Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản thực trạng và tiềm năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.48 KB, 30 trang )

hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí

MỤC LỤC
Lời mở đầu ....................................................................................................... 1
Chƣơng I. Lý luận chung về thị trƣờng bản chất chức năng và vai trò
của thị trƣờng .................................................................................................. 2
1. Bản chất của thị trường ................................................................................. 2
2. Chức năng của thị trường .............................................................................. 2
3. Vai trò của thị trường .................................................................................... 4
Chƣơng II. Cơ cấu, chức năng và đặc điểm của thị trƣờng thuỷ sản ........ 6
I. Cơ cấu, chức năng của thị trường thuỷ sản.................................................... 6
II. Đặc điểm của thị trường thuỷ sản ................................................................. 7
1. Độ cận biên thị trường và giá cả sản phẩm thuỷ sản .................................... 8
2. Sự hình thành giá cả theo thời vụ .................................................................. 9
3. Tính độc quyền của thị trường thuỷ sản...................................................... 10
4. Thị trường sản phẩm trong nước còn mang tính nhỏ, lẻ ............................. 11
Chƣơng III. Thị trƣờng sản phẩm thuỷ sản thực trạng và tiềm năng ..... 12
I. Thị trường nội địa ........................................................................................ 12
1. Cung - cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nước .......................... 12
2. Những yếu tố ảnh hưởng tới thị trường thuỷ sản nội địa ............................ 18
3. Những tiềm năng của thị trường thuỷ sản nội địa ....................................... 19
II. Thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam ............................................ 20
1. Thị trường các nước Châu Á ....................................................................... 20
2. Thị trường EU ............................................................................................. 21
3. Thị trường Mỹ ............................................................................................. 22
III. Một số nhận xét và đánh giá về thực trạng và tiềm năng ........................ 24
1. Khai thác hải sản ......................................................................................... 24
2. Chế biến và dự trữ ....................................................................................... 26
3. Tiêu thụ sản phẩm ....................................................................................... 26
Kết luận .......................................................................................................... 28
Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 29



THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí

LỜI MỞ ĐẦU
Thuỷ sản là một ngành sản xuất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân, sản phẩm thuỷ sản là một mặt hàng vô cùng thân thuộc không chỉ đối
với người dân Việt Nam mà còn là một phần tất yếu trong mỗi bữa ăn của
người dân các nước khác trên thế giới. Chính vì vậy mà việc làm thế nào
để phát triển ngành thuỷ sản không chỉ là công việc của những nhà nghiên
cứu kinh tế mà còn là mối quan tâm chung của cả cộng đồng.
Người ta nói rằng, thị trường đầu ra của sản phẩm chính là bộ mặt, là
thước đo đánh giá trình độ phát triển của ngành hàng nói riêng và của toàn
bộ nền kinh tế nói chung. Vậy, để đánh giá đúng vị trí của ngành thuỷ sản
trong nền kinh tế quốc dân, ta phải tìm hiểu và phân tích thật tỉ mỉ về thị
trường đầu ra cho sản phẩm của nó.
Ở Việt Nam, tuy ngành thuỷ sản xuất hiện từ rất sớm nhưng việc
phân phối sản phẩm tới tận tay người tiêu dùng còn nhiều bất cập. Không
phải bất cứ người dân nào cũng được dùng những sản phẩm thuỷ sản tươi,
ngon, bổ, phù hợp với túi tiền của mình, trong khi đó người sản xuất, đôi
khi lại không tiêu thụ được sản phẩm mình làm ra, để nó bị hư hỏng một
cách rất lãng phí. Giải pháp hiệu quả của vấn đề này, đó là làm thế nào để
khai thác và mở rộng thị trường tiêu thụ một cách hợp lý nhất từ đó đưa ra
những biện pháp phù hợp giúp ngành thuỷ sản phát triển góp phần nâng
cao tiềm lực kinh tế của cả nước.
Đó cũng là lý do vì sao em chọn cho mình đề tài của Đề án chuyên
ngành là:"Thị trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản - thực trạng và tiềm
năng"

Kết cấu đề tài gồm ba chƣơng.
Chƣơng I : Lý luận chung về thị trường.
Chƣơng II : Cơ cấu chức năng và đặc điểm của thị trường thuỷ sản.
Chƣơng III: Thị trường sản phẩm thuỷ sản – thực trạng và tiềm năng.

THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
CHƢƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG BẢN CHẤT,
CHỨC NĂNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƢỜNG.
1- Bản chất của thị trƣờng.
Về bản chất thị trường là lĩnh vực trao đổi mà thông qua đó người
bán và người mua có thể trao đổi sản phẩm, dịch vụ cho nhau tuân theo các
quy luật kinh tế hàng hóa.
Như vậy, ta có thể hiểu thị trường được biểu hiện trên ba nét lớn
sau:
- Thị trường là lĩnh vực trao đổi được tổ chức theo quy luật kinh tế
hàng hoá như: quy luật giá trị; quy luật cạnh tranh....
- Thị trường là sự trao đổi ngang giá và tự do đối với sản phẩm làm ra;
gắn sản xuất với tiêu dùng, buộc sản xuất phải phục tùng nhu cầu tiêu
dùng.
-

Một thị trường cân đối thì giá cả của nó phải phản ánh chí phí sản

xuất xã hội trung bình, do đó buộc người sản xuất phải giảm chi phí, tiết
kiệm nguồn lực, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm.
2- Chức năng của thị trƣờng.

a- Cơ cấu của thị trường.
Cơ cấu tổ chức của thị trường gồm các nhóm chủ thể kinh tế với
chức năng riêng biệt của nó trong hệ thống thị trường.
Các nhóm chủ thể kinh tế này có quan hệ với nhau thông qua dây
chuyền Marketinh sau:
Người sản xuất - Người bán buôn - Người chế biến - Người bán lẻ Người tiêu dùng.
Mỗi mắt xích hay mỗi nhóm chủ thể trong dây chuyền Marketinh
trên có một chức năng riêng biệt trong hệ thống thị trường:
+ Người sản xuất: Người sản xuất bao gồm các doanh nghiệp, công ty
sản xuất, hợp tác xã, hộ gia đình, trang trại có chức năng tạo ra sản phẩm

THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
trên cơ sở sử dụng các yếu tố đầu vào của sản xuất, tạo ra giá trị mới bổ
sung vào giá trị cũ được chuyển từ các yếu tố đầu vào.

+ Người bán buôn: Người bán buôn gồm các doanh nghiệp thương
mại, hợp tác xã thương mại, hộ gia đình có chức năng đưa sản phẩm từ
người sản xuất đến người chế biến và do phải thu gom, bảo quản, sơ
chế...nên tạo thêm giá trị mới bổ sung vào sản phẩm làm tăng giá trị sản
phẩm.
+ Người chế biến: Người chế biến cũng bao gồm các doanh nghiệp,
hợp tác xã, hộ gia đình có chức năng chế biến sản phẩm từ dạng thô sang
sản phẩm có tính công nghiệp làm chất lượng sản phẩm tăng thêm và tăng
khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Do phải chi phí cho chế biến làm cho
giá trị sản phẩm tăng thêm.
+ Người bán lẻ: Người bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp, đơn vị tập
thể, tư nhân có chức năng đưa sản phẩm từ nơi chế biến đến người tiêu

