lại là không thể thiếu trong việc xây dựng, hoàn thiện
chân dung nhân vật. Bởi vì, không có thế giới bên trong nào lại có thể hiện lên
được nếu thiếu đi các yếu tố ngoại hiện; và không có một yếu tố nào miêu tả cử
chỉ hành động lời nói của nhân vật lại không có ít nhiều ý nghĩa bộc lộ thế giới
bên trong. Ở đề bài 2, học sinh có thể nêu cảm nhận của mình về giọt nước mắt
của viên quản ngục và Chí Phèo. Hình ảnh nước mắt của quản ngục sau khi
Huấn Cao cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân là giọt nước mắt
khóc vì tiếc một người tài cao, khí phách như Huấn Cao mà phải chịu án chém;
khóc vì xúc động trước lời khuyên chân thành của Huấn Cao; khóc vì ý thức của
cá nhân, thức tỉnh lương tri của chính mình, nhận ra bản chất của cái đẹp phải
gắn liền với cái thiện chứ không phải gắn với cái ác, cái xấu. Giọt nước mắt
cũng là kết thúc cuộc đời nhem nhuốc, nhơ bẩn bắt đầu cuộc đời mới: nho nhã,
thiên lương...Hình ảnh nước mắt của Chí Phèo lúc thưởng thức bát cháo hành
của Thị Nở trong Chí Phèo của Nam Cao. Chí đã khóc vì xúc động trước tình
cảm chân thành của Thị Nở. Giọt nước mắt của Chí cũng là giọt nước mắt của
sự thức tỉnh, ăn năn nhận ra bản chất cuộc đời mình chỉ chìm ngập trong men
rượu. Giọt nước mắt của Chí cũng là việc rũ bỏ quá khứ tối tăm của mình đề
hướng đến cuộc sống của con người nhất là người lương thiện. Từ việc cảm
nhận ý nghĩa của giọt nước mắt của hai nhân vật, các em có thể có những đánh

giá chung về nhân vật, về tác phẩm và nhà văn. Đối với Nguyễn Tuân, thông
điệp mà nhà văn gửi tới bạn đọc chính là thiên chức của cái đẹp, cái đẹp thức
tỉnh con người, cái đẹp cứu rỗi thế giới. Với Nam Cao thì trong bất kì hoàn cảnh
nào nhà văn cũng luôn đặt trọn niềm tin vào con người.
Từ việc vận dụng kĩ năng tư duy phản biện để giải quyết các dạng đề văn
nghị luận cụ thể sẽ giúp các em có thêm ý thức và rèn luyện được tốt hơn kĩ
năng tư duy phản biện trong quá trình làm văn.

13


C. KẾT LUẬN
Trong xu thế phát triển của giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao của xã hội thì việc trang bị phương pháp, kĩ năng học tập phù hợp, cần
thiết càng trở nên có ý nghĩa quan trọng. Một trong số những kĩ năng học tập
quan trọng ấy chính là rèn luyện tốt cho các em khả năng tư duy phản biện. Có
tư duy phản biện tốt sẽ giúp các em có những suy nghĩ, ý kiến độc lập, biết đánh
giá mọi sự vật hiện tượng theo nhiều hướng, nhiều chiều. Từ đó, học sinh có thể
nhìn nhận được vấn đề một cách khách quan, toàn diện, sâu sắc và hợp lí. Đặc
biệt, với học sinh giỏi văn việc rèn luyện tư duy phản biện lại càng trở nên quan
trọng và cần thiết. Đối với các em học sinh giỏi văn, đòi hỏi các em phải có khả
năng tự học, tự cảm thụ, tự phân tích, lí giải và đánh giá các hiện tượng văn học
bằng những cảm nhận và ý kiến của riêng mình. Trước một tác phẩm văn học,
mỗi em sẽ thu nhận cho mình một ý nghĩa, một nội dung và những cảm nhận
riêng biệt về tác phẩm đó. Giáo viên chỉ có thể thông qua một số tác phẩm tiêu
biểu cho các thể loại văn học để trang bị cho học sinh cách phân tích, cách đọc hiểu, "con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn"...tức là cung cấp cho
học sinh chiếc chìa khóa để các em có thể mở được cánh cửa kho tàng văn học
dân tộc và nhân loại. Và để từ đó các em có thể tự mình tiếp tục đọc và tìm hiểu
văn chương suốt cuộc đời. Từ việc đọc hiểu đến tạo lập văn bản, giải quyết các
đề bài theo xu hướng ra đề mở hiện nay, tư duy suy nghĩ độc lập, biết tự bày tỏ

một cách đầy đủ, rõ ràng, thuyết phục trước các vấn đề xã hội hoặc văn học à đề
bài nêu ra. Với tư duy phản biện, các em có thể lật đi lật lại vấn đề, đưa ra những
suy nghĩ và lí giải phù hợp, đúng đắn bộc lộ được những suy nghĩ, cảm nhận của
riêng mình. Như vậy, việc nâng cao hơn ý thức rèn luyện tư duy phản biện và có
kĩ năng phản biện tốt cho học sinh giỏi văn là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu
giáo dục đào tạo phát huy năng lực toàn diện của học sinh, đáp ứng yêu cầu phát
triển ngày càng cao của đất nước và thế giới.

14



×