Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Những bất cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở việt nam trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.61 KB, 32 trang )

hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
MỤC LỤC

Mở đầu
Chương 1:
Hệ thống ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường
I. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trƣờng
1.Bản chất của NSNN
2. Vai trò của NSNN trong nề kinh tế thị trƣờng
2.1 Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trƣờng
2.2 Vai trò của NSNN trong cơ chế thị trƣờng
II. Hệ thống NSNN
Chương 2:
Phân cấp quản lý NSNN và Thực trạng phân cấp quản lý NSNN ở Việt
Nam
I. Phân cấp quản lý NSNN
1. Sự cần thiết và tác dụng của phân cấp quản lý NSNN
2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN
3. Nội dung phân cấp quản lý NSNN
II. Thực trạng phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam
Chương 3:
Một số kiến nghị hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý
NSNN ở Việt nam hiện nay
1. Hoàn thiện NSĐF trên cơ sở xoá bỏ dần tính bao hàm của
NS cấp trên đối với ngân sách cấp dƣới:
1

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí


2. Cải cách hệ thống quản lý thuế:
3. Khi phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và xác định tỷ lệ phần trăm
phân chia các khoản thu giữa ngân sác các cấp chính quyền địa
phƣơng và số bổ xung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dƣới
cần đảm bảo:.
4. Chỉnh lý, sửa đổi, bổ xung một số quy định trong luật:
Kết luận

2

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí

MỞ ĐẦU
Với mục tiêu “quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng
Ngân sách Nhà nƣớc (NSNN) lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nƣớc; tăng tích luỹ để thực
hiện CNH-HĐH đất nƣớc theo định hƣớng XHCN, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân; đảm bảo quốc phòng,
an ninh, đối ngoại”, luật NSNN-một đạo luật quan trọng trong hệ thống tài
chính- đã đƣợc Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20-3-1996;
sau đó đƣợc sửa đổi, bổ sung bởi luật số 06/1998/QH 10 ngày 20-5-1998,
đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong công tác quản lý, điều hành NSNN
ở nƣớc ta, tạo cơ sở pháp lý cao nhất cho hoạt động của NSNN.
Sau bốn năm thực hiện luật NSNN, thực tiễn đã khẳng định vai trò của
luật trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Hoạt động NSNN dần
đƣợc quan tâm không chỉ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nƣớc mà còn từ
phía ngƣời dân và các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng dựa trên cơ sở

phản hồi từ phía ngƣời dân và doanh nghiệp, luật đã bộc lộ nhiều bất cập
không chỉ giữa văn bản và thực tế áp dụng mà cả những bất cập trong công
tác chỉ đạo điều hành. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất
cập trên là việc quyết định phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi tiêu cho các
cấp ngân sách và phân giao nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan trong bộ
máy quản lý Nhà nƣớc vẫn còn tồn tại nhiều nhƣợc điểm cần xem xét lại.
Để góp phần tiếp tục hoàn chỉnh hơn nữa luật NSNN nói chung và chế
độ phân cấp quản lý nhân sách nói riêng, tác giả chọn đề tài: “Những bất
cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở Việt nam
trong điều kiện hiện nay. Từ đó muốn thông qua thực tiễn để làm sáng tỏ
những cái đƣợc và chƣa đƣợc của chế độ phân cấp quản lý cả về phƣơng
diện pháp lý (các văn bản liên quan đến NSNN) và công tác chỉ đạo điều
hành, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật, đáp ứng yêu cầu
3
Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới, phát huy tối đa hiệu quả của
NSNN trong việc điều chỉnh nền kinh tế theo những mục tiêu đã đặt ra.
CHƢƠNG I: HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC.
I. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường.
1. Bản chất của NSNN.
NSNN là khái niệm quen thuộc theo nghĩa rộng mà bất kỳ ngƣời dân
nào cũng biết đƣợc, song lại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN:
Theo quan điểm của Nga: NSNN là bảng thống kê các khoản thu và
chi bằng tiền của Nhà nƣớc trong một giai đoạn nhất định.
Một cách hiểu tƣơng tự, ngƣời Pháp cho rằng: NSNN là toàn bộ tài
liệu kế toán mô tả và trình bày các khoản thu và kinh phí của Nhà nƣớc

trong một năm.
Có thể thấy rằng các quan điểm trên đều cho thấy biểu hiện bên ngoài
của NSNN và mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nƣớc và NSNN.
Trong hệ thống tài chính, NSNN là khâu chủ đạo, đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực Nhà nƣớc.
Tại Việt nam, định nghĩa về NSNN đƣợc nêu rõ trong luật NSNN
(20/3/1996): NSNN là toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước trong
dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước.(Điều1- luật NSNN).
Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo lập) và chi tiêu
(sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nƣớc, làm cho nguồn tài chính vận động giữa
một bên là các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản
phẩm quốc dân dƣới hình thức giá trị và một bên là Nhà nƣớc. Đó chính là
4

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
bản chất kinh tế của NSNN. Đứng sau các hoạt động thu, chi là mối quan
hệ kinh tế giữa Nhà nƣớc và các chủ thể kinh tế, xã hội. Nói cách khác,
NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nƣớc với các chủ thể trong
phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nƣớc, chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của
các chủ thể đó thành thu nhập của Nhà nƣớc và Nhà nƣớc chuyển dịch thu
nhập đó đến các chủ thể đƣợc thực hiện để thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nƣớc.
2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trường.

