Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Nêu đặc điểm nội dung, bản chất và các hình thức công cụ mệnh lệnh kiểm soát và công cụ kinh tế sử dụng trong công tác quản lý môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.75 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA ĐÀ NẴNG
KHOA MÔI TRƯỜNG


TIỂU LUẬN MÔN HỌC

KINH TẾ MÔI TRƯỜNG
Đề tài: Nêu đặc điểm nội dung, bản chất và các hình thức công cụ
mệnh lệnh kiểm soát và công cụ kinh tế sử dụng trong công tác
quản lý môi trường. Nhận xét những điểm mạnh, điểm yếu của mỗi
hình thức công cụ và đề nghị những biện pháp để nâng cao hiệu
quả và hiệu lực quản lý cho các công cụ trong điều kiện Việt Nam
hiện nay.
Giáo viên hướng dẫn : TS. LÊ THỊ KIM OANH
Họ và tên học viên

: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Chuyên ngành

: Công Nghệ Môi Trường

Lớp

: K23 Cao học Môi trường

Đà Nẵng - 2012


Kinh Tế Môi Trường


GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

MỤC LỤC

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 2


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

I. LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập hiện nay, các vấn đề về môi trường là một trong những vấn
đề đang được quan tâm hàng đầu. Bảo vệ môi trường là bảo vệ cuộc sống chung
của toàn nhân loại. Vì vậy, việc bảo vệ môi trường ngày nay đã trở thành một trong
những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Để đảm bảo việc quản lý
môi trường được thực hiện nghiêm túc, nước ta đã có những biện pháp và chính
sách khác nhau. Nhà nước ta đang can thiệp mạnh mẽ vào các hoạt động của cá
nhân, tổ chức trong xã hội để bảo vệ các yếu tố của môi trường, ngăn chặn việc
gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường. Trong những biện pháp đó, pháp luật
đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì các loại quan hệ kinh
tế là rất đa dạng. Điều đó đòi hỏi không thể chỉ áp dụng một loại công cụ trong
công tác quản lý và bảo vệ môi trường mà nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ, đồng
bộ giữa các loại công cụ mà đặc biệt là các công cụ kinh tế. Các công cụ kinh tế
gồm nhiều loại, kinh nghiệm của các nước đã chỉ ra rằng không thể chỉ áp dụng
một loại biện pháp, một loại công cụ giản đơn với một vài biện pháp, một vài công
cụ đơn lẻ nào đó là có thể điều chính được sự đa dạng về chủ thể cũng như phương

thức sản xuất quản lý và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, do các công cụ quản lý
hiện nay vẫn chưa được hoàn thiện và việc áp dụng còn nhiều lỏng lẻo và chưa
thực sự phù hợp trong điều kiện đất nước cho nên các vấn đề về môi trường vẫn
chưa được giải quyết triệt để.
Trong bài tiểu luận này, tôi được giao nhiệm vụ trình bày về công cụ mệnh lệnh
kiểm soát và công cụ kinh tế và đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả
và hiệu lực quản lý cho các công cụ đó trong điều kiện Việt Nam hiện nay.

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 3


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Rất mong nhận được sự góp ý chân tình của giáo viên. Xin chân thành cảm ơn!

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 4


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

II. CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
II.1. Khái niệm:

Công cụ quản lý về môi trường là các phương thức hay biện pháp hành động thực
hiện công tác quản lý môi trường của Nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất.
Công cụ quản lý môi trường rất đa dạng, mỗi một công cụ có một chức năng và
phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Theo bản chất có thể chia công cụ quản lý môi trường thành các loại cơ bản như
sau:


Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát



Công cụ kinh tế



Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường.

Trong phạm vi bài tiểu luận này, chỉ đề cập đến 2 loại công cụ là: Công cụ mệnh
lệnh-kiểm soát và Công cụ kinh tế.
II.2. Công cụ mệnh lệnh-kiểm soát
II.2.1. Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
Công cụ mệnh lệnh - kiểm soát hay còn gọi là công cụ pháp lý. Đây là công cụ
quản lý trực tiếp và được sử dụng phổ biến từ lâu ở nhiều quốc gia trên thế giới và
là công cụ được nhiều nhà quản lý hành chính ủng hộ.
II.2.2. Đặc điểm nội dung, bản chất của công cụ “Mệnh lệnh – Kiểm soát”
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát gồm 2 khía cạnh: Khía cạnh chỉ huy và kiểm soát,
theo nguyên tắc là một bên đưa ra yêu cầu mệnh lệnh hay chỉ huy đồng thời họ
cũng có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành hay tuân thủ các yêu cầu
đã được đặt ra.


HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 5


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật quốc gia,
các văn bản khác dưới luật (pháp lệnh, nghị định, qui định, các tiêu chuẩn môi
trường, giấy phép môi trường...), các kế hoạch, chiến lược và chính sách môi
trường quốc gia, các ngành kinh tế và các địa phương.


Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế

điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế trong
việc ngăn chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi
trường ngoài phạm vi sử dụng của quốc gia. Cho đến nay đã có hàng nghìn văn
bản luật quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều văn bản
trong số đó. Pháp luật quốc tế về bảo vệ môi trường do nhiều nước ký kết hoặc
tham gia không có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ quốc gia cụ thể. Muốn thi hành
trên lãnh thổ nào đó, các qui phạm của Luật quốc tế về bảo vệ môi trường cần phải
được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật quốc gia, nghĩa là Nhà nước phải phê
chuẩn các văn bản này.


