Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Nêu đặc điểm, nội dung bản chất của loại công cụ mệnh lệnh – kiểm soát, công cụ kinh tế trong công tác quản lý môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.13 KB, 30 trang )

Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

ĐẠI HỌC BÁCH KHOA ĐÀ NẴNG
KHOA MÔI TRƯỜNG


TIỂU LUẬN MÔN HỌC

KINH TẾ MÔI TRƯỜNG
Đề bài: Nêu đặc điểm, nội dung bản chất của loại công cụ mệnh lệnh – kiểm
soát, công cụ kinh tế trong công tác quản lý môi trường. Nhận xét điểm
mạnh, điểm yếu của mỗi hình thức công cụ và đề xuất những biện pháp để
nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý cho các công cụ này trong điều kiện Việt
Nam hiện nay

GV HƯỚNG DẪN : TS. LÊ THỊ KIM OANH
HV THỰC HIỆN

: NGUYỄN THỊ MỸ LINH

LỚP

: CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG K23

[Type text]

Tháng 7/2012

Page 1



Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

MỤC LỤC
GV HƯỚNG DẪN : TS. LÊ THỊ KIM OANH........................................................................................................1
HV THỰC HIỆN : NGUYỄN THỊ MỸ LINH........................................................................................................1
LỚP : CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG K23..............................................................................................................1
MỤC LỤC......................................................................................................................................................................2
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................................................3
PHẦN 1..........................................................................................................................................................................5
CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG..........................................................................................................5
1.1. CÔNG CỤ MỆNH LỆNH – KIỂM SOÁT
5
1.1.1. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG BẢN CHẤT CỦA CÔNG CỤ MỆNH LỆNH – KIỂM SOÁT
5
- QUY CHẾ LÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THỂ LỆ TỔ CHỨC QUẢN LÝ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG, CHẲNG HẠN NHƯ QUY
ĐỊNH CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA CÁC CƠ QUAN, BỘ, SỞ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ, SỞ TÀI
NGUYÊN MÔI TRƯỜNG.
7
- TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG LÀ CÁC CHUẨN MỰC GIỚI HẠN CHO PHÉP ĐƯỢC QUY ĐỊNH LÀM CĂN CỨ ĐỂ QUẢN
LÝ MÔI TRƯỜNG. TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG CÓ QUAN HỆ MẬT THIẾT VỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA MỖI
QUỐC GIA. VIỆC XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG MỘT MẶT DỰA TRÊN CÁC QUY ĐỊNH ĐÃ ĐƯỢC KIỂM
NGHIỆM THỰC TẾ, MẶT KHÁC PHẢI CÓ NHIỀU CĂN CỨ KHOA HỌC, NHẰM ĐẢM BẢO CHO TIÊU CHUẨN MÔI
TRƯỜNG PHÙ HỢP VỚI NHU CẦU BẢO VỆ SINH THÁI, ĐỒNG THỜI KHẢ THI VỀ MẶT KINH TẾ, XÃ HỘI. HỆ THỐNG
TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG PHẢN ÁNH TRÌNH ĐỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ, TỔ CHỨC QUẢN LÝ VÀ TIỀM LỰC
KINH TẾ XÃ HỘI CÓ TÍNH ĐẾN DỰ BÁO PHÁT TRIỂN. CÁC DẠNG TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG:
7
+ TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH: QUI ĐỊNH ĐẶC TÍNH CỦA MÔI TRƯỜNG TIẾP NHẬN, VÍ DỤ NHƯ
NỒNG ĐỘ TỐI ĐA CỦA HỢP CHẤT NITRAT TRONG NƯỚC UỐNG, HAY SO2 TRONG BẦU KHÔNG KHÍ, HOẶC MỨC
ĐỘ TỐI ĐA TRONG KHU DÂN CƯ. CÁC TIÊU CHUẨN NÀY HÌNH THÀNH CÁC MỤC TIÊU MÔI TRƯỜNG CẦN ĐẠT
ĐƯỢC BẰNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH KHÁC NHAU;

7
+ TIÊU CHUẨN PHÁT THẢI: LÀ MỨC TỐI ĐA CHO PHÉP XẢ THẢI CÁC CHẤT Ô NHIỄM RA MÔI TRƯỜNG, VÍ DỤ
MỨC BOD TỐI ĐA ĐƯỢC XẢ VÀO NƯỚC HOẶC MỨC SOX TỐI ĐA ĐƯỢC THẢI VÀO KHÔNG KHÍ CỦA MỘT CƠ SỞ
SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP. MỘT HÌNH THỨC ĐẶC BIỆT CỦA TIÊU CHUẨN PHÁT THẢI ĐÓ LÀ VIỆC CẤM KHÔNG
ĐƯỢC SỬ DỤNG HAY THẢI RA MỘT CHẤT NÀO ĐÓ, THÔNG THƯỜNG LÀ CHẤT ĐỘC;
7
+ TIÊU CHUẨN QUY TRÌNH: QUI ĐỊNH HÌNH THỨC CỦA QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT HOẶC THIẾT BỊ GIẢM THIỂU Ô
NHIỄM MÀ CÁC CƠ SỞ Ô NHIỄM PHẢI LẮP ĐẶT (VÍ DỤ NHƯ THIẾT BỊ LỌC KHÔNG KHÍ HAY MỘT DỤNG CỤ LỌC
NƯỚC NÀO ĐÓ);
8
+ TIÊU CHUẨN SẢN PHẨM: XÁC ĐỊNH ĐẶC TÍNH CỦA CÁC SẢN PHẨM CÓ TIỀM NĂNG GÂY Ô NHIỄM VÍ DỤ NHƯ
HÓA CHẤT, BỘT GIẶT, PHÂN BÓN HÓA HỌC, ÔTÔ VÀ MOTO, CÁC LOẠI NHIÊN LIỆU…
8
CÓ 4 TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CÁC TIÊU CHUẨN MÔI TRƯỜNG ĐÓ LÀ TIÊU CHÍ MÔI TRƯỜNG, TIÊU CHÍ CÔNG NGHỆ,
TIÊU CHÍ KINH TẾ, TIÊU CHÍ CHÍNH TRỊ.
8
+ TIÊU CHÍ MÔI TRƯỜNG: XÁC ĐỊNH MỨC NGƯỠNG CỦA MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN NHẰM ĐẢM BẢO LỢI ÍCH
HOẶC BẢO VỆ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ KHỎI TÁC ĐỘNG CÓ HẠI;
8
+ TIÊU CHÍ VỀ CÔNG NGHỆ: TIÊU CHUẨN CÓ THỂ DỰA TRÊN CÔNG NGHỆ ĐÃ CÓ VÀ ĐANG ĐƯỢC ÁP DỤNG
TRONG MỘT SỐ NHÀ MÁY VÀ DỄ DÀNG ĐƯỢC CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ ĐANG CÓ HIỆN THỜI; TIÊU CHUẨN
DỰA TRÊN CƠ SỞ CÔNG NGHỆ TỐT NHẤT ĐANG CÓ;
8
+ TIÊU CHÍ VỀ KINH TẾ: LÀM THẾ NÀO CHI PHÍ BỎ RA LÀ NHỎ NHẤT TRONG ĐIỀU KIỆN CÓ THỂ; MỘT TIÊU
CHUẨN LÝ TƯỞNG LÀ TIÊU CHUẨN MÀ DOANH NGHIỆP CÓ THỂ ĐẠT ĐƯỢC VỚI CHI PHÍ THẤP NHẤT;
8
+ TIÊU CHÍ VỀ CHÍNH TRỊ: KHI XÁC LẬP CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH, NGƯỜI TA ĐƯA RA QUYẾT ĐỊNH PHẢI ĐỐI MẶT
VỚI MỘT SỐ RÀNG BUỘC VỀ CHÍNH TRỊ NHƯ: TÍNH CÔNG BẰNG, KHẢ NĂNG CẢNH BÁO, ĐẢM BẢO KHẢ NĂNG
CHẤP NHẬN ĐƯỢC VÀ ĐƠN GIẢN
8

- CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG LÀ NHỮNG CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP MANG TÍNH CHIẾN LƯỢC, CÓ THỜI
HẠN NHẰM GIẢI QUYẾT NHIỆM VỤ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỤ THỂ NÀO ĐÓ TRONG MỘT GIAI ĐOẠN NHẤT ĐỊNH.
CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GIẢI QUYẾT NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG NHẤT VỀ QUAN ĐIỂM QUẢN LÝ MÔI
TRƯỜNG, VỀ CÁC MỤC TIÊU MÔI TRƯỜNG CƠ BẢN CẦN GIẢI QUYẾT TRONG MỘT GIAI ĐOẠN DÀI 10 - 15 NĂM
VÀ CÁC ĐỊNH HƯỚNG LỚN THỰC HIỆN MỤC TIÊU, CHÚ TRỌNG VIỆC HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC CÂN ĐỐI VỚI MỤC
TIÊU VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.
8
CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG PHẢI ĐƯỢC XÂY DỰNG ĐỒNG THỜI VỚI CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI. CHỨC NĂNG QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG LÀ TẠO ĐIỀU KIỆN GẮN KẾT CÁC MỤC
TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀO HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN CỦA TỪNG NGÀNH, TỪNG VÙNG TẠO LIÊN KẾT
GIỮA CÁC NGÀNH VÀ CÁC CẤP TRONG VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.
8

