Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp dạy học di sản văn hóa trong bộ môn lịch sử nhằm nâng cao hứng thú học tập và yêu thích môn lịch sử trong trường trung học cơ sở hiên nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (929.8 KB, 39 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: "Phân tích và đề xuất một số giải pháp dạy học di sản văn hóa
trong bộ môn Lịch sử nhằm nâng cao hứng thú học tập và yêu thích môn Lịch sử
trong trường trung học cơ sở hiên nay”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Lịch sử
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 9 tháng 9 năm 2014 đến ngày 20 tháng 5
năm 2015
4. Tác giả:
Họ và tên: Vũ Thị Thúy Nga
Năm sinh: 12- 09-1980
Nơi thường trú: Nam Thanh – Nam Trực – Nam Định
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Ngữ văn
Chức vụ công tác: Phó Hiệu Trưởng
Nơi làm việc: Trường THCS Thị trấn Cổ Lễ.
Địa chỉ liên hệ: Trường THCS Thị trấn Cổ Lễ
Điện thoại: 0945075777
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến : 70%
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THCS Thị trấn Cổ Lễ.
Địa chỉ: Trường THCS Thị trấn Cổ Lễ.
Điện thoại: 03503881303

1


BÁO CÁO SÁNG KIẾN
I. Điều kiện hoàn cảnh tạo ra sáng kiến:
Giáo dục thế hệ trẻ là nhiệm vụ mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều coi là
quốc sách hàng đầu. Sự nghiệp giáo dục của nước ta cũng được đề cao và không
ngừng phát triển, điều đó được thể hiện ở sự luôn đổi mới, nâng cao chất lượng dạy và
học. Nghị quyết II Ban chấp hành Trung ương Đảng đã chỉ rõ con đường đổi mới giáo


dục và đào tạo của nước ta là: “Đổi mới mạnh mẽ các phương pháp giáo dục và đào
tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nền nếp tư duy sáng tạo của
người học…”, Nghị quyết số 29- NQ/TW Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XI cũng nhấn mạnh nội dung: “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”.
Đối với môn lịch sử, thực tế cho thấy những năm gần đây, việc dạy học lịch sử
ở trường phổ thông đã có những bước tiến đáng kể về nhận thức, nội dung, phương
pháp dạy học. Song vẫn còn nhiều điều đáng lo ngại. Kết quả các kì thi vào Đại học
khối C năm 2005, 2006, 2007 đã làm dư luận xôn xao và một số người đi đến kết luận
là chất lượng dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay quá kém. Sở dĩ có kết quả
như vậy là có nhiều nguyên nhân. Trong đó chúng ta điều biết rằng, số lượng học sinh
thi vào các trường khối C hiện nay rất ít (khoảng 15-20%), và chỉ khoảng ½ trong số
đó thực sự có khả năng, hứng thú với các môn khoa học xã hội. Còn lại đa số các em
học kém toàn diện, không thể thi được các khối A, B, D đành thi vào khối C. Chính vì
vậy mới có nhiều điểm 0 và những sai sót khó hiểu… Rõ ràng kết quả đó không phản
ảnh chất lượng dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông hiện nay. Nhưng dù sao nó đã
chỉ cho các nhà quản lí giáo dục và giáo viên thấy rằng hiệu quả dạy học bộ môn lịch
sử ở các trường phổ thông chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Nguyên nhân của tình trạng chậm đổi mới phương pháp dạy học lịch sử có
nhiều nhưng chủ yếu do những nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết, là do quan niệm
chưa đúng về bộ môn, coi lịch sử là môn phụ, môn học thuộc. Thứ hai, những tác động
tích cực của cơ chế thị trường làm cho chất lượng dạy môn lịch sử chưa tốt. Thứ ba,
việc đào tạo giáo viên lịch sử cho các trường phổ thông từ nhiều nguồn nhưng không
được kiểm tra, đánh giá kĩ lưỡng nên chất lượng không đồng đều. Thứ tư, tâm lí bảo
thủ, lạc hậu, ngại vận dụng phương pháp mới vì mất thời gian công sức nghiên cứu
của giáo viên.

2



Tuy nhiên, để góp phần biến đổi thực tế đó, không thể nôn nóng, chủ quan, cực
đoan, duy ý chí mà cần phải có một quan niệm tổng thể, đồng thời phân tích kĩ những
hoàn cảnh khách quan xuất phát từ thực tế của dạy học hiện nay. Từ đó đặt ra một yêu
cầu cấp thiết phải đi tìm các giải pháp để nâng cao hiệu quả dạy học môn lịch sử ở
trường phổ thông vừa căn bản, vừa thiết thực và có tính khả thi. Một trong những giải
pháp trên là sử dụng những di sản văn hóa trong dạy học lịch sử nhằm phát huy hứng
thú học tập bộ môn, bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước, tự hào về truyền thống
dân tộc, ý thức bảo vệ di sản...
Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp
dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Di sản văn hóa Việt Nam gồm di sản văn hóa
vật thể (Di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc
gia) và di sản văn hóa phi vật thể (Tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí
quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y - dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm
thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác) do con
người, thiên nhiên sáng tạo, kiến tạo là sản phẩm vật chất, tinh thần có giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học, nghệ thuật được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Hòa chung dòng chảy của lịch sử dân tộc, Nam Định là địa phương mang đậm
bản sắc văn hoá truyền thống gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước từ thời đại
Hùng Vương đến thời đại Hồ Chí Minh. Hiện nay, trên quê hương Nam Định còn lưu
giữ rất nhiều di sản văn hóa có giá trị như: khu di tích lịch sử đền Trần, Trung tâm
Phật giáo Thiên Trường, Đền Bảo Lộc...Tất cả những di sản văn hóa đó đều có khả
năng khai thác, sử dụng trong dạy học và tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường phổ
thông.
Thực tiễn cho thấy có nhiều hình thức sử dụng di sản văn hoá (DSVH) trong
dạy học và tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường phổ thông: Khai thác di sản văn
hoá làm tư liệu, phương tiện dạy học trên lớp đối với một số môn học; Tổ chức dạy
học tại nơi có di sản văn hoá - bài học thực địa; Tổ chức tham quan - trải nghiệm di

sản văn hoá; Tổ chức các hoạt động ngoại khoá khác (Triển lãm tranh ảnh, ra báo học
tập, làm báo tường về nội dung di sản văn hoá; Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về di sản
văn hoá dưới hình thức sân khấu hoá; Kể chuyện, nói chuyện về di sản văn hoá…vv).

3


Qua quá trình triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” và thí điểm việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học của Bộ Giáo
dục, nhiều cơ sở giáo dục đã vận dụng vào thực tiễn dạy học, tổ chức ngoại khóa và
các hoạt động giáo dục khác: tổ chức đi tham quan, trải nghiệm di sản; nhận chăm sóc
các di sản văn hóa tại địa phương một cách chu đáo; sử dụng các làn điệu dân ca, trò
chơi dân gian để tổ chức các sân chơi dưới hình thức sân khấu hóa tạo ra không khí
vui tươi, phấn khởi, lành mạnh, thực sự “mỗi ngày đến trường là một ngày vui” đối với
thầy và trò.
Các hoạt động với di sản văn hóa đã thu hút đông đảo cán bộ, giáo viên và học
sinh tham gia, góp phần giáo dục truyền thống đạo đức, lối sống, lòng yêu quê hương
đất nước, ý thức cộng đồng trong việc giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị của di sản
văn hóa, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên và tăng cường
sự hiểu biết của học sinh về di sản văn hóa, giáo dục niềm tự hào, tự tôn dân tộc; học
sinh hứng thú tham gia tích cực trong quá trình học tập, trải nghiệm di sản văn hóa.
II. Mô tả giải pháp kỹ thuật
II. 1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
Di sản văn hóa là sản phẩm tinh thần vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Dù dưới dạng vật thể hoặc phi vật
thể, di sản văn hóa đều có thể sử dụng trong quá trình giáo dục, dạy học dưới mọi hình
thức, tạo môi trường, tạo công cụ hoặc là nguồn cung cấp chất liệu để xây dựng nội
dung dạy học, giáo dục. Gần đây trong phong trào xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực, một trong những hoạt động được đặt ra là tổ chức cho học sinh tham gia
chăm sóc các di sản, chủ yếu là các di tích mang tính lịch sử của địa phương. Việc

khai thác các di sản văn hóa ở địa bàn nhà trường là nguồn tri thức, là phương tiện dạy
học, giáo dục rất ít khi được quan tâm hoặc nếu có thường mang tính tự phát. Vì vậy
vai trò, thế mạnh của những di sản văn hóa đa dạng, muôn hình muôn vẻ ở địa phương
gần như chưa được ngành giáo dục biết đến và tận dụng. Tất cả vẫn tồn tại ở dạng lí
luận khô cứng.
* Về phía giáo viên
Qua trao đổi với một số GV dạy Lịch sử trường THCS trên địa bàn huyện Trực
Ninh và một số trường trên địa bàn các huyện khác thuộc tỉnh Nam Định, chúng tôi
được biết, hầu như GV chưa ý thức được tầm quan trọng của việc sử dụng di sản văn