Luật môi trường quốc gia là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên


tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các
chủ thể sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ
sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu
quả môi trường sống của con người. Hệ thống luật bảo vệ môi trường của một
quốc gia thường gồm luật chung và luật sử dụng hợp lý các thành phần môi trường
hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa phương, một ngành.
Ở Việt Nam, luật bảo vệ môi trường năm 2005 là luật bảo vệ môi trường mới nhất
được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày
29/11/2005, ban hành theo Quyết định số 52/2005/QH11. Nhiều khía cạnh bảo vệ
môi trường cũng được đề cập trong các văn bản pháp luật khác (gọi là luật về các
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 6


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

thành phần môi trường) như Luật khoáng sản, Luật phát triển và bảo vệ rừng, Luật
dầu khí, Luật hàng hải, Luật lao động, Luật đất đai, Luật bảo vệ sức khỏe nhân
dân, Luật tài nguyên nước, Pháp lệnh đê điều, Pháp lệnh về bảo vệ nguồn lợi thủy
sản, Pháp lệnh về bảo vệ các công trình giao thông…


Quy định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn thực

hiện các nội dung của luật. Quy định có thể do Chính phủ trung ương hay địa
phương, do cơ quan hành pháp hay lập pháp ban hành.



Quy chế là các quy định về thể lệ tổ chức quản lý bảo vệ môi trường, chẳng

hạn như quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, Bộ, Sở khoa
học công nghệ, Sở tài nguyên môi trường..


Tiêu chuẩn môi trường là các chuẩn mực giới hạn cho phép được quy định

làm căn cứ để quản lý môi trường. Tiêu chuẩn môi trường có quan hệ mật thiết với
sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Việc xây dựng tiêu chuẩn môi trường một
mặt dựa trên các quy định đã được kiểm nghiệm thực tế, mặt khác phải có nhiều
căn cứ khoa học, nhằm đảm bảo cho tiêu chuẩn môi trường phù hợp với nhu cầu
bảo vệ sinh thái, đồng thời khả thi về mặt kinh tế, xã hội. Hệ thống tiêu chuẩn môi
trường phản ảnh trình độ khoa học, công nghệ, tổ chức quản lý và tiềm lực kinh tế
xã hội có tính đến dự báo phát triển. Các dạng tiêu chuẩn môi trường:


Tiêu chuẩn môi trường xung quanh: Qui định đặc tính của môi trường tiếp

nhận, ví dụ như nồng độ tối đa của hợp chất nitrat trong nước uống, hay SO2 trong
bầu không khí, hoặc mức độ tối đa trong khu dân cư. Các tiêu chuẩn này hình
thành các mục tiêu môi trường cần đạt được bằng các công cụ chính sách khác
nhau;


Tiêu chuẩn phát thải: Là mức tối đa cho phép xả thải các chất ô nhiễm ra

môi trường, ví dụ mức BOD tối đa được xả vào nước hoặc mức SOx tối đa được

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 7


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

thải vào không khí của một cơ sở sản xuất công nghiệp. Một hình thức đặc biệt của
tiêu chuẩn phát thải đó là việc cấm không được sử dụng hay thải ra một chất nào
đó, thông thường là chất độc;


Tiêu chuẩn quy trình: Qui định hình thức của quá trình sản xuất hoặc thiết bị

giảm thiểu ô nhiễm mà các cơ sở ô nhiễm phải lắp đặt (ví dụ như thiết bị lọc không
khí hay một dụng cụ lọc nước nào đó);


Tiêu chuẩn sản phẩm: Xác định đặc tính của các sản phẩm có tiềm năng gây

ô nhiễm ví dụ như hóa chất, bột giặt, phân bón hóa học, ô tô và môtô, các loại
nhiên liệu…
Có 4 tiêu chí xác định các tiêu chuẩn môi trường đó là tiêu chí môi trường, tiêu chí
công nghệ, tiêu chí kinh tế, tiêu chí chính trị.


Tiêu chí môi trường: Xác định mức ngưỡng của môi trường tự nhiên nhằm


đảm bảo lợi ích hoặc bảo vệ các hoạt động kinh tế khỏi tác động có hại;


Tiêu chí về công nghệ: Tiêu chuẩn có thể dựa trên công nghệ đã có và đang

được áp dụng trong một số nhà máy và dễ dàng được chuyển giao công nghệ đang
có hiện thời; tiêu chuẩn dựa trên cơ sở công nghệ tốt nhất đang có;


Tiêu chí về kinh tế: Làm thế nào chi phí bỏ ra là nhỏ nhất trong điều kiện có

thể; một tiêu chuẩn lý tưởng là tiêu chuẩn mà doanh nghiệp có thể đạt được với chi
phí thấp nhất;


Tiêu chí về chính trị: Khi xác lập công cụ chính sách, người ta đưa ra quyết

định phải đối mặt với một số ràng buộc về chính trị như: tính công bằng, khả năng
cảnh báo, đảm bảo khả năng chấp nhận được và đơn giản.