2


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường
- CHIẾN LƯỢC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỤ THỂ HÓA CHÍNH SÁCH Ở MỘT MỨC ĐỘ NHẤT ĐỊNH. CHIẾN LƯỢC XEM
XÉT CHI TIẾT HƠN MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC MỤC TIÊU DO CHÍNH SÁCH XÁC ĐỊNH VÀ CÁC NGUỒN LỰC ĐỂ THỰC
HIỆN CHÚNG; TRÊN CƠ SỞ LỰA CHỌN CÁC MỤC TIÊU KHẢ THI, XÁC ĐỊNH PHƯƠNG HƯỚNG, BIỆN PHÁP THỰC
HIỆN MỤC TIÊU.
8
- CÔNG CỤ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ PHÒNG
NGỪA VÀ GIẢM THIỂU NHỮNG TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC, PHÁT HUY CÁC TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC VÀ ĐỒNG THỜI HỖ
TRỢ CHO VIỆC SỬ DỤNG HỢP LÝ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN QUA ĐÓ LÀM TĂNG TỐI ĐA LỢI ÍCH CỦA CÁC DỰ ÁN
PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GÓP PHẦN VÀO PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA QUỐC GIA.
8
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG ĐƯỢC TIẾN HÀNH KHI RA QUYẾT ĐỊNH VỀ DỰ ÁN, TẠI NHIỀU NƯỚC ĐÂY
LÀ ĐIỀU BẮT BUỘC VÀ ĐƯA VÀO VĂN BẢN LUẬT. VIỆC ĐÁNH GIÁ NÀY CÓ LIÊN QUAN ĐẾN MỤC TIÊU KINH TẾ
CỦA DỰ ÁN VÀ TỪ ĐÓ ĐƯA RA CÁC QUYẾT ĐỊNH ĐÚNG ĐẮN. GIÁM SÁT VÀ CƯỠNG CHẾ LÀ HAI YẾU TỐ QUAN
TRỌNG CỦA CÔNG CỤ NÀY.

9
1.1.2. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÔNG CỤ MỆNH LỆNH – KIỂM SOÁT
9
1.2. CÔNG CỤ KINH TẾ
10
1.2.1. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG BẢN CHẤT CỦA CÔNG CỤ KINH TẾ
10
1.2.2. ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA CÔNG CỤ KINH TẾ
18
PHẦN 2........................................................................................................................................................................19
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG & BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ SỬ DỤNG...........................................................................................................................................................19
2.1. TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
2.1.1. CÔNG CỤ MỆNH LỆNH KIỂM SOÁT
2.1.2. CÔNG CỤ KINH TẾ
2.2. ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ, HIỆU LỰC QUẢN LÝ CHO CÁC CÔNG CỤ MỆNH LỆNH –
KIỂM SOÁT VÀ CÔNG CỤ KINH TẾ TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM HIỆN NAY.

19
19
20
24

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................................................................30

1

MỞ ĐẦU


Bảo vệ môi trường ngày nay trở thành cấp thiết đối với tất cả các quốc gia
trên thế giới cũng như ở Việt nam. Quan điểm của Đảng v à N h à n ư ớ c ta
về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước luôn được nhấn mạnh, xuyên suốt qua các mục tiêu, nhiệm vụ và qua
từng thời kỳ. Theo đó, để phát triển đất nước bền vững cần phải có sự kết hợp
cân đối, hài hoà giữa ba nội dung: phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội
và bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường được xem là nội dung quan trọng,
không thể tách rời trong quá trình phát triển kinh tế. Một câu hỏi đặt ra cho các
nhà quản lý môi trường là cần tiến hành quản lý môi trường như thế nào để đảm
bảo kinh tế vẫn tăng trưởng cao. Một trong những cách tiếp cận đúng đắn nhằm
hạn chế ô nhiễm đó là việc áp dụng công cụ trong quản lý môi trường nhằm hạn
chế ô nhiễm và suy thoái môi trường tại Việt Nam. Công cụ kinh tế, công cụ
mệnh lệnh kiểm soát và các biện pháp giáo dục môi trường nằm trong hệ thống
công cụ của quản lý môi trường. Mỗi công cụ có một chức năng và phạm vi tác
động nhất định, chúng liên kết và hỗ trợ lẫn nhau. Trong phạm vi tiểu luận sau
sẽ trình bày đặc điểm, nội dung bản chất của loại công cụ mệnh lệnh – kiểm
soát, công cụ kinh tế trong công tác quản lý môi trường. Nhận xét điểm mạnh,
điểm yếu của mỗi hình thức công cụ và đề xuất những biện pháp để nâng cao
3


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

hiệu quả, hiệu lực quản lý cho các công cụ này trong điều kiện Việt Nam hiện
nay.

4


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường


PHẦN 1
CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
Quản lý môi trường là một lĩnh vực quản lý xã hội, nhằm bảo vệ môi
trường và các thành phần môi trường, phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững và
sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và xã hội. Để quản lý môi trường cần
công cụ quản lý môi trường. Công cụ quản lý môi trường là tổng hợp các biện
pháp hoạt động về luật pháp, chính sách, kinh tế - kỹ thuật và xã hội hướng tới
việc bảo vệ môi trường và phát triển bền vững kinh tế - xã hội.
Công cụ quản lý môi trường là vũ khí hoạt động của Nhà nước, của các tổ
chức nghiên cứu khoa học và sản xuất thực hiện công tác quản lý môi trường
quốc gia và địa phương.
Công cụ quản lý môi trường rất đa dạng; không có một công cụ nào có giá
trị tuyệt đối trong quản lý môi trường. Mỗi công cụ có chức năng và phạm vi tác
động nhất định, chúng tạo ra một tập hợp các biện pháp hỗ trợ nhau.
Theo bản chất có thể chia công cụ quản lý môi trường thành các loại cơ
bản như sau:
 Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
 Công cụ kinh tế
 Công cụ giáo dục nâng cao nhận thức
Trong phạm vi bài tiểu luận chỉ nêu công cụ mệnh lệnh – kiểm soát và
công cụ kinh tế.
1.1. Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
1.1.1. Đặc điểm nội dung bản chất của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
Công cụ mệnh lệnh - kiểm soát hay còn gọi là công cụ pháp lý. Đây là
công cụ quản lý trực tiếp và được sử dụng phổ biến từ lâu ở nhiều quốc gia trên
thế giới và là công cụ được nhiều nhà quản lý hành chính ủng hộ.
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát gồm 2 khía cạnh: Khía cạnh chỉ huy và
kiểm soát, theo nguyên tắc là một bên đưa ra yêu cầu mệnh lệnh hay chỉ huy
đồng thời họ cũng có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành hay tuân

thủ các yêu cầu đã được đặt ra.
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật
quốc gia, các văn bản khác dưới luật (pháp lệnh, nghị định, qui định, các tiêu
chuẩn môi trường, giấy phép môi trường...), các kế hoạch, chiến lược và chính
sách môi trường quốc gia, các ngành kinh tế và các địa phương.
5


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

Công cụ mệnh lệnh kiểm soát bao gồm :
- Luật quốc tế về môi trường: tổng hợp các nguyên tắc, quy phạm cơ bản
và đặc thù của luật quốc tế điều chỉnh hoạt động của các quốc gia trong phòng
ngừa, giảm bớt và xoá bỏ, khắc phục những thiệt hại các loại, do các nguồn gây
ra đối với môi trường tự nhiên của các nước và môi trường ngoài phạm vi quyền
tài phán quốc gia. Khái niệm “ môi trường” bao gồm những yếu tố gắn với điều
kiện tồn tại của con người trong đó có những yếu tố vật chất của thiên nhiên
(những khách thể tự nhiên) và những yếu tố do con người tạo ra trong quá trình
tác động qua lại với thiên nhiên. Ở cấp độ pháp luật quốc tế, các yếu tố của môi
trường (vd. bầu khí quyển, môi trường biển, nguồn nước ngọt ...) lần đầu tiên
được nêu ra trong Tuyên ngôn của Liên hợp quốc tế các vấn đề môi trường
1972. Sự bảo vệ môi trường bằng luật quốc tế được tiến hành ở cấp toàn cầu,
khu vực và hợp tác hai bên. Năm 1989, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông
qua nghị quyết " Về trách nhiệm lịch sử của các quốc gia về bảo vệ thiên nhiên
Trái Đất cho các thế hệ hiện nay và mai sau". Năm 1982, Khoá họp 37 - Đại hội
đồng Liên hợp quốc đã thông báo qua "Chiến lược toàn cầu về bảo vệ thiên
nhiên",... Cho đến nay đã có hàng nghìn văn bản luật quốc tế về môi trường mà
Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều văn bản trong số đó. Pháp luật quốc tế về
bảo vệ môi trường do nhiều nước ký kết hoặc tham gia không có hiệu lực trực
tiếp trên lãnh thổ quốc gia cụ thể. Muốn thi hành trên lãnh thổ nào đó, các qui

phạm của Luật quốc tế về bảo vệ môi trường cần phải được chuyển hóa thành
quy phạm pháp luật quốc gia, nghĩa là Nhà nước phải phê chuẩn các văn bản
này.
- Luật môi trường quốc gia: là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các
nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá
trình các chủ thể sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi
trường trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ
một cách có hiệu quả môi trường sống của con người. Hệ thống luật bảo vệ môi
trường của một quốc gia thường gồm luật chung và luật sử dụng hợp lý các
thành phần môi trường hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một địa phương, một
ngành.
Ngoài ra, nhiều khía cạnh bảo vệ môi trường cũng được đề cập trong các
văn bản pháp luật khác gọi là luật về các thành phần môi trường: Luật khoáng
sản; Luật phát triển và bảo vệ rừng; Luật dầu khí; Luật hàng hải; Luật lao động;
Luật đất đai; Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân; Luật tài nguyên nước; Pháp lệnh
đê điều; Pháp lệnh về bảo vệ nguồn lợi thủy sản; Pháp lệnh về bảo vệ các công
trình giao thông
Các văn bản Luật quốc tế về môi trường Việt Nam đã ký kết :
+ Công ước về vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt
như là nơi cư trú của loài chim nước (RAMSAR).
+ Công ước liên quan đến bảo vệ các di sản văn hoá và tự nhiên .
6


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

+ Công ước về buôn bán các giống loài động thực vật có nguy cơ diệt
chủng (CITES).
+ Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu biển (MARPOL).
+ Công ước của Liên Hiệp Quốc về sự biến đổi môi trường.