4


hóa trong dạy học lịch sử nên việc vận dụng mang tính hình thức, hoặc không sử dụng.
GV chỉ nhắc đến di sản văn hóa trong những giờ học mà SGK có giới thiệu. Một số
GV giới thiệu sơ lược về di sản, đại đa số không chú ý nội dung này. Nguyên nhân
việc GV ngại sử dụng di sản trong dạy học là:
1. Thói quen sử dụng các phương pháp dạy học truyền thống.
2. Sử dụng di sản trong dạy học khó, tốn nhiều thời gian, công sức chuẩn bị
trong khi lượng kiến thức phải truyền đạt đồ sộ, quỹ thời gian dành cho bộ môn lại quá
ít.
3. Kinh phí cho việc sử dụng di sản trong dạy học rất khó khăn.
4. Khi vận dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử, GV còn lúng túng ở một
số thao tác như lựa chọn di sản văn hóa đưa vào nội dung giảng dạy lịch sử, lập kế
hoạch làm việc với BGH, tổ chuyên môn, cán bộ bảo tàng lịch sử, các nghệ nhân… để
sưu tầm tài liệu, tranh ản hiện vật… của di sản có liên qua đến nội dung bài học phục
vụ việc thiết kế bài học, thiết kế nội dung bài học với di sản, tiến hành nội dung bài
học trên lớp với di sản hoặc tại di sản, tổ chức hoạt động ngoại khóa trải nghiệm di
sản…
*Về phía học sinh

- HS hầu như không được giao nhiệm vụ về nhà chuẩn bị trước cho nội dung
bài học liên quan đến di sản nên có phần bị động trong quá trình làm việc trên lớp. Mặt
khác, nếu được giao nhiệm vụ trước thì HS cũng không chuẩn bị, hoặc chuẩn bị mang
tính đối phó.
- Trong thời gian học tập với di sản, chỉ có số ít HS làm việc thật sự (nhóm
trưởng và HS khá, giỏi trong nhóm), còn lại HS không ý thức được sự cần thiết phải
hợp tác để chiếm lĩnh tri thức nên nhiều khi các em biến hoạt động học tập với di sản
thành cơ hội đi tán gẫu, rong chơi, lãng phí thời gian.
- Câu trả lời của HS về những vấn đề trong bài học liên quan đến di sản thường
lặp lại những vấn đề trong SGK, thiếu sức sáng tạo.
- Với những chủ đề có nội dung phong phú, hấp dẫn HS dễ đi chệch hướng, tản
mạn do theo đuổi ý tưởng riêng.
- Coi Lịch sử là môn phụ, HS không chú trọng học nên không hào hứng tham
gia các hoạt động ngoại khóa, nâng cao chất lượng học tập bộ môn.
Từ thực trạng trên, một vấn đề đặt ra là: làm thế nào để khuyến khích GV tổ
chức sử dụng di sản trong dạy học lịch sử một cách hiệu quả, nâng cao chất lượng của

5


dạy học, bồi dưỡng lòng yêu quê hương, đất nước, tự hào về truyền thống dân tộc, ý
thức bảo vệ, gìn giữ và phát triển di sản góp phần đổi mới và nâng cao chất lượng dạy
học nói chung và môn Lịch sử nói riêng?
II. 2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: Đề xuất một số giải pháp trọng tâm sử
dụng di sản văn hóa nhằm nâng cao hứng thú học tập và sự yêu thích môn lịch sử
trong trường THCS
1. Giải pháp 1 : Xác định đúng nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học bộ
môn Lịch sử ở trường THCS.
- Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐBGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GDĐT đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối

tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự
học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh”.
Sử dụng di sản trong dạy học giúp cho quá trình học tập của học sinh trở nên hấp
dẫn hơn, học sinh hứng thú học tập và hiểu sâu sắc hơn về sự kiện lịch sử, phát triển tư
duy độc lập sáng tạo, giáo dục tư tưởng, đạo dức học sinh. Ý nghĩa, vai trò của các di
sản văn hóa có thể được phân tích dưới góc độ sau:
Cụ thể là:
+ Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh: Các di sản
văn hóa, dù là vật thật hay ảo ( thể hiện qua tranh ảnh, phim…) sử dụng trong dạy học,
giáo dục đều góp phần nâng cao tính trực quan, giúp người học mở rộng khả năng tiếp
cận đối tượng, hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại trong di sản, Tiếp cận với di
sản, học sinh sử dụng hệ thống tín hiệu thứ nhất ( sử dụng các giác quan như mắt –
nhìn, tai – nghe, mũi – ngửi, tay sờ…) để nghe được, thấy được, cảm nhận được và
qua đó tiếp thu những kiến thức cần thiết từ di sản. Ví dụ thăm bảo tàng Chiến thắng
Điện Biên Phủ, quan sát sa bàn chiến trận, các loại vũ khí, công cụ được các anh bộ
đội sử dụng, các vật dụng có trong bảo tàng, tìm hiểu thông tin trong các pano giới
thiệu, chú thích… trao đổi với nhau, hỏi người thuyết minh..,. học sinh hình dung cuộc

6


sống của các anh bộ đội trong cuộc chiến đấu, diễn biến trận đánh, lòng dũng cảm và
sự hi sinh lớn lao của các anh; qua đó các em biết được sâu sắc ý nghĩa của chiến
thắng Điện Biên Phủ, những tấm gương chiến đấu, hi sinh của anh bộ đội cụ Hồ…
Những hình ảnh, hiện vật và thông tin trong bảo tàng sẽ không chỉ giúp các em có têm
hiểu biết mà còn tác động sâu sắc đến tình cảm của các em. Ngoài ra các giá trị có
trong di sản còn được giáo viên khai thác bằng cách đặt câu hỏi mang tính định hướng
gợi ý cho học sinh tìm hiểu chúng qua đó di sản được sử dụng như là phương tiện điều
khiển quá trình nhận thức của học sinh. Ví dụ trước khi thăm bảo tàng, giáo viên yêu

cầu các em tập trung thu thập thông tin, thảo luận về diến biến trận đánh, về những
tấm gương chiến đấu anh dũng cả bộ đội ta, các em có thể nêu cảm nghĩ về những tấm
gương anh dũng đó Những gợi ý đó giúp cho hoạt động tham quan trở nên có ý nghĩa
và làm cho bài học lịch sử trở nên sống động hơn.
+ Giúp học sinh phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức: Di sản văn
hóa là phương tiện quan trọng giúp học sinh rèn một số kĩ năng học tập như kĩ năng
quan sát, thu thập, xử lí thông tin, thảo luận nhóm, qua đó tự chiếm lính kiến thức cần
thiết thu được trong quá trình tiếp cận với di sản; kĩ năng vận dụng kiến thức đã học để
giải thích những hiện tượng, sự vật có trong các di sản văn hóa.
+ Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh: Hứng thú nhận thức là một trong
những yếu tố ảnh hưởng lớn đến cường độ và hiệu quả của quá trình học tập. Trong
giai đoạn nhận thức cảm tính, sự tri giác các đối tượng, hiện tượng là điều kiện để phát
sinh cảm giác, tạo nên biểu tượng về chúng và sau đó, nhờ nhận thức lí tính hình thành
nên khái niệm hoàn chỉnh về đối tượng, hiện tượng, hiện tượng nghiên cứu. Trong quá
trình tiếp cận với di sản văn hóa theo sự hướng dẫn của giáo viển, các sự vật hiện
tượng, các giá trị ẩn chwastrong di sản sẽ được các em tìm hiểu, khám phá và trải
nghiệm. Những điều tưởng như quen thuộc sẽ trở nên hấp dẫn hơn, sống động hơn và
học sinh sẽ có hứng thú với chúng, từ đó các em có được động cơ học tập đúng đắn,
trở nên tích cực và phấn đấu tiếp nhận kiến thức mới cũng như có thái đọ và hành vi
thân thiện, bảo vệ di sản tốt hơn.
+ Phát triển trí tuệ của học sinh: Trong quá trình học tập, trí tuệ của học sinh
được phát triển nhờ sự tích cực hóa các mặt khác nhau của hoạt động tư duy, nhờ việc
tạo ra các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển khác nhau của hoạt động tâm lí: tri giác,