dùng cuối cùng. Do phải chi phí cho hoạt động thương mại do đó làm cho
giá trị sản phẩm tăng thêm.
+ Người tiêu dùng: Người tiêu dùng là tất cả các thành viên trong xã
hội có chức năng hoàn trả toàn bộ chi phí từ khâu sản xuất đến khâu dịch
vụ cuối cùng của quá trình sản xuất và tiêu dùng.
Qua cơ cấu trên, người ta có thể phân loại thị trường thành: thị
trường các yếu tố đầu vào hay còn gọi là thị trường tư liệu sản xuất và thị
trường sản phẩm hay còn gọi là thị trường hàng tiêu dùng.
b- Chức năng của thị trường.
Bản chất của thị trường còn thể hiện ở những chức năng của nó.Với
tính cách là một phạm trù kinh tế, thị trường có các chức năng cơ bản sau:
Chức năng thừa nhận.
Mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất hàng hoá đều thực
hiện được việc bán, tức là chuyển quyền sở hữu nó với những giá nhất
định, thông qua một loạt thảo thuận về giá cả, chất lượng, số lượng,
phương thức giao hàng, nhận hàng...trên thị trường.Chức năng thừa nhận
của thị trường thể hiện ở chỗ người mua chấp nhận mua hàng hoá, dịch vụ
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
của người bán và do vậy hàng hoá đã bán được. Thực hiện chức năng này
nghĩa là thừa nhận các hoạt động sản xuất hàng hoá và mua bán chúng theo
yêu cầu các quy luật của kinh tế thị trường.
Chức năng thực hiện.
Hoạt động mua và bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm nhất của thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường phát triển, mọi yếu tố đầu vào cho sản
xuất và đầu ra sản phẩm chủ yếu đều được tiền tệ hoá thì hoạt động mua và
bán là cơ sở quan trọng quyết định các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ
thể kinh tế. Chức năng thực hiện của thị trường thể hiện ở chỗ, thị trường

thực hiện hành vi trao đổi , thực hiện cân bằng cung cầu từng loại sản
phẩm hàng hoá, hình thành giá cả và thực hiện giá trị của các sản phẩm
hàng hoá.
Chức năng điều tiết kích thích.
Nhu cầu thị trường là mục đích đáp ứng của mọi quá trình hoạt động
sản xuất – kinh doanh. Thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy các chủ thể kinh tế. Đây chính là cơ sơ khách quan để thực hiện chức
năng điều tiết kích thích của thị trường. Thực hiện chức năng này, thị
trường có vai trò quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng hợp lý các
nguồn lực khan hiếm của đất nước cho quá trình sản xuất kinh doanh sản
phẩm.
Chức năng thông tin.
Có nhiều kênh thông tin kinh tế, trong đó thông tin thị trường là rất
quan trọng. Chức năng thông tin thị trường bao gồm: Tổng cung, tổng cầu
hàng hoá, dịch vụ, cơ cấu cung cầu các loại sản phẩm hàng hoá trên thị
trường, chất lượng, giá cả hàng hoá, thậm chí cả thị hiếu, cách thức, phong
tục tiêu dùng của người dân...Những thông tin thị trường chính xác là cơ sở
quan trọng cho việc ra các quyết định.
Các chức năng trên của thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau,
làm cho thị trường thể hiện đầy đủ vai trò bản chất của mình. Chức năng
thừa nhận là quan trọng nhất, có tính quyết định. Chừng nào chức năng này
được thực hiện thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng. Nếu chức
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
năng thừa nhận đã được thực hiện mà các chức năng khác không thể hiện
ra thì chắc chắn đã có những yếu tố phi kinh tế nào đó can thiệp vào thị
trường làm cho nó biến dạng đi.
3- Vai trò của thị trƣờng.

Thị trường có một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển
nền kinh tế thị trường . Thị trường là lĩnh vực trao đổi hàng hoá và dịch vụ
thông qua các quy luật của kinh tế hàng hoá, do đó nó là điều kiện cần và
buộc phải có để kết thúc một chu trình sản xuất kinh doanh, thực hiện lợi
nhuận cho nhà đầu tư. Thông qua thị trường, tất cả các chủ thể kinh tế đều
có thể tự do mua những gì mình cần, bán những gì khách hàng muốn cũng
như mình có thể đáp ứng, nhằm thu lợi nhuận. Giá cả thị trường được xác
định bởi sự cân bằng cung – cầu, do đó bí quyết để thành công trong kinh
doanh là phải làm sao chiếm được lòng tin của khách hàng, mở rộng thị
trường, thị phần cho sản phẩm của mình. Ngoài vai trò thực hiện lợi nhuận
cho người kinh doanh, thị trường còn có vai trò trong việc phân bổ những
nguồn lực khan hiếm đều cho các ngành, các lĩnh vực và các chủ thể kinh
tế thông qua giá cả thị trường.
Qua những vai trò trên, hơn ai hết những người làm kinh tế và
những người nghiên cứu kinh tế phải đánh giá đúng tầm quan trọng của thị
trường, từ đó có những giải pháp để tìm kiếm và phát triển thị trường cho
sản phẩm của mình một cách phù hợp. Nắm được bí quyết để tiêu thụ tốt,
nhiều sản phẩm trên thị trường là một trong những thành công lớn mà bất
cứ người làm kinh tế nào cũng mong đạt được. Nhưng để đạt được thành
công đó không phải là vấn đề đơn giản, mà là cả một quá trình nghiên cứu,
tìm tòi cũng như chấp nhận mạo hiểm, rủi ro trong kinh doanh do chính thị
trường mang lại.
Việt Nam, từ khi xác định phát triển nền kinh tế theo hướng kinh tế thị
trường lấy việc tự do kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật làm nền tảng,
đã đưa nền kinh tế nước ta tiến được một bước tiến đáng kể so với cơ chế
kế hoạch hóa tập trung trước đây. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, tất cả các thành viên trong xã hội có đủ điều
THUVIENNET.COM.VN



hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
kiện kinh doanh theo luật doanh nghiệp Việt Nam đều được kinh doanh các
mặt hàng mà nhà nước không cấm. Các thông tin thị trường luôn là những
thông tin mở, nắm bắt nó một cách nhanh chóng, nhạy cảm sẽ đem lại
những thành công lớn cho người làm kinh tế, qua đó góp phần quan trọng
trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, rút ngắn khoảng cách với các
nước công nghiệp hiện đại trên thế giới.

CHƢƠNG II
CƠ CẤU, CHỨC NĂNG VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ
TRƢỜNG THUỶ SẢN
I- CƠ CẤU, CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƢỜNG THUỶ SẢN.

Cũng giống như cơ cấu của thị trường, cơ cấu của thị trường thuỷ
sản gồm các nhóm chủ thể kinh tế với những chức năng nhất định có mối
liên hệ với nhau thông qua hệ thống dây chuyền Marketinh:
Người sản xuất - Người bán buôn - Người chế biến - Người bán lẻ Người tiêu dùng.
Mỗi mắt xích hay mỗi nhóm chủ thể kinh tế trong hệ thống dây
chuyền Marketinh trên có một chức năng riêng trong hệ thống chức năng
chung của thị trường:
Người sản xuất.
Người sản xuất sản phẩm thuỷ sản là những người làm công việc đánh
bắt cá, tôm, hải sản các loại từ môi trường nội đồng, biển khơi và cả nhóm
người nuôi trồng hải sản để kinh doanh. Người sản xuất thuỷ sản có thể là
những doanh nghiệp lớn với những hạm tầu khai thác cá ở ngoài biển khơi,
có thể là trang trại gia đình nuôi trồng thuỷ sản và cũng có thể là những hộ
gia đình cá thể đánh bắt và nuôi trồng thủy sản nhỏ lẻ...Những người này
có chức năng cung cấp sản phẩm thuỷ, hải sản phục vụ nhu cầu tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu...
Người bán buôn.

THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Người bán buôn sản phẩm thuỷ sản có thể là các doanh nghiệp
thương mại, các hộ gia đình và các chủ thể nhỏ lẻ..Những người này đảm
nhiệm công việc thu gom sản phẩm thuỷ sản từ các ngư trường hoặc các
đơn vị kinh doanh nhỏ lẻ trong cả nước để cung cấp trực tiếp cho các đơn
vị chế biến hoặc những người bản lẻ ở các chợ hàng.
Người chế biến.
Người chế biến thuỷ sản bao gồm các doanh nghiệp, các đơn vị tập
thể, các hộ gia đình cá thể. Họ thực hiện công việc mua gom sản phẩm
thuỷ sản sơ chế từ những người bán buôn, sau đó đem chế biến sản phẩm
thuỷ sản này thành những sản phẩm có tính công nghiệp phục vụ cho nhu
cầu ngày càng cao và đa dạng của con người,
Người bán lẻ.
Người bán lẻ ở đây gồm các đơn vị tập thể, hộ gia đình cá thể có
nhiệm vụ cung cấp hàng tiêu dùng thuỷ sản từ những đơn vị chế biến hoặc
các đại lý tới tay người tiêu dùng cuối cùng.
Người tiêu dùng.
Người tiêu dùng là tất cả các thành viên trong xã hội có nhu cầu tiêu
dùng sản phẩm thuỷ sản. Họ có trách nhiệm thanh toán tất cả các chi phí từ
khi khai thác, chế biến, lưu thông hay nói khác đi là từ khâu sản xuất tới
lúc tiêu dùng.
Các quá trình trên được diễn ra liên tiếp để đảm bảo quá trình sản
xuất được khép kín, đồng vốn được quay vòng nhanh đem lại hiệu quả
kinh doanh cho người sản xuất thuỷ sản. Qua mỗi một mắt xích, sản phẩm
thuỷ sản lại được tăng thêm giá trị cho đến khi tới tay người tiêu dùng cuối
cùng nó trở thành một sản phẩm hoàn hảo, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu
của người tiêu dùng. Mỗi một nhóm chủ thể kinh tế trong dây chuyền

Marketinh trên, tuy có chức năng khác nhau nhưng chúng có mối quan hệ
mật thiết, gắn bó với nhau, sản phẩm của mắt xích này là nguyên liệu đầu
vào của mắt xích tiếp theo. Vì vậy, tất cả các quá trình lưu thông hàng hoá
qua các mắt xích trong dây chuyền Marketinh có diễn ra thông suốt thì mới
đảm bảo cho thị trường sản phẩm thuỷ sản được ổn định và phát triển,
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
II- ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƢỜNG THUỶ SẢN.

Do đặc điểm của sản xuất, chế biến và tiêu dùng hàng thuỷ sản, thị
trường đầu ra cho sản phẩm thuỷ sản là một thị trường đa cấp. Việc tìm
hiểu, phân tích thị trường sản phẩm đầu ra cho thuỷ sản là phân tích trạng
thái cân bằng ở mỗi cấp thị trường.
Mỗi một loại sản phẩm thuỷ sản ( sản phẩm tươi, sản phẩm chế
biến, sản phẩm khô...) đáp ứng đòi hỏi của thị trường về tất cả các mặt như:
thời gian, không gian, chất lượng, giá cả, số lượng...Do vậy, chủ thể kinh tế
tham gia trên dây chuyền marketinh cần bỏ ra những chi phí nhất định để
đáp ứng những đòi hỏi nói trên của thị trường. Những chi phí này sẽ được
phản ánh vào giá cả. Khi thị trường chấp nhận giá, gồm giá sản phẩm thuỷ
sản thô cộng với chi phí chế biến, chi phí marketinh thì chênh lệch giữa giá
đó với giá ở cấp thị trường trước đó được gọi là độ cận biên thị trường.Từ
những lý luận trên, để thấy được trạng thái cân bằng của mỗi cấp thị
trường, ta đi tìm hiểu về độ cận biên thị trường qua giá cả của sản phẩm.
1- Độ cận biên thị trƣờng và giá cả sản phẩm thuỷ sản.
Độ cận biên thị trường sản phẩm thuỷ sản là một khái niệm thể hiện
giá trị dôi ra ở mỗi mắt xích nào đó trên dây chuyền marketinh sản phẩm.
Chẳng hạn, người ta xem xét độ cận biên giá bán lẻ và giá bán buôn hoặc
độ cận biên giữa giá bán buôn và giá bán lẻ . Như vậy là người ta có thể

xem xét độ cận biên thị trường sản phẩm thuỷ sản giữa bất kỳ hai cấp thị
trường nào đã định giá.
Chúng ta tiếp cận ở phía người tiêu dùng thủy sản từ hai khía cạnh
của quá trình.
Thứ nhất là với trình độ phát triển hiện nay của nền kinh tế nói
chung và của ngành thuỷ sản nói riêng, người tiêu dùng các lượng sản
phẩm thuỷ sản chế biến chưa nhiều, nhưng ở nông thôn người nông dân sử
dụng sản phẩm thuỷ sản thô do mình tự đánh bắt hoặc nuôi trồng lấy nhiều
hơn, còn ở thành phố thì người tiêu dùng các sản phẩm đã qua chế biến với
số lượng lớn hơn. Điều đó chỉ ra rằng những người tiêu dùng khác nhau có

THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
những nhu cầu khác nhau về qui cách, mức chất lượng và dịch vụ cung cấp
hàng hoá khác nhau.
Thứ hai là xét về lâu dài, khi thu nhập và mức sống tăng lên cùng
với sự phát triển cao hơn của nền kinh tế, nhu cầu của người tiêu dùng ở cả
thành thị và nông thôn đều tăng lên đối với các dịch vụ làm tăng giá trị của
sản phẩm thuỷ sản. Kết quả là trong cơ cấu giá mua hàng thuỷ sản của
người tiêu dùng, phần trả cho cho các dịch vụ có chiều hướng tăng lên, còn
trả cho sản phẩm thô, sơ chế có chiều hướng giảm xuống. Cùng với sự phát
triển kinh tế, độ cận biên thị trường sẽ tăng lên. Độ cận biên thị trường
giữa giá bán lẻ và giá tại các cơ sơ đánh bắt ( ngư trường, trang trại nuôi
cá, hộ gia đình...) là sự chênh lệch giữa giá bán lẻ cuối cùng cho người tiêu
dùng cuối cùng và giá mà người sản xuất thuỷ sản nhận được khi bán sản
phẩm thuỷ sản sơ chế.
Có thể coi nhu cầu ở cấp thị trường bán lẻ bao gồm hai phần: Nhu
cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến và nhu cầu đối với một

loạt các dịch vụ. Nhu cầu đối với sản phẩm thuỷ sản chưa qua chế biến gọi
là nhu cầu phái sinh, xuất phát từ nhu cầu ban đầu ở cấp bán lẻ có kết hợp
cả sản phẩm thuỷ sản thô và dịch vụ. Đường cầu này được tạo ra khi đem
mỗi điểm trên đường cầu ban đầu trừ đi giá trị về các dịch vụ. Tương tự
như vậy, đường cung phái sinh cũng được tạo ra khi đem các giá trị trên
đường cung ban đầu cộng với các giá trị về các dịch vụ mà người tiêu dùng
yêu cầu đối với người sản xuất. Giao điểm của các đường cung và cầu này
sẽ tạo nên giá cả của sản phẩm thuỷ sản trên thị trường.
Khi người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cho độ thoả dụng mà hệ thống
thị trường tạo ra về thời gian, không gian, hình thức sản phẩm...thì ở đây
độ cận biên thị trường phản ánh mức chuẩn bị đầy đủ thoả dụng đó cho
người tiêu dùng. Mức độ và các loại chi phí cho sự “ chuẩn bị “ này hoàn
toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường
Muốn phân tích đầy đủ và cụ thể ta phải đi xét hai trường hợp cụ thể
đó là:
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Trường hợp độ cận biên thị trường không thay đổi ( trong thời gian
ngắn) và trường hợp độ cận biên thị trường thay đổi ( xét trong khoảng thời
gian dài).
2- Sự hình thành giá cả theo thời vụ.
Ngành nông nghiệp nói chung và thuỷ sản nói riêng là một ngành sản
xuất vật chất có nhiều đặc điểm riêng, trong đó tình thời vụ khá cao là nét
đặc trưng nhất. Tình thời vụ của sản xuất thuỷ sản thể hiện rõ ở sự biến
động của giá cả thị trường theo thời vụ, đặc biệt là tính không ổn định của
giá cả thị trường đầu ra. ở đây, việc phân tích thị trường đầu ra cho sản
phẩm thuỷ sản tập trung vào sự hình thành giá cả thị trường theo thời gian.
Do đặc của ngành thuỷ sản, việc sản xuất kinh doanh phải dựa trên