+ Công ước của Liên Hiệp Quốc về luật biển.
+ Công ước Viên về bảo vệ tầng Ôzon .
+ Công ước về sự thông báo sớm sự cố hạt nhân .
+ Công ước về sự trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân hoặc cấp cứu
phóng xạ .
+ Nghị định thư Montrean về các chất làm suy giảm tầng Ôzon.
+ Công ước Balơ về kiểm soát việc vận chuyển qua biên giới chất thải
độc hại và loại bỏ chúng .
+ Công ước khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu .
+ Công ước về đa dạng sinh học.
- Quy định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn
thực hiện các nội dung của luật. Quy định có thể do Chính phủ trung ương hay
địa phương, do cơ quan hành pháp hay lập pháp ban hành.
- Quy chế là các quy định về thể lệ tổ chức quản lý bảo vệ môi trường,
chẳng hạn như quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, Bộ,
Sở khoa học công nghệ, Sở tài nguyên môi trường.
- Tiêu chuẩn môi trường là các chuẩn mực giới hạn cho phép được quy
định làm căn cứ để quản lý môi trường. Tiêu chuẩn môi trường có quan hệ mật
thiết với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Việc xây dựng tiêu chuẩn môi
trường một mặt dựa trên các quy định đã được kiểm nghiệm thực tế, mặt khác
phải có nhiều căn cứ khoa học, nhằm đảm bảo cho tiêu chuẩn môi trường phù
hợp với nhu cầu bảo vệ sinh thái, đồng thời khả thi về mặt kinh tế, xã hội. Hệ
thống tiêu chuẩn môi trường phản ánh trình độ khoa học, công nghệ, tổ chức
quản lý và tiềm lực kinh tế xã hội có tính đến dự báo phát triển. Các dạng tiêu
chuẩn môi trường:
+ Tiêu chuẩn môi trường xung quanh: Qui định đặc tính của môi trường
tiếp nhận, ví dụ như nồng độ tối đa của hợp chất nitrat trong nước uống, hay SO 2
trong bầu không khí, hoặc mức độ tối đa trong khu dân cư. Các tiêu chuẩn này
hình thành các mục tiêu môi trường cần đạt được bằng các công cụ chính sách
khác nhau;

+ Tiêu chuẩn phát thải: Là mức tối đa cho phép xả thải các chất ô nhiễm
ra môi trường, ví dụ mức BOD tối đa được xả vào nước hoặc mức SO x tối đa
được thải vào không khí của một cơ sở sản xuất công nghiệp. Một hình thức đặc
biệt của tiêu chuẩn phát thải đó là việc cấm không được sử dụng hay thải ra một
7


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

chất nào đó, thông thường là chất độc;
+ Tiêu chuẩn quy trình: Qui định hình thức của quá trình sản xuất hoặc
thiết bị giảm thiểu ô nhiễm mà các cơ sở ô nhiễm phải lắp đặt (ví dụ như thiết bị
lọc không khí hay một dụng cụ lọc nước nào đó);
+ Tiêu chuẩn sản phẩm: Xác định đặc tính của các sản phẩm có tiềm năng
gây ô nhiễm ví dụ như hóa chất, bột giặt, phân bón hóa học, ôtô và moto, các
loại nhiên liệu…
Có 4 tiêu chí xác định các tiêu chuẩn môi trường đó là tiêu chí môi
trường, tiêu chí công nghệ, tiêu chí kinh tế, tiêu chí chính trị.
+ Tiêu chí môi trường: Xác định mức ngưỡng của môi trường tự nhiên
nhằm đảm bảo lợi ích hoặc bảo vệ các hoạt động kinh tế khỏi tác động có hại;
+ Tiêu chí về công nghệ: Tiêu chuẩn có thể dựa trên công nghệ đã có và
đang được áp dụng trong một số nhà máy và dễ dàng được chuyển giao công
nghệ đang có hiện thời; tiêu chuẩn dựa trên cơ sở công nghệ tốt nhất đang có;
+ Tiêu chí về kinh tế: Làm thế nào chi phí bỏ ra là nhỏ nhất trong điều
kiện có thể; một tiêu chuẩn lý tưởng là tiêu chuẩn mà doanh nghiệp có thể đạt
được với chi phí thấp nhất;
+ Tiêu chí về chính trị: Khi xác lập công cụ chính sách, người ta đưa ra
quyết định phải đối mặt với một số ràng buộc về chính trị như: tính công bằng,
khả năng cảnh báo, đảm bảo khả năng chấp nhận được và đơn giản
- Chính sách bảo vệ môi trường là những chủ trương, biện pháp mang tính

chiến lược, có thời hạn nhằm giải quyết nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào
đó trong một giai đoạn nhất định. Chính sách bảo vệ môi trường giải quyết
những vấn đề chung nhất về quan điểm quản lý môi trường, về các mục tiêu môi
trường cơ bản cần giải quyết trong một giai đoạn dài 10 - 15 năm và các định
hướng lớn thực hiện mục tiêu, chú trọng việc huy động nguồn lực cân đối với
mục tiêu về bảo vệ môi trường.
Chính sách bảo vệ môi trường phải được xây dựng đồng thời với chính
sách phát triển kinh tế - xã hội. Chức năng quan trọng nhất của chính sách môi
trường là tạo điều kiện gắn kết các mục tiêu phát triển bền vững vào hoạt động
phát triển của từng ngành, từng vùng tạo liên kết giữa các ngành và các cấp
trong việc thực hiện mục tiêu bảo vệ môi trường.
- Chiến lược bảo vệ môi trường cụ thể hóa chính sách ở một mức độ nhất
định. Chiến lược xem xét chi tiết hơn mối quan hệ giữa các mục tiêu do chính
sách xác định và các nguồn lực để thực hiện chúng; trên cơ sở lựa chọn các mục
tiêu khả thi, xác định phương hướng, biện pháp thực hiện mục tiêu.
- Công cụ đánh giá tác động môi trường: Đánh giá tác động môi trường
được sử dụng để phòng ngừa và giảm thiểu những tác động tiêu cực, phát huy
các tác động tích cực và đồng thời hỗ trợ cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên
8


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

thiên nhiên qua đó làm tăng tối đa lợi ích của các dự án phát triển kinh tế - xã
hội góp phần vào phát triển bền vững của quốc gia.
Đánh giá tác động môi trường được tiến hành khi ra quyết định về dự
án, tại nhiều nước đây là điều bắt buộc và đưa vào văn bản luật. Việc đánh giá
này có liên quan đến mục tiêu kinh tế của dự án và từ đó đưa ra các quyết định
đúng đắn. Giám sát và cưỡng chế là hai yếu tố quan trọng của công cụ này.
1.1.2. Ưu điểm và nhược điểm của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát

a. Ưu điểm:
- Công cụ mệnh lệnh kiểm soát hay công cụ pháp lý là công cụ do nhà
nước ban hành, được phổ biến, kiểm soát và giám sát thông qua nhiều cơ quan,
tổ chức, do đó, nó có tính chất bắt buộc cao, yêu cầu mọi cá nhân, doanh nghiệp
đều phải thực hiện đúng. Nếu thực hiện sai sẽ bị xử phạt. Do đó, hạn chế và
kiểm soát được các hoạt động liên quan đến môi trường.
- Trước pháp luật, mỗi cá nhân đều bình đẳng, công cụ tạo ra được sự
công bằng và liêm minh đối với tất cả mọi cá nhân, doanh nghiệp.
- Công cụ mang tính thống nhất và rõ ràng nên có thể hướng dẫn các
doanh nghiệp thực hiện đúng yêu cầu đối với môi trường cũng như con người
xung quanh.
- Quản lý chặt chẽ các loại chất độc hại và các tài nguyên quý hiếm thông
qua các quy định mang tính cưỡng chế cao trong thực.
Các doanh nghiệp cũng có thể dựa vào các bộ luật, tiêu chuẩn để có thể
kiểm tra lại việc làm của các tổ chức môi trường, xem họ đã thực hiện đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình hay chưa.
b. Nhược điểm:
- Nước ta có bộ máy chính trị cồng kềnh, nhiều cấp, nhiều cơ sở, do đó
việc thực thi quản lý phần nào gặp phải khó khăn do sự yếu kém về quản lý.
- Có thể nảy sinh các vấn đề tiêu cực trong công tác, quản lý giám sát bởi
rất dễ rơi vào trường hợp thỏa thuận giữa các cơ sở gây ô nhiễm và nhà nước,
đặc biệt các ngành công nghiệp có thế lực về chính trị, có khả năng tác động đến
công cụ này.
- Công cụ thiếu tính năng động và thiếu khuyến khích về mặt kinh tế;
- Để có thể thực hiện công cụ này một cách hiệu quả, đòi hỏi phải có một
nguồn kinh phí rất lớn trong công tác quản lý, thiết lập các cơ sở cũng như đội
ngũ nguồn nhân lực.
- Phải xây dựng một hệ thống luật môi trường thống nhất, đầy đủ là một
điều không phải dễ dàng thực hiện.
- Xét trên phương diện chi phí, công cụ này thường bị chỉ trích là thiếu