7


biểu tượng, trí nhớ… Cho học sinh tiếp cận d sản đúng mục đích, đúng lúc với những
phương pháp dạy học phù hợp, với sự hướng dẫn chi tiết mang tính định hướng, kích
thích tư duy, giáo viên sẽ giúp học sinh phát triển khả năng quan sát, khả năng xử lí

thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp và so sánh, qua đó phát triển trí tuệ của các
em.
+ Giáo dục nhân cách học sinh: Di sản văn hóa là một trong những phương tiện
dạy học đa dạng, sống động nhất. Ẩn chứa trong di sản là những giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên nó có khả năng tác
động mạnh tới tình cảm đạo đức, tới việc hính thành nhân cách học sinh. Khai thác
được những giá trị ẩn chứa trong các di sản, chuyển giao cho học sinh để các em
nhaanjt hức được những giá trị đó, giáo viên giúp hình thành ở học sinh một hệ thống
các quan điểm, các khái niệm về nhận thức thế giới xung quanh, giúp các em nhận
thức được bản chất và có cơ sở giải thích một cách khao học các sự vật, hện tượng liên
quan đến di sản. Tiến hành nghiên cứu di sản môt cách nghiêm túc và kĩ lưỡng cũng
chính là rèn cho các em tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học.
+ Góp phần phát triển một số kĩ năng sống ở học sinh: Để tự lực trong cuộc
sống, học tập và làm việc hiệu quả, học sinh rất cần kĩ năng sống. Kĩ năng sống được
hiểu là khả năng làm chủ bản thân của mỗ người, khả năng ứng xử phù hợp với những
người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc
sống. Dạy học với di sản tạo điều kiện phát triển một số kĩ năng sống như:
- Kĩ năng giao tiếp: trong quá trình học tập với di sản, học sinh được rèn luyện
cách trình bày, diễn đạt suy nghĩ, quan điểm, nhu cầu, mong muốn, cảm xúc của bản
thân dưới hình thức nói, viết một cách phù hợp với đối tượng, hoàn cảnh và văn hóa
giao tiếp; đồng thời biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng
quan điểm. Kĩ năng này giúp học sinh có mối quan hệ tích cực với người khác, đồng
thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới. Làm việc với di sản, học sinh có
được môi trường giao tiếp cới mở với bạn bè không chỉ trong phạm vi lớp học, đôi khi
với nhiều đối tượng khác mà các em gặp gỡ. Giáo viên lưu ý cách thức giao tiếp phù
hợp cũng chính là góp phần phát triển ở các em một loại kĩ năng sống cần thiết.
- Kĩ năng lắng nghe tích cực: người có kĩ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự
tập trung chú ý và thẻ hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của

8



người khác( bằng các cử chỉ điệu bộ, ánh mắt, nụ cười…), biết cho ý kiến phản hồi mà
không vội đánh giá, đồng tời có đối đáp hợp lí trong quá trình giao tiếp. Giáo viên lưu
ý học sinh chú ý lắng nghe người giới thiệu về di sản, đưa ra những câu hỏi tìm hiểu
sâu về di sản cũng chính là hướng dẫn các em thực hành kĩ năng lắng nghe tích cực.
- Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng: là khả năng có thể diễn đạt ý kiến, quan
điểm, suy nghĩ, cảm xúc, nhu cầu của bản thân, thông qua các hình thức nói, viết và cả
ngôn ngữ cơ thể ( cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười…) một cách phù hợp với
đối tượng giao tiêp, hoàn cảnh, văn hóa giao tiếp và trình bày đúng với nội dung chủ
đề đang được quan tâm; thông tin đưa ra đầy đủ, chính xác, được sắp xếp một cách
hợp lí, logic và phù hợp với nhu cầu, trình độ của đối tượng giao tiếp; cách trình bày
rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu và hâp dẫn đối tượng giao tiếp. Cho học sinh tiếp cận với di
sản, giáo viên sẽ lưu ý yêu cầu học sinh tìm hiểu sự vật hiện tượng liên quan đến di
sản một cách chi tiết, cụ thể và tạo điều kiện để học sinh trình bày lại được thông tin
thu thập được đồng thời bộc lộ cả suy nghĩ của cá nhân học sinh về những gì các em
trình bày.
- Kĩ năng hợp tác: Học sinh chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong một
công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung. Học tập với di sản, đòi hỏi sự hợp
tác chặt chẽ cả học sinh trong nhóm. Trong quá trình làm việc, học sinh biết chia sẻ
trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên khác
trong nhóm để hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao; biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét
các ý kiến, quan điểm của mọi người trong nhóm; biết hỗ trợ, giúp đỡ các thành viên
khác trong quá trình hoạt động; tôn trọng những quyết định chung, những điều đã cam
kết.
- Kĩ năng tư duy phê phán: là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn
diện các vấn đề, sự việc, hiện tượng…xảy ra. Khi làm việc với di sản, học sinh không
chỉ thu tập tông tin rồi mô tả các sự vật hiện tượng được các em tìm hiểu mà còn biết
phân tích chúng một cách có phê phán. Khi sắp xếp các thông tin thu thập theo từng
nội dung, các em phân tích, so sánh đối chiếu. lí giải các thông tin thu tập được, đặc

biệt là các thông tin trái chiều; xác định bản cất vấn đề, tình huống, sự vật, hiện
tượng….đưa ra những nhận định về những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề, tình

9


huống, sự vật, hiện tượng… Những tác động đó giúp học sinh phát triển kĩ năng tư duy
phê phán.
- Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm: Đó là khả năng con người tự tin, chủ động nhận
nhiệm vụ phù hợp với khả năng của bản thân, nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ và ý thức
cùng chia sẻ công việc với các thành viên khác trong nhóm. Khi đảm nhận trách
nhiệm, học sinh dựa trên những điêm mạnh, tiềm năng của bản thân, đồng thời tìm
kiếm thêm sự giúp đỡ cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ. Việc giáo viên giao nhiệm vụ
rõ ràng, học sinh tiếp nhận nhiệm vụ và trao đổi nhóm, phân công nhau thực thi nhiệm
vụ được giao một cách có ý thức, nhiệt tình và có kết quả. Quá trình đó giúp cho kĩ
năng đảm nhận trách nhiệm của học sinh đươc rèn luyện.
- Kĩ năng đặt mục tiêu: Đây là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho bản
thân trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện mục tiêu đó. Trong cả quá
trình tiếp cận di sản, giáo viên đã cùng học sinh xác định mục tiêu chung. Từng hoạt
động cụ thể, học sinh cần biết mình phải đạt cái gì sau mỗi buổi tìm hiểu di sản và biết
phải làm gì để đạt được mục tiêu đó. Kĩ năng đặt mục tiêu giúp cho học sinh hoạt động
có mục đích, có kế hoạch và có khả năng thực hiện được mục tiêu do chính mình xác
định.
- Kĩ năng quản lí thời gian: Là khả năng con người biết sắp xếp công việc theo thứ
tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết các công việc chính, trọng tâm trong một thời
gian nhất định. Các buổi học với di sản bao giờ cũng bị giới hạn thời gian, dù có vận
dụng phương pháp dạy học dự án, nghĩa là HS có vài ngày, đôi khi là vài tuần để
chuẩn bị, song thời gian vật chất dành cho việc này thực ra rất hạn chế. Điều đó đòi
hỏi học sinh biết lên kế hoạch, sắp xếp thời gian và tuân thủ đúng kế hoạch đã định
mới có thể thực hiện đầy đủ các công việc và cuối cùng có sản phẩm theo dự kiến. Nếu

biết tuần tự thực hiện các bước trong cả quá trình, học sinh sẽ tránh được áp lực do
công việc gây nên. Quản lí thời gian tốt góp phần quan trọng vào sự thành công của cá
nhân và của nhóm.
- Kĩ năng tìm kiếm và xử lý thông tin: Kĩ năng này giúp cho học sinh có thể thu
nhận được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách quan, chính xác và kịp
thời. trước khi làm việc với di sản, học sinh đã cùng giáo viên xác định ro chủ đề mà
mình cần phải tìm kiếm nguồn thông tin; học sinh được thông báo về những loại thông

10


tin mà mình cần phải tìm kiếm nguồn, các địa chỉ tin cậy có thể cung cấp những loại
thông tin đó; học sinh biết cách chuẩn bị công cụ để thu thập thông tin (giấy, bút, máy
ghi âm, máy ảnh…); cách tiến hành thu thập thông tin theo kế hoạch đã xây dựng,
cách sắp xếp thông tin thu thập được theo từng nội dung một cách có hệ thống sau đó
phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải cá thông tin thu thập được; xem xét một cách toàn
diện, thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống các thông tin đó và cuối cùng là viết báo cáo.
Những công việc trên được học sinh tuần tự thực hiện, sẽ giúp cho các em rèn được kĩ
năng tìm kiếm và xử lí thông tin trong quá trình làm việc với di sản.
* Tạo điều kiện tổ chưc quá trình hoạt động của giáo viên và học sinh một cách
hợp lí: Khi làm việc tại nơi có di sản, giáo viên và học sinh phải gia tăng cường độ
làm việc. Giáo viên không thuyết trình về các hiện tượng, sự vật cần tìm hiểu mà
hướng dẫn học sinh tự quan sát, thu thập thông tin, trao đổi trong nhóm để xử lí thông
tin, tìm hiểu về di sản, để tìm cách trình bày lại những hiểu biết của cá nhân hoặc của
nhóm. Đôi khi học sinh có thể yêu cầu tổ chưc triển lãm những hiện vật, bài viết giới
thiệu về di sản do các em thu thập được môi trường làm việc thay đổi đòi hỏi giáo viên
phải có phương pháp, cách thức tổ chức dạy học phù hợp, sao cho tập thể học sinh
được lôi cuốn vào công việc tìm hiểu, nghiên cứu di sản; đòi hỏi từng học sinh phải
làm việc thực sự và phải biết hợp tác với bạn bè để cùng hoàn thành nhiệm vụ được
giao.