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 8


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Chính sách bảo vệ môi trường là những chủ trương, biện pháp mang tính chiến

lược, có thời hạn nhằm giải quyết nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào đó trong
một giai đoạn nhất định. Chính sách bảo vệ môi trường giải quyết những vấn đề
chung nhất về quan điểm quản lý môi trường, về các mục tiêu môi trường cơ bản
cần giải quyết trong một giai đoạn dài 10 - 15 năm và các định hướng lớn thực hiện
mục tiêu, chú trọng việc huy động nguồn lực cân đối với mục tiêu về bảo vệ môi
trường.
Chính sách bảo vệ môi trường phải được xây dựng đồng thời với chính sách phát
triển kinh tế - xã hội. Chức năng quan trọng nhất của chính sách môi trường là tạo
điều kiện gắn kết các mục tiêu phát triển bền vững vào hoạt động phát triển của
từng ngành, từng vùng tạo liên kết giữa các ngành và các cấp trong việc thực hiện
mục tiêu bảo vệ môi trường.


Chiến lược bảo vệ môi trường cụ thể hóa chính sách ở một mức độ nhất

định. Chiến lược xem xét chi tiết hơn mối quan hệ giữa các mục tiêu do chính sách
xác định và các nguồn lực để thực hiện chúng; trên cơ sở lựa chọn các mục tiêu
khả thi, xác định phương hướng, biện pháp thực hiện mục tiêu.


Công cụ đánh giá tác động môi trường: Đánh giá tác động môi trường được

sử dụng để phòng ngừa và giảm thiểu những tác động tiêu cực, phát huy các tác
động tích cực và đồng thời hỗ trợ cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên
qua đó làm tăng tối đa lợi ích của các dự án phát triển kinh tế - xã hội góp phần vào
phát triển bền vững của quốc gia.
Đánh giá tác động môi trường được tiến hành khi ra quyết định về dự án, tại nhiều
được đây là điều bắt buộc và đưa vào văn bản luật. Việc đánh giá này có liên quan
đến mục tiêu kinh tế của dự án và từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn.
Giám sát và cưỡng chế là hai yếu tố quan trọng của công cụ này.

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 9


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

II.3. Công cụ kinh tế
II.3.1. Công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường có tác động trực tiếp tới thu nhập hoặc
hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm ngăn ngừa các tác động
tiêu cực tới môi trường. Công cụ kinh tế có thể tác động trực tiếp đến các nhà sản
xuất dưới dạng thuế môi trường, lệ phí xả thải hoặc trực tiếp vào người tiêu thụ
dưới dạng phí sử dụng. Trong tất cả các trường hợp đó, công cụ kinh tế đều có mục
đích chung là hạn chế chất lượng chất thải phát sinh, giảm ảnh hưởng của việc tiêu
thụ tài nguyên và năng lượng.
II.3.2. Đặc điểm nội dung, bản chất của công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế rất đa dạng gồm thuế môi trường, phí và lệ phí môi trường, quỹ
môi trường, quôta môi trường, ký quỹ môi trường, trợ cấp tài chính, nhãn sinh
thái...Mỗi công cụ kinh tế có những ưu điểm trong từng nội dung quản lý cụ thể.
1. Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là một khoản thu của Ngân sách Nhà nước đối với các doanh
nghiệp về việc sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất.
Mục đích của thuế tài nguyên là:


Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên;




Hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng;



Tạo nguồn thu cho ngân sách và điều hòa quyền lợi của tầng lớp dân cư về

việc sử dụng tài nguyên.
Thuế tài nguyên bao gồm một số sắc thuế chủ yếu như thuế sử dụng đất, thuế sử
dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài nguyên khoáng
sản...

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 10


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Cơ cấu tính thuế tài nguyên phải được thay đổi phù hợp với khả năng công nghệ
của doanh nghiệp, phương thức quản lý của nhà nước và điều kiện địa chất kỹ
thuật của khu vực khai thác tài nguyên để đảm bảo có sự phân biệt đối với các
doanh nghiệp hoặc hoạt động gây ra các tổn thất tài nguyên và suy thoái môi
trường ở các mức độ khác nhau; nguyên tắc chung là hoạt động càng gây nhiều tổn
thất tài nguyên và suy thoái môi trường thì càng phải chịu thuế cao hơn. Việc xác
định đúng đắn phương pháp tính thuế tài nguyên là rất quan trọng sẽ góp phần thúc
đẩy các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, kỹ thuật năng lực quản lý nhằm làm giảm

tổn thất tài nguyên, đặc biệt các tài nguyên không tái tạo.
Trong thực tế khi áp dụng thuế tài nguyên người ta thường phân biệt tài nguyên
thành 2 loại theo mức độ xác định trữ lượng:


Loại tài nguyên đã xác định trữ lượng: thuế được tính sẽ dựa trên trữ lượng

địa chất (hoặc trữ lượng công nghiệp) của loại tài nguyên mà doanh nghiệp được
phép khai thác;


Loại tài nguyên chưa xác định trữ lượng hoặc xác định chưa chính xác trữ

lượng: Có thể sử dụng sản lượng khai thác làm cơ sở tính thuế trong khi chờ các
thăm dò địa chất về trữ lượng bổ sung.
Ngoài ra, thuế tài nguyên cũng phải được áp dụng từ từ từng bước để tránh làm
mất cân bằng kinh tế nên công bố thời hạn áp dụng.

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 11


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

2. Thuế và phí tài nguyên
Thuế và phí môi trường được sử dụng phổ biến tại các nước công nghiệp phát triển
(OECD) từ hơn hai thập kỉ qua và đã bước đầu được áp dụng có kết quả tại các

nước Châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Singapore, Philippin...
Thuế và phí môi trường là công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường vào sản
phẩm theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.
Thuế và phí môi trường nhằm hai mục đích chủ yếu:
-

Khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi

-

trường.
Tăng nguồn thu cho ngân sách.