hiệu quả.
9


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

1.2. Công cụ kinh tế
1.2.1. Đặc điểm nội dung bản chất của công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế được coi là một công cụ bổ sung cho công cụ pháp lý và
hiện nay được sử dụng rộng rãi. Công cụ kinh tế là phương tiện chính sách có
tác dụng làm thay đổi chi phí và lợi ích của những hoạt động kinh tế thường
xuyên tác động tới môi trường, nhằm mục đích tăng cường ý thức trách nhiệm
trước việc gây ra sự hủy hoại môi trường. Công cụ kinh tế có thể tác động trực
tiếp đến các nhà sản xuất dưới dạng thuế môi trường, lệ phí xả thải hoặc trực
tiếp vào người tiêu thụ dưới dạng phí sử dụng. Trong tất cả các trường hợp đó,
công cụ kinh tế đều có mục đích chung là hạn chế số lượng chất thải phát sinh,
giảm ảnh hưởng của việc tiêu thụ tài nguyên và năng lượng.
Công cụ kinh tế rất đa dạng gồm thuế môi trường, phí và lệ phí môi
trường, quỹ môi trường, cota môi trường, ký quỹ môi trường, trợ cấp tài chính,
nhãn sinh thái...Mỗi công cụ kinh tế có những ưu điểm trong từng nội dung quản
lý cụ thể.
1.2.1.1. Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là một khoản thu của Ngân sách Nhà nước đối với các
doanh nghiệp về việc sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên trong quá trình
sản xuất.
Mục đích của thuế tài nguyên là:
- Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên;
- Hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng;
- Tạo nguồn thu cho ngân sách và điều hòa quyền lợi của tầng lớp dân cư
về việc sử dụng tài nguyên.

Thuế tài nguyên bao gồm một số sắc thuế chủ yếu như thuế sử dụng đất,
thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài
nguyên khoáng sản...
Cơ cấu tính thuế tài nguyên phải được thay đổi phù hợp với khả năng
công nghệ của doanh nghiệp, phương thức quản lý của nhà nước và điều kiện
địa chất kỹ thuật của khu vực khai thác tài nguyên để đảm bảo có sự phân biệt
đối với các doanh nghiệp hoặc hoạt động gây ra các tổn thất tài nguyên và suy
thoái môi trường ở các mức độ khác nhau; nguyên tắc chung là hoạt động càng
gây nhiều tổn thất tài nguyên và suy thoái môi trường thì càng phải chịu thuế
cao hơn. Việc xác định đúng đắn phương pháp tính thuế tài nguyên là rất quan
trọng sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, kỹ thuật năng
lực quản lý nhằm làm giảm tổn thất tài nguyên, đặc biệt các tài nguyên không tái
tạo.

10


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

Trong thực tế khi áp dụng thuế tài nguyên người ta thường phân biệt tài
nguyên thành 2 loại theo mức độ xác định trữ lượng:
- Loại tài nguyên đã xác định trữ lượng: thuế được tính sẽ dựa trên trữ
lượng địa chất (hoặc trữ lượng công nghiệp) của loại tài nguyên mà doanh
nghiệp được phép khai thác;
- Loại tài nguyên chưa xác định trữ lượng hoặc xác định chưa chính xác
trữ lượng: Có thể sử dụng sản lượng khai thác làm cơ sở tính thuế trong khi chờ
các thăm dò địa chất về trữ lượng bổ sung.
Ngoài ra, thuế tài nguyên cũng phải được áp dụng từ từ từng bước để
tránh làm mất cân bằng kinh tế nên công bố thời hạn áp dụng.
1.2.1.2. Thuế và phí môi trường

* Thuế môi trường
Thuế môi trường (Environmental Tax) là một công cụ kinh tế để giải
quyết các vấn đề môi trường. Đây là khoản thu cho Ngân sách nhà nước
(NSNN) từ những đối tượng gây ô nhiễm, làm thiệt hại cho môi trường. Nó góp
phần hạn chế, giảm thiểu các tác nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường,
khuyến khích các hoạt động bảo vệ môi trường. Thuế môi trường được thiết
kế để nội hóa chi phí môi trường và tạo ra động lực kinh tế cho cá nhân, tổ
chức thúc đẩy các hoạt động sinh thái bền vững. Thuế môi trường thông
thường đánh chủ yếu vào các chất gây ô nhiễm môi trường hay các sản phẩm
hàng hóa mà việc sản xuất, sử dụng chúng có tác động tiêu cực đến môi
trường, gây ô nhiễm môi trường như: thuế đánh vào nguồn gây ô nhiễm
(thuế Sunfua, thuế CFCs, thuế CO2…) và thuế đánh vào các sản phẩm gây ô
nhiễm môi trường (thuế xăng dầu, than, thuốc bảo vệ thực vật,..)
* Phí môi trường
Phí môi trường là khoản thu của NSNN dành cho hoạt động bảo vệ
môi trường như để thu gom và xử lý phế thải, nước thải, khắc phục ô nhiễm
môi trường... Mục đích chính của việc thu phí môi trường là hạn chế các tác
nhân gây ô nhiễm môi trường, ngăn ngừa việc xả các chất thải ra môi trường,
mà các chất thải này có khả năng xử lý được. Phí môi trường buộc những người
gây ô nhiễm môi trường phải xử lý các chất thải trước khi thải ra môi trường
hay hạn chế sử dụng các nguồn nguyên liệu có nguy cơ gây ra ô nhiễm, vì
vậy công cụ này khuyến khích các cơ sở sản xuất kinh doanh, những người
gây ô nhiễm phải xử lý các chất ô nhiễm trong nguồn thải trước khi thải ra môi
trường. Phí môi trường được tính toán dựa trên lượng phát thải của chất ô
nhiễm và chi phí xử lý ô nhiễm, khắc phục ô nhiễm...
Một số loại thuế/phí ô nhiễm môi trường phổ biến bao gồm: phí nước
thải, phí gây ô nhiễm không khí, thuế cacbon, thuế sulphur, phí gây suy thoái
tầng ôzôn, thuế chôn lấp rác, thuế xăng dầu, thuế sử dụng khí gas, thuế môi
trường, gần đây là việc áp dụng mới các loại thuế liên quan đến chất thải rắn
11



Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

(CTR), và tăng thuế suất đối với thuế CTR. Đối với thuế đánh vào nguồn gây ô
nhiễm: có 2 loại thuế chủ yếu được áp dụng ở các nước trên thế giới đó là
thuế sulphur và thuế CO2.
1.2.1.3. Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường (cota ô nhiễm)
- Khái niệm 1: Cota ô nhiễm là hạn ngạch sử dụng môi trường hoặc giới
hạn trần cho mức ô nhiễm.
- Khái niệm 2: Cota ô nhiễm là “Quyền gây ô nhiễm” của các doanh
nghiệp sẽ được ghi nhận bằng “ giấy phép xả thải” hay còn gọi là Cota ô nhiễm.
Trên thế giới dùng cota ô nhiễm là biện pháp can thiệp của nhà nước
nhằm điều chỉnh mức độ ô nhiễm. Ai muốn có quyền thải phải mua cota ô
nhiễm và người đó có quyền bán lại cota ô nhiễm này cho người khác. Từ đây
hình thành thị trường cota ô nhiễm.
Nguyên lý cơ bản của thị trường cota ô nhiễm là việc đặt ra giới hạn tối đa
về lượng chất thải nào đó ở mức thống nhất với chỉ tiêu môi trường ở một vùng
hoặc khu vực cụ thể. Khi tổng lượng chất thải cho phép thấp hơn lượng chất thải
mà các đơn vị trong vùng muốn thải thì sẽ tạo nên sự khan hiếm về quyền được
thải và làm cho cota có giá trên thị trường. Vì vậy, xuất hiện nhu cầu mua bán,
trao đổi, chuyển nhượng giấy phép xả thải giữa các đơn vị, cơ sở sản xuất kinh
doanh trong đó, người mua là các đơn vị cần giấy phép xả thải còn người bán là
các đơn vị sở hữu giấy phép xả thải và hình thành thị trường mua bán giấy
phép xả thải. Thị trường này vận hành theo quy luật cung cầu như các thị
trường thông thường khác, tuy nhiên hàng hóa giao dịch trên thị trường này
đặc biệt hơn các thị trường khác, đó là việc mua bán các chứng chỉ hay giấy
phép mang một giá trị nhất định với giá cả được định đoạt theo chủ quan, kỳ
vọng và dự báo của các bên tham gia giao dịch, hay nói cách khác, giá cả của
giấy phép xả thải được quyết định trên quan hệ cung cầu của thị trường.

