Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
1
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................... 1
CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG................................................................2
1.1. Khái lược về quản lý môi trường:............................................................................2
1.1.1. Khái niệm về quản lý môi trường:........................................................................................2
1.2.Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát(CAC)......................................................................4
1.2.1. Đặc điểm, nội dung, bản chất của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát.................................4
1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát.............................................6
1.3.Công cụ kinh tế...........................................................................................................7
1.3.1. Thuế tài nguyên.......................................................................................................................7
1.3.2. Thuế và phí môi trường.........................................................................................................8
1.3.3. Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường (cota ô nhiễm).............................................9
1.3.4. Hệ thống đặt cọc hoàn trả...................................................................................................10
1.3.5. Ký quỹ môi trường..............................................................................................................11
1.3.6. Trợ cấp môi trường............................................................................................................12
1.3.7. Nhãn sinh thái.........................................................................................................................13
1.3.8. Quỹ môi trường..................................................................................................................13
CHƯƠNG II...................................................................................................................15
CÁC CÔNG CỤ MỆNH LỆNH – KIỂM SOÁT VÀ KINH TẾ TRONG QUẢN LÝ
MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM.................................................................................15
2.1.Công cụ CAC trong quản lý môi trường tại Việt Nam..........................................15
2.1.1. Tình hình áp dụng công cụ mệnh lệnh – kiểm soát ở Việt Nam.......................................15
2.1.2. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả công cụ mệnh lệnh – kiểm soát............................15
2.2.Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường tại Việt Nam.......................................16
2.2.1 Tình hình áp dụng công cụ kinh tế ở Việt Nam.................................................................16
2.2.2. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả công cụ kinh tế......................................................18
2.2.3. Bốn nguyên tắc sử dụng công cụ kinh tế để bảo vệ môi trường ở Việt Nam ...............20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................23
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
1
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
CHƯƠNG I.
CÁC CÔNG CỤ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
1.1. Khái lược về quản lý môi trường:
Điều 1- luật bảo vệ môi trường Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về môi trường như
sau:”môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật
thiết với nhau, bao quanh con người ,có ảnh hưởng lớn đến đời sống ,sản xuất ,sự tồn tại
và phát triển của con người và thiên nhiên”.
Như vậy, môi trường bao hàm các mối quan hệ giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố
nhân tạo bao quanh con người và những yếu tố đó có ảnh hưởng rất lớn đến con người ở
nhiều mặt khác nhau.
Quan niệm như vậy về môi trường thực sự sai lầm và thiếu sót lớn bởi vì thực tế
cho thấy môi trưng có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Môi
trường tự nhiên không là nguồn cung cấp nguyên liệu thô mà còn là nơi chứa chất thải
đồng thời cũng là nơi cung cấp các ngoại ứng tích cực cho con người như cảnh quan du
lịch,các di tích lịch sử,…
Do đó, cần phải nhìn nhận hệ thống kinh tế trên quan điểm mới mà ở đó môi
trường tự nhiên được đề cập đến với đúng vai trò quan trọng của nó.
Theo quan niệm truyền thống về hệ thống kinh tế, vai trò của môi trường tự nhiên
không được đề cập đến. Quan niệm này đã sai lầm khi không coi môi trường là thành tố
trong hệ thống kinh tế
1.1.1. Khái niệm về quản lý môi trường:
Trước hết, chúng ta hãy xét khái niệm về quản lý:”Quản lý là sự tác động của một
chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến
động của mổi trường.”
Một cách cụ thể hơn, quản lý bao gồm một chủ thể quản lý và một hoặc một số đối
tượng bị quản lý theo mục tiêu và quỹ đạo đã đặt ra.
Quản lý Nhà nước đối với xã hội là sự tác động có tổ chức và bằng quyền lực Nhà
nước đối với các quá trình xã hội, các hành vi, hoạt động của công dân và mọi tổ chức
trong xã hội nhằm duy trì và phát triển trật tự xã hội, bảo toàn, củng cố và phát triển
quyền lực Nhà nước.