các qui luật sinh học động thực vật thuỷ sinh nên tính mùa vụ của ngành
thuỷ sản là khá cao. Vào đúng mùa vụ, người sản xuất cung ứng sản phẩm
theo nhu cầu của người tiêu dùng và do đó giá cả được hình thành dựa trên
quan hệ cung cầu. Nhưng vào lúc trái vụ, trong khi nhu cầu của người tiêu
dùng là không thay đổi thì người sản xuất lại không có sản phẩm để bán
hoặc do chi phí để dự trữ sản phẩm thuỷ sản là quá lớn làm cho giá cả của
sản phẩm trên thị trường tăng lên, và ta dễ dàng nhận thấy là mức tăng lên
của giá phải lớn hơn chi phí mà người cung ứng bỏ ra để dự trữ sản phẩm(
ở đây ta phải hiểu là sản phẩm thuỷ sản rất khó dự trữ vì đặc tính mau
ươn, chóng hỏng của nó..)
Qua những phân tích trên ta thấy rằng tính mùa vụ trong sản xuất
thuỷ sản đã làm cho giá cả của sản phẩm thuỷ sản thay đổi rất lớn theo thời
gian. Người sản xuất, cung ứng sản phẩm cần nắm rõ đặc điểm này để có
chiến lược kinh doanh phù hợp sao cho mức lợi nhuận từ hoạt động đầu tư
của mình là lớn nhất.
3- Tính độc quyền của thị trƣờng thuỷ sản.
Trên thị trường thuỷ sản ta thấy thường chỉ tồn tại dạng độc quyền
nhất thời. Tính chất độc quyền này do trình độ sản xuất của ngành thuỷ sản
chưa cao mang lại,thêm vào đó ngành thuỷ sản lại là ngành sản xuất phân
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
tán ở nhiều vùng trên cả nước dẫn tới tình trạng độc quyền nhất thời là
không tránh khỏi.
Ta hiểu, độc quyền nhất thời trên thị trường thuỷ sản như sau: Với
một hệ thống các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố ở khắp nơi trên cả nước,
trong khi đó trình độ phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành
thuỷ sản nói riêng cón thấp dẫn tới trang thiết bị vận chuyển, cơ sở chế
biến còn thiếu thốn lạc hậu, cả một vùng rộng lớn sản xuất và đánh bắt mới

có một cơ sở mua gom, chế biến. Điều này dẫn tới sự độc quyền trong mua
gom sản phẩm và phân phối các sản phẩm chế biến của các cơ sơ nói trên.
Tuy nhiên, đây chỉ là tình trạng độc quyền nhất thời, khi trình độ phát triển
của nền kinh tế cao hơn, sự trang bị cho ngành thuỷ sản hiện đại hơn, trình
độ sản xuất, đánh bắt cũng như chế biến của ngành thuỷ sản ở mức độ hiện
đại hơn, các cơ sở mua gom được xây dựng nhiều hơn thì tình trạng độc
quyền này sẽ mất đi và như vậy việc ép giá của người mua với người sản
xuất, nuôi trồng sẽ không còn nữa, tiến tới một thị trường cạnh tranh hoàn
hoả cho sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam.
4- Thị trƣờng sản phẩm trong nƣớc còn mang tính nhỏ, lẻ.
Với vị thế của hệ thống bờ biển và sông ngòi, ao hồ của Việt Nam
dẫn tới các cơ sở sản xuất thuỷ sản phân bố rộng khắp trên cả nước. Trình
độ phát triển của ngành thuỷ sản chưa cao làm cho hệ thống thị trường sản
phẩm thuỷ sản cũng phân bố rộng khắp trên cả nước với tính chất là nhỏ và
lẻ. Ở trong nước, sản phẩm thuỷ sản được bán chủ yếu tại các chợ ở các địa
phương với quy mô không lớn. Các khu chế biến cung ứng sản phẩm thuỷ
sản lớn chưa được hình thành hoặc đang manh nha, không đáng kể. Do
vậy, hình thành nên một mạng lưới hệ thống thị trường nhỏ và lẻ phân bố
rộng trên các vùng trong cả nước.

THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
CHƢƠNG III
THỊ TRƢỜNG SẢN PHẨM THUỶ SẢN
THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG
I- THỊ TRƢỜNG NỘI ĐỊA.

1- Cung - cầu và giá của các sản phẩm thuỷ sản trong nƣớc.

Trong một vài năm gần đây, ngành thuỷ sản Việt Nam phát triển rất
mạnh vươn lên là một ngành lớn trong hệ thống kinh tế của cả nước. Năm
2000,tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản đạt 1.4 tỷ USD chiếm tỷ trọng gần 10%
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Đến năm 2003,ngành thuỷ sản quyết
tâm đạt chỉ tiêu 2.3 tỷ USD đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc
gia hàng đầu về xuất khẩu thuỷ sản. Tuy vậy, có một thực trạng đặt ra là
ngành thuỷ sản đã quá chú trọng tới xuất khẩu, trong khi đó theo nghiên
cứu của nhóm chuyên gia của FAO tiến hành tại Việt Nam từ cuối 2001
đến nay, thông qua 85 cuộc phỏng vấn và 2000 cuộc điều tra mẫu với các
đối tượng người tiêu dùng khác nhau ở 12 tỉnh, thành của cả ba miền thì
có tới 70% lượng thuỷ sản hàng năm được tiêu thụ tại thị trường nội địa.
Như vậy, có thể khẳng định thị trường trong nước cho sản phẩm thuỷ sản
là rất lớn, cần được chú trọng phát triển.
Vì là nghiên cứu nhấn mạnh vào thị trường trong nước nên người ta
đặc biệt quan tâm đến các vấn đề vốn dĩ còn yếu kém của Việt Nam như
cách tiếp cận thị trường ở ngay tại vùng nuôi, cảng cá cũng như nhu cầu và
tiêu thụ các sản phẩm thuỷ sản ở cấp độ người tiêu dùng liên quan đến các
hoạt động của người bán sỉ, lẻ và các cơ sở chế biến. Tính đến năm 2002,
tổng số dân cả nước khoảng 80 triệu(17 triệu hộ gia đình), trong đó có
khoảng 62.315 triệu người ( chiếm 77%) đang sống ở vùng nông thôn, cho
thấy phần lớn người tiêu dùng trong nước hiện đang sống ở vùng nông
thôn. Về mặt dân tộc, tôn giáo không thấy có rào cản hoặc hạn chế nào đối
với người tiêu thụ thuỷ sản vì phần lớn dân cư thuộc dân tộc Kinh và theo
đạo Phật hoặc các tôn giáo khác. Tất cả những khía cạnh này tạo ra cơ sở
có lợi cho tiêu thụ thuỷ sản trong người tiêu dùng nội địa dựa vào nghề
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
nghiệp và thu nhập của người dân, đặc biệt là phải ưu tiên cho chiến lược