Với quy định số lượng cota, giá cota được thải, nhà sản xuất sẽ lựa chọn
một trong hai giải pháp:
- Mua cota ô nhiễm để được thải với mức thải quy định.
- Tăng chi phí làm giảm ô nhiễm theo yêu cầu của kiểm soát ô nhiễm
Công cụ này được áp dụng ở một số nước, ví dụ giấy phép (quota) khai
thác cá ngừ và sử dụng nước ở Australia, giấy phép ô nhiễm không khí ở Mỹ,
Anh và một số thành viên của OECD như Canada, Đức, Thụy Điển.
Ưu điểm đáng kể nhất của loại công cụ này là sự kết hợp giữa tín hiệu giá
cả và hạn mức ô nhiễm. So với các loại thuế môi trường hay phí ô nhiễm thị
trường giấy phép mang tính chắc chắn, đảm bảo hơn về kết quả đạt mục tiêu
môi trường vì dù giao dịch mua bán như thế nào thì tổng lượng giấy phép vẫn
nằm trong phạm vi kiểm soát ở số phát hành ban đầu. Mặt khác, công cụ giấy
phép linh hoạt ở chỗ nó cho phép các doanh nghiệp lựa chọn các phương án mua
12


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

thêm giấy phép để tiếp tục thải hay tìm cách cải thiện hiện trạng, giảm thải
xuống mức cho phép. Hơn nữa, quyền được bán giấy phép với giá được xác
định bởi cầu của thị trường còn tạo ra động cơ khuyến khích các doanh nghiệp
giảm thải nhiều hơn để có thể bán các giấy phép thừa ra đó. Đây là xuất phát
điểm cho các cải tiến về công nghệ, kỹ thuật có lợi cho môi trường.
Các khó khăn chính cho việc thực hiện côta ô nhiễm là:
+ Để xác định chính xác giá trị côta ô nhiễm và cấp côta cho một khu vực,
một lưu vực hay một vùng cần phải có các nghiên cứu về khả năng tự làm sạch
của môi trường. Điều này thường đòi hỏi nhiều kinh phí và kinh nghiệm chuyên
môn cao;
+ Hoạt động phát triển kinh tế và chất lượng môi trường khu vực liên tục
thay đổi theo thời gian, do vậy các giá trị của côta ô nhiễm cũng rất dễ thay đổi

trước sức ép nói trên. Hiện tại chúng ta xác định các mức côta ô nhiễm là không
nguy hiểm đối với môi trường, nhưng trong tương lai điều đó không thể chấp
nhận được. Vì vậy, cần nhiều công sức để điều chỉnh côta dẫn đến chỗ các giải
pháp mua hoặc bán côta rất khó thực hiện hoặc hiệu quả thực tế nhỏ;
+ Hoạt động mua và bán côta chỉ có thể diễn ra một cách bình thường
trong nền kinh tế mở, hoạt động theo cơ chế thị trường, với một hệ thống pháp
lý hoàn thiện về quyền và nghĩa vụ cũng như khả năng quản lý môi trường tốt.
Trong trường hợp khác đi, việc trao đổi mua bán chỉ còn là hình thức hoặc kém
hiệu lực, do đó có gian lận trong việc xác định côta và kiểm soát ô nhiễm.
1.2.1.4. Hệ thống đặt cọc hoàn trả
Đặt cọc – hoàn trả được sử dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường bằng
cách quy định các đối tượng tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm
môi trường phải trả một khoản tiền (đặt cọc) khi mua hàng, nhằm đảm bảo cam
kết sau khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm đó (hoặc phần còn lại của sản phẩm đó)
trả lại cho các đơn vị thu gom phế thải hoặc tới những địa điểm đã quy định để
tái chế, tái sử dụng hoặc tiêu hủy theo cách an toàn đối với môi trường. Nếu
thực hiện đúng người tiêu dùng sẽ nhận lại khoản đặt cọc do các tổ chức thu
gom hoàn trả lại. Mục đích của hệ thống đặt cọc – hoàn trả là thu gom những
thứ mà người tiêu thụ đã dùng vào một trung tâm để tái chế hoặc tái sử dụng
một cách an toàn đối với môi trường.
Đặt cọc – hoàn trả được coi là một trong những ứng cử viên sáng giá cho
các chính sách nhằm giúp nền kinh tế thoát khỏi chu trình sản xuất tuyến tính
(khai khoáng → nguyên liệu thô → sản phẩm → phế thải) và hướng tới chu
trình tuần hoàn trong đó các tài nguyên được tái chế, tái sử dụng tới mức tối đa
có thể được.
Phạm vi sử dụng của hệ thống đặt cọc – hoàn trả bao gồm:

13



Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

- Các sản phẩm mà khi sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường
nhưng có thể tái chế hoặc tái sử dụng;
- Các sản phẩm làm tăng lượng chất thải, cần các bãi thải có quy mô lớn
hoặc tốn nhiều chi phí tiêu hủy;
- Các sản phẩm chứa chất độc, gây khó khăn đặc biệt cho việc xử lý; nếu
tiêu hủy không đúng cách sẽ gây nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường và sức khỏe con người.
Hệ thống đặt cọc – hoàn trả tỏ ra đặc biệt thích hợp với việc quản lý chất
thải rắn. Các quốc gia thuộc tổ chức OECD đã áp dụng khá thành công hệ thống
đặt cọc – hoàn trả đối với các sản phẩm đồ uống, bia, rượu (đựng trong vỏ chai
nhựa hoặc thủy tinh) mang lại hiệu quả cao cho việc thu gom các phế thải. Hiện
nay các nước này đã và đang mở rộng việc áp dụng hệ thống đặt cọc – hoàn trả
sang các lĩnh vực khác như vỏ tàu, ô tô cũ, dầu nhớt, ắc quy có chứa chì, thủy
ngân, Cd, vỏ chai đựng thuốc trừ sâu, các đồ điện gia dụng như máy thu hình, tủ
lạnh, điều hòa không khí...
Nhiều nước trong khu vực Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan cũng đã có
thành công nhất định trong việc áp dụng hệ thống đặt cọc – hoàn trả đối với vỏ
lon, vỏ chai nhựa, thủy tinh, nhôm, sắt, thép, phế liệu, ắc quy, xăm lốp, dầu
nhớt, giấy loại...
Theo kinh nghiệm của các nước, mức đặt cọc là một trong những yếu tố
quan trọng tác động đến hiệu quả của hệ thống đặt cọc – hoàn trả. Các mức đặt
cọc thấp sẽ không tạo ra động lực kinh tế đủ mạnh cho việc thu gom và tái chế
phế thải. Ngoài ra các yếu tố như nhận thức và ý thức của người sản xuất và tiêu
dùng đối với vấn đề thu gom phế thải, khả năng tổ chức và quản lý hệ thống thu
gom cũng như vấn đề công nghệ tái chế đều có ảnh hưởng không nhỏ đến sự
hoạt động và thành công của hệ thống.
1.2.1.5. Ký quỹ môi trường
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế

có tiềm năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường. Nguyên lý hoạt động của hệ
thống ký quỹ môi trường cũng tương tự như hệ thống đặt cọc – hoàn trả. Nội
dung chính của ký quỹ môi trường là yêu cầu các doanh nghiệp các cơ sở sản
xuất kinh doanh trước khi tiến hành hoạt động đầu tư phải ký gửi một khoản tiền
(hoặc kim loại quý, đá quý, hoặc các giấy tờ có giá trị như tiền) tại ngân hàng
hay tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm sự cam kết về thực hiện các biện pháp để
hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Mục đích chính của việc ký quỹ là làm cho người có khả năng gây ô
nhiễm, suy thoái môi trường luôn nhận thức được trách nhiệm của họ từ đó tìm
ra các biện pháp thích hợp ngăn ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường.

14


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu các doanh nghiệp/cơ sở
có các biện pháp chủ động ngăn chặn khắc phục không để xảy ra ô nhiễm hoặc
suy thoái môi trường, hoàn nguyên hiện trạng môi trường đúng như cam kết thì
họ sẽ được nhận lại số tiền đã ký quỹ đó. Ngược lại nếu bên ký quỹ không thực
hiện đúng cam kết hoặc phá sản thì số tiền đã ký quỹ sẽ được rút ra từ tài khoản
ngân hàng/tổ chức tín dụng để chi cho công tác khắc phục sự cố, suy thoái môi
trường.
Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích cho Nhà nước vì không phải đầu tư kinh
phí khắc phục môi trường từ ngân sách. Ký quỹ môi trường cũng khuyến khích
các doanh nghiệp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp
sẽ có lợi ích do lấy lại được vốn khi không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi
trường.
Với mục đích và nguyên lý hoạt động như vậy, rõ ràng số tiền phải ký quỹ
phải lớn hơn hoặc xấp xỉ kinh phí cần thiết để khắc phục môi trường nếu doanh

nghiệp gây ô nhiễm và suy thoái môi trường. Nếu số tiền ký quỹ quá nhỏ so với
chi phí bảo vệ môi trường, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng từ bỏ nhận lại số
tiền ký quỹ đó và không thực hiện các cam kết bảo vệ môi trường của mình.
Công cụ ký quỹ môi trường đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới,
đặc biệt với các hoạt động công nghiệp như khai thác mỏ, khai thác rừng hoặc
đại dương.
1.2.1.6. Trợ cấp môi trường
Trợ cấp môi trường là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở nhiều
nước trên thế giới, đặc biệt các nước thuộc tổ chức OECD. Trợ cấp môi trường
có thể dưới các dạng sau:
- Trợ cấp không hoàn lại: ưu đãi cho các doanh nghiệp vay vốn ngân
hàng để nâng cao khả năng quản lý môi trường
- Các khoản cho vay ưu đãi
- Cho phép khấu hao nhanh
- Ưu đãi thuế (miễn, giảm thuế)
Chức năng chính của trợ cấp môi trường là giúp đỡ các ngành công –
nông nghiệp các ngành khác khắc phục ô nhiễm trong điều kiện khi tình trạng ô
nhiễm môi trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không
chịu đựng được đối với việc xử lý ô nhiễm. Trợ cấp cũng còn nhằm khuyến
khích các cơ quan nghiên cứu và triển khai các công nghệ sản xuất có lợi cho
môi trường hoặc các công nghệ xử lý ô nhiễm.
Tuy nhiên, trợ cấp có thể gây ra sự không hiệu quả. Các nhà sản xuất
có thể đầu tư quá mức vào kiểm soát và xử lý ô nhiễm (làm giảm ô nhiễm nhiều
hơn so với mức tối ưu cũng là không hiệu quả).
15