Nền kinh tế mà vấn đề cơ bản của nó do thị trƣờng quyết định đƣợc gọi
là Kinh tế thị trƣờng.Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy
luật kinh tế vốn có của nó hoạt động nhƣ: quy luật giá trị, quy luật cungcầu, quy luật cạnh tranh, quy luật lƣu thông tiền tệ và lợi nhuận là động lực
cơ bản của sự vân động đó. Các quy luật biểu hiện sự tác động của mình
thông qua thị trƣờng. Nhờ sự vân động của hệ thống giá cả thị trƣờng mà
diễn ra sự thích ứng tự phát giữa khối lƣợng và cơ cấu của sản xuất với
khối lƣợng và cơ cấu nhu cầu của xã hội.
Nhìn chung cơ chế thị trƣờng có các ƣu điểm cơ bản sau:
* Cơ chế thị trƣờng kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và
tạo đIều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ.
* Cạnh tranh buộc nhà sản xuất phải hao phí lao động cá biệt đến mức
thấp nhất có thể đƣợc bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào
sản xuất.
* Sự tác động của cơ chế thị trƣờng đƣa đến sự thích ứng tự phát
giữa khối lƣợng và cơ câú sản xuất với khối lƣợng và cơ cấu nhu cầu xã
hội.
5

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
* Trong cơ chế thị trƣờng tồn tại sự đa dạng của các thị trƣờng. Bên
cạnh thị trƣờng hàng hoá đã xuất hiện từ lâu là các thị trƣờng về vốn, lao
động phục vụ cho sản xuất kết hợp với hệ thống giá cả linh hoạt vận động
theo quan hệ cung cầu của hàng hoá, dịch vụ.
Song, cơ chế thị trƣờng không phải là hiện thân của sự hoàn hảo mà chứa
đựng trong nó nhều trục trặc.
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp lá tối đa hoá lợi nhuận.
Ngành nào, lĩnh vực nào có khả năng đem lại lợi nhuận cao thì các doanh

nghiệp sẽ đổ xô vào sản xuất mặt hàng, lĩnh vực đó. Từ đó dẫn đến sự phát
triển mất cân đối giữa các khu vực, ngành, nghề trong nền KTQD.
Hơn nữa, vì lợi nhuận, các doanh nghiệp sẵn sàng lạm dụng tài
nguyên, gây ô nhiễm môi trƣờng sống của con ngƣời mà xã hội phải gánh
chịu, do đó, hiệu quả kinh tế, xã hội không đƣợc đảm bảo.
Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trƣờng hoạt động tốt
cũng không thể đạt đƣợc. Sự tác động của cơ chế thị trƣờng dẫn đến sự
phân hoá giàu, nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình ngƣời.
Với một loạt các khuyết tật trên, ngày nay, trên thực tế không tồn tại cơ
chế thị trƣờng thuần tuý, mà thƣờng có sự can thiệp của Nhà nƣớc, khi đó
nền kinh tế gọi là Nền kinh tế hỗn hợp.
2.2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong cơ chế thị trường.
Tất cả những khiếm khuyết của cơ chế thị trƣờng đòi hỏi có sự can thiệp
của Nhà nƣớc là tất yêu, là một nhu cầu khách quan nhằm khôi phục lai
những cân đối và mở đƣờng cho sức sản xuất phát triển.
Trong cơ chế điều chỉnh của Nhà nƣớc, bên trong kết cấu của nó, ngoài
việc tổ chức một cách khoa học, thì những công cụ tài chính, tiền tệ, kế

6

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
hoạch, luật pháp đƣợc coi là những công cụ điều chỉnh cơ bản và quan
trọng.
NSNN là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nƣớc đIều chỉnh vĩ
mô nền kinh tế, xã hội. Mục tiêu của NSNN không phải để Nhà nƣớc đạt
đƣợc lợi nhuận nhƣ các doanh nghiệp và cũng không phải để bảo vệ vị trí
của mình trƣớc các đối thủ cạnh tranh trên thị trƣờng. NSNN ngoàI việc

duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nƣớc còn phải xây dựng cơ sở hạ tầng
kinh tế, xã hội để tạo ra môi trƣờng thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt
động.
NSNN đƣợc sử dụng nhƣ là công cụ tác động vào cơ cấu kinh tế nhằm
đảm bảo cân đối hợp lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ kinh
doanh. Trƣớc xu thế phát triển mất cân đối của các ngành, lĩnh vực trong
nền kinh tế, thông qua quỹ ngân sách, Chính phủ có thể áp dụng các chính
sách ƣu đãi, đầu tƣ vao các lĩnh vực mà tƣ nhân không muốn đầu tƣ vì hiệu
quả đầu tƣ thấp; hoặc qua các chính sách thuế bằng việc đánh thuế vào
những hàng hoá, dịch vụ của tƣ nhân có khả năng thao tong trên thị trƣờng;
đồng thời, áp dụng mức thuế suất ƣu đãi đối với những hàng hoá mà Chính
phủ khuyến dụng. Nhờ đó mà có thể đảm bảo sự cân đối, công bằng trong
nền kinh tế.
Giá cả trên thị trƣờng biến động dựa vào quy luật cung cầu của hàng
hoá, dịch vụ. NSNN cũng đƣợc sử dụng nhƣ là công cụ đảm bảo sự ổn định
giá cả của thị trƣờng.
Một vai trò đƣợc coi là không kém phần quan trọng của NSNN là giải
quyết các vấn đề xã hội: bất công, ô nhiễm môi trƣờng…Chẳng hạn trƣớc
vấn đề công bằng xã hội. Chống lại sự bất công là cần thiết cho một xã hội
văn minh và ổn định, Chính phủ thƣờng sử dụng các biện pháp tác động tới
thu nhập để thiết lập lai sự công bằng xã hội. Điều chỉnh thu nhập của các
nhóm dân cƣ khác nhau bằng cách trợ cấp thu nhập cho những ngƣời có thu
nhập thấp hoặc hoàn toàn không có thu nhập. Một cách khác, Chính phủ có
7
Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
thể sử dụng biện pháp tác động gián tiếp đến thu nhập bằng cách tạo khả
năng tạo thu nhập cao hơn dựa vào năng lực của bản thân. theo đánh giá thì