Hiện tại ở nhiều nước nguồn thu từ thuế môi trường được sử dụng cho ngân sách
chung của chính phủ như các nguồn thu từ thuế khác; còn nguồn thu từ phí môi
trường sẽ được dành riêng để chi cho các hoạt động bảo vệ môi trường như để thu
gom xử lý phế thải, nước thải, khắc phục ô nhiễm, hỗ trợ các nạn nhân của ô
nhiễm...
Trên thực tế thuế và phí được áp dụng dưới nhiều dạng khác nhau tùy thuộc vào
mục tiêu và đối tượng ô nhiễm như: thuế/phí đánh vào nguồn ô nhiễm, thuế/phí
đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm, phí đánh vào người sử dụng.


Thuế/phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm là loại thuế/phí đánh vào các chất ô

nhiễm được thải vào môi trường nước (như BOD, COD, SS, kim loại nặng...), khí
thải (như SO2, CO2, NOx, CFCs...), đất (như rác thải, phân bón) hoặc gây tiếng ồn
(như máy bay, các loại động cơ...) ảnh hưởng tới môi trường xung quanh.



Thuế/phí đánh vào nguồn ô nhiễm được xác định trên cơ sở khối lượng và

hàm lượng (nồng độ) các chất gây ô nhiễm.
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 12


Kinh Tế Môi Trường


GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Thuế/phí đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm được áp dụng đối với những loại

sản phẩm gây tác hại tới môi trường một khi chúng được sử dụng trong quá trình
sản xuất, tiêu dùng hay hủy bỏ chúng. Loại phí được áp dụng đối với các loại sản
phẩm có chứa các chất độc hại cho môi trường như kim loại nặng, PVC, CFCs,
xăng pha chì, thủy ngân, các loại vỏ hộp, vỏ chai, giấy bao gói...
Phí đánh vào sản phẩm có thể được sử dụng thay cho phí gây ô nhiễm nếu vì lí do
nào đó, người ta không thể trực tiếp tính được phí đối với các chất gây ô nhiễm.
Loại phí này có thể đánh vào sản phẩm là nguyên liệu đầu vào, sản phẩm trung
gian hay thành phẩm, tùy theo từng trường hợp.
Phí đánh vào sản phẩm được sử dụng rộng rãi ở các nước OECD dưới dạng phụ
phí đánh vào giá xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, bột tẩy giặt...


Phí đánh vào người sử dụng là tiền phải trả do được sử dụng các hệ thống

dịch vụ công cộng xử lý và cải thiện chất lượng môi trường như phí vệ sinh thành

phố, phí thu gom và xử lý rác thải, nước thải, phí sử dụng nước sạch, phí sử dụng
đường và bãi đổ xe, phí sử dụng danh lam thắng cảnh, phí hành chính nhằm đóng
góp tài chính cho việc cấp phép, giám sát, quản lý hành chính đối với môi trường...
Các khoản thu từ phí này được dùng để góp phần thiết lập hệ thống kiểm soát, xử
lý ô nhiễm công cộng, bù đắp chi phí đảm bảo cho hoạt động của hệ thống đó. Đối
tượng thu là các tổ chức cá nhân trực tiếp sử dụng các hệ thống dịch vụ môi trường
công cộng.
Nói chung mức phí nước thải phải tương ứng với chi phí của loại dịch vụ môi
trường được sử dụng. Phí đánh vào người sử dụng nhằm mục đích hạn chế việc sử
dụng quá mức các dịch vụ môi trường.

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 13


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

3. Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường (quota ô nhiễm)
Giấy phép môi trường chuyển nhượng (hay còn gọi là quota ô nhiễm) là loại giấy
phép xả thải mà người sử dụng được cấp có quyền chuyển nhượng số lượng, chất
lượng xả thải của cơ sở mình cho người khác (đơn vị cần giấy phép để xả thải).
Giấy phép môi trường thường được áp dụng cho các tài nguyên môi trường khó có
thể qui định quyền sở hữu và vì thế thường được sử dụng bừa bãi như không khí,
đại dương. Công cụ này được áp dụng ở một số nước, ví dụ giấy phép (quota) khai
thác cá ngừ và sử dụng nước ở Australia, giấy phép ô nhiễm không khí ở Mỹ, Anh
và một số thành viên của OECD như Canada, Đức, Thụy Điển. Giấy phép xả thải
có thể mua bán được là khái niệm chỉ loại thị trường trong đó hàng hóa là các loại

giấy phép thải khí và nước thải, người bán là các đơn vị sở hữu giấy phép, người
mua là các đơn vị cần giấy phép để xả thải. Thị trường này vận hành theo quy luật
cung – cầu như các thị trường thông thường nhưng lại có đặc điểm gần giống với
thị trường chứng khoán ở chỗ giao dịch các chứng chỉ, các giấy phép mang một giá
trị nhất định với giá cả được định đoạt theo chủ quan, kì vọng và dự báo các bên
tham gia giao dịch. Nguyên lý cơ bản của thị trường giấy phép (hay thị trường môi
trường) là việc đặt ra giới hạn tối đa về lượng khí thải hoặc nước thải nào đó ở mức
thống nhất với chỉ tiêu môi trường tại một vùng hay khu vực cụ thể. Một khi tổng
lượng thải cho phép thấp hơn lượng thải mà các đơn vị hoạt động trong vùng muốn
thải sẽ tạo nên sự khan hiếm về quyền được thải và làm cho nó có giá ở thị trường.
Để thực hiện công cụ này trước hết nhà nước phải xác định mức sử dụng môi
trường chấp nhận được để trên cơ sở đó phát hành giấy phép. Việc này không đơn
giản và cũng đòi hỏi chi phí thực hiện khá lớn. Sau khi qui định mức thải tối đa
trong vùng, có thể phát không giấy phép cho doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn
trên một số căn cứ nào đó hoặc tổ chức bán đấu giá. Cách thực hiện được nhiều
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 14