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

Trường hợp ngược lại, trợ cấp không được hoạch toán toàn bộ vào chi

phí giảm ô nhiễm mà một phần được dùng để hạ thấp chi phí cá nhân, làm tăng
lợi nhuận.
Trợ cấp môi trường chỉ ra biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không
thích hợp hoặc kéo dài sẽ dẫn đến hiệu quả kinh tế vì trợ cấp đi ngược lại với
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, nó tạo ra sự thay đổi số công ty
(vào – ra tự do đối với ngành công nghiệp), thay đổi mức hoạt động của ngành
công nghiệp mà mục đích giảm ô nhiễm lại không đạt được.
Vì vậy, trợ cấp môi trường chỉ có thể thực hiện trong một thời gian cố
định với một chương trình có hoạch định và kiểm soát rõ ràng, thường xuyên.
1.2.1.7. Nhãn sinh thái
Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đưa ra khái niệm:“Nhãn sinh thái là sự
khẳng định, biểu thị thuộc tính môi trường của sản phẩm hoặc dịch vụ có
thể dưới dạng một bản công bố, biểu tượng hoặc biểu đồ trên sản phẩm hoặc
nhãn bao gói, trong tài liệu về sản phẩm, tạp chí kỹ thuật, quảng cáo hoặc các
hình thức khác”.
Nhãn sinh thái là danh hiệu của các tổ chức môi trường dành cho các sản
phẩm có sử dụng những công nghệ hoặc giải pháp thân thiện với môi trường,
nhằm cung cấp thông tin khuyến cáo người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa vì mục
tiêu bảo vệ môi trường.
Nhãn sinh thái do một cơ quan môi trường quốc gia hoặc một hiệp hội các
nhà sản xuất loại sản phẩm (nhãn sinh thái ngành dệt của Đức), quản lý (cấp và
thu hồi nhãn) thông thường là một cơ quan quản lý môi trường.
Nhãn sinh thái đánh vào nhà sản xuất thông qua người tiêu thụ và hệ
thống tiêu thụ, bằng giá của sản phẩm và số lượng sản phẩm tiêu thụ.
- Mục đích: của nhãn sinh thái là đẩy mạnh việc tiêu dùng và sản xuất

nhiều sản phẩm về mặt môi trường hơn, bằng việc cung cấp cho người tiêu dùng
những thông tin về ảnh hưởng môi trường của sản phẩm. Trong các quan hệ
thương mại quốc tế, nhãn sinh thái tác động đến vấn đề cạnh tranh xuất khẩu,
vượt qua các trở ngại thương mại.

+ Đối với Chính phủ: Giúp Chính phủ quản lý tốt hơn về vấn đề môi
trường quốc gia, lưu thông hành hóa dịch vụ.
+ Đối với doanh nghiệp: Tạo dựng uy tín và hình ảnh tốt trước bạn hàng
và người tiêu dùng; giúp doanh nghiệp giảm bớt rủi ro trong thương mại
quốc tế như rửi ro về môi trường, chi phí bảo hiểm.
+ Đối với người tiêu dùng: Có được những hướng dẫn khi mua sắm, ý
thức được giá trị môi trường của sản phẩm.

16


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

Nhà nước xác nhận các sản phẩm thân thiện với môi trường. Khẳng định
uy tín sản phẩm và của nhà sản xuất.
Những sản phẩm được dán nhãn:
+ Sản phẩm tái chế từ phế thải
+ Sản phẩm thay thế cho các sản phẩm xấu tới môi trường
+ Sản phẩm có tác động tích cực đối với môi trường trong sản xuất và
tiêu dùng.
1.2.1.8. Quỹ môi trường
Quỹ môi trường là một thể chế hoặc một cơ chế được thiết kế để nhận tài
trợ vốn từ các nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá
trình thực hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường.
Nguồn thu cho quỹ môi trường có thể được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau như:
-Phí và lệ phí môi trường
- Đóng góp tự nguyện của các cá nhân và doanh nghiệp
- Tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức trong nước, chính quyền


địa phương và chính phủ trung ương
- Đóng góp của các tổ chức, các nhà tài trợ quốc tế
- Tiền lãi và các khoản lợi khác nhau thu được từ hoạt động của quỹ
- Tiền xử phạt hành chính do vi phạm quy định về bảo vệ môi trường
- Tiền thu từ các hoạt động như văn hóa, thể thao, từ thiện, xổ số, phát

hành trái phiếu...
Nhiều nước trên thế giới đã thành lập quỹ môi trường áp dụng rất thành
công và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Hình thức áp dụng quỹ môi trường: Quỹ môi trường cung cấp thường
dưới hình thức hỗ trợ tài chính với các điều khoản ưu đãi chẳng hạn như các
khoản trợ cấp không hoàn lại, các khoản vay vốn dài hạn với lãi suất thấp hơn
lãi suất hiện hành trên thị trường để khuyến khích các dự án đầu tư bảo vệ môi
trường, hỗ trợ các dự án nghiên cứu triển khai, đào tạo truyền thông môi trường,
các dự án kiểm soát và xử lý ô nhiễm của các doanh nghiệp. Quỹ môi trường
thậm chí còn hỗ trợ tiền cho việc điều trị của các nạn nhân ô nhiễm.
Sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường là biện pháp các
nhà kinh tế cho là hiệu quả cao xét từ góc độ chi phí thực hiện. Đồng thời do đặc
tính linh hoạt của bản thân công cụ, vận hành trên cơ sở sử dụng sức mạnh của
thị trường và nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả, công cụ kinh tế có khả
năng khắc phục những thất bại của thị trường, có hiệu quả trong việc thay đổi
hành vi gây ô nhiễm, khuyến khích sự năng động và tự giác của người gây ô
17


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

nhiễm. Thực tế việc sử dụng công cụ kinh tế ở các nước trên thế giới cho thấy
những tác động tích cực như các hành vi môi trường được điều chỉnh một cách
tự giác, các chi phí xã hội cho công tác bảo vệ môi trường có hiệu quả hơn,

khuyến khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo vệ
môi trường, gia tăng nguồn thu phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho
ngân sách nhà nước, duy trì tốt các giá trị môi trường của quốc gia.
1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm của công cụ kinh tế
a) Ưu điểm:
- Khuyến khích sử dụng các biện pháp chi phí hiệu quả để đạt được mức
ô nhiễm chấp nhận được. Nó cho phép các đối tượng gây ô nhiễm có thể thực
hiện việc kiểm soát mức độ ô nhiễm của họ, hướng tới mục tiêu kinh doanh bền
vững (lợi ích đem lại trong dài hạn). Việc áp dụng công cụ kinh tế cho phép các
doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể linh hoạt trong việc ra
quyết định là có nên thay đổi hành vi của mình (như giảm thiểu chất ô nhiễm
thải ra môi trường; đầu tư trang thiết bị máy móc...) hay chịu chi phí của việc
gây ô nhiễm môi trường.
- Kích thích sự phát triển của công nghệ và tri thức chuyên sâu về kiểm
soát ô nhiễm nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân.
- Cung cấp cho chính phủ một nguồn thu nhập để hỗ trợ các chương trình
bảo vệ môi trường.
b) Nhược điểm:
- Chất lượng của việc áp dụng các công cụ kinh tế đến chất lượng môi
trường không biết trước được.
- Trong trường hợp các mức phí không đủ cao thì người gây ô nhiễm có
thể chịu nộp phạt và tiếp tục gây ô nhiễm.
- Giấy phép xả thải yêu cầu một thể chế phức tạp để thực thi tài??
- Hệ thống kế toán quốc gia: khó khăn trong việc tính toán khấu hao tài
nguyên (vốn tự nhiên). Các dịch vụ môi trường và công tác quản lý môi trường
ở Việt Nam còn nhiều bất cập cũng như khả năng tài chính của các tổ chức kinh
tế còn hạn chế.

18



Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

PHẦN 2
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
& BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
2.1. Tình hình sử dụng các công cụ quản lý môi trường
2.1.1. Công cụ mệnh lệnh kiểm soát
Ở nước ta đã xây dựng nhiều hệ thống pháp luật nhằm đảo bảo hướng dẫn
doanh nghiệp thực hiện xây dựng và hoạt động theo những tiêu chuẩn thống
nhất tiến tới bảo vệ môi trường cũng như dễ dàng thực hiện trong việc kiểm
soát. Ngày 27 tháng 12 năm 1993 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông
qua đã đặt nền móng cho việc hình thành hệ thống pháp luật về môi trường ở
nước ta. Lần đầu tiên, các khái niệm cơ bản về môi trường, bảo vệ môi trường
được định nghĩa một cách chuẩn tắc, quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường của
các tổ chức, cá nhân được quy định cụ thể và rõ ràng. Qua hơn 10 năm thực hiện
Luật, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực.
Hệ thống chính sách, thể chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Ý thức
bảo vệ môi trường trong xã hội được nâng lên. Mức độ gia tăng ô nhiễm, suy
thoái và sự cố môi trường đã từng bước được hạn chế. Công tác bảo tồn thiên
nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đạt được nhiều tiến bộ. Tuy nhiên, trước
những áp lực của tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sự
diễn biến sôi động và toàn diện của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế,
Luật Bảo vệ môi trường đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, cần được sửa đổi. luật
bảo vệ môi trường 2005 là luật bảo vệ môi trường mới nhất được quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày 29/11/2005, ban
hành theo Quyết định số 52/2005/QH11.
Bên cạnh đó, những cơ sở pháp lý của công tác quản lý môi trường được
thể hiện trong Nghị định 175/CP và các văn bản khác. Các văn bản này được
trình bày trong 2 tập sách: “Các qui định pháp luật về môi trường Tập 1-1995”

và “ Các qui định pháp luật về môi trường Tập 2-1997” cùng nhiều văn bản liên
quan khác như : “Tiêu chuẩn môi trường Việt Nam, qui chuẩn môi trường Việt
Nam.v.v.”. Tuy nhiên, ở nước ta một số văn bản pháp lý cần thiết cho công tác
quản lý môi trường chưa có hoặc chưa được ban hành: tiêu chuẩn và qui định về
môi trường cho các lĩnh vực sản xuất và hàng hóa cụ thể…Bên cạnh đó, đội ngũ
cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn còn thiếu, nhận thức của con người về ô
nhiễm môi trường còn hạn chế…
- Tiến hành điều tra và xử phạt những hành vi vi phạm, gian lận, cố tình
hủy hoại môi trường: chặt phá rừng tư lợi, xả rác, nước thải chưa qua xử lý vào
môi trường.