2. Giải pháp 2 : Xác định đúng và sưu tầm tư liệu những di sản thường được sử
dụng trong dạy học Lịch sử ở trường THCS:
Di sản văn hóa ở Việt Nam vô cùng đa dạng, phong phú và có nhiều giá trị.
Tính đến năm 2012, Việt Nam được UNESCO công nhận:
- 7 di sản văn hóa và di sản thiên nhiên thế giới, trong đó các di sản có thể sử
dụng trong dạy học bộ môn lịch sử là: Quần thể di tích cố đô Huế; Phố cổ Hội An,
Khu di tích thánh địa Mỹ Sơn - Quảng Nam; Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội;
Thành nhà Hồ - Thanh Hóa.
- 7 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong đó các di sản có thể sử dụng
trong dạy học bộ môn lịch sử là: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ Bắc Ninh, hát xoan, tín ngưỡng thờ cúng Hùng
Vương – Phú Thọ.

11


- Ba di sản thông tin tư liệu thế giới: Mộc bản triều Nguyễn, 82 bia đá ở ăn
Miếu Quốc Tử Giám, mộc bản kinh phật chùa Vĩnh Nghiêm – Bắc Giang….
Ngoài ra còn có trên 3000 di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh cấp quốc gia;
hàng triệu mẫu vật, di vật, cổ vật và bảo vật quốc gia được lưu giữ trong hơn 120 bảo
tàng và các sưu tập tư nhân. Đặc biệt, các hiện vật văn hóa trong cuộc sống hàng ngày,
các di sản văn hóa phi vật thể đang tồn tại trong cộng đồng rất giàu có nhưng ít được
biết đến và khai thác.
Ví dụ: di sản tự nhiên và lịch sử: cây đa Tân Trào – Tuyên Quang, những làn
điệu dân ca ở các vùng miền khác nhau…
Tỉnh Nam Định hiện đang bảo tồn, lưu giữ gần 4.000 di tích lịch sử văn hóa,
trong đó có 77 di tích cấp quốc gia, 216 di tích cấp tỉnh; có nhiều di tích lịch sử văn
hóa, kiến trúc tiêu biểu như: Phủ Dầy, chùa Cổ Lễ, chùa Keo Hành Thiện, cầu Ngói,
chùa Lương, cột cờ Nam Định. Ngoài ra, còn có các di tích lịch sử văn hóa gắn với các
danh nhân.

Ví dụ như: Trạng Nguyên Nguyễn Hiền, Trạng lường Lương Thế Vinh, nhà
thơ Tú Xương, nhà lưu niệm Nguyễn Bính, khu lưu niệm cố Tổng Bí thư Trường
Chinh…
Cùng với các di tích lịch sử văn hóa, Nam Định còn bảo tồn và phát triển trên
70 làng nghề với các ngành nghề và sản phẩm truyền thống như: nghề chạm khảm gỗ
La Xuyên, sơn mài Cát Đằng, đúc đồng Tống Xá (huyện Ý Yên), mây tre đan Vĩnh
Hào (huyện Vụ Bản), nghề trồng hoa cây cảnh Vị Khê (huyện Nam Trực)… Nam
Định còn bảo tồn được những di sản văn hóa, tiêu biểu là trên 100 lễ hội truyền thống
được tổ chức hàng năm, nhiều lễ hội với nét độc đáo riêng, có sức hút du khách gần xa
về dự hội như: Lễ hội Phủ Dầy, lễ hội Đền Trần, lễ khai ấn đầu năm, hội chợ Viềng …
Tại các lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa, trò chơi dân gian được tái hiện: rối
nước, hát văn, đi cà kheo, bơi chải, thổi cơm thi, thi bắt vịt… đã thực sự tạo nên dấu
ấn và nét đẹp của vùng đất đồng bằng châu thổ sông Hồng trong lễ hội đầu xuân.
Tiêu biểu là khu di tích lịch sử Thiên Trường là những giá trị lịch sử, văn hóa
truyền thống của nhà Trần đã tạo nên cho vùng đất này loại hình du lịch văn hóa tâm
linh vô cùng phong phú. Ngoài quần thể di tích văn hóa nhà Trần tập trung tại khu vực
thành phố Nam Định và huyện Mỹ Lộc, tại Nam Định còn có hàng trăm di tích bao
gồm đền, phủ, chùa, miếu, lăng với các kiểu dáng kiến trúc đa dạng liên quan đến tục
thờ Đức Thánh Trần và các vua, quan, hoàng thân quốc thích nhà Trần. Nổi bật có một

12


số di tích tiêu biểu của văn hóa nhà Trần có khả năng khai thác, phát huy giá trị phục
vụ hoạt động dạy học: Khu di tích lịch sử văn hóa triều Trần, chùa Tháp, đền Bảo Lộc,
đền Cao Đài…
Mọi di sản đều có giá trị, tùy thuộc vào mục tiêu giáo dục mà chúng ta có thể
nhận ra những giá trị khác nhau của di sản. Di sản luôn ở xung quanh chúng ta. Di sản
văn hóa vật thể thường gắn bó một cách chặt chẽ với di sản vật thể và di sản thiên
nhiên. Di sản văn hóa phi vật thể cũng luôn gắn bó chặt chẽ với con người và không

gian văn hóa liên quan. Những người nắm giữ di sản văn hóa phi vật thể thường là
những nghệ nhân, người lớn tuổi, người làm nghề chuyên nghiệp, truyền thống, cán bộ
nghiên cứu, cán bộ quản lí di sản… Họ có thể trở thành cộng tác viên đắc lực của nhà
trường trong việc sử dụng di sản văn hóa vào dạy học lịch sử.
3. Giải pháp 3: Đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về sử dụng di sản trong dạy học:
a. Đảm bảo mục tiêu của chương trình GDPT và mục tiêu giáo dục di sản:
GV cần xác định mục tiêu bài học, chuyên đề và sự lựa chon di sản phải hướng
vào thực hiện mục tiêu đã được xác định và hỗ trợ, tạo điều kiện cho việc thực hiện
mục tiêu được thuận lợi hơn. Bên cạnh đó GV cần xây dựng thêm một số yêu cầu về di
sản đối với HS. Ví dụ HS có thêm sự hiểu biết về sự ra đời của di sản, về cấu trúc hình
thức và nguyên nhân của sự tạo thành cấu trúc đó, về ý nghĩa của di sản đối với đời
sống tinh thần, vật chất của người dân ở địa phương có di sản… Từ đó có thái độ tôn
trọng di sản, có hành vi giữ gìn và chăm sóc di sản. tuy nhiên tùy cách sử dụng di sản
để thiết kế mục tiêu giáo dục di sản cho phù hợp. GV có thể tăng tính trải nghiệm cho
hoạt động học của HS bằng cách phối hợp với chủ thể, người quản lí tạo điều kiện cho
các em học cách thực hành di sản…với mục đích giúp các em có sự cảm nhận của
“người trong cuộc”, từ đó tác động đén thái độ nhận thức đối với di sản. Nếu sử dụng
các hình anh về di sản trong dạy học trên lớp thì mục tiêu giáo dục di sản nên hạn chế
ở sự hiểu biết và thái độ của HS đối với di sản.
b. Xác định nội dung và thực hiện các bước chuẩn bị chu đáo:
Dù tiến hành dạy học tại địa điểm có di sản hay dạy học trong lớp học có sử
dụng di sản, GV cần chuẩn bị kĩ nội dung và các điều kiện thực hiện. Chuẩn bị nội
dung chuyên môn đã được tiến hành chu đáo theo quy định của chuẩn kiến thức kĩ

13


năng bộ môn và theo gợi ý về phương pháp dạy học môn học, chúng ta tập trung vào
việc xác định nội dung và các bước chuẩn bị liên quan đến khai thác di sản như một
phương tiện dạy học.