phát triển thị trường vào người tiêu dùng ở đô thị và đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của họ.
Xét về hành vi tiêu thụ thuỷ sản của người tiêu dùng dựa vào thói
quen ăn uống thì hộ gia đình được coi là đơn vị tiêu dùng cơ bản, hầu hết
các thành viên trong gia đình ăn tại nhà(95% thành viên có mặt trong bữa
tối) do đó thường thấy hành vi tiêu thụ thuỷ sản trong mô hình tiêu thụ hộ
gia đình. Ngoài ra có tới 34.4% số người ăn ở các hàng ăn bình dân. Từ
đấy cho thấy rằng, sản phẩm thuỷ sản được chấp nhận rộng rãi trong người
tiêu dùng. Có tới 79.7% số người rất thích ăn cá và không có sự khác biệt
về vùng, miền nơi họ đang sống, chỉ có một số rất ít nói rằng họ không
thích.
Vậy mô hình tiêu thụ thuỷ sản nào là phù hợp với người tiêu dùng
trong nước? Về tần suất mua hàng, trong một gia đình người phụ nữ
thường đảm trách vai trò này ( 83.8%). Cứ hai ngày người ta đi mua thuỷ
sản một lần, mỗi lần mua khoảng chừng 1kg, ở thành thị người tiêu dùng
sẵn sàng bỏ trung bình 20 ngàn đồng/lần còn ở khu vực cận đô thị và nông
thôn các con số tương ứng là 15 và 10 ngàn đồng/lần. Nói tóm lại, hiện nay
mức tiêu dùng thuỷ sản đủ lớn trong các hộ gia đình, tuy nhiên có hạn chế
là đa số thuỷ sản tiêu dùng có trọng lượng dưới 1 kg.
Nhu cầu tiêu dùng hàng thuỷ sản trong nước là lớn như vậy, song phần
lớn là chưa được đáp ứng hoặc đáp ứng không đầy đủ, nếu biết khai thác
tiềm năng về thị trường trong nước sẽ còn lớn hơn rất nhiều. Ở nông thôn,
ngoài sản phẩm thuỷ sản do người nông dân tự đánh bắt được qua hệ thống
sông ngòi , ao hồ tự nhiên thì nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản ngon cũng khá
lớn nhất là trong điều kiện hiện nay, do việc đánh bắt bừa bãi, không khoa
học đã làm cho lượng cá, tôm ở các dòng sông lâm vào tình trạng cạn kiệt.
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới, á nhiệt đới, ở các tỉnh phía Bắc pha
trộn tính ôn đới. Đặc điểm này tạo cho ngành thuỷ sản một số thuận lợi đó
là: sự phong phú về giống loài sản phẩm dẫn tới sự đa dạng trong các mặt
hàng thuỷ sản đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế và xuất khẩu; việc nuôi

THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
trồng thuỷ sản diễn ra quanh năm làm cho thị trường thuỷ sản luôn phong
phú.
Một số loại sản phẩm thuỷ sản nội đồng được ưa chuộng trên thị
trường như:
- Đối với vùng nông thôn: cá mè, cá chép, cá bống, cá trắm cỏ, trắm
đen,trê, rô phi, tôm đồng, trôi ấn độ....
- Đối với vùng thành phố và đô thị thì những sản phẩm được tiêu dùng
chủ yếu là: Cá ba sa, trê lai, trắm cỏ, tôm rảo, chim trắng, chim hồng, cá
nục, cá đối, mực, cua, ram.....
Để thấy được sự đa dạng của thị trường thuỷ sản trong nước ta tìm hiểu
một vài thị trường cá chủ yếu ở các, vùng, miền trong cả nước:
a- Thị trường miền Bắc
Ở miền Bắc, thị trường cá chủ yếu là ở các chợ, đối với vùng nông
thôn thì chợ cá có quy mô nhỏ, vừa. Sản phẩm chủ yếu là các loài cá nội
đồng, tôm, sản phẩm biển không nhiều. Một vài con số thống kê cho thấy
thị trường tôm ở miền Bắc ( gồm 8 tỉnh như: Quảng Ninh, Hải Phòng,
Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) trong mấy năm gần
đây phát triển khá nhanh:
Năm 1998 nuôi tôm trên diện tích 6153 ha cho 838 tấn, năm 1999:
9155 ha cho 1612 tấn, năm 2000: 14305 ha cho 3090 tấn. Đến năm 2002
trở lại đây, mô hình nuôi tôm công nghiệp( thâm canh), bán thâm canh với
năng suất cao đã phát triển ở các tỉnh Quảng Ninh, Thái Bình,...đã làm cho
thị trường tôm được mở rộng và phong phú hơn. Khối lượng tôm cung cấp
cho nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước tăng nhanh đáng kể: năm 2002,
sản lượng tôm sú của 8 tỉnh miền Bắc đã đạt 12805 tấn cao gấp 3 lần sản
lượng tôm năm 2000 với đà phát triển trên, năm nay Bộ Thuỷ sản dự kiến

sẽ phấn đấu tổ chức nuôi đạt sản lượng 15000 tấn và kết quả này sẽ được
tổng kết vào cuối năm nay.
Riêng đối với sản phẩm cá ba sa, sau thất bại tại thị trường Mỹ Agifish
đã quyết định mở rộng, tìm kiếm thị trường ở ngoài Bắc cho sản phẩm này
và đã chọn Công ty TNHH Thái Bình An Giang-một đối tác có bề dày về
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
tiêu thụ sản hàng thuỷ sản làm tổng đại lý phân phối độc quyền cá ba sa tại
khu vực phía Bắc. Thành lập từ tháng 12/2002 (trụ sở tại 345 phố Vọng-Hà
Nội), đến nay Thái Bình An Giang đã có 42 đại lý phân phối sản phẩm từ
Nghệ An, Thanh Hoá đến Quảng Ninh, Lạng Sơn,... Các mặt hàng mang
thương hiệu Agifish rất đa dạng và phong phú, với danh mục dài hơn 50
món, gồm 4 nhóm sản phẩm chính: khai vị, làm sẵn, khô, sơ chế như lạp
xưởng cá ba sa, bánh phồng, khô cá, chà bông, kho tộ, ốc biêu nhồi ba sa
hoành thánh, cải cuộn ba sa... Các bà mẹ biết đến bởi nó có giá trị dinh
dưỡng rất cao đặc biệt là thành phần DHA, ômêga3 giúp tăng cường trí
não, chống lão hoá. Đa số khách hàng đều cho rằng, các món ăn cá ba sa
của Agifish đa dạng hấp dẫn, tiện dụng cho nhu cầu người tiêu dùng trong
thời đại công nghiệp.
Những sản phẩm được người tiêu dùng Hà Nội mua nhiều nhất là cá
kho tộ, philê đông lạnh, chả quế, canh chua ba sa.
Khảo sát thực tế ở một số đại lý phân phối tại Hà Nội cho thấy tình
hình kinh doanh của công ty nói chung tại các đại lý nói riêng là rất khả
quan. Doanh thu tại một số đại lý là 25-30 triệu đồng/tháng, siêu thị 45
triệu đồng/tháng. Đa số người dân Hà Nội đã bắt đầu quen với tên tuổi loại
thực phẩm này. Trước đây, Thanh Trì là địa bàn thường xuyên trung
chuyển cá tươi cho người dân trong thành phố, cá nhiều, giá lại rẻ nhưng
khi sản phẩm của Agifish xuất hiện trên thị trường, người dân nơi đây đã

và thường xuyên dùng cá ba sa cho bữa ăn hàng ngày. Hiện nay, Thái Bình
An Giang đã có một số mạng lưới phát triển thị trường vững mạnh tại một
số tỉnh, tạo tiền đề để thương hiệu Agifish thâm nhập đáp ứng nhu cầu tiêu
thụ trong mọi thành phần dân cư. Mở rộng thị trường, mở rộng mạng lưới
kinh doanh, đặc biệt tại một số tỉnh, nhằm đưa sản phẩm cá ba sa đến được
với mọi người dân một cách nhanh, hiệu quả, chất lượng và chiếm thị phần
ngày càng lớn trên thị trường nội địa là tham vọng của Thái Bình An Giang
nói riêng và của người sản xuất thuỷ sản nói chung.
b- Thị trường miền Trung.
Đối với miền Trung, do điều kiện địa lý tạo nên cho vùng một lợi thế
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
lớn để phát triển thuỷ sản dẫn tới các thị trường thuỷ sản rất đa dạng.
Việc đánh bắt hải sản ngoài biển khơi phát triển hơn các vùng khác. Các
chợ cá miền trung thường sôi động và mang nhiều nét riêng. Trước hết, đó
chủ yếu là những chợ bán buôn, là nơi trung chuyển sản phẩm đánh bắt,
nuôi trồng từ những ngư dân qua tay các chủ nậu vựa, người mua buôn.
Phải qua một vài bàn tay nữa sản phẩm mới đến được với tay người tiêu
dùng. Thứ hai, các chợ này đều hoạt động từ nửa đêm đến sáng. Ví dụ như
tại cảng cá Thuận Phước-cảng cá lớn nhất của Đà Nẵng- là một trong
những cảng cá được xây dựng trong dự án nâng cấp cơ sở hạ tầng nghề cá
mới đưa vào sử dụng.
Cập cảng Thuận Phước ngoài tàu thuyền bản địa còn là nơi tập trung
nguồn nguyên liệu từ các nơi khác đến cung cấp cho thị trường trong nước
và xuất khẩu. Thời gian hoạt động chính của cảng từ 2 giờ đến 11 giờ, cao
điểm từ 3 đến 7 giờ. Tuỳ thuộc vào lượng cá đưa về từng ngày, trung bình
có 1000-2000 người tham gia vào các hoạt động buôn bán ở đây. Cảng có
Ban quản lý và những đơn vị phục vụ như: đội bảo vệ, đội thu phí, đội vệ