Trong hệ thống quản lý của Nhà nước đối với xã hội, quản lý môi trường là môt
lĩnh vực cụ thể và có thể được hiểu theo khái niệm sau:”Quản lý môi trường là sự tác
động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý môi trường lên cá nhân hoặc
cộng đồng người tiến hành các hoạt động phát triển trong hệ thống môi trường và khách
thể quản lý môi trường , sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt
được mục tiêu quản lý môi trường đã đề ra, phù hợp với luật pháp và thông lệ hiện hành”.
Sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý môi trường
chính là việc tổ chức thực hiện các chức năng của quản lý môi trường nhằm phối hợp
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
2
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
mục tiêu và các động lực hoạt động cuả mọi người nằm trong hệ thống môi trường để
đạt tới mục tiêu chung của hệ thống môi trường.
Viêc sử dụng tốt nhất các tiềm năng, các cơ hội của hệ thống là việc sử dụng có
hiệu quả nhất các yếu tố bên trong và bên ngoài của hệ thống môi trường trong điều kiện
tương tác với các hệ thống khác, chấp nhận các rủi ro có thể xẩy ra cho hệ thống.
Việc tuân thủ luật pháp và các thông lệ hiên hành là việc tiến hành các hoạt động
phát triển theo đúng những điều mà luật pháp trong nước và quốc tế không cấm, những
công ước mà thế giới đã thoả thuận.
Mục tiêu chung, lâu dài và nhất quán của quản lý môi trường là nhằm góp phần
tạo lập sự phát triển bền vững.
Thực chất của quản lý môi trường chính là sự kết hợp mọi sự nổ lực chung của
con người hoạt động trong hệ thống môi trường và việc sử dụng tốt các cơ sở vật chất và
kỹ thuật thuộc phạm vi sở hữu của hệ thống môI trường để đạt tới mục tiêu chung của
toàn hệ thống và mục tiêu riêng của cá nhân hoặc nhóm người một cách khôn khéo và có
hiệu quả nhất.
Xét về bản chất kinh tế-xã hội, quản lý môitrường là các hoạt động chủ quan của
chủ thể quản lý vì mục tiêu lợi Ých của hệ thống,bảo đảm cho hệ thống môitrường tồn tại
hoạt động và phát triển lâu dài cân bằng và ổn định vì lợi Ých về vật chất và tinh thần của
thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau, vì lợi Ých của cá nhân, cộng đồng, địa phương,
vùng, quốc gia,khu vực và quốc tế .
Với vai trò là một lĩnh vực của quản lý Nhà nước, các hoạt động của tác quản lý
môi trường được quy định cụ thể trong điều 37 lựât bảo vệ môi trường Việt Nam.
Nói tóm lại, sự ra đời của công tác quản lý môi trường là một tất yếu khách quan
của quá trình phát triển kinh tế xã hội ngày càng hiện đại mà ở đó mục tiêu tăng trưởng
kinh tế và mục tiêu bảo vệ môi trường luôn được đề cập đến như nhau.
1.1.2. Hệ thống công cụ quản lý môi trường:
Như các lĩnh vực khác trong hệ thống quản lý Nhà nước, quản lý môi trường đòi
phải có các công cụ quản lý để thực hiện việc quản lý. Công cụ quản lý môi trường là các
biện pháp và phương tiện giúp cho việc thực hiện các nội dung của quản lý môi trường
được tốt hơn. Thông qua các chính sách, các nhà quản lý môi trường có thể đạt được các
mục tiêu về kiểm soát ô nhiểm và quản lý chất thải.
Công cụ quản lý môi trường bao gồm nhiều loại nhưng trên giác độ kinh tế và
quản lý môi trường về mặt Nhà nước, hệ thống này gồm các loại công cụ chủ yêu sau:
- Công cụ pháp lý
- Công cô kinh tế
- Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường.