Về nội dung liên quan đến di sản, GV cần cân nhắc những yêu cầu đã được xác
định, ví dụ yêu cầu HS tìm hiểu nguồn gốc của di sản, nguyên nhân tạo thành cấu trúc
của di sản, sự phát triển của di sản theo thời gian, ý nghĩa của di sản, cảm nhận của HS
với di sản, HS có thể làm gì để bảo vệ, tôn tạo di sản…những yêu cầu này càng chi
tiết, trình bày càng đơn giản sẽ càng giúp HS nhận biết rõ những nhiệm vụ cần thực
hiện. GV cần lưu ý về thời gian HS có thể làm việc tại địa điểm có di sản để đưa ra các
yêu cầu về nội dung cho phù hợp. GV có thể hướng dẫn HS tìm hiểu trước các thông
tin liên quan tới di sản, khi làm việc với di sản, HS sẽ trao đổi, quan sát, so sánh những
gì thu thập được với thực tế di sản, từ đó có sự hiểu biết sâu sắc hơn về di sản. GV
phải tìm hiểu di sản tr\ước khi đưa HS tiếp cận để hỗ trợ HS khi cần. Tuy nhiên, không
nhất thiết GV phải biết đầy đủ, chi tiết về những gì HS sẽ thu thập, tìm kiếm về di sản.
Việc HS tìm được những thông tin bổ sung, thông tin “lạ” về di sản sẽ đem lại niềm
vui, sự phấn khởi cho HS, kích thích tính tò mò, ham hiểu biết của các em, tạo hứng
thú cho những lần nghiên cứu, tìm hiểu di sản tiếp theo.
Hoạt động làm việc với di sản cần tiến hành theo các bước cụ thể. GV cần lập
kế hoạch chi tiết các công việc cụ thể. Chú ý một số công việc chính sau:
+ Công việc chuẩn bị:
Về phía GV: Hướng dẫn HS cùng tham gia. Ở bước này, GV có điều kiện để thực hiện
đổi mới phương pháp qua một số việc làm cụ thể:
- Dự kiến nội dung công việc, hình dung được tiến trình hoạt động.
- Dự kiến phương tiện cần dùng cho hoạt động
- Dự kiến sẽ giao những nhiệm vụ gì cho đối tượng nào, thời gian phải hoàn thành là
bao lâu.
- GV sẽ làm gì để thể hiện sự tương tác tích cực giữa thầy và trò
Về phía HS: khi được giao nhiệm vụ, các em cần chủ động bàn bạc cách thực hiện
trong tập thể lớp, chỉ ra những việc phải làm, phân công đúng người, đúng việc. Tuy
vậy GV vẫn phải có sự quan tâm, theo dõi, giúp đỡ, nhắc nhở HS hoàn thành việc
chuẩn bị.

14



+ Tiến hành hoạt động với di sản: Có thể hình dung bước này như xây một kịch bản
cho học sinh thể hiện. Do đó cần sắp xếp một quy trình tiến hành hợp lý, phù hợp với
khả năng của HS. Kịch bản hoạt động cần được thiết kế chi tiết từ lúc bắt đầu tiếp xúc
với di sản các công việc cụ thể cho HS tìm thông tin về các đối tượng, sự vật chứa
đựng trong di sản liên quan đến nội dung bài học (ghi chép, lấy mẫu vật, chụp ảnh, vẽ
lại…) trao đổi để phân tích các sự vật hiện tượng, giải thích liên hệ… nêu nhận xét
của cá nhân, nhóm,… đén lựa chọn cách trình bày thông tin, mẫu vật, viết báo cáo.
Trong bước tiên hành hoạt động, HS hoàn toàn làm chủ, tự quản điều khiển
hoạt động. GV chỉ là người tham dự, quan sát và chỉ xuất hiện khi thật cần thiết.
+ Kết thúc hoạt động: Bước này cũng do HS hoàn toàn làm chủ. Có nhiều cách kết
thúc, có thể tập hợp HS, yêu cầu đại diện nhóm nêu cảm nghĩ về buổi làm việc với di
sản, tổ chức cho HS tham gia làm vệ sinh, tổ chức cho HS ghi cảm tưởng đối với di
sản( nếu có sổ ghi cảm tưởng)… Khi thiết kế bước này, GV có thể gợi ý các dự kiến
để HS lựa chon cách kết thúc sao cho hợp lí, tránh nhàm chán, tẻ nhạt.
+ Đánh giá kết quả hoạt động: Là dịp để HS tự nhìn lại quá trình tổ chức hoạt động
của mình từ chuẩn bị, tiến hành hoạt động đến đánh giá kết quả hoạt động. Có thể
đánh giá về ý thức tham gia mọi thành viên trong tập thể hoặc viết thu hoạch sau hoạt
động làm việc với di sản nhằm kiểm tra mức độ nhận thức, thái độ của HS, thu sản
phẩm sau hoạt động …
c. Phát huy tính tích cực, chủ động của HS, tạo điều kiện cho học sinh trải nghiệm:
GV luôn tạo điều kiện tối đa để HS được tham gia vào các hoạt động với di sản,
từ khâu lập kế hoạch tới những hoạt động với di sản như quan sát. Làm việc trực tiếp
với các sự vật hiện tượng chứa đựng trong di sản để các em tìm tòi khám phá, liên hệ
kiến thức đã có để giải thích các hiện tượng, sự vật đó.
GV giao nhiêm vụ rõ ràng, hướng dẫn cụ thể, chi tiết để HS biết cách làm việc
với di sản, được tự chủ với công việc, tự hoàn thành báo cáo tìm hiểu di sản, có sản
phẩm do cá nhân hoặc nhóm tạo ra, các em sẽ làm việc tích cực hơn. Trong quá trình
làm việc với di sản, các em được áp dụng những kiến thức, sự hiểu biết của cá nhân để

hiểu biết các sự vật, hiện tượng gắn bó với di sản, trải nghiệm những tình huống được
dựng lại, mô tả lại mà chúng tác động mạnh mẽ đến tình cảm của các em, giúp các em

15


có được tình cảm, thái độ chân thực, đúng đắn với di sản, phát triển tốt hơn một số kĩ
năng sống như đã nêu ở trên.
d. Kết hợp đa dạng các hình thức tổ chức thực hiện:
Với rất nhiều loại di sản tồn tại xung quanh môi trường sống của chúng ta, khi
sử dụng chúng như một phương tiện dạy học có thể tổ chức nhiều hình thức tiếp cận:
Cho HS trực tiếp quan sát, dùng các giác quan để tìm hiểu, dùng máy ảnh, máy quay
phim ghi lại hình ảnh di sản. Cũng có thể cho các em tiếp xúc qua phim ảnh, đĩa CD
ghi âm thanh… nếu ko có điều kiện đưa HS tới nơi có di sản.
Bên cạnh đó, cần tổ chức nhiều loại hình hoạt động tạo điều kiện để HS tìm
hiểu di sản ngay trong khuôn viên nhà trường: tổ chức sinh hoạt chuyên đề tìm hiểu về
di sản, câu lạc bộ những người yêu thích văn nghệ dân gian; tổ chức triển lãm về di
sản địa phương..., thăm những địa điểm có di sản ngay tại địa phương nhà trường đóng
hoặc di sản nổi tiếng trong nước, quốc tế khi có điều kiện.
4. Giải pháp 4: Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học truyền thống kết hợp
với các phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại theo tinh thần đổi mới phù
hợp với đặc trưng bộ môn:
a. Phương pháp dạy học với di sản:
+ Phương pháp trình bày miệng:
Đây là phương pháp truyền thống, vẫn giữ vai trò chủ đao trong việc giảng dạy của
GV và học tập của HS. Phương pháp này không chỉ giúp HS khôi phục hình ảnh về
nội dung bài học đang nghiên cứu mà còn giúp các em nhận thức sâu sắc kiến thức,
trình bày những suy nghĩ, hiểu biết trong nghiên cứu tìm tòi.
GV và HS có thể vận dụng nhiều cách trình bày miệng như tường thuật, miêu tả, kể
chuyện, giải thích,… GV phải căn cứ vào đặc trưng môn học để sử dụng cho phù hợp.