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

người tán thành nhất là phân phối giấy phép dựa vào mức độ ô nhiễm hoặc hiện
trạng đánh giá tác động môi trường của từng doanh nghiệp, nói cách khác là thừa
kế quyền được thải quá khứ. Khi đã có giấy phép các doanh nghiệp tự do giao
dịch, mua đi bán lại số giấy phép đó; giá giấy phép trên thị trường sẽ điều tiết nhu
cầu trong phạm vi tổng hạn mức.
Ưu điểm đáng kể nhất của loại công cụ này là sự kết hợp giữa tín hiệu giá cả và

hạn mức ô nhiễm. So với các loại thuế môi trường hay phí ô nhiễm thị trường giấy
phép mang tính chắc chắn, đảm bảo hơn về kết quả đạt mục tiêu môi trường vì dù
giao dịch mua bán như thế nào thì tổng lượng giấy phép vẫn nằm trong phạm vi
kiểm soát ở số phát hành ban đầu. Mặt khác, công cụ giấy phép linh hoạt ở chỗ nó
cho phép các doanh nghiệp
Các khó khăn chính cho việc thực hiện quota ô nhiễm là:


Để xác định chính xác giá trị quota ô nhiễm và cấp quota cho một khu vực,

một lưu vực hay một vùng cần phải có các nghiên cứu về khả năng tự làm sạch của
môi trường. Điều này thường đòi hỏi nhiều kinh phí và kinh nghiệm chuyên môn
cao;


Hoạt động phát triển kinh tế và chất lượng môi trường khu vực liên tục thay

đổi theo thời gian, do vậy các giá trị của quota ô nhiễm cũng rất dễ thay đổi trước
sức ép nói trên. Hiện tại chúng ta xác định các mức quota ô nhiễm là không nguy
hiểm đối với môi trường, nhưng trong tương lai điều đó không thể chấp nhận được.
Vì vậy, cần nhiều công sức để điều chỉnh quota dẫn đến chỗ các giải pháp mua
hoặc bán quota rất khó thực hiện hoặc hiệu quả thực tế nhỏ;


Hoạt động mua và bán quota chỉ có thể diễn ra một cách bình thường trong

nền kinh tế mở, hoạt động theo cơ chế thị trường, với một hệ thống pháp lý hoàn
thiện về quyền và nghĩa vụ cũng như khả năng quản lý môi trường tốt. Trong
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân


Page 15


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

trường hợp khác đi, việc trao đổi mua bán chỉ còn là hình thức hoặc kém hiệu lực,
do đó có gian lận trong việc xác định quota và kiểm soát ô nhiễm.
4. Hệ thống đặt cọc hoàn trả
Đặt cọc – hoàn trả được sử dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường bằng cách
quy định các đối tượng tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi
trường phải trả một khoản tiền (đặt cọc) khi mua hàng, nhằm đảm bảo cam kết sau
khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm đó (hoặc phần còn lại của sản phẩm đó) trả lại cho
các đơn vị thu gom phế thải hoặc tới những địa điểm đã quy định để tái chế, tái sử
dụng hoặc tiêu hủy theo cách an toàn đối với môi trường.
Nếu thực hiện đúng người tiêu dùng sẽ nhận lại khoản đặt cọc do các tổ chức thu
gom hoàn trả lại. Mục đích của hệ thống đặt cọc – hoàn trả là thu gom những thứ
mà người tiêu thụ đã dùng vào một trung tâm để tái chế hoặc tái sử dụng một cách
an toàn đối với môi trường.
Đặt cọc – hoàn trả được coi là một trong những ứng cử viên sáng giá cho các chính
sách nhằm giúp nền kinh tế thoát khỏi chu trình sản xuất tuyến tính (khai khoáng
→ nguyên liệu thô → sản phẩm→ phế thải) và hướng tới chu trình tuần hoàn trong
đó các tài nguyên được tái chế, tái sử dụng tới mức tối đa có thể được.
Phạm vi sử dụng của hệ thống đặt cọc – hoàn trả bao gồm:


Các sản phẩm mà khi sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường nhưng

có thể tái chế hoặc tái sử dụng;



Các sản phẩm làm tăng lượng chất thải, cần các bãi thải có quy mô lớn hoặc

tốn nhiều chi phí tiêu hủy;