Trong phạm vi bài tiểu luận chỉ nêu công cụ mệnh lệnh – kiểm soát và công cụ
kinh tế.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
3
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
1.2.
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát(CAC)
1.2.1. Đặc điểm, nội dung, bản chất của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
Công cụ mệnh lệnh - kiểm soát hay còn gọi là công cụ pháp lý. Đây là công cụ
quản lý trực tiếp và được sử dụng phổ biến từ lâu ở nhiều quốc gia trên thế giới và là
công cụ được nhiều nhà quản lý hành chính ủng hộ.
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát gồm 2 khía cạnh: Khía cạnh chỉ huy và kiểm soát,
theo nguyên tắc là một bên đưa ra yêu cầu mệnh lệnh hay chỉ huy đồng thời họ cũng có
trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành hay tuân thủ các yêu cầu đã được đặt ra.
Công cụ mệnh lệnh – kiểm soát bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật quốc
gia, các văn bản khác dưới luật (pháp lệnh, nghị định, qui định, các tiêu chuẩn môi
trường, giấy phép môi trường...), các kế hoạch, chiến lược và chính sách môi trường quốc
gia, các ngành kinh tế và các địa phương:
- Luật quốc tế về môi trường là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều
chỉnh mỗi quan hệ giữa các quốc gia, giữa quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ngăn
chặn, loại trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi trường ngoài
phạm vi sử dụng của quốc gia. Cho đến nay đã có hàng nghìn văn bản luật quốc tế về môi
trường mà Việt Nam đã tham gia ký kết nhiều văn bản trong số đó. Pháp luật quốc tế về
bảo vệ môi trường do nhiều nước ký kết hoặc tham gia không có hiệu lực trực tiếp trên
lãnh thổ quốc gia cụ thể. Muốn thi hành trên lãnh thổ nào đó, các qui phạm của Luật
quốc tế về bảo vệ môi trường cần phải được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật quốc
gia, nghĩa là Nhà nước phải phê chuẩn các văn bản này.
- Luật môi trường quốc gia là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc
pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể sử
dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ sở kết hợp các
phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường sống
của con người. Hệ thống luật bảo vệ môi trường của một quốc gia thường gồm luật chung
và luật sử dụng hợp lý các thành phần môi trường hoặc bảo vệ môi trường cụ thể ở một
địa phương, một ngành.
- Ở Việt Nam, luật bảo vệ môi trường 2005 là luật bảo vệ môi trường mới nhất
được quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI thông qua ngày
29/11/2005, ban hành theo Quyết định số 52/2005/QH11. Nhiều khía cạnh bảo vệ môi
trường cũng được đề cập trong các văn bản pháp luật khác (gọi là luật về các thành phần
môi trường) như Luật khoáng sản, Luật phát triển và bảo vệ rừng, Luật dầu khí, Luật
hàng hải, Luật lao động, Luật đất đai, Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, Luật tài nguyên
nước, Pháp lệnh đê điều, Pháp lệnh về bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Pháp lệnh về bảo vệ
các công trình giao thông…
- Quy định là những văn bản dưới luật nhằm cụ thể hóa hoặc hướng dẫn thực hiện
các nội dung của luật. Quy định có thể do Chính phủ trung ương hay địa phương, do cơ
quan hành pháp hay lập pháp ban hành.