Song khi sử dụng các cách trình bày miệng phải đảm bảo yêu cầu phát huy tính tính
cực, chủ động của HS.
+ Phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan:

16


- Dạy học lịch sử với di sản có thể sử dụng các loại đồ dùng trực quan như
Hiện vật: bao gồm những di tích văn hóa, di tích lịch sử và cách mạng, những di vật
khảo cổ hoặc di vật thuộc các thời đại lịch sử. Đay là những tài liệu gốc có giá trị, có ý
nghĩa to lớn về nhận thức, giáo dục và phát triển HS. Song loại đồ dùng trực quan này
không có sẵn trong trường phổ thông mà được giữ gìn trong bảo tàng, hoặc ở nơi có di
tích và không còn được nguyên vẹn. Vì vậy, khi sử dụng các hiện vaaqtj trong dạy
học cần phát huy trí tưởng tượng Tái tạo, tư duy lịch sử để HS hình dung đúng đời
sống hiện thực của quá khứ. Trong điều kiện thuận lợi, GV nên tổ chức dạy học trong
các viện bảo tàng ở Trung ương, địa phương hay ở ngay các địa điểm có di tích, tức là
tiến hành bài học ngay tại di sản.
Đồ dùng trực quan tạo hình: bao gồm mô hình, sa bàn và các loại đồ phục chế
khác, hình vẽ, phim, tranh ảnh…GV có thể khai thác, sưu tầm, chụp ảnh từ các di sản
đem về trường, xây dựng để tiến hành bài học trên lớp hay tại di sản.
Đồ dùng trực quan quy ước: Bao gồm các loại bản đồ, đồ thị, sơ đồ, bảng biểu…
GV có thể khai thác, sưu tầm từ bảo tàng, di tích hoặc dựa vào tài liệu viết về di sản để
xây dựng, phục vụ các bài học lịch sử tiến hành trên lớp hay tại di sản.
- Khi sử dụng những đồ dùng trực quan trên, GV phải căn cứ vào đặc trưng môn
học, đối tượng để có phương pháp sử dụng phù hợp, phát huy tính tích cực, chủ động
của HS trong quá trình quan sát kết hợp phát biểu, tự chiếm lĩnh kiến thức.
- Sử dụng trao đổi, đàm thoại giữa thầy với trò, trò với trò dưới sự hướng dẫn của
thầy để đạt được mục đích học tập đề ra. Ví dụ khi sử dụng tranh, ảnh về di sản trong
bài học trên lớp GV cần hướng dẫn HS quan sát, nêu câu hỏi gợi mở để HS tìm hiểu
nội dung bài học thể hiện qua tranh ảnh, trao đổi thảo luận, trình bày ý kiến trước lớp.

Cuối cùng GV đánh giá, chốt lại kiến thức trước lớp.
+ Phương pháp dạy học nêu vấn đề:
Bản chất là tạo ra các tình huống có vấn đề và điều khiển người học giải quyết
những vấn đề học tập đó. Nhờ đó HS lĩnh hội vững chắc kiến thức mới, kĩ năng mới
hoặc thái độ tích cực. Bài học sẽ có ý nghĩa đặc biệt đối với việc hình thành kiến thức
trên cơ sở hoạt động tư duy độc lập của HS.

17


Khi nêu vấn đề phải đảm bảo tính khoa học, tính Đảng, ngôn ngữ trong sáng…, đặt
HS trước sự giải quyết một điều mới, điều chưa biết, đồng thời hướng dẫn học sịnh
độc lập tìm ra vấn đề trên cơ sở phần trình bày của GV và những kiến thức, kĩ năng, kĩ
xảo, vốn sống thực tế của các em. Tình huống có vấn đề thường là: Tình huống nghịch
lí: là tình huống xuất hiện đứng trước một sự lựa chọn rất khó khăn, giữa hai hay nhiều
phương án giải quyết. Tình huống bác bỏ là tình huống có vấn đề đòi hỏi bác bỏ một
điểm kết luận sai lầm. Để đạt điều đó người học phải tìm ra chỗ yếu, chỗ sai, chỗ thiếu
chính xác của luận điểm hoặc kết luận đó và chứng minh tính chất sai lầm của chúng.
Tình huống đòi hỏi giải thích tại sao: Là tình huống phổ biến trong nghiên cứu khoa
học và trong dạy học. Các tình huống này đòi hỏi người học vận dụng kiến thức và kĩ
năng vốn có để giải quyết vấn đề đặt ra. Người học phải tìm ra được các mối liên hệ
đặc biệt là mối quan hệ nhân quả đó.
Các bài tập nêu vấn đề là bài tập mà việc độc lập giải quyết nó sẽ dẫn đến chỗ tạo
ra sự hiểu biết mới bằng cách giải quyết mới mà trước đó HS chưa biết. Chức năng
quan trọng của bài tập nêu vấn đè là rèn luyện năng lực tích cực, độc lập suy nghĩ
trong giải quyết vấn đề nhằm phát triển tư duy cho Hs trong quá trình học tập.
+ Phương pháp dạy học theo dự án: HS thực hiện một nhiệm vụ học tập phức tạp, có
sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, thực tiễn. Nhiệm vụ học tập này được HS thực
hiện với tính tự lực cao trong suốt quá trình học tập từ xác định mục đích, lập kế hoạch
đến việc thực hiện dự án, thu thập thông tin, phân tích dữ liệu, kiểm tra, điều chỉnh,

đánh giá quá trình và kết quả…làm việc nhóm là dạng tổ chức hoạt động chủ yếu cả
dự án. Dạy học dự án góp phần gắn lí thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà
trường và xã hội, kích thích động cơ và hứng thú học tập của HS, phát huy tính tính
cực, tính trách nhiệm, sáng tạo, bền bỉ, kiên nhẫn trong công việc của HS.
Trình tự tổ chức dạy học theo dự án thường là:
- Lựa chọn đề tài và xác định mục đích của dự án. Đây là việc làm rất quan trọng, GV
và HS phải cùng nhau đề xuất, xác định đề tài và mục đích của dự án.
- Xây dựng kế hoạch thực hiện. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS xây dựng kế hoạch
thực hiện dự án, trong đó cần xác định những công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật
liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành và phân công công việc của nhóm.
- Thực hiện dự án: Các thành viên thực hiện kế hoạch đề ra, trong đó HS cần kết hợp
các hoạt động trí tuệ với hoạt động thực tiễn, thực hành như thu thập thông tin qua báo

18


chí, Internet, thư viện, thực nghiệm, quan sát; xử lí thông tin, thảo luận trong nhóm,
trao đổi, xin ý kiến GV…
- Thu thập kết quả và công bố sản phẩm: HS tập hợp tất cả kết quả thành một sản
phẩm cuối cùng. Kết quả dự án có thể trình bày bằng nhiều hình thức khác nhau như
báo cáo, thu hoạch, đóng kịch…
- Đánh giá dự án: GV và HS đánh giá quá trình thực hiện và kết quả thu được, từ đó
rút ra những bài học kinh nghiệm.
+ Sử dụng CNTT trong dạy học:
Bên cạnh các đồ dùng trực quan truyền thống để dạy học lịch sử, GV cần sử
dụng máy vi tính với các phần mềm thông dụng mà phổ biến hiện nay là Power Point.
Ứng dụng CNTT trong dạy học lịch sử nói chung và dạy học với di sản nói riêng nhằm
tạo hứng thú học tập và tích cực hóa các hoạt động của HS. Sử dụng di sản trong dạy
học lịch sử cần thiết ứng dụng CNTT. GV có thể khai thác các tranh ảnh, hiện vật, dấu
tích… của di sản xây dựng thành những nội dung phục vụ các bài học trên lớp hay

hoạt động ngoại khóa. Tuy nhiên cần chú ý:
- Sử dụng CNTT vào dạy học lịch sử và dạy học lịch sử với di sản phải đảm bảo
mục tiêu giáo dục, mục tiêu môn học, mục tiêu bài học.
- Đảm bảo tính trực quan trong dạy học, có tác dụng gây hứng thú học tập cho
HS một cách tích cực
- Không lạm dụng việc sử dụng CNTT, biến giờ học thành giờ trình diễn hình
ảnh và HS chỉ có vai trò khám thị một cách say mê song bị động và không có tác dụng
nhiều trong việc tiếp thu kiến thức.
* Hình thức tổ chức dạy học, giáo dục với di sản:
+ Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học lịch sử:
Tài liệu về di sản đóng vai trò là nguồn kiến thức góp phần bổ sung, cụ thể hóa,
làm phong phú hơn nội dung bài học lịch sử. những kiến thức trong bài học sẽ không
chỉ đơn thuần là những con số, các sự kiện khô khan mà sinh động hơn, có hồn hơn,
giúp cho HS tái hiện được kiến thức và hiểu bài nhanh hơn, nhớ lâu hơn. Tuy nhiên để
khai thác tài liệu về di sản phục vụ cho bài học nội khóa, GV cần lưu ý:
- Tiến hành chọn lọc kĩ và xác minh tính chân thực của các tài liệu về di sản
- Cần sắp xếp tài liệu thành hệ thống phù hợp với tiến trình bài học, kết hợp với
các phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật hiện đại để làm cho bài học sinh động
hơn.