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 16


Kinh Tế Môi Trường


GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Các sản phẩm chứa chất độc, gây khó khăn đặc biệt cho việc xử lý; nếu tiêu

hủy không đúng cách sẽ gây nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và
sức khỏe con người.
Hệ thống đặt cọc – hoàn trả tỏ ra đặc biệt thích hợp với việc quản lý chất thải rắn.
Các quốc gia thuộc tổ chức OECD đã áp dụng khá thành công hệ thống đặt cọc –
hoàn trả đối với các sản phẩm đồ uống, bia, rượu (đựng trong vỏ chai nhựa hoặc
thủy tinh) mang lại hiệu quả cao cho việc thu gom các phế thải. Hiện nay các nước
này đã và đang mở rộng việc áp dụng hệ thống đặt cọc – hoàn trả sang các lĩnh vực
khác như vỏ tàu, ô tô cũ, dầu nhớt, ắc quy có chứa chì, thủy ngân, Cd, vỏ chai
đựng thuốc trừ sâu, các đồ điện gia dụng như máy thu hình, tủ lạnh, điều hòa
không khí...
Nhiều nước trong khu vực Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan cũng đã có thành
công nhất định trong việc áo dụng hệ thống đặt cọc – hoàn trả đối với vỏ lon, vỏ

chai nhựa, thủy tinh, nhôm, sắt, thép, phế liệu, ắc quy, xăm lốp, dầu nhớt, giấy
loại...
Theo kinh nghiệm của các nước, mức đặt cọc là một trong những yếu tố quan trọng
tác động đến hiệu quả của hệ thống đặt cọc – hoàn trả. Các mức đặt cọc thấp sẽ
không tạo ra động lực kinh tế đủ mạnh cho việc thu gom và tái chế phế thải. Ngoài
ra các yếu tố như nhận thức và ý thức của người sản xuất và tiêu dùng đối với vấn
đề thu gom phế thải, khả năng tổ chức và quản lý hệ thống thu gom cũng như vấn
đề công nghệ tái chế đều có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hoạt động và thành công
của hệ thống.
5. Ký quỹ môi trường
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế có tiềm
năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường.
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 17


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Nguyên lý hoạt động của hệ thống ký quỹ môi trường cũng tương tự như hệ thống
đặt cọc – hoàn trả. Nội dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh
nghiệp các cơ sở sản xuất kinh doanh trước khi tiến hành hoạt động đầu tư phải ký
gửi một khoản tiền (hoặc kim loại quý, đá quý, hoặc các giấy tờ có giá trị như tiền)
tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm sự cam kết về thực hiện các biện
pháp để hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Mục đích chính của việc ký quỹ là làm cho người có khả năng gây ô nhiễm, suy
thoái môi trường luôn nhận thức được trách nhiệm của họ từ đó tìm ra các biện
pháp thích hợp ngăn ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường.

Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu các doanh nghiệp/cơ sở có các
biện pháp chủ động ngăn chặn khắc phục không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái
môi trường, hoàn nguyên hiện trạng môi trường đúng như cam kết thì họ sẽ được
nhận lại số tiền đã ký quỹ đó. Ngược lại nếu bên ký quỹ không thực hiện đúng cam
kết hoặc phá sản thì số tiền đã ký quỹ sẽ được rút ra từ tài khoản ngân hàng/tổ chức
tín dụng để chi cho công tác khắc phục sự cố, suy thoái môi trường.
Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích cho Nhà nước vì không phải đầu tư kinh phí khắc
phục môi trường từ ngân sách. Ký quỹ môi trường cũng khuyến khích các doanh
nghiệp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp sẽ có lợi ích
do lấy lại được vốn khi không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường.
Với mục đích và nguyên lý hoạt động như vậy, rõ ràng số tiền phải ký quỹ phải lớn
hơn hoặc xấp xỉ kinh phí cần thiết để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây
ô nhiễm và suy thoái môi trường. Nếu số tiền ký quỹ quá nhỏ so với chi phí bảo vệ
môi trường, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng từ bỏ nhận lại số tiền ký quỹ đó và
không thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường của mình.

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 18


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Công cụ ký quỹ môi trường đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt
với các hoạt động công nghiệp như khai thác mỏ, khai thác rừng hoặc đại dương.
6. Trợ cấp môi trường
Trợ cấp môi trường là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt các nước thuộc tổ chức OECD. Trợ cấp môi trường có thể dưới

các dạng sau:


Trợ cấp không hoàn lại;



Các khoản cho vay ưu đãi;



Cho phép khấu hao nhanh;



Ưu đãi thuế (miễn, giảm thuế).

Chức năng chính của trợ cấp môi trường là giúp đỡ các ngành công – nông nghiệp
các ngành khác khắc phục ô nhiễm trong điều kiện khi tình trạng ô nhiễm môi
trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng
được đối với việc xử lý ô nhiễm. Trợ cấp cũng còn nhằm khuyến khích các cơ quan
nghiên cứu và triển khai các công nghệ sản xuất có lợi cho môi trường hoặc các
công nghệ xử lý ô nhiễm.
Tuy nhiên, trợ cấp có thể gây ra sự không hiệu quả. Các nhà sản xuất có thể đầu tư
quá mức vào kiểm soát và xử lý ô nhiễm (làm giảm ô nhiễm nhiều hơn so với mức
tối ưu cũng là không hiệu quả).
Trường hợp ngược lại, trợ cấp không được hoạch toán toàn bộ vào chi phí giảm ô
nhiễm mà một phần được dùng để hạ thấp chi phí cá nhân, làm tăng lợi nhuận.
Trợ cấp môi trường chỉ ra biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp hoặc
kéo dài sẽ dẫn đến hiệu quả kinh tế vì trợ cấp đi ngược lại với nguyên tắc “người