đây là biện pháp tích cực nhất, động thời làm tăng thu nhập quốc dân; nói
cách khác, nó làm cho một số ngƣời dân giàu lên mà không ai nghèo đi;
hoặc qua chính sách thuế thu nhập, sử dụng mức thuế suất cao đối với
ngƣời có thu nhập cao và ngƣợc lại.
Nhƣ vậy, vai trò của NSNN là rất lớn. Vấn đề đặt ra là việc tổ chức quy
mô, cơ cấu và quản lý NSNN nhƣ thế nào để phát huy đƣợc vai trò của nó.
II. Hệ thống NSNN
Hệ thống NSNN đƣợc hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan
hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp
ngân sách.
Tại nƣớc ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức
bộ máy Nhà nƣớc và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của đất nƣớc theo Hiến pháp. Mỗi cấp chính quyền có một
cấp ngân sách riêng cung cấp phƣơng tiện vật chất cho cấp chính quyền đó
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Việc hình
thành hệ thống chính quyền Nhà nƣớc các cấp là một tất yếu khách quan
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nƣớc trên mọi vùng lãnh thổ
của đất nƣớc. Chính sự ra đời của hệ thống chính quyền Nhà nƣớc nhiều
cấp đó
Cấp ngân sách đƣợc hình thành trên cơ sở cấp chính quyền Nhà nƣớc,
phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nƣớc ta hiện nay,
hệ thống NSNN bao gồm NSTƢ và NSĐP. Trong đó, NSTƢ gồm:
- Ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ƣơng (gọi
chung là ngân sách cấp tỉnh).

8

Thuviennet.vn



hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là ngân sách cấp huyện).
- Ngân sách cấp xã, phƣờng, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp
xã).
NSTƢ phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo nhành và giữ vai trò chủ đạo
trong hệ thống NSNN. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai trò của chính quyền trung
ƣơng đƣợc mạch của cả nƣớc
NSĐP là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp chính quyền bên
dƣới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. Ngoài ngân sách xã chƣa có
đơn vị dự toán, các cấp ngân sách khác đều bao gồm một số đơn vị dự toán
của cấp ấy hợp thành.
* Ngân sách cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm
bảo thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của
chính quyền cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ƣơng.
* Ngân sách cấp xã, phƣờng, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có tầm
quan trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu đƣợc khai thác trực
tiếp trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng đƣợc bố tríđể phục vụ cho mục đích
trực tiếp của cộng đồng dân cƣ trong xã mà không thông qua một khâu
trung gian nào. Ngân sách xã là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống NSNN,
đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã chủ động khai thác các thế
mạnh về đất đai, phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn mới, thực
hiện các chính sách xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự trên địa bàn.
Trong hệ thống ngân sách Nhà nƣớc ta, ngân sách trung ƣơng chi phối
phần lớn các khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phƣơng chỉ
đƣợc giao nhiệm vụ đảm nhận các khoản thu và chi có tính chất địa
phƣơng. Quan hệ giữa các cấp ngân sách đƣợc thực hiện theo nguyên tắc
sau:
9


Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Ngân sách trung ƣơng và ngân sách các cấp chính quyền địa phƣơng
đƣợc phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể
Thực hiện việc bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dƣới
để đảm bảo công bằng, phát triển cân đối giữa các vùng, các địa phƣơng.
Số bổ sung này là khoản thu của ngân sách cấp dƣới.
Trƣờng hợp cơ quan quản lý Nhà nƣớc cấp trên uỷ quyền cho cơ
quan quản lý Nhà nƣớc cấp dƣới thực hiện nhiệm vị chi thuộc chức năng
của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho ngân sách
cấp dƣới để thực hiện nhiệm vụ đó.
Ngoài việc bổ sung nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi,
không đƣợc dùng ngân sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách
cấp khác trừ trƣờng hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.

10

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí

CHƢƠNG II: PHÂN CẤP QUẢN LÍ NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC VÀ THỰC
TRẠNG CỦA PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN Ở VIỆT NAM

I. Phân cấp quản lý NSNN:
1. Sự cần thiết và tác dụng:
Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nƣớc ta ra đời từ năm 1967, tới

nay đã qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch
sử nhất định nhằm giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa
NSTƢ và chính quyền các cấp trong quản lý NSNN.
NSNN đƣợc phân cấp quản lý giữa Chính phủ và các cấp chính quyền
địa phƣơng là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống NSNN gồm nhiều
cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân
cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm
bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi cấp đề
xuất và bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt
khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nƣớc
Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của NSNN
với cac hoạt động kinh tế, xã hội một cách cụ thể và thực sự nhằm tập trung
đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính quốc gia và
phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả cao,
phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của đất nƣớc.
Phân cấp quản lý NSNN đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo phƣơng
11

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển hoạt động của các cấp chính
quyền ngân sách từ trung ƣơng đến địa phƣơng mà còn tạo điều kiện phát
huy đƣợc các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phƣơng trong cả
nƣớc. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN đƣợc tốt hơn, điều
chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng nhƣ quan hệ giữa các
cấp ngân sách đƣợc tố hơn để phát huy vai trò là công cụ điều chỉnh vĩ mô
của NSNN. Đồng thời, phân cấp quản lý NSNN còn có tác động thúc đẩy
phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.

Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết
mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nƣớc trung ƣơng và các cấp chính
quyền địa phƣơng trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành
NSNN đúng đắn và hợp lý sẽ là một giải pháp quan trọng trong quản lý
NSNN.
2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN.
Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp
chính quyền Nhà nƣớc về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành
NSNN.
Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:
Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế, xã hội của đất nƣớc. Phân
cấp quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp
quản lý NSNN.
Hai là: ngân sách trung ƣơng giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn
lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả
nƣớc

12

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần
trăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dƣới đƣợc cố định từ 3 đến 5 năm
Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân
sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nƣớc, cố gắng hạn chế
thấp nhất sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ.