19


- Tùy theo mục đích, nội dung bài học mà GV khai thác những tài liệu khác
nhau (có bài dùng tranh ảnh, có bài dùng hiện vật kết hợp miêu tả, tường thuật về di
sản, kể chuyện vê nhân vật lịch sử…) phù hợp với trình độ, khả năng nhận thức của
HS.
- Việc sưu tầm, khai thác tài liệu có thể tiến hành như sau:
Nhà trường tạo mọi điều kiện tốt nhất, đặc biệt là hỗ trợ về vật chất cho GV bộ
môn đến nơi có di sản sưu tầm tài liệu phục vụ việc dạy học. Trước khi đến tìm hiểu,

sưu tầm nơi có di sản GV phải nghiên cứu kĩ SGK và lập một danh sách các di sản cần
thiết phải sử dụng trong bài học hoặc nội dung dạy học của bộ môn. Khi trực tiếp đến
nơi có di sản GV phải bao quát quá trình hình thành và xây dựng khu có di sản, sau đó
tham quan toàn bộ để xác định những tài liệu nào, tranh ảnh, hiện vật, những mẩu
chuyện, điệu hát…) phù hợp với nội dung giảng dạy. GV có thể liên hệ, trao đổi với
cán bộ quản lí di sản để nhờ họ giúp đỡ tìm hiểu sâu hơn, có hiệu quả hơn về sự hình
thành, tồn tại và nội dung di sản
Phát động học sinh tham gia sưu tầm tài liệu, tranh ảnh hoặc hiện vật về di sản
phục vụ cho hoạt động dạy học. Công việc có thể phát động thường xuyên hoặc trong
các đợt thi đua chào mừng những ngày lễ lớn thông qua đó mà tạo hứng thú học tập và
bước đầu tập dượt nghiên cứu khoa học cho HS. Khi đã sưu tầm được tài liệu về di
sản, GV phải tiến hành phân loại cho phù hợp với nội dung từng bài học cụ thể để tiến
hành việc dạy học.
- Khi soạn giáo án, GV cần chọn những tài liệu điển hình nhất, cần thiết nhất để
đưa vào bài giảng, tránh tình trạng đưa quá nhiều tài liệu, sử dụng không đúng lúc,
đúng chỗ, làm loãng nội dung cơ bản của bài học, gây quá tải về kiến thức với HS.
Những tài liệu về di sản dược sử dụng trong hình thức này như là các phương tiện trực
quan, nguồn kiến thức. Do đó cần kết hợp chặt chẽ với trình bày miệng và các phương
pháp khác. Song phải đảm bảo phù hợp với từng đối tượng HS. Ví dụ: GV có thể sử
dụng ảnh chụp kết hợp với việc miêu tả khái quát có phân tích những kiến thức liên
quan, hoặc GV có thể sử dụng tranh ảnh về di sản kết hợp với những mẩu chuyện để
cụ thể hóa kiến thức hay kết hợp sử dụng tranh ảnh về di sản với trao đổi đàm thoại
nhằm giúp HS hiểu sâu sắc những kiến thức cơ bản của bài học.
+ Tiến hành bài học tại nơi có di sản: Tiến hành bài học tại nơi có di sản là
HS đã được quan sát các dấu vết, mảnh vụn của quá khứ để bổ sung, cụ thể hóa những
kiến thức các em đang nghiên cứu. Nó giúp các em phát triển trí tưởng tượng, đa dạng

20



hóa hoạt động nhận thức, gây hứng thú học tập bộ môn. Tiến hành học tại di sản là
phương thức thực hiện dạy học gắn với đời sống, có tác dụng nâng cao hiểu biết về
kiến thức môn học, về văn hóa – giáo dục, lòng yêu quê hương, đất nước, óc thẩm mĩ
cho các em. Bài học tại di sản cũng phải tuân theo đầy đủ yêu cầu của một bài học nội
khóa đồng thời cũng phải thực hiện các yêu cầu của bài dạy tại thực địa.
Yêu cầu tiến hành bài học tại di sản: Việc chuẩn bị tiến hành bài học tại di sản
phải được thực hiện chu đáo, kĩ lưỡng cả đối với GV và HS.
Một là, chọn địa điểm thích hợp với mục tiêu, nội dung, số tiết học và điều kiện
tiến hành. Nếu ở địa phương trường đóng hoặc các vùng lân cận có di sản liên quan
đến những sự kiện lớn được ghi trong chương trình môn học thì cố gắng tiến hành bài
học tại di sản, còn ở những địa phương không có di sản liên quan đến kiến thức trong
chương trình thì tổ chức dạy học tại di sản những bài học về địa phương (lịch sử địa
phương, địa lí địa phương, âm nhạc dân gian ở địa phương…)
Hai là, phải lập kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị và tiến hành bài học, đi
khảo sát thực địa, liên hệ với cơ quan quản lí di sản. Sau khi đã lựa chon được vấn đề
dạy học và di sản phù hợp, GV phải xây dựng được kế hoạch chuẩn bị và tiến hành bài
học tại nơi có di sản một cách chi tiết cho từng nội dung công việc, thời gian thực hiện,
lực lượng phối hợp, phương tiện thiết bị hỗ trợ.
Ba là, GV phải chuẩn bị trước cho HS về tư tưởng và kiến thức chuyên môn
như mục đích, yêu cầu của bài học và nội dung kiến thức cơ bản cần tìm hiểu trước ở
nhà, thông báo sơ qua về địa điểm có di sản, sự kiện, nội dung kiến thức liên quan đến
di sản, yêu cầu các em sưu tầm thêm tài liệu có liên quan; chuẩn bị đồ dùng trực quan,
phương tiện dạy học cần thiết; phổ biến nội quy học tập thực địa. Ngoài ra GV còn
phải nhắc nhở HS về việc đảm bảo phương tiện đi lại, an toàn giao thông, giờ giấc, vật
dụng che mưa, nắng…
Nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, bám sát nội dung kiến
thức mà di sản phản ánh và giải quyết những vấn đề cơ bản nhất được phản ánh qua
các chứng tích, hiện vật tại di sản. Nội dung bài học tại di sản là kiến thức cơ bản được
quy định trong chương trình của lớp học, cấp học nhưng phải lựa chọn những kiến
thức phù hợp với di sản. GV phải xác định được mối quan hệ giữa nội dung bài giảng

với các chứng tích hiện vật tại di sản, xem các chứng tích hiện vật tại di sản là nguồn
kiến thức chủ yếu của bài học hoặc ít ra cũng có tác dụng dẫn chứng, minh họa cho
một nội dung của bài học. GV không cần và cũng không thể giới thiệu toàn bộ di sản

21


hoặc toàn bộ bài học mà chỉ lựa chọn những kiến thức được minh chứng rõ ràng qua di
vật của di sản. Điều quan trọng là nguồn kiến thức từ di sản phải làm sáng tỏ nội dung
kiến thức trọng tâm của bài.
Ngoài việc lựa chọn nội dung kiến thức được qui định trong chương trình của
lớp học, cấp học phù hợp với di sản, bài giảng tại đây cần được bổ sung nguồn tài liệu
địa phương để làm sinh động, cụ thể hóa nội dung bài học. Qua đó khôi phục bức tranh
quá khứ đã diễn ra tại di sản một cách sống động chân thực nhất. Nguồn tài liệu địa
phương được sử dụng phải đảm bảo độ chính xác tin cậy.
Đối với bài học trong SGK, bài giảng tại di sản cần được bổ sung các tài liệu
địa phương phù hợp bằng cách vừa giảng vừa kết hợp tổ chức cho học sinh quan sát
tìm hiểu hiện vật, chứng tích thực địa có liên quan đến bài học. Hoặc sau khi giảng dạy
xong nội dung của bài học, GV tổ chức cho HS quan sát, tìm hiểu về các tài liệu, hiện
vật liên quan đến bài, bổ sung tài liệu về địa phương, tài liệu về di sản làm sinh động
sâu sắc hơn nội dung bài giảng là vô cùng cần thiết. Tuy nhiên GV cần đảm bảo nội
dung chương trình, tránh quá tải với HS hoặc ôm đồm kiến thức lịch sử địa phương.
Đối với bài học về các nội dung địa phương: nội dung bài giảng tại di sản có thể
do GV thiết kế theo tài liệu hướng dẫn của Sở Giáo dục Đào tạo hoặc do GV tự biên
soạn. Trong đó, cần tuân thủ các nguyên tắc về phương pháp dạy học:
+ Chọn những kiến thức cơ bản, tiêu biểu của địa phương tương ứng với một
nội dung kiến thức của bài học trong chương trình SGK chung làm nội dung cho các
tiết học về địa phương.
+ Việc học lịch sử địa phương mang tính chất tổng hợp toàn diện, không phải là
dạy chuyên đề về một lĩnh vực nào đó.