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 19


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

gây ô nhiễm phải trả tiền”, nó tạo ra sự thay đổi số công ty (vào – ra tự do đối với
ngành công nghiệp), thay đổi mức hoạt động của ngành công nghiệp mà mục đích
giảm ô nhiễm lại không đạt được.
Vì vậy, trợ cấp môi trường chỉ có thể thực hiện trong một thời gian cố định với một
chương trình có hoạch định và kiểm soát rõ ràng, thường xuyên.
7. Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái là danh hiệu của các tổ chức môi trường dành cho các sản phẩm có
sử dụng những công nghệ hoặc giải pháp thân thiện với môi trường, nhằm cung
cấp thông tin khuyến cáo người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa vì mục tiêu bảo vệ
môi trường.
Nhãn sinh thái do một cơ quan môi trường quốc gia hoặc một hiệp hội các nhà sản
xuất loại sản phẩm (nhãn sinh thái ngành dệt của Đức) , quản lý (cấp và thu hồi
nhãn) thông thường là một cơ quan quản lý môi trường.
Nhãn sinh thái đánh vào nhà sản xuất thông qua người tiêu thụ và hệ thống tiêu
thụ, bằng giá của sản phẩm và số lượng sản phẩm tiêu thụ.
Mục đích: Mục đích của nhãn sinh thái là đẩy mạnh việc tiêu dùng và sản xuất
nhiều sản phẩm về mặt môi trường hơn, bằng việc cung cấp cho người tiêu dùng
những thông tin về ảnh hưởng môi trường của sản phẩm. Trong các quan hệ
thương mại quốc tế, nhãn sinh thái tác động đến vấn đề cạnh tranh xuất khẩu, vượt
qua các trở ngại thương mại.
Nhà nước xác nhận các sản phẩm thân thiện với môi trường. Khẳng định uy tín sản

phẩm và của nhà sản xuất.
Những sản phẩm được dán nhãn:
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 20


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh



Sản phẩm tái chế từ phế thải;



Sản phẩm thay thế cho các sản phẩm xấu tới môi trường;



Sản phẩm có tác động tích cực đối với môi trường trong sản xuất và tiêu

dùng.
8. Quỹ môi trường
Quỹ môi trường là một thể chế hoặc một cơ chế được thiết kế để nhận tài trợ vốn
từ các nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá trình
thực hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường.
Nguồn thu cho quỹ môi trường có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau
như:



Phí và lệ phí môi trường;



Đóng góp tự nguyện của các cá nhân và doanh nghiệp;



Tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức trong nước, chính quyền địa

phương và chính phủ trung ương;


Đóng góp của các tổ chức, các nhà tài trợ quốc tế;



Tiền lãi và các khoản lợi khác nhau thu được từ hoạt động của quỹ;



Tiền xử phạt hành chính do vi phạm quy định về bảo vệ môi trường;



Tiền thu từ các hoạt động như văn hóa, thể thao, từ thiện, xổ số, phát hành

trái phiếu...

Hỗ trợ do quỹ môi trường cung cấp thường dưới hình thức hỗ trợ tài chính với các
điều khoản ưu đãi chẳng hạn như các khoản trợ cấp không hoàn lại, các khoản vay
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 21


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

vốn dài hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất hiện hành trên thị trường để khuyến khích
các dự án đầu tư bảo vệ môi trường, hỗ trợ các dự án nghiên cứu triển khai, đào tạo
truyền thông môi trường , các dự án kiểm soát và xử lý ô nhiễm của các doanh
nghiệp. Quỹ môi trường thậm chí còn hỗ trợ tiền cho việc điều trị của các nạn nhân
ô nhiễm.
Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường là biện pháp các nhà kinh tế
cho là hiệu quả cao xét từ góc độ chi phí thực hiện. Đồng thời do đặc tính linh hoạt
của bản thân công cụ, vận hành trên cơ sở sử dụng sức mạnh của thị trường và
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả, công cụ kinh tế có khả năng khắc phục
những thất bại của thị trường, có hiệu quả trong việc thay đổi hành vi gây ô nhiễm,
khuyến khích sự năng động và tự giác của người gây ô nhiễm. Thực tế việc sử
dụng công cụ kinh tế ở các nước trên thế giới cho thấy những tác động tích cực
như các hành vi môi trường được điều chỉnh một cách tự giác, các chi phí xã hội
cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn, khuyến khích việc nghiên cứu
triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo vệ môi trường, gia tăng nguồn thu
phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho ngân sách nhà nước, duy trì tốt các
giá trị môi trường của quốc gia.
Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, để có thể áp dụng thành công các công cụ
kinh tế vào quản lý môi trường, cần xem xét cân nhắc các điều kiện dưới đây:



Những thông tin cơ bản có liên quan như lợi ích – chi phí của các phương án

chính sách môi trường, các chỉ tiêu biến đổi chất lượng môi trường và phúc lợi xã
hội, khả năng thể chế tài chính và kỹ thuật...cần được cung cấp đầy đủ cho nhà lập
chính sách, các cơ quan chức năng, các đối tượng như doanh nghiệp, người gây ô
nhiễm.

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 22


Kinh Tế Môi Trường


GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Thể chế pháp lý đủ mạnh, có hiệu lực cưỡng chế về trách nhiệm pháp lý; đặc

biệt quyền tài sản đối với các tài nguyên môi trường và cơ chế sở hữu nguồn lực
cần được xác định rõ và có hiệu lực thực tế.