sinh môi trường, tổ dịch vụ điện nước, văn phòng giao dịch. Ngoài ra còn
tổ giữ hàng, người gánh thuê, tổ cho thuê bạt thuê cân, đội xuồng vận
chuyển nhỏ. Nghĩa là moị nhu cầu dịch vụ đều được đáp ứng.
Các chủ nậu có vai trò rất quan trọng. Họ là những người cung ứng nhu
yếu phẩm, nhiên liệu cho tầu cá, đồng thời cũng là người tiếp nhận hàng từ
các tàu thuyền cập cảng giao cho người buôn, chịu trách nhiệm thu tiền
giao cho các chủ thuyền. Họ thường là người địa phương, có nhiều kinh
nghiệm, manh mối trong làm ăn, gồm khoảng 20 đến 30 người. Người
buôn được phân làm hai loại, những người buôn với số lượng lớn tập trung
để xuất khẩu và những người mua với lượng nhỏ hơn để tiêu thụ tại địa
phương. Quang cảnh của chợ cá Thuận Phước càng về sáng càng sôi động.
Tại miền Trung, tuy nghề thuỷ sản phát triển từ khá sớm, rất đông các
hộ tham gia làm thuỷ sản nhưng ngoài cảng Thuận Phước của Đà Nẵng là
khá lớn thì các chợ cá khác chỉ vừa và nhỏ như cảng cá Cù Lao-Nha Trang.
Tại đây, lượng hàng nhập rất thưa thớt, một vài năm gần đây tàu không đưa
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
cá về cảng nữa do diện tích cảng chật hẹp, không có đủ các cơ sở dịch vụ
hậu cần và những tư thương tại đây mua sản phẩm với giá không cao. Hiện
nay, Nha Trang đang bắt tay vào để xây dựng một cảng mới-cảng Hòn Rớ
với hy vọng thị trường sản phẩm thuỷ sản ở đây phát triển hơn. Giá cá và
hàng thuỷ sản khác thường xuyên giao động nhưng ở mức độ không lớn.
Tuỳ theo lượng hàng về bến hay nhu cầu tiêu thụ mà sản phẩm có giá khác
nhau, nhưng được chia làm hai nhóm rõ rệt: nhóm sản phẩm cao cấp có giá
trị rất cao chỉ dành cho xuất khẩu và một số ít được đưa vào các nhà hàng,
chẳng hạn như cá mú 70000 đồng/kg, ngừ đại dương 72000 đồng/kg, mực
ống 70000 đồng/kg...nhóm còn lại có giá trị phải chăng, phù hợp với tiêu
thụ nội địa như cá dũa 7000 đồng/kg, cá thu 22000 đồng/kg.

c- Thị trường miền Nam.
Thị trường miền Nam, đây là một thị trường hết sức đa dạng và phong
phú, có thể nói là thị trường rộng và lớn nhất trong cả nước. Với lợi thế tự
nhiên nhiều ao hồ, cộng với một hệ thống sông ngòi dày đặc, miền Nam là
một nơi lý tưởng để nghề nuôi trồng thuỷ sản phát triển. Trước đây, trong
những năm tháng chiến tranh, khi mà nền kinh tế nước nhà còn nghèo nàn,
lạc hậu, người dân đồng bằng Nam bộ đã coi nghề đánh bắt cá là nghề nuôi
sống họ qua những năm tháng đói khổ. Giờ đây, khi đất nước đang trên đà
phát triển, người dân đồng bằng sông Cửu Long đã biết tận dụng những lợi
thế do thiên nhiên ưu đãi để phát triển nghề cá một cách khá thành công,
điều đó được minh chứng qua sự sôi động của thị trường thuỷ sản. Các sản
phẩm thuỷ sản của vùng đồng bằng sông Cửu Long rất đa dạng và phong
phú bao gồm tất cả các loại cá, tôm nội đồng và hải sản biển như: cá trê lai,
cá quả, cá rô phi, cá tra, cá ba sa, tôm nội đồng và tôm biển, đặc biệt ở
đồng bằng sông Cửu Long có nghề nuôi cá lồng, bè rất phát triển cung cấp
rất nhiều sản phẩm thuỷ sản cho thị trường trong nước và nước ngoài.
Một số thị trường sản phẩm thuỷ sản lớn của khu vực phía Nam là: Bạc
Liêu, An Giang, TP Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Bà Rịa- Vũng Tàu....
Ở Bạc Liêu, với diện tích nuôi trồng thuỷ sản lên tới 38000 ha, bờ biển
dài 56 km, diện tích các ngư trường rộng hàng chục ngàn km2...Bạc Liêu
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
là một trong những vùng biển có trữ lượng hải sản lớn nhất của cả nước,
cung cấp cho thị trường một lượng lớn sản phẩm hải sản các loại, đặc biệt
là trong đó có các loại tôm chiếm đến 20% tổng sản lượng khai thác của
vùng. Trong hai năm qua ngành thuỷ sản Bạc Liêu đã có tốc độ tăng
trưởng về năng lực sản xuất, sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu
(khoảng 30%/năm)

Đối với ngành thuỷ sản của Bà Rịa-Vũng Tàu, sản lượng hải sản đánh
bắt đạt51.845 tấn, sản lượng nuôi trồng thực hiện được 735 tấn. Nói chung,
ngành thuỷ sản của nơi đây khá phát triển, đặc biệt là ngành nuôi trồng,
đánh bắt, chế biến xuất khẩu và công tác dịch vụ hậu cần...
Trong năm qua, tuy ngành thuỷ sản của đồng bằng sông Cửu Long có
nhiều biến động, nhưng nói chung thị trường của nó vẫn rất sôi động và thu
hút đối với nhà đầu tư ngành thuỷ sản, và có thể khẳng định rằng đây vẫn
là một thị trường hấp dẫn, mang lại lợi nhuận cao cho những người đầu tư
vào lĩnh vực thuỷ sản, trở thành một thành viên trong kênh phân phối của
san phẩm thuỷ sản.
2- Những yếu tố ảnh hƣởng tới thị trƣờng thuỷ sản nội địa.
- Thứ nhất: Bên cạnh những thuận lợi mà thiên nhiên đã ưu đãi, ban
tặng cho nước ta những điều kiện tuyệt vời để phát triển ngành sản xuất
thuỷ sản, thì đồng thời cũng chính những yếu tố tự nhiên đã làm cho ngành
thuỷ sản nước ta gặp không ít những rủi ro do hạn hán, bão, lụt gây nên.
Tất cả những điều đó làm cho ngành sản xuất thuỷ sản luôn ở thế bấp bênh
dẫn tới thị trường sản phẩm thuỷ sản luôn biến động bất thường, giá cả
hàng thuỷ sản phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố tự nhiên này. Khi thời tiết
thuận lợi, người sản xuất nuôi trồng, đánh bắt được nhiều làm cho lượng
hàng thuỷ sản cung cấp trên thị trường nhiều hơn, giá cả rẻ hơn. Ngược lại,
lúc mất mùa do thiên tai gây nên, lượng cung sản phẩm trên thị trường ít
hơn đẩy giá hàng hoá cao lên. Và những biến động do thiên tai gây nên này
là khó tránh khỏi đồng thời cũng khó biết trước được. Đây là một trong
những nguyên nhân khách quan dẫn tới sự biến động của thị trường sản
phẩm thuỷ sản.
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
- Thứ hai: Do điều kiện phát triển kinh tế của nước ta chưa cao, trình