- Quy chế là các quy định về thể lệ tổ chức quản lý bảo vệ môi trường, chẳng hạn
như quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, Bộ, Sở khoa học công
nghệ, Sở tài nguyên môi trường.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
4
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
- Tiêu chuẩn môi trường là các chuẩn mực giới hạn cho phép được quy định làm
căn cứ để quản lý môi trường. Tiêu chuẩn môi trường có quan hệ mật thiết với sự phát
triển bền vững của mỗi quốc gia. Việc xây dựng tiêu chuẩn môi trường một mặt dựa trên
các quy định đã được kiểm nghiệm thực tế, mặt khác phải có nhiều căn cứ khoa học,
nhằm đảm bảo cho tiêu chuẩn môi trường phù hợp với nhu cầu bảo vệ sinh thái, đồng
thời khả thi về mặt kinh tế, xã hội. Hệ thống tiêu chuẩn môi trường phản ảnh trình độ
khoa học, công nghệ, tổ chức quản lý và tiềm lực kinh tế xã hội có tính đến dự báo phát
triển. Các dạng tiêu chuẩn môi trường:
+ Tiêu chuẩn môi trường xung quanh: Qui định đặc tính của môi trường tiếp
nhận, ví dụ như nồng độ tối đa của hợp chất nitrat trong nước uống, hay SO 2 trong bầu
không khí, hoặc mức độ tối đa trong khu dân cư. Các tiêu chuẩn này hình thành các mục
tiêu môi trường cần đạt được bằng các công cụ chính sách khác nhau;
+ Tiêu chuẩn phát thải: Là mức tối đa cho phép xả thải các chất ô nhiễm ra môi
trường, ví dụ mức BOD tối đa được xả vào nước hoặc mức SO x tối đa được thải vào
không khí của một cơ sở sản xuất công nghiệp. Một hình thức đặc biệt của tiêu chuẩn
phát thải đó là việc cấm không được sử dụng hay thải ra một chất nào đó, thông thường là
chất độc;
+ Tiêu chuẩn quy trình: Qui định hình thức của quá trình sản xuất hoặc thiết bị
giảm thiểu ô nhiễm mà các cơ sở ô nhiễm phải lắp đặt (ví dụ như thiết bị lọc không khí
hay một dụng cụ lọc nước nào đó);
+ Tiêu chuẩn sản phẩm: Xác định đặc tính của các sản phẩm có tiềm năng gây ô
nhiễm ví dụ như hóa chất, bột giặt, phân bón hóa học, ôtô và moto, các loại nhiên liệu…
Có 4 tiêu chí xác định các tiêu chuẩn môi trường đó là tiêu chí môi trường, tiêu chí
công nghệ, tiêu chí kinh tế, tiêu chí chính trị.
+ Tiêu chí môi trường: Xác định mức ngưỡng của môi trường tự nhiên nhằm đảm
bảo lợi ích hoặc bảo vệ các hoạt động kinh tế khỏi tác động có hại;
+ Tiêu chí về công nghệ: Tiêu chuẩn có thể dựa trên công nghệ đã có và đang
được áp dụng trong một số nhà máy và dễ dàng được chuyển giao công nghệ đang có
hiện thời; tiêu chuẩn dựa trên cơ sở công nghệ tốt nhất đang có;
+ Tiêu chí về kinh tế: Làm thế nào chi phí bỏ ra là nhỏ nhất trong điều kiện có thể;
một tiêu chuẩn lý tưởng là tiêu chuẩn mà doanh nghiệp có thể đạt được với chi phí thấp
nhất;
+ Tiêu chí về chính trị: Khi xác lập công cụ chính sách, người ta đưa ra quyết định
phải đối mặt với một số ràng buộc về chính trị như: tính công bằng, khả năng cảnh báo,
đảm bảo khả năng chấp nhận được và đơn giản.
- Chính sách bảo vệ môi trường là những chủ trương, biện pháp mang tính chiến
lược, có thời hạn nhằm giải quyết nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào đó trong một
giai đoạn nhất định. Chính sách bảo vệ môi trường giải quyết những vấn đề chung nhất
về quan điểm quản lý môi trường, về các mục tiêu môi trường cơ bản cần giải quyết trong
một giai đoạn dài 10 - 15 năm và các định hướng lớn thực hiện mục tiêu, chú trọng việc
huy động nguồn lực cân đối với mục tiêu về bảo vệ môi trường.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
5
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
Chính sách bảo vệ môi trường phải được xây dựng đồng thời với chính sách phát
triển kinh tế - xã hội. Chức năng quan trọng nhất của chính sách môi trường là tạo điều
kiện gắn kết các mục tiêu phát triển bền vững vào hoạt động phát triển của từng ngành,
từng vùng tạo liên kết giữa các ngành và các cấp trong việc thực hiện mục tiêu bảo vệ
môi trường.