3. Nội dung của phân cấp quản lý NSNN.
Dựa trên cở quán triệt những nguyên tắc trên, nội dung của phân cấp
quản lý NSNN đƣợc quy định rõ trong chƣơng II và III của luật NSNN bao
gồm:
Nội dung thứ nhất là phân cấp các vấn đề liên quan đế quản lý, điều
hành NSNN từ trung ƣơng đến địa phƣơng trong việc ban hành, tổ chức
thực hiện và kiểm tra, giám sát về chế độ, chính sách.
Tiếp theo là phân cấp về các vấn đề liên quan đế nhiệm vụ quản lý và
điều hành NSNN trong việc ban hành hệ thống biểu mẫu, chứng từ về trình
tự và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong xây dựng dự toán ngân
sách, quyết toán ngân sách và tổ chức thực hiện kế hoạch NSNN.
Cụ thể:
Quốc hội quyết định tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn
bù đắp bội chi; phân tổ NSNN theo từng loại thu, từng lĩnh vực chi và theo
cơ cấu giữa chi thƣờng xuyên và chi đầu tƣ phát triển, chi trả nợ
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ cuat
Quốc hội giao về quyết định phƣơng án phân bổ NSTƢ, giám sát việc thi
hành pháp luật về NSNN.
Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thƣờng vụ quốc hội các dự án luật,
pháp lệnh và các dự án khác về NSNN; ban hành các văn bản pháp quy về
13

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
NSNN; lập và trình Quốc hội dự toán và phân bổ NSNN, dự toán điều
chỉnh NSNN trong trƣờng hợp cần thiết
Bộ tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về
NSNN trình chính phủ; ban hành các văn bản pháp quy về NSNN theo

thẩm quyền; chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ thực hiện chức năng thống
nhất quản lý NSNN
Bộ kế hoạch và đầu tư có nhiệm vụ trình Chính phủ dự án kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội của cả nƣớc và cân đối chủ yếu của nền kinh tế
quốc dân
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chímh trong
việc lập dự toán NSNN đối với kế hoạch và phƣơng án vay để bù đắp bội
chi NSNN; tạm ứng cho NSNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN
theo quyết định của thủ tƣớng Chính phủ.
Các bộ, ngành khác có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chính, UBND cấp
tỉnh để lập, phân bổ, quyết toán NSNN theo ngành, lĩnh vực phụ trách ;
kiểm tra theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ
trách; báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc
ngành, lĩnh vực phụ trách; phối hợp với bộ tài chính xây dung định mức
tiêu chuẩn chi NSNN thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
Hội đồng nhân dân có quyền quyết định dự toán và phân bổ NSĐP,
phê chuẩn quyết toán NSĐP; quyết định các chủ trƣơng, biện pháp để triển
khai thực hiện NSĐP; quyết định điều chỉnh dự toán NSĐP trong thời gian
cần thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách đã quyết định.
Uỷ ban nhân dân lập dự toán và phƣơng án phân bổ ngân sách địa
phƣơng, dự toán điều chỉnh NSĐP trong trƣờng hợp cần thiết trình HĐND
cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp

14

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
* Mỗi cấp ngân sách đều có các khoản thu đƣợc hƣởng 100%. Nhƣ vậy,

có thể giúp chính quyền địa phƣơng chủ động bố trí cân đối ngân sách cấp
mình
* Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa NSTƢ và ngân sách
từng tỉnh do Chính phủ quyết định. Tỷ lệ này đƣợc áp dụng chung đối với
tất cả các khoản thu đƣợc phân chia và đƣợc xác định riêng cho từng tỉnh.
Các khoản thu đƣợc phân chia gồm:
Thuế giá trị gia tăng không kể thuế giá trị gia tăng thu từ hàng hoá
nhập khẩu và thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
Thuế thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp
của các đơn vị hạch toán toàn ngành và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ
hoạt động xổ số kiến thiết.
Thuế thu nhập đối với ngƣời có thu nhập cao.
Thuế chuyển thu nhập ra nƣớc ngoài của các tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài
có vốn đầu tƣ tại Việt nam
Thu sử dụng vốn ngân sách của các doanh nghiệp nhà nƣớc không kể thu sử
dụng vốn ngân sách từ hoạt động xổ số kiến thiết.
Các khoản thu phân chia:
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
- Thuế nhà, đất.
- Tiền sử dụng đất.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
- Thuế tài nguyên.
15

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
- Lệ phí trƣớc bạ.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nƣớc thu vào các mặt hàng bài

lá, hành mã, vàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trƣờng, mát xa, ka ra ô
kê, kinh doanh gôn, bán thẻ hội viên và vé chơi gôn, trò chơi bằng các máy
giắc pót, kinh doanh vé đặt cƣợc đua ngựa, đua xe.
Về các khoản chi NSNN
Chi NSNN là số tiền mà Nhà nƣớc chi từ quỹ ngân sách để thực hiện
chức năng và nhiệm vụ của mình.
Theo luật NSNN, nội dung chi NSNN đƣợc phân loại theo tổ chức kinh
tế, từ NSTƢ đến ngân sách các cấp địa phƣơng đều có các khoản chi cơ
bản giống nhau:
Chi thường xuyên: là những khoản chi hết sức cần thiết và không thể trì
hoãn, phải thực hiện thƣờng xuyên hàng tháng, hàng năm để duy trì sự tồn
tại của bộ máy Nhà nƣớc.
Chi đầu tư, phát triển: là những khoản chi để hình thành tài sản cố định
nhƣ mua sắm tài sản cố định, đầu tƣ xây dựng các công trình kinh tế mũi
nhọn, xây dung cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, xây dựng nhà cửa, đầu tƣ vào
các động sản tài chính, sửa chữa lớn tài sản cố định, chi trả nợ gốc tiền vay
những khoản chi này gắn với việc điều chỉnh vĩ mô của Nhà nƣớc, tạo môi
trƣờng và điều kiện cho các TPKT hoạt động và phát triển.
Về số bổ sung từ nhân sách cấp trên cho ngân sách cấp dƣới:
Gồm hai loại:
* Số bổ sung để cân đối ngân sách gồm số bổ sung ổn định trong suốt
thời kỳ nhất định và số bổ sung tăng thêm hàng năm một phần theo tỷ lệ
trƣợt giá và một phần theo tốc độ tăng trƣởng kinh tế