19


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

- Ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc
thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô
nhiễm vẫn là vấn đề rất đáng lo ngại.
- Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số
gây áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi
trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm
bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. Ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản
xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và
thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng.
Trong khi đó với đội ngũ hiện nay cũng như các cơ quan số lượng chưa nhiều,
thì việc kiểm soát vẫn còn rất hạn chế, có nhiều vụ việc vẫn chưa phát hiện và
chưa có những hành động xử lý thỏa đáng.
2.1.2. Công cụ kinh tế
Áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường cũng là một cách tiếp

cận đúng đắn nhằm hạn chế ô nhiễm và suy thoái môi trường. Tại Việt Nam
Việc áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường đã được Chính phủ quan
tâm. Quan điểm về áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường đã được
đề cập trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng
cường công tác bảo vệ môi trường (BVMT) trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nghị quyết của Bộ Chính trị số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004
và gần đây nhất là nghị quyết số 27/BCSĐBTNMT ngày 2/12/2009 của Ban cán
sự Đảng Bộ TN&MT về việc tăng cường chủ trương kinh tế hóa ngành
TN&MT. Một số công cụ kinh tế đã được triển khai áp dụng ở các quy mô khác
nhau. Bước đầu, các công cụ kinh tế đã có tác dụng tích cực giúp hạn chế ô
nhiễm, suy thoái môi trường. Tuy nhiên, do chưa có nghiên cứu đầy đủ về các
công cụ kinh tế trước khi ban hành nên quá trình triển khai các công cụ này còn
gặp nhiều khó khăn và hiệu quả thực thi chưa cao.
- Thuế tài nguyên
Pháp lệnh thuế tài nguyên đã được ban hành và có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/01/1991. Qua 06 năm thực hiện, Pháp lệnh thuế tài nguyên đã bộc lộ
một số nhược điểm về phạm vi và phương pháp xác định. Ngày 16/4/1998, Pháp
lệnh thuế tài nguyên (sửa đổi) đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X
thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/6/1998. Chính phủ đã có Nghị định số
68/1998/NÐ-CP ngày 03/9/1998 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh thuế tài
nguyên (sửa đổi). Bộ tài chính đã ra thông tư 153/1998/TT-BTC ngày
26/11/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định số 68/1998/NÐ-CP của Chính phủ.
- Thuế môi trường
- Luật thuế bảo vệ Môi trường được Quốc hội khoá XII thông qua và
ban hành ngày 15 tháng 11 năm 2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01
ngày 01 năm 2012. Luật thuế BVMT quy định cụ thể danh mục 8 nhóm đối
20


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường


tượng phải nộp thuế BVMT gồm: xăng, dầu, mỡ nhờn; than đá; dung dịch
Hydor- choloro- fluoro-carbon (HCFC); túi ni lông thuộc diện chịu thuế; thuốc
diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng; thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng;
thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng; thuốc khử trùng kho thuộc
loại hạn chế sử dụng.
Quan điểm mới của Luật thuế môi trường Việt Nam là xây dựng một sắc
thuế môi trường độc lập, nhằm tạo nguồn thu ngân sách nhà nước, giảm thiểu
việc sử dụng, sản xuất và thải các chất gây hại đến môi trường, đồng thời nhằm
bù đắp và xử lý các vấn đề gây ô nhiễm môi trường, nâng cao ý thức của cộng
đồng đối với môi trường. Mục đích của thuế môi trường là tạo hành lang pháp lý
để điều chỉnh trực tiếp hành vi của các chủ thể có tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp gây ô nhiễm môi trường và nhằm bảo vệ môi trường sinh thái, chống
chuyển dịch công nghệ bẩn vào Việt Nam, đồng thời tạo lập và sử dụng nguồn
kinh phí trực tiếp đó để đầu tư xây dựng các biện pháp cải thiện môi trường, chi
phí cho việc bảo vệ môi trường, tuyên truyền tác động đến ý thức cộng đồng
trong việc bảo vệ môi trường. Dự báo trong thời gian tới, sau khi Luật thuế
BVMT đ ã c ó hiệu lực thi hành sẽ góp phần tăng cường trách nhiệm và
nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân đối với hoạt động bảo vệ môi
trường; khuyến khích sản xuất và tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi
trường thông qua việc làm tăng giá các sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây
ô nhiễm môi trường để kích thích và điều chỉnh các quá trình sản xuất và tiêu
dùng theo hướng bảo vệ môi trường và góp phần tăng nguồn vốn đầu tư cải tạo
môi trường.
- Phí môi trường
Hiện nay, trong lĩnh vực môi trường đã thực hiện thu phí BVMT đối với
nước thải, chất thải rắn và phí BVMT đối với khai thác khoáng sản.
Phí BVMT đối với nước thải được quy định tại Nghị định 67/2003/NĐCP ngày 13/6/2003. Tuy nhiên, sau hơn 6 năm thực hiện, phí BVMT đối với
nước thải vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Các cơ quan quản lý còn lúng túng trong
cách thu và tính phí. Các doanh nghiệp còn tìm cách trốn tránh và nợ phí. Kết

quả là tỷ lệ thu phí nước thải công nghiệp còn thấp.
Phí BVMT đối với chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại
được quy định trong nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007. Ngoài ra, phí
vệ sinh được áp dụng 2003 theo quy định tại Thông tư số 71/2003/TT-BTC ngày
30/7/2003 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, khoản thu từ các khoản phí này không
đủ bù đắp chi phí thu gom, xử lý chất thải rắn. Ngoài ra, các văn bản hiện tại
không quy định rõ trách nhiệm thu phí của các đơn vị, tổ chức nên việc thu phí ở
các địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được thực hiện theo Nghị định
số 63/2008/NĐ-CP ngày 13/5/2008 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thu phí còn
gặp nhiều khó khăn do đối tượng phải nộp phí chưa tự giác thực hiện nghĩa vụ
21


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

này. Còn tình trạng doanh nghiệp kê khai sản lượng khai thác thấp hơn thực tế
để giảm số phí phải nộp.
- Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng
Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng được áp dụng ở Việt Nam
chủ yếu đối với môi trường không khí và được thể hiện trong văn bản sau:
Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Thủ
tướng Chính phủ về một số cơ chế, chính sách tài chính đối với dự án đầu
tư theo cơ chế phát triển sạch.
Thực tế cho thấy, để được hưởng những ưu đãi, nhà đầu tư dự án cơ
chế p há t t r iển sạ ch (CDM -Clean Development Mechanism) gặp rất nhiều
khó khăn. Những khó khăn này xuất phát từ quy định của pháp luật. Ví dụ
như Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp không quy định việc hưởng ưu đãi thuế
thu nhập doanh nghiệp cho các dự án CDM và do vậy, nhà đầu tư không
được hưởng những ưu đãi theo quy định của Quyết định số

130/2007/QĐ-TTg. Thủ tục được hưởng những ưu đãi rất phức tạp. Đối với
các nhà đầu tư công nghệ vào Việt Nam để thực hiện các dự án cơ chế phát
triển sạch thì cơ chế tự động áp dụng cho việc hưởng ưu đãi không có,
hướng dẫn cụ thể về việc hưởng ưu đãi cũng chưa có. Tất cả những khó khăn
nêu trên đã dẫn đến việc các dự án CDM ở Việt Nam kém hấp dẫn và cạnh
tranh hơn so với các quốc gia khác.
- Ký quỹ môi trường
Tại Việt Nam ký quỹ trong hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết
định số 71/2008/QĐ-TTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Ký quỹ
môi trường đã đem lại những kết quả bước đầu đáng khích lệ trong công tác
kiểm soát ô nhiễm đối với các hoạt động khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, việc
áp dụng công cụ này trên thực tế chỉ mới dừng lại các dự án quy mô nhỏ hoặc
còn ở giai đoạn thử nghiệm do công thức dự toán chi phí cải tạo, phục hồi môi
trường, chưa cụ thể, khó thực hiện.
Cơ chế hỗ trợ tài chính cho các các hoạt động BVMT được thực hiện theo
quy định tại Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/1/2009. Ngoài ra, thuế xuất
nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có những điều khoản ưu đãi về
thuế cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, thiết bị và
công nghệ môi trường. Mặc dù đã có cơ chế hỗ trợ tài chính song chưa có nhiều
doanh nghiệp tham gia các hoạt động này vì nhu cầu đầu tư cho môi trường
chưa cao. Nói cách khác, "cầu" cho hoạt động BVMT chưa đủ cao để kích thích
các hoạt động "cung".
- Quỹ môi trường:
Tại Việt Nam ngày 26/6/2002, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Quỹ
bảo vệ môi trường Việt Nam và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2003 với
mục đích và nhiệm vụ chính là hỗ trợ tài chính cho các hoạt động bảo vệ môi
22