Sự vận hành của thị trường cạnh tranh với số lượng lớn người mua – người

bán và có sự chênh lệch lớn trong chi phí giảm ô nhiễm của các đối tượng gây ô
nhiễm. Như vậy, tại các khu vực công nghiệp và đô thị phát triển, việc áp dụng
công cụ kinh tế sẽ khả thi hơn so với các vùng nông thôn.



Năng lượng quản lý hành chính bao gồm: năng lực của các cơ quan trong

việc thiết kế và thực hiện công cụ, giám sát việc thực hiện, cưỡng chế các điều kiện
áp dụng công cụ, giám sát việc thực hiện, cưỡng chế các điều kiện áp dụng công cụ
và điều chỉnh các công cụ cho phù hợp với điều kiện thực tế. Để đảm bảo nâng cao
năng lực quản lý hành chính, rõ ràng cần có các nguồn tài chính cho việc nghiên
cứu, đào tạo nhân lực và trang bị hệ thống giám sát thực hiện.


Ý thức chính trị: Việc áp dụng công cụ kinh tế đòi hỏi sự chấp nhận của cơ

quan chức năng, của các đối tượng gây ô nhiễm và của các tổ chức phi lợi nhuận
đại diện cho các nạn nhân của sự xuống cấp môi trường. Trong thực tế các cơ quan
đã quen với công cụ mệnh lệnh – kiểm soát cũ và không muốn thay đổi đòi hỏi
những kỹ năng và công nghệ mới; các đối tượng gây ô nhiễm cũng có thể phản đối
khi cho rằng việc áp dụng các công cụ kinh tế sẽ tạo thêm những khoản chi phí cho
họ.
Các điều kiện cần cho việc áp dụng công cụ kinh tế nêu trên thường khó định
lượng. Trong thực tế, không phải bao giờ và ở đâu các điều kiện đều được thỏa
mãn. Mặt khác, không phải tất cả các công cụ kinh tế cần phải có đủ điều kiện trên
mới áp dụng được; một số loại như thuế, phí, trợ cấp hệ thống đặt cọc – hoàn trả có
thể được áp dụng từng bước trong những điều kiện tương đối “dễ dàng” hơn.
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 23


Kinh Tế Môi Trường


GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

Kinh nghiệm của các nước OECD và các nước Đông Á khác đã chỉ ra rằng, quyết
định sử dụng công cụ kinh tế không đồng nghĩa với việc ưu tiên các công cụ này
mà bỏ đi các công cụ mệnh lệnh – kiểm soát truyền thống. Thông thường công cụ
kinh tế được xây dựng trên cơ sở của các quy định cũ, trong đó các một hệ thống
hỗn hợp được tạo ra nhằm duy trì những yếu tố tích cực của công cụ mệnh lệnh –
kiểm soát, đồng thời thông qua công cụ kinh tế, phát huy linh hoạt, giảm chi phí
thực hiện, khuyến khích những bước phát triển bền vững trong công tác bảo vệ môi
trường.
Mục đích: Nhận tài trợ từ các nguồn thu khác nhau từ đó phân phối các nguồn này
để hỗ trợ thực hiện các dự án cải thiện chất lượng môi trường.
Các chi phí dành cho các công tác quản lý môi trường và xử lý các chất ô nhiễm
thường chiếm một tỷ lệ trong vốn đầu tư xây dựng và quản lý hoạt động của dự án
(nói theo cách của các nhà quản lý đầu tư là không có lãi). Do vậy, các nhà sản
xuất thường lẫn tránh các ngân hàng thường cho vay.

HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 24


Kinh Tế Môi Trường

GV: TS. Lê Thị Kim Oanh

CHƯƠNG III: NHẬN XÉT VÀ ĐỀ XUẤT
III.1. Công cụ Mệnh lệnh – Kiểm soát
III.1.1. Ưu điểm:

Những ưu điểm của công cụ này:


Bình đẳng đối với mọi người gây ô nhiễm và sử dụng tài nguyên môi trường

vì tất cả mọi người phải tuân thủ những quy định chung, đảm bảo được mối quan
tâm của cộng đồng về vấn đề sức khỏe và an toàn với môi trường;


Quản lý chặt chẽ các loại chất thải độc hại và các tài nguyên quý hiếm thông

qua các quy định mang tính cưỡng chế cao trong thực hiện.
III.1.2. Hạn chế
Những nhược điểm của công cụ này:


Việc thực thi thường khó và yếu do những hạn chế về mặt quản lý;



Rất dễ rơi vào trường hợp thỏa thuận giữa cơ sở gây ô nhiễm và nhà chức

trách. Đặc biệt các ngành công nghiệp có thế lực về chính trị, có khả năng tác động
đến công cụ này;


Công cụ thiếu tính năng động và thiếu khuyến khích về mặt kinh tế;




Xét trên phương diện chi phí, công cụ này thường bị chỉ trích là thiếu hiệu

quả.


Đòi hỏi nguồn nhân lực và tài chính lớn để có thể giám sát mọi khu vực, mọi

hoạt động nhằm xác định khu vực bị ô nhiễm và các đối tượng gây ô nhiễm. Đồng
thời để đảm bảo hiệu quả quản lý, hệ thống pháp luật về môi trường đòi hỏi phải
đầy đủ và có hiệu lực thực tế.
III.1.3. Đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý

Nền kinh tế thị trường thực sự khi hàng hóa được tự do trao đổi theo đúng
chất lượng và giá trị.
HV: Nguyễn Thị Ngọc Hân

Page 25


×