16

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí

* Số bổ sung theo mục tiêu.
Có thể nói, với những nội dung trên, hệ thống NSNN và chế độ phân
cấp và quản lý NSNN đã bƣớc đầu tạo cơ sở, điều kiện, hành lang pháp lý
cho công tác quản lý, điều hành hoạt động NSNN có hiệu lực và có hiệu
quả, theo những chuẩn mực nhất định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của NSNN trong cơ chế kinh tế mới ở nƣớc
Chế định luật về hệ thống NSNN
Quyết định hệ thống NSNN gồm bốn cấp: trung ƣơng- tỉnh- huyện- xã là
phù hợp vời Hiến pháp 1992 và luật tổ chức HĐND và UBND các cấp
(1994), đồng thời, nó gắn với nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính
quyền.
Chế định luật về phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân
sách.
Với cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa NSTƢ với ngân sách
tỉnh, tỉnh với các cấp NSĐP khác đã có những thay đổi căn bản so với khi
chƣa có luật. Khuynh hƣớng chung là tăng tính chủ động nguồn thu, nhiệm
vụ chi cho các cấp ngân sách cơ sở.
Về tiêu thức phân định nguồn thu.
Cách phân chia nguồn thu giữa các cấp ngân sách nhƣ hiện nay chủ yếu
dựa theo tiêu thức tính chất, mức độ của các khoản thu chứ chƣa thật chú ý
đến đặc điểm của đối tƣợng quản lý thu.
* Tỷ lệ phân chia giữa ngân sách tỉnh với ngân sách từng huyện, quận,
thị xá, thành phố thuộc tỉnh và ngân sách xã, phƣờng, thị trấn đối với một
phần của 5 khoản thu mà ngân sách càp tỉnh đƣợc phân chia; tỷ lệ này do
chính quyền tỉnh quy định.

17

Thuviennet.vn



hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
* Tỷ lệ phân chia giữa ngân sách tỉnh với ngân sách từng huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh và ngân sách xã, phƣờng, thị trấn đối với 7
khoản thu thuộc loại phân chia giữa ngân sách các cấp này (thuế sử dụng
đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế tài nguyên, thuế nhà
đất, tiền sử dụng đất, lệ phí trƣớc bạ nhà đất, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản
xuất trong nƣớc thu vào một số mặt hàng); tỷ lệ này do cấp tỉnh quy định.
* Thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt phát sinh bao nhiêu trƣớc
hết phụ thuộc vào chính sách thuế đã ban hành. Về mặt luật pháp nói chung
cũng nhƣ theo luật NSNN nói riêng thì không thể cho phép thu nhiều hơn
hoặc ít hơn so với luật định.
* Số thu này phụ thuộc vào tình hình xuất nhập khẩu, tình hình sản xuất
kinh doanh các mặt hàng chịu thuế, đây là yếu tố hoàn toàn khách quan đối
với ngành thuế. Số thu này có tăng lên so với trƣớc cũng không phải nỗ lực
chủ quan của các cơ quan địa phƣơng.
* Dự toán thu chi là dự báo ƣớc lƣợng, con số này thƣờng cao hay thấp
hơn thực tế.
Chế định luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, chủ tịch nước,
chính phủ và các cơ quan khác của Nhà nước và trách nhiệm của các tổ
chức cá nhân về NSNN.
Có thể nói, luật đã quy định một cách tƣơng đối rõ ràng về nhiệm vụ,
quyền hạn của các cơ quan chính quyền nhà nƣớc trong lnhx vực NSNN.
Đặc biệt đối với HĐND và UBND các cấp đã có sự đổi mới theo hƣớng
tăng tính tự chủ, sáng tạo của địa phƣơng trong việc phát huy tiềm năng
hiện có, bồi dƣỡng và tăng thu cho ngân sách cấp mình, từ đó, chủ động bố
trí chi tiêu hợp lý, có hiệu quả theo kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của
địa phƣơng, phù hợp với quy hoạch tổng thể về chế độ thu chi thống nhất
trong cả nƣớc. Điều này cơ bản phù hợp với phƣơng hƣớng đổi mới chức