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường


trường. Đây là một tổ chức đầu tiên ở cấp độ quốc gia thực hiện chức năng như
một tổ chức tài chính hỗ trợ vốn cho các dự án môi trường trên toàn quốc.
Một cơ chế khác là Quỹ Môi trường đã được hình thành nhằm hỗ trợ vốn
cho các doanh nghiệp đầu tư BVMT như: Quỹ Môi trường cấp quốc gia (Quỹ
BVMT Việt Nam, Quỹ Bảo tồn Việt Nam), Quỹ BVMT các tỉnh/TP, Quỹ Môi
trường ngành. Sau một thời gian hoạt động, các quỹ môi trường đã góp phần
đưa nguồn vốn của Nhà nước để thực hiện dự án môi trường hiệu quả; bước đầu
huy động được một phần nguồn lực từ trong và ngoài nước cho các hoạt động
BVMT. Tuy nhiên các quỹ này chưa phát huy hết hiệu quả do nguồn vốn chưa
đủ, các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin về các thủ tục vay cũng như chưa
có áp lực cần vay vốn đầu tư BVMT.
- Nhãn sinh thái:
Nhằm tăng cường sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi
trường thông qua việc khuyến khích các mẫu hình sản xuất và tiêu dùng các sản
phẩm thân thiện với môi trường được Nhà nước đánh giá, chứng nhận ... ngày
05 tháng 3 năm 2009 Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ra Quyết định
số 253/QĐ-BTNMT phê duyệt Chương trình cấp nhãn sinh nhằm khuyến khích
các mẫu hình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thân thiện với môi trường. Đặt
cọc hoàn trả, mặc dù chưa có quy định của nhà nước nhưng cũng đã được áp
dụng có tính tự phát ở một số lĩnh vực như đặt cọc vỏ chai.
Thực hiện chương trình cấp nhãn sinh thái, Bộ Tài nguyên và Môi
trường đã ban hành các văn bản:
• Quyết định số 252/QĐ-BTNMT ngày 05/03/2009 của Bộ trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt chương trình cấp nhãn
sinh thái
• Quyết định số 1492/QĐ-BTNMT ngày 13/08/2009 của Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc thành lập Hội đồng Tư vấn
Chương trình cấp nhãn sinh thái
• Quyết định số 1907/QĐ-BTNMT ngày 12 tháng 10 năm 2010

của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt danh
sách thành viên Hội đồng Tư vấn Chương trình cấp nhãn sinh thái.
• Quyết định số 1906/QĐ-BTNMT ngày 12/10/2010 của Bộ trưởng
Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc ban hành Quy chế làm việc
của Hội đồng Tư vấn Chương trình cấp nhãn sinh thái.
• Quyết định số 2322/QĐ-BNMT ngày 13 tháng 12 năm 2010
của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc phê duyệt
tiêu chí Nhãn xanh Việt Nam. Theo Quyết định số 2322/QĐ-BNMT,
ba sản phẩm được phê duyệt tiêu chí nhãn xanh gồm: bột giặt, bóng
đèn huỳnh quang, bao bì nhựa tự phân huỷ sinh học dùng gói hàng
khi mua sắm.
23


Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam phải hội nhập và
tuân thủ những giá trị kinh doanh chung của thế giới, trong đó có các giá trị về
BVMT. Các ngành tiêu biểu gồm lâm sản xuất khẩu và thủy sản.
- Đối với ngành thủy sản: các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm gỗ đang
tham gia Mạng lưới kinh doanh Lâm sản Việt Nam, một thành viên thuộc Mạng
lưới kinh doanh Lâm sản toàn cầu. Mục đích của mạng lưới này là hỗ trợ kinh
doanh sản phẩm gỗ theo phương thức phù hợp với việc bảo vệ rừng, thông qua
"Chứng chỉ rừng" của Hội đồng Quản trị rừng thế giới. "Chứng chỉ rừng" bảo
đảm với người tiêu dùng và tất cả những ai quan tâm đến bảo vệ rừng và môi
trường rằng, sản phẩm gỗ có chứng chỉ được sản xuất trên cơ sở rừng được tái
tạo lâu dài, không làm giảm tính đa dạng sinh học (ĐDSH) của rừng và ảnh
hưởng đến môi trường.
- Về thủy sản: đã có nhiều doanh nghiệp chế biến thủy sản được cấp nhãn
Tiêu chuẩn quản lý thực hành (BMP), chứng chỉ đạt tiêu chuẩn ISO 14.000 về

hệ thống quản lý môi trường doanh nghiệp, chứng chỉ đạt tiêu chuẩn HACCP về
kiểm soát môi trường điểm tới hạn. Có thể nói, nhãn sinh thái, một công cụ kinh
tế được doanh nghiệp tự nguyện áp dụng sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian do
yêu cầu của thị trường.
- Đặt cọc hoàn trả: Hiện tại Nhà nước chưa có quy định cụ thể về đặt
cọc hoàn trả.
Có thể nói một số lượng đáng kể các Công cụ kinh tế trong quản lý ô
nhiễm đã được triển khai ở Việt Nam. Tuy nhiên, do chưa có nghiên cứu đầy đủ
về các CCKT trước khi ban hành nên quá trình triển khai các công cụ này còn
gặp nhiều khó khăn và hiệu quả thực thi chưa cao mong đợi do các quy định còn
bất cập, năng lực thực hiện còn hạn chế đặc biệt là các chế tài chưa đủ mạnh để
tạo động lực tuân thủ các quy định này.
2.2. Đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý cho các công
cụ mệnh lệnh – kiểm soát và công cụ kinh tế trong điều kiện Việt Nam hiện
nay.
2.2.1. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, ban hành

các chính sách phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh
thi hành luật môi trường. Giải pháp này nhằm tăng cường hiệu lực của công tác
quản lý môi trường bằng công cụ pháp luật.
- Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và

các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường. Cụ thể như: Đưa chương trình
bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục của tất cả các hệ thống giáo dục
quốc dân, tạo điều kiện cho nhân dân nhận được các thông tin về môi trường,
động viên nhân dân thực hiện nếp sống sạch, hợp vệ sinh.
24



Tiểu luận môn học: Kinh tế môi trường

- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung

ương đến địa phương. Giải pháp đề ra nhiệm vụ cụ thể như: Nâng cấp cơ quan
quản lý môi trường cấp trung ương từ cục thành tổng cục, tăng cường năng lực
quản lý môi trường ở địa phương bằng cách tạo ra biên chế cán bộ quản lý môi
trường ở các cấp quận, huyện.
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra theo dõi về việc thi hành

các quy định của pháp luật trong lĩnh vực môi trường.
Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo cán bộ, chuyên
gia về lĩnh vực môi trường. Giải pháp đặt ra 4 nhiệm vụ: xây dựng hệ thống
quan trắc, đánh giá và dự báo môi trường toàn quốc; hình thành hệ thống cơ sở
nghiên cứu về khoa học và công nghệ môi trường ; tổ chức đào tạo cán bộ và
chuyên gia môi trường ở nhiều mức độ và nhiều ngành nghề ; hình thành ngành
công nghệ môi trường phù hợp với điều kiện Việt Nam.
-

Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường bằng cách tham gia các
chương trình, hợp tác quốc tế và khu vực, hợp tác song phương với các nước về
bảo vệ môi trường.
-

Chủ động phòng chống ô nhiễm và sự cố môi trường, khắc phục tình
trạng suy thoái môi trường.
-

- Cần có một cơ quan đủ mạnh để đảm trách công tác khống chế ô nhiễm
do hoạt động giao thông vận tải, do hoat động sản xuất tiêu dùng…Với cơ cấu

hiện tại trách nhiệm này được chia sẻ cho nhiều đơn vị nên kết quả không cao.
2.2.2. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả công cụ kinh tế
- Luật Bảo vệ môi trường 2005 là kim chỉ nam cho công tác bảo vệ
môi trường, song lại chưa đề cập nhiều đến các công cụ kinh tế và tính hiệu quả
của nó trong quản lý môi trường. Do đó, cần sớm hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật về quản lý môi trường nói chung và kinh tế hoá lĩnh vực môi
trường.
- Rà soát các công cụ kinh tế đang áp dụng để điều chỉnh, bổ sung những
vướng mắc, bất cập, cụ thể như sau:
+ Thuế bảo vệ môi trường: Luật thuế môi trường được ban hành nhằm
đánh vào đối tượng gây ô nhiễm môi trường để bảo vệ môi trường, góp phần
thay đổi nhận thức của cộng đồng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất
nước, xây dựng hệ thống thuế đồng bộ, phù hợp. Để người dân có thể hiểu và
thực hiện Luật một cách nghiêm túc trong thực tế cần triển khai tuyên truyền,
hướng dẫn cụ thể, rõ ràng những nội dung chưa cụ thể trong luật.
+ Phí bảo vệ môi trường
* Đối với nước thải: Nghị định 67/2003/NĐ-CP được ban hành là công
cụ kinh tế đầu tiên được áp dụng ở nước ta. Nghị định này ra đời đã tạo điều
25


×