độ phát triển của ngành thuỷ sản còn ở mức lạc hậu so với thế giới dẫn tới
thị trường của sản phẩm thuỷ sản chưa phát triển ở trình độ cao. Những sản
phẩm thuỷ sản khi đánh bắt, nuôi trồng với số lượng nhiều nhưng khâu bảo
quản, chế biến còn chưa đáp ứng được một cách thoả đáng làm cho hàng
thuỷ sản nước ta chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và
khó tính của người tiêu dùng trong cũng như ngoài nước. Tình trạng công
nghệ bảo quản, chế biến, thu gom còn thấp dẫn tới nhiều sản phẩm thuỷ
sản sau khi đánh bắt bị hỏng, ôi làm lãng phí một lượng đáng kể, và đây là
một nguyên nhân quan trọng làm ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển của
thị trường thuỷ sản trong nước.
-Thứ ba: Do những biến động về kinh tế trong khu vực và trên thế giới
làm cho sản phẩm thuỷ sản Việt Nam trên thị trường thế giới khó tiêu thụ
và điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động của thị trường thuỷ
sản trong nước. Sản phẩm hàng hoá không xuất khẩu được dẫn tới lượng
tạm trữ trong nước cũng như lượng hàng cung cấp cho thị trường trong
nước tăng lên, giá sản phẩm rẻ, gây nên những biến động không nhỏ trên
thị trường.
- Thứ tư: Một vài năm gần đây, để tạo điều kiện cho ngành sản xuất
thuỷ sản Nhà nước ta đã cho phép ngành thuỷ sản tự tìm kiếm thị trường
trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm đồng thời tự trang trải kinh phí
để phát triển do đó đã làm cho thị trường sản phẩm của thuỷ sản được mở
rộng và có những bước phát triển đáng kể.
Đó là một vài nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp tới sự biến động
và phát triển của thị trường thuỷ sản nội địa của nước ta.
3- Những tiềm năng của thị trƣờng thuỷ sản nội địa.
Khai thác, nuôi trồng và xuất khẩu thuỷ sản đã được xác định là một
trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam trong thế kỷ 21. Và
phải khẳng định rằng, thời gian qua, chúng ta đã làm được không ít tiền đề
quan trọng trong việc tạo lực bẩy, khơi thông luồng ra, phát triển năng suất
và phát huy hiệu quả kinh tế của ngành. Tuy nhiên, để nâng ngành thuỷ sản

THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
lên tương xứng với tầm vóc của nó, chúng ta đang rất cần có những chiến
lược lâu dài và sự phối hợp đồng bộ của nhiều ban ngành khác nhau đặc
biệt là việc khơi thông tiềm năng về thị trường đầu ra cho sản phẩm. Ở
phạm vi bài này, em xin được nêu một số tiềm năng nội lực cơ bản để phát
triển thị trường đầu ra cho sản phẩm hàng hoá như sau;
Trước tiên, về mặt thông tin-tiếp thị thị trường, ngành thuỷ sản đã
có nhiều nỗ lực cải thiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, đi vào thực tế, vẫn
có nhiều vấn đề khách quan cần phải được nhìn nhận. Cũng như nhiều
ngành nghề khác, hiện nay, ngành kinh doanh thuỷ sản đang rất chú trọng
tới phát triển thị trường cho sản phẩm đầu ra. Có thể nói thị trường trong
nước đối với sản phẩm này đang có rất nhiều tiềm năng lớn: số lượng
người tiêu dùng đông đảo, việc tiêu dùng cá trong mỗi bữa ăn của các hộ
gia đình đã trở thành một thói quen, phong tục; Việt Nam đang xây dựng
và phát triển một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, trong đó mọi thông tin thị
trường đều được cung cấp một cách tự do và đặc biệt luật cạnh tranh cho
ngành thuỷ sản đang còn nhiều thuận lợi...
Bên cạnh vấn đề thông tin- tiếp thị thị trường, một việc quan
trọng cũng cần được quan tâm nghiên cứu như là một tiềm năng lớn đó là
tăng cường đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến sau đánh bắt để khai thác
hết giá trị của sản phẩm thuỷ sản Việt Nam, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
ngày càng cao của khách hàng. Không ai có thể phủ nhận trong thời gian
qua nước ta đã có nhiều nỗ lực cải tiến trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, thực
tế mà nói, những gì phần đông doanh nghiệp trong nước đã và đang có vẫn
chưa thể gọi là hiện đại, đủ để đáp ứng yêu cầu gắt gao của người tiêu dùng
trong và ngoài nước. Sản phẩm sản xuất ra chưa được đưa vào chế biến
một cách kịp thời, đúng cách dẫn tới chất lượng hàng hoá chưa cao đồng

thời cùng không khai thác được hết những giá trị vốn có của sản phẩm tươi
sống.. Với điều kiện công nghệ hiện đại như hiện nay, việc áp dụng những
thành tựu phù hợp để khai thác giá trị của sản phẩm chế biến đang được coi
là một tiềm năng lớn của ngành thuỷ sản của nước ta và nó đang được chú
trọng khai thác.
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Cuối cùng, đó là việc tận dụng những tiềm năng sẵn có mà thiên
nhiên ban tặng cho nước ta để phát triển một ngành thuỷ sản tương xững
với tiềm năng sẵn có của Việt Nam.
II- THỊ TRƢỜNG XUẤT KHẨU THUỶ SẢN CỦA VIỆT NAM.

1-

Thị trƣờng các nƣớc Châu Á

Ngoài việc xuất khẩu sang các nước của khu vực ASEAN ,Đài
Loan, Trung Quốc thì hàng thuỷ sản của Việt Nam được bán chủ yếu tại thị
trường Nhật Bản- đây cũng là thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của
nước ta trong một số năm gần đây (sáu tháng đầu năm nay chiếm 27% giá
trị kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu). Trong bài viết này, để tìm hiểu thị
trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tại khu vực CHÂU Á, em xin nêu
một số tình hình về xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản.
Có thể nói thị trường Nhật Bản là một thị trường lớn, hấp dẫn đối với
các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam, tuy ngành thuỷ sản của Nhật Bản
phát triển cao nhưng họ vẫn nhập rất nhiều sản phẩm của Việt Nam do
hàng thuỷ sản của nước ta có chất lượng tốt, giá cả phải chăng và đặc biệt
là do chủng loại sản phẩm của nước ta rất đa dạng và phong phú nhất là các

sản phẩm cá, tôm nước ngọt và nước lợ.
Hai mươi năm qua, Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu thuỷ sản
với khối lượng lớn từ Việt Nam, bởi vậy đã có 150 doanh nghiệp Việt Nam
xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt
Nam sang thị trường Nhật Bản năm 1999 đạt 353 triệu USD; năm 2000 đạt
469 triệu USD; tới năm 2002 đạt hơn 500 triệu USD.
Những sản phẩm chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật là: tôm,
hải sản biển, cá nước ngọt và một số loại hải sản quý hiếm khác...
Với những tiềm năng thuỷ sản mà chúng ta sẵn có, nếu biết khai thác,
chế biến phù hợp đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng của người dân
Nhật Bản thì đây sẽ còn là một thị trường lý tưởng cho các nhà kinh doanh
xuất khẩu thuỷ hải sản của Việt Nam.
2-

Thị trƣờng EU.

THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Thị trường EU có 15 thành viên với 337 triệu dân, GDP hơn 9000 tỷ
USD/năm, tiêu thụ các mặt hàng thuỷ sản có chất lượng cao. Hàng thuỷ
sản Việt Nam xuất khẩu vào EU những năm gần đây xếp vào danh sách II,
đến năm 2000 đưa lên danh sách I. Một số nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt
Nam cho rằng, EU đã mở rộng cánh cửa cho thị trường này.
Thị trường EU không phải là thị trường đồng nhất mà là thị trường của
15 nước khác biệt, trên thực tế các nhóm dân cư, các vùng địa lý với những
nét đặc trưng ẩm thực khác nhau. Do đó kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của
Việt Nam vào thị trường này chỉ ổn định trong khoảng 80-100 triệu USD.
Trên đây là một số thành tựu mà ngành thuỷ sản Việt Nam đã đạt

được tại thị trường EU, nhưng chúng ta không thể không nhìn ra một thực
tế là thị trường EU là một thị trường khó tính, những đòi hỏi của thị trường
này đối với các sản phẩm thuỷ sản nước ta ngày càng cao, trước tiên là về
vệ sinh an toàn thực phẩm, sau đó đến mẫu mã, chủng loại sản phẩm.
Muốn mở rộng thị trường tại nơi đây, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt
Nam chỉ có một con đường duy nhất là giữ được chữ tín trong lòng khách
hàng thông qua việc không ngừng đổi mới chất lượng, mẫu mã sản phẩm
của mình. Có như vậy ngành thuỷ sản mới mong giữ được thị trường Châu
Âu nói chung và thị trường EU nói riêng. Trong một vài năm gần đây, tình
hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Châu Âu tương đối ổn định ,
nhưng nhìn chung có xu hướng giảm, mà rõ rệt nhất là ở mặt hàng tômsản phẩm chiếm tỷ trọng cao nhất của ta. Những biến động dù là nhỏ này
cũng nói lên một điều là sản phẩm thuỷ sản của nước ta chưa thoả mãn một
cách tốt nhất những nhu cầu của người tiêu dùng nơi đây. Thấy được
những đặc điểm này là một trong những tín hiệu thị trường giúp cho các
nhà đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam có hướng điều
chỉnh sao cho phù hợp để EU mãi là một thị trường lớn cho sản phẩm thuỷ
sản của nước ta.
3-

Thị trƣờng Mỹ.

Thị trường Mỹ luôn là một thị trường hấp dẫn không chỉ đối với các
nước Châu á (trong đó có Việt Nam), mà còn là mục tiêu của nhiều nước
THUVIENNET.COM.VN


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
châu lục khác. Bởi không chỉ có 270 triệu dân với GDP năm 1997 là 800 tỷ
USD, kinh tế liên tục tăng trưởng: năm 1998 là 3.4%; năm 1999 là 3.6%;
năm 2000 kìm hãm tốc độ cũng đạt 3% đến 3.2%. Sức mua của người dân

Mỹ lớn, giá cả ổn định mặt hàng chất lượng cao càng đắt giá lại càng dễ
tiêu thụ.
Năm 1999 nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ đạt con số kỷ lục 9.3 tỷ USD.
Vào thị trường Mỹ có nghĩa là hàng hoá uy tín chất lượng cao, bởi vì phải
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn HACCP.
Nắm bắt được tính cách và tiềm năng của thị trường này, Việt Nam
đã cử chuyên gia thuỷ sản đầu tiên tham gia lớp tập huấn quốc tế về
HACCP(Hazard Analysis critical control Point) từ năm 1991. Ngành thuỷ
sản cũng đã thành lập cơ quan kiểm tra chất lượng hàng thuỷ sản, cho nên
năm 1998 đã có 27 nhà máy đông lạnh chế biến thuỷ sản đạt tiêu chuẩn
HACCP, năm 1999 lên 47 nhà máy, năm 2000 có 67 nhà máy đạt tiêu
chuẩn HACCP.
Năm 1997 hàng thuỷ sản Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ mới
đạt 39.3 triệu USD; năm 1998 lên 80.15 triệu USD tăng 204% so với năm
1997; năm 1999 lên 130 triệu USD , tăng 162.2 % so với năm 1998; năm
2000 tăng 220%. Trong những mặt hàng thuỷ sản vào thị trường Mỹ thì
con tôm vẫn là mặt hàng chủ lực, năm 1997 xuất được 3074 tấn tôm với
giá trị kim ngạch 31.32 triệu USD, chiếm 79.6% tổng kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản vào thị trường Mỹ; năm 1998 xuất khẩu được 6125.7 tấn với giá
trị kim ngạch 66.89 triệu USD; năm 1999 xuất được 9100 tấn với giá trị
kim ngạch 96.5 triệu USD, chiếm 74.23% kim ngạch năm 1999. Giá tôm ở
thị trường Mỹ tương đối cao so với các thị trường khác. Ngoài tôm sú, các
mặt hàng khác thường được xuất khẩu sang Mỹ bao gồm các loại thuỷ sản
khác như: cá ba sa, cá tra, cá nheo, cá bơn nuôi nước ngọt và cá ngừ biển
khơi...Tất cả những mặt hàng trên đều được thị trường Mỹ chấp nhận với
giá cả tương đối cao. Tuy nhiên, trong năm vừa qua, sau thất bại của vụ
kiện về việc bán phá giá cá tra, cá ba sa của Việt Nam trên thị trường Mỹ
THUVIENNET.COM.VN



hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
thì tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Mỹ gặp phải nhiều khó
khăn.
Để tránh gặp phải tình trạng này, đồng thời cũng là cách tốt nhất để bảo
vệ người sản xuất cá của Việt Nam, chúng ta phải làm sao xây dựng được
một thương hiệu có giá trị cho các sản phẩm của mình, và hơn thế nữa
ngành thuỷ sản phải không ngừng cải tiến sản phẩm của mình về chất
lượng, mẫu mã, chũng loại...Có như thế sản phẩm thuỷ sản Việt Nam với
khẳng định được vị trí của mình trên thị trường Mỹ nói riêng và thị trường
thế giới nói chung. Để thị trường xuất khẩu luôn là một thị trường rộng
lớn, hấp dẫn đối với người sản xuất thuỷ sản của Việt Nam.
Ngày nay, khi trình độ phát triển kinh tế của các quốc gia trên
thế giới cao hơn thì nhu cầu của con người đối với sản phẩm thuỷ sản càng
được chú trọng, do đó thị trường sản phẩm đầu ra của thuỷsản trên thế giới
không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, do đặc điểm, thị hiếu tiêu dùng
của mỗi quốc gia là khác nhau vì vậy mà yêu cầu đối với từng thị trường
cũng khác nhau. Để mở rộng thị trường xuất khẩu cho thuỷ sản thì những
người kinh doanh không thể không chú ý tới việc nghiên cứu thị trường, từ
đó có những chiến lược kinh doanh hợp lý, đáp ứng một cách tốt nhất, phù
hợp nhất những nhu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới. Có như vậy
ngành thuỷ sản nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng mới có cơ hội để
phát triển nhanh hơn, mạnh hơn, khai thác một cách tối ưu những tiềm
năng thuỷ sản dồi dào mà thiên nhiên đã ban tặng cho đất nước chúng ta.
III- MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG.

1- Khai thác hải sản.
Ở Việt Nam nghề khai thác hải sản xuất hiện từ rất sớm, tuy nhiên
nó lại phát triển rất chậm, chỉ đến một vài năm gần đây mới đạt được một
thành tựu đáng kể.
Trước đây, do trình độ phát triển kinh tế còn kém, đất nước lại bị chiến

tranh tàn phá, người làm nghề biển không có điều kiện để tiếp cận với khoa
học hiện đại vì vậy mà trong một thời gian rất dài nghề đánh bắt, khai thác
hải sản phát triển rất chậm. Hiện nay, khi đất nước đang trong thời kỳ mở
THUVIENNET.COM.VN


×