18

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND đƣợc Quốc hội và Chính phủ đề ra
trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc.
Tai các địa phƣơng, hoạt động của HĐND và UBND còn phải xét lại.
Chẳng hạn ở khâu chấp hành NSNN, luật quy định sau khi dự toán NSNN
đƣợc Quốc hội quyết định, căn cứ các nhiệm vụ thu chi đƣợc cấp trên giao,
UBND trình HĐND cùng cấp quyết định dự toán NSĐP và phƣơng án
phân bổ ngân sách cấp mình. Nhƣ vậy là có sự trùng lặp. Quốc hội đã quyết
định dự toán trong đó bao hàm cả NSTƢ và NSĐP, vậy việc HĐND quyết
định lại dự toán NSĐP chỉ là hình thức và thực tế quyền quyết định dự
toán và phân bổ NSĐP của HĐND chỉ là “ hƣ quyền”...đó cũng là một
trong các lý do làm HĐND chƣa phát huy đƣợc vai trò cơ quan quyền lực
nhà nƣớc ở địa phƣơng và theo nhiều ý kiến thì HĐND chỉ là “ bình hoa
chậu cảnh” trong hoạt động của bộ máy nhà nƣớc ở địa phƣơng.
Chế định luật về dự phòng ngân sách và quỹ dự trữ tài chính.
Thực tế cho thấy việc lập dự toán NSNN không thể dự kiến hết đƣợc
các nhu cầu chi trong năm. Hơn nữa, việc đề phòng những bất trắc có thể
xảy ra nhƣ thiên tai, địch hoạ nên dự phòng và dự trữ tài chính là cần thiết.
II. Thực trạng phân cấp quản lý NSNN ở Việt Nam
Phân cấp ngân sách là phân định trách nhiệm và quyền hạn, nghĩa vụ và lợi
ích giữa các cơ quan chính quyền Nhà nƣớc các cấp trong hệ thống NSNN.
Tại Việt nam, kể từ sau khi có luật NSNN, cơ chế phân cấp đã có sự thay
đổi một cách căn bản, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chính quyền địa
phƣơng trong việc chủ động khai thác nguồn thu và bố trí chi tiêu.
Với sự thống nhất từ trên xuống về các khái niệm, nội dung, nguyên tắc

quản lý, hệ thống NSNN đã đồng nhất cách hiểu, tƣ duy trong quá trình vận
hành trong thực tế. Nét mới là ổn định nguồn thu và nhiệm vụ chi của mỗi
cấp chính quyền theo luật (chỉ thay đổi khi Quốc hội sửa luật), khắc phục
đƣợc tính không ổn định trong phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi. Trƣớc
19
Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
đây, về thu, hầu nhƣ năm nào Chính phủ cũng điều chỉnh nguồn thu, tỷ lệ
điều tiết một số khoản thu giữa trung ƣơng và địa phƣơng. Việc điều chỉnh
này chủ yếu bằng quyết định, chỉ thị (các văn bản dƣới luật) của thủ tƣớng
Chính phủ nên hiệu lực pháp lý không cao. Có những nguồn thu, năm thì
để lại cho địa phƣơng, năm thì thu về trung ƣơng (thuế xuất, nhập khẩu tiểu
ngạch, thu cấp quyền sử dụng đất). Về chi, cũng thƣớng xuyên sửa đổi các
nhiệm vụ chi (nhƣ chi trợ cấp khó khăn thƣờng xuyên và đột xuất cho cán
bộ trung ƣơng; chi cho bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân; quản lý công
tác định canh, định cƣ và xây dựng vùng kinh tế mới, đo đạc và quản lý
ruộng đất có năm đƣợc xác định là nhiệm vụ của trung ƣơng, có năm lại là
của địa phƣơng).
Luật đã khẳng định nguyên tắc: ngân sách cấp trên nắm giữ các nguồn
thu chủ yếu và đảm nhận các nhiệm vụ chi quan trọng hơn cấp dƣới, các
nguồn thu của ngân sách cấp dƣới không đủ đáp ứng nhu cầu chi thì đƣợc
cấp bổ sung và không đƣợc sử dụng ngân sách cấp nàt để chi cho nhiệm vụ
của ngân sách cấp khác. Do đó, xét về định tính, tuy cả NSTƢ và NSĐP
(tỉnh) đều có mƣời khoản thu 100% nhƣng NSTƢ nắm giữ các nguồn thu
quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thu của cả nƣớc. Thực tiễn
trong mấy năm gần đây, tỷ trọng của NSTƢ chiếm khoảng 70% tỷ trọng
chung của NSNN(năm 1999, quyết toán thu NSTƢ là 58918 tỷ đồng và
NSĐP thu là 19571 tỷ), chủ yếu là thu từ các xí nghiệp quốc doanh, các xí

nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (đặc biệt là lĩnh vực dầu khí) từ thuế xuất,
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu, thuế GTGT hàng nhập
khẩu và thu từ viện trợ không hoàn lại. Từ chỗ tập trung các nguồn thu chủ
yếu vào NSTƢ nên các nhiệm vụ chi của nó cũng khá nặng nề (năm 1999,
tổng chi NSTƢ quyết toán là 52206 tỷ đồng và NSĐP là 38766 tỷ đồng)
chủ yếu là chi đầu tƣ phát triển (xây dựng cơ bản, hỗ trợ vốn cho DNNN,
các chƣơng trình quốc gia), chi trả nợ, viện trợ, chi thƣờng xuyên(quốc
phòng, an ninh, lƣơng hƣu, bảo đảm xã hội).

20

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Từ khi đƣa luật NSNN vào thực tiễn, nhiều địa phƣơng đã ý thức đƣợc
trách nhiệm phải đảm bảo nguồn thu gắn với tăng trƣởng và phát triển kinh
tế ở địa phƣơng thì mới có thể đảm nhận tốt nhiều nhiệm vị chi. Đồng thời,
nhận thức đƣợc, khi đời sống của đại đa số nhân dân ở địa phƣơng khá lên
thì NSĐP mới đảm bảo đƣợc hầu hết các nhiệm vụ chi về giáo dục, y tế,
văn hoá, xã hội…Do đó, các khoản thu của NSĐP nhìn chung đƣợc tập
trung thu đúng, thu đủ, kịp thời, giảm bớt sự phân tán nguồn thu nên số thu
ngày càng ổn định và nguồn thu ngày càng đƣợc mở rộng.
Luật NSNN một mặt đề cao vai trò của NSTƢ, mặt khác để đảm bảo
khả năng cân đối của ngân sách các cấp địa phƣơng, luật đã thu hẹp dần các
khoản thu của NSTƢ đƣợc hƣởng 100%. Quá trình thu hẹp này còn diễn ra
khi Quốc hội sửa đổi luật ngân sách(20/5/1998), một mặt thay đổi thuế
doanh thu bằng thuế GTGT, thuế lợi tức bằng thuế thu nhập doanh nghiệp;
mặt khác điều chỉnh nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân sách, trong
đó hai khoản thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế tài nguyên (trừ