+ Nguồn tài liệu chủ yếu để biên soạn nội dung về lịch sử địa phương ngoài
những tài liệu do GV và HS thu thập, xác minh cần dựa vào các bài viết, công trình
của những cơ quan có trách nhiệm như Sở văn hóa Thông tin, Ban Tuyên giáo Tỉnh
ủy… Bài học về địa phương do GV tự biên soạn cần tranh thủ ý kiến góp ý của các cơ
quan có trách nhiệm ở trường và địa phương.
* Bài học tại địa điểm có di sản : phải phát triển được các hoạt động nhận thức
tích cực, phải độc lập quan sát đặc biệt là tư duy độc lập của HS. Tổ chức dạy học tại
thực địa nơi có di sản GV phải kết hợp phương pháp dạy học linh hoạt để khơi dạy sự
tò mò kích thích hứng thú, phát triển óc quan sát của HS khi tiếp xúc với dấu vết hay
hiện vật tại di sản, tránh làm cho HS mệt mỏi phân tán sự chú ý sang nội dung xa bài

22


học. Nên vận dụng kiểu dạy học nêu vấn đề kết hợp với trao đổi, đàm thoại, trực quan
tổ chức hoạt động học tập một cách đa dạng (toàn lớp, nhóm, cá nhân)
* Bài học tại di sản: phải giúp HS có cái nhìn“ trực quan sinh động” về các
chứng tích, hiện vật, phản ánh các kiến thức của môn học mà các em đang tìm hiểu.
Những dấu vết, hiện vật tại di sản không chỉ là nguồn kiến thức mà còn là những
phương tiện trực quan vô giá giúp HS có biểu tượng chân thực, sinh động về các sự
kiện, địa danh, hiện tượng, từ đó hình thành khái niệm một cách vững chắc. Mặt khác,
việc được quan sát trực tiếp lại dấu vết, hiện tượng tại di sản sẽ tạo cho HS xúc cảm
đặc biệt qua đó tác động sâu sắc đến tư tưởng tình cảm và hành vi của các em. Đây là
ưu thế vượt trội qua bài học tại nơi có di sản so với bài học trên lớp. Vì vậy với bài học
tiến hành tại nơi có di sản, GV phải chú ý phát triển óc quan sát của HS, khai thác tối
đa khả năng cung cấp thông tin qua những dấu vết, hiện vật quan trọng phản ánh kiến
thức cơ bản, tránh tình trạng cho HS quan sát tràn lan làm loãng nội dung cần nghiên
cứu của bài học. Khi hướng dẫn HS quan sát phải giúp HS tìm ra mối liên hệ bên
trong, làm sáng tỏ nội dung kiến thức mà các chứng tích hiện vật phản ánh.
* Phải tổ chức cho HS tự học trong và sau giờ học.

Đây là điều kiện cần thiết để bài học tại di sản đạt kết quả tốt. HS chỉ có thể trả
lời được các câu hỏi, chỉ ra được mối quan hệ bên trong giữa các đối tượng quan sát và
bản chất của hiện tượng trên cơ sở biết phân tích, so sánh, khái quát các mặt chủ yếu
của những điều quan sát được. Vì vậy, phải phát triển khả năng tự học của học sinh
trong và sau giờ học. Khi tiến hành bài học tại thực địa, tùy vào điều kiện cụ thể, GV
có thể tổ chức các hoạt động tự học cho HS như:
- Hướng dẫn HS tập dượt, nghiên cứu thông qua tiếp xúc với các loại tài liệu
nagy tại di sản như tìm hiểu niên đại, xuất xứ, chất liệu, hình thức thể hiện (kiểu kiến
trúc, hoa văn trang trí, kiểu chữ…) và nội dung kiến thức của cá dấu vết hiện vật…liên
quan đến bài học.
- Hướng dẫn HS làm các loại bài tập thực hành từ đơn giản đến phức tạp: Vẽ sơ
đồ khu di sản, vẽ lược đồ thể hiện diễn biến sự kiện, hiện tượng đã diến ra tại nơi có di
sản, lập hồ sơ, đánh giá, phân loại hiện vật tại di sản…
- Hướng dẫn HS viết bài thu hoạch về bài học.
- Kết hợp tổ chức cho HS tham gia các hoạt động ngoại khóa sau bài học như
tham quan toàn bộ khu di sản, tổ chức các trò chơi lịch sử, đóng kịch diễn lại các câu
chuyện, sự tích liên quan đến di sản.

23


*Các bước tiến hành bài học tại di sản:
Có thể tiến hành với 2 loại bài học: Bài nghiên cứu kiến thức mới, bài học ôn tập, sơ
kết, tổng kết.
Nếu có điều kiện kết hợp với ban quản lí di sản thì có thể tiến hành bài học nghiên cứu
kiến thức mới như sau:
- GV giới thiệu những nét cơ bản về nội dung kiến thức có liên quan đến di sản.
- Một cán bộ địa phương (cán bộ lãnh đạo, cán bộ phụ trách văn hóa, hay người đã tam
gia, chứng kiến) trình bày cụ thể về nội dung, kiến thức bào học liên quan đến di sản.
- GV chốt lại những vấn đề chủ yếu trong chương trình học liên quan đến di sản.

- Cho HS tham quan tư do.
- Viết bài thu hoạch.
Nếu bài học học do GV đảm nhiệm, có thể tiến hành theo 2 cách:
Thứ nhất: GV tiến hành dậy học bình thường như trên lớp tại một phòng riêng
nơi có di sản (nếu có), sau đó hướng dẫn HS tham quan những dấu vết, chứng tích,
hiện vật có liên quan đến bài học. Tiến hành bài học nghiên cứu kiến thức mới tại di
sản bằng cách này tương đối đơn giản, dễ thực hiện. Nó có tác dụng cụ thể hóa, củng
cố, khắc sâu kiến thức cho HS.
Thứ hai: GV tiến hành bài học ngay tại phòng trưng bày (nếu có) hoặc nơi có
chứng tích, hiện vật, di sản trở thành đồ dùng trực quan.
Cần lưu ý:
+ Kết hợp việc huy động kiến thức cũ, kiến thức mới đã chuẩn bị trước của HS
với trao đổi để tìm hiểu nhanh các kiến thức của bài học ít hay không được phản ánh
bới các chứng tích, hiện vật, di sản…
+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc hướng dẫn HS quan sát di sản với trao đổi,
thảo luận để làm rõ kiến thức trọng tâm của bài học.
+ Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với các chứng tích, hiện vật tại di sản.
+ Kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lí giữa việc hướng dẫn HS chứng tích, hiện vật
tại di sản với việc trình bày có hình ảnh sinh động của GV.
+ Nếu bài học tại thực địa di sản là một vấn đề chung về đất nước, dân tộc có
trong SGK thì cần gắn nội dung bài học với thực tế địa phương.

24


Kết thúc bài học, GV có thể dựa vào những dấu vết, hiện vật tại di sản để kiểm
tra hoạt động nhận thức của HS. HS báo cáo kết quả đồng thời kết hợp tổ chức một số
hoạt động ngoại khóa thích hợp.
* Sử dụng di sản để tổ chức các hoạt động ngoại khóa:
- Tổ chức tham quan, ngoại khóa, trải nghiệm di sản

- Khai thác và sử dụng tư liệu về di sản để tổ chức triển lãm, ra báo học tập:
- Tổ chức thi tìm hiểu về di sản nói chung, di sản địa phương nói riêng.
- Tổ chức cho HS chăm sóc, bảo vệ các di sản văn hóa địa phương
5. Giải pháp 5: Kiểm tra, đánh giá việc sử dụng di sản trong dạy học:
- Đánh giá kết quả học tập của HS khi GV tiến hành dạy học với di sản phải
đảm bảo những yêu cầu chung của công tác đánh giá kết quả học tập của HS.
- Cần lưu ý đánh giá HS thêm qua sự hiểu biết đối với di sản theo mục tiêu đã
xác định và đánh giá các kĩ năng học tập của HS với di sản qua việc hoàn thành nhiệm
vụ của HS do GV giao hoặc theo sự phân công trong nhóm. Khi được giao một nhiệm
vụ học tập cụ thể, kết quả hoàn thành nhiệm vụ phải được HS thể hiện qua việc trình
bày miệng trên giấy hoặc trình bày một sản phẩm, một báo cáo, trả lời một câu hỏi…
Quan sát việc thực hiện nhiệm vụ học tập của HS cùng những sản phẩm cụ thể ta có
thể nhận biết mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các em và nhận biết thái độ của HS
trước các hoạt động với di sản.
- Trong câu hỏi của bài kiểm tra định kì, thường xuyên GV nên thiết kế một câu
hỏi có nội dung liên quan đến di sản mà HS đã được tiếp cận. Ví dụ: Nêu ý nghĩa,
nhận xét, bình luận về di sản, những hiểu biết về di sản liên quan đến nội dung bài
học….
Minh họa: Tổ chức hoạt động dạy học với di sản tại địa phương
trong một số tiết học của chương trình lịch sử lớp 7.
Trong chương trình Lịch sử lớp 7, Chương III: Nước Đại Việt Thời Trần (Thế
kỉ XIII – XIV), GV tổ chức dạy trên lớp bài 13: Nước Đại Việt ở thế kỉ XIII, Bài 14:
Ba lần kháng chiến chống xâm lược Mông – Nguyên (Thế kỉ XIII), Bài 15: Sự phát
triển kinh tế văn hóa thời Trần với những di sản Đền Trần liên quan đến nội dung bài
học như tổ chức bộ máy quan lại thời Trần, giới thiệu 13 đời vua Trần, quân đội thời
Trần: giới thiệu những tướng tài quân sự tiêu biểu là Trần Quốc Tuấn, Trần Quang
Khải, Trần Khánh Dư… Các chính sách phát triển kinh tế, xã hội thời Trần về nông
nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, kiến trúc… qua những số liệu, câu chuyện về

25



×