dầu khí) đƣợc đẻe lại 100% cho NSĐP (theo luật cũ là phân chia giữa
NSTƢ và NSĐP). đồng thời, tăng thêm các khoản thu cho NSĐP, đặc biệt
là cấp huyện và đô thị về thuế tiêu thụ đặc biệt (trƣớc đây trung ƣơng thu
100%), thu đối với hàng sản xuất trong nƣớc thu vào các mặt hàng bài lá,
vàng mã, kinh doanh vũ trƣờngđã tạo điều kiện làm phong phú nguồn thu
của NSĐP.
Bên cạnh những tỉnh đạt yêu cầu thu còn có nhiều tỉnh, thành phố thụ
động trong khai thác các nguồn thu của mình, để tồn đọng thu trong nhiều
năm. kết quả kiểm tra năm 1996 qua 10 tỉnh, thành phố cho thấy cả 10 tỉnh,
thành phố chi mới thực hiện đƣợc 97.3% kế hoach thu Chính phủ giao, mà
khả năng thực tế có thể thu hoàn thành vƣợt mức kế hoạch đề ra, nhiều
nguồn thu chƣa đƣợc khai thác hết. Năm 1995 (trƣớc khi có luật) có 1/3 số
tỉnh, thành tự cân đối đƣợc ngân sách, còn lại không tự cân đối đƣợc,
nhƣng đến năm 1997 đã có 50% số tỉnh tự cân đối đƣợc.
21

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Trƣớc thực trạng phân cấp, quản lý ngân sách đó, tình hình thu, chi
NSNN đã đạt đƣợc nhiều kết quả:
Về thu NSNN không những đảm bảo đủ nguồn thu cho chi tiêu thƣờng
xuyên của nhà nƣớc mà còn giành ra một phần tích luỹ cho đầu tƣ phát
triển, tăng cƣờng dự trữ, củng cố tiềm lực tài chính. Bình quân 10 năm
(1991-2000), tỷ suất thu NSNN so với GDP đạt 20.2%, tăng khá so với
mức 13.4% giai đoạn 1986-1990. Những năm cuối thế kỷ, quy mô của
NSNN tăng gấp khoảng 2.6 đến 2.9 lần so với năm 1991. Xét về số tuyệt
đối, tính theo giá hiện hành, thu NSNN năm 2000 tăng gấp 7.7 lần năm
1999. Nếu loại trừ yếu tố lạm phát, quy mô tuyệt đôi thu NSNN vẫn còn

tăng gấp 2.6 lần năm 1991. Trong đó, số thu từ thuế, phí và lệ phí ngày
càng lớn và chiếm tỷ trọng quyết định trong tổng thu NSNN, bình quân đạt
khoảng 95% đến 98% tổng thu. Thành tựu này không chỉ do luật NSNN
đem lại mà còn đánh dấu sự tiến bộ của ngành thuế, đồng thời khẳng định
chiều hƣớng phát triển đúng đắn của công cuộc chuyển đổi kinh tế, cải cách
thuế.
Trong các năm 1991, 1992, tốc độ thu NSNN năm sau luôn cao hơn
năm trƣớc. Cao nhất là năm 1992, thu NSNN bằng 198% năm 1991. Số
thực thu NSNN trong những năm này phản ánh rõ rệt hiện tƣợng tăng
trƣởng nhanh của nền kinh tế. Từ năm 1993, tốc độ tăng thu năm sau so với
năm trƣớc tuy vẫn tăng nhƣng mức tăng lại giảm dần và chậm lại, giảm từ
98.1% năm 1992 so vơi năm 1991 xuống 3.1% năm 1998 so với 1997, sau
đó lại đƣợc nhích lên và điều này đƣợc lý giải do có luật NSNN mà các
khpản thu đƣợc tập hợp kịp thời vào NSNN.
Về chi NSNN: chi NSNN diễn biến thất thƣờng trong những năm đầu
thập niên 1990. Năm 1990, tổng chi NSNN đạt 20% GDP, năm 1991 giảm
xuống còn 15%, sau đó lại đột ngột tăng lên tới gần 30% GDP vào năm
1993. Đây là hậu quả của cơ chế tập trung nhƣng phân tán. Trƣớc khi có
luật NSNN, ngân sách của mỗi cấp chính quyền gồm hai phần: của chính
22

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
bản thân cấp chính quyền đó và của cấp dƣới. Cách quản lý nhƣ vậy về
hình thức thì tập trung nhƣng trên thực tế lại rất phân tán. Trung ƣơng chỉ
giao nhiệm vụ thu mà không giao nhiệm vụ chi cho các địa phƣơng. Hệ
thống định mức tiêu chuẩn do trung ƣơng ban hành bị vi phạm dẫn đến tuỳ
tiện trong quản lý ngân sách, gây thất thoát và lãng phí nguồn lực. Từ năm

1994, đặc biệt là sau năm 1995, tổng chi NSNN so với GDP liên tục giảm.
Trong 5 năm, tỷ trọng chi NSNN đã giảm từ 29.4% GDP năm 1993 xuống
22.7% năm 1998. Các năm 1999, 2000, dù đã áp dụng các biện pháp kích
cầu nhƣng chi so với GDP chỉ đạt 22.5%. Tuy nhiên, nếu xét cả thời kỳ 10
năm, tính theo giá hiện hành, quy mô tuyệt đối chi NSNN năm 2000 tăng
gấp 8.5 lần so với năm 1991. Nếu loại trừ yếu tố lạm phát, quy mô tuyệt
đối chi NSNN năm 2000 vẫn tăng 2.9 lần năm 1991.
Thực tiễn cuộc sống đa dạng và phong phú hơn nhiều so với các quy
định của luật pháp, luật NSNN cũng không phải là ngoại lệ. Trong quá
trình thực thi luật, bên cạnh những thành tựu đạt đƣợc là những hạn chế,
bất cập phát sinh, đặc biệt là khi luật đang ở giai đoạn còn phải tiếp tục
xem xét và hoàn thiện, những bất cập cần phải đƣợc phát hiện và giải quyết
kịp thời.

CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Phân cấp quản lý NSNN là vấn đề lớn, phức tạp đòi hỏi phải đƣợc
nghiên cứu giải quyết thoả đáng theo nguyên tắc rõ ràng, ổn đinh, công
bằng, hợp lý, đảm bảo lợi ích của cả trung ƣơng và địa phƣơng. Nghị quyết
Trung ƣơng 3 (khoá VIII) nêu: ”phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa
các cấp chính quyền theo hƣớng phân cấp rõ hơn cho địa phƣơng, kết hợp
23
Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
chặt chẽ quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ” đã cho thấy quan điểm đổi mới phân cấp quản lý NSNN
hiện nay không chỉ nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp thúc đẩy tăng trƣởng
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, mà còn phải khuyến khích

và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các cấp chính quyền địa phƣơng làm chủ
ngân sách cấp mình.
Xuất phát từ nhận thức về đặc điểm và tính chất của pháp luật, việc tôn
trọng các quy định của luật NSNN là hết sức cần thiết, đảm bảo sự hiện
hữu của pháp chế tài chính. Song để xử lý những bất cập đã nêu trong giai
đoạn hiện nay,ngoài việc vân dụng những quy định đã có trong luật NSNN
và các luật có liên quan thì cũng không loaị trừ khả năng xem xét vận dụng
đặc điểm hoàn cảnh cụ thể, những chính sách, chế độ và những quy định
khác. Bởi vì thực tiễn cuộc sống đa dạng và phong phú hơn nhiều so với
quy định của luật pháp. Trong nhiều tình huống thƣờng nảy sinh xung đột
giữa “cái hợp pháp” và “cái hợp lý”, khi vận dụng cái này thì không đạt
đƣợc cái kia và ngƣợc lại.
Nếu căn cứ vào tính chất của các quan hệ mà luật NSNN điều chỉnh, có
thể thấy nổi bật hai quan hệ:
1. Hoàn thiện NSĐF trên cơ sở xoá bỏ dần tính bao hàm của NS cấp
trên đối với ngân sách cấp dưới:
Giải quyết vấn đề này thực chất là giải quyết mối quan hệ giữa chính
quyền Trung ƣơng và chính quyền đia phƣơng (tỉnh, huyện, xã). Các nƣớc
có một nguyên tắc rất quan trọng trong việc hoàn thiện NSĐF là đảm bảo
cho địa phƣơng có tính chủ động, độc lập quyết định và xây dựng ngân
sách cấp mình trên cơ sở luật pháp ổn định, thống nhất.
Tuy mỗi nƣớc có một bộ máy hành chính đƣợc tổ chức khác nhau, song
nhìn chung trên thế giới có hai hình thức tổ chức nhà nƣớc cơ bản: Nhà
nƣớc liên bang và Nhà nƣớc đơn nhất. Theo đó, hệ thống NSNN đƣợc chế
24

Thuviennet.vn


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí

định trong luật cũng có hai xu hƣớng khác biệt: đối với nhà nƣớc liên bang
thì quản lý NSNN theo xu hƣớng phân quyền (Đức, Mỹ…); đối với nhà
nƣớc đơn nhất thì lại quản lý NSNN theo xu hƣớng tập quyền (Pháp,
Nhật…).
Dựa trên những quy định của Hiến pháp năm 1992 thể chế hoá cơ chế
phân công, phân nhiệm thẩm quyền và sự phối hơp giữa các cơ quan nhà
nƣớc trung ƣơng và địa phƣơng sẽ là cơ sở cho việcđổi mới một cách cơ
bản hệ thống chính quyền địa phƣơng hiện nay. Và phƣơng hƣớng của kế
hoạch đổi mới này là phải đảm bảo tính chất đồng bộ và hệ thống và có căn
bản chứ không phải là cục bộ, chắp vá thì mới có thể khắc phục đƣợc
những nhƣợc điểm hiện nay về hành chính và đảm bảo tính hiệu quả của
NSNN trong tƣơng lai.
Trƣớc tiên, cần đẩy mạnh việc thực hiện các giải pháp đã đƣợc Chính
phủ đề ra trong Hội nghị HĐND và UBND toàn quốc (9/1998), cụ thể là:
-Tiến hành phân loại các đơn vị hành chính theo quy mô, diện tích,
dân số và đặc điểm, chỉ số phát triển kinh tế, xã hội làm cơ sở cho việc xây
dựng chính sách cho phù hợp với từng loại đơn vị hành chính.
-Tổ chức một cách tinh gọn, hợp lý bộ máy chính quyền, không nhất
thiết trung ƣơng có bộ, ngành nào thì địa phƣơng cũng phải có sở, ban,
ngành tƣơng ứng và không nhất thiết ở địa phƣơng nào cũng có cơ quan
chuyên môn thuộc UBND nhƣ nhau.
- Thí điểm mô hình tổ chức bộ máy hành chính đô thị, bộ máy hành
chính nông thôn để nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền địa
phƣơng.
- Kiện toàn chính quyền cơ sở, nhất là xã, phƣờng, thị trấn đảm bảo
thực hiện tốt nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao, phát huy dân chủ ở cơ sở, bố
trí lại cán bộ phù hợp với đặc điểm tình hình, dân số ở từng cấp và phù hợp
với khả năng của NSĐP.
25


Thuviennet.vn


×