- Chiến lược bảo vệ môi trường cụ thể hóa chính sách ở một mức độ nhất định.
Chiến lược xem xét chi tiết hơn mối quan hệ giữa các mục tiêu do chính sách xác định và
các nguồn lực để thực hiện chúng; trên cơ sở lựa chọn các mục tiêu khả thi, xác định
phương hướng, biện pháp thực hiện mục tiêu.
- Công cụ đánh giá tác động môi trường: Đánh giá tác động môi trường được sử
dụng để phòng ngừa và giảm thiểu những tác động tiêu cực, phát huy các tác động tích
cực và đồng thời hỗ trợ cho việc sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên qua đó làm tăng
tối đa lợi ích của các dự án phát triển kinh tế - xã hội góp phần vào phát triển bền vững
của quốc gia.
Đánh giá tác động môi trường được tiến hành khi ra quyết định về dự án, tại nhiều
nước đây là điều bắt buộc và đưa vào văn bản luật. Việc đánh giá này có liên quan đến
mục tiêu kinh tế của dự án và từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn.
Giám sát và cưỡng chế là hai yếu tố quan trọng của công cụ này.
1.2.2. Ưu điểm và nhược điểm của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
a/ Ưu điểm:
- Đây là công cụ do nhà nước ban hành, được phổ biến, kiểm soát và giám sát
thông qua nhiều cơ quan, tổ chức, do đó, nó có tính chất bắt buộc cao, yêu cầu mọi cá
nhân, doanh nghiệp đều phải thực hiện đúng. Nếu thực hiện sai sẽ bị xử phạt. Do đó, hạn
chế và kiểm soát được các hoạt động liên quan đến môi trường.
Có khả năng quản lý chặt chẽ các loại chất thải độc hại và các tài nguyên quý
hiếm thông qua các quy định mang tính cưỡng chế cao trong thực hiện.
- Công cụ mang tính thống nhất và rõ ràng nên có thể hướng dẫn các doanh nghiệp
thực hiện đúng yêu cầu đối với môi trường cũng như con người xung quanh.
- Các doanh nghiệp cũng có thể dựa vào các bộ luật, tiêu chuẩn để có thể kiểm tra
lại việc làm của các tổ chức môi trường, xem họ đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
của mình hay chưa.
b/ Nhược điểm:
- Việc thực thi thường khó và yếu do những hạn chế về mặt quản lý;
- Có thể nảy sinh các vấn đề tiêu cực trong công tác, quản lý giám sát. Bới một số
doanh nghiệp có thế lực sẽ liên kết với các cơ quan giám sát để thực hiện những hành vi
mang tính các nhân.
- Công cụ thiếu tính năng động và thiếu khuyến khích về mặt kinh tế;
- Xét trên phương diện chi phí, công cụ này thường bị chỉ trích là thiếu hiệu quả.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
6
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
- Để có thể thực hiện công cụ này một cách hiệu quả, đòi hỏi phải có một nguồn
kinh phí rất lớn trong công tác quản lý, thiết lập các cơ sở cũng như đội ngũ nguồn nhân
lực.
1.3.
Công cụ kinh tế
Công cụ kinh tế được coi là một công cụ bổ sung cho công cụ pháp lý và hiện nay
được sử dụng rộng rãi. Công cụ kinh tế là phương tiện chính sách có tác dụng làm thay
đổi chi phí và lợi ích của những hoạt động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường,
nhằm mục đích tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra sự hủy hoại môi trường
Trên thực tế công cụ quản Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường có tác động
trực tiếp tới thu nhập hoặc hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm
ngăn ngừa các tác động tiêu cực tới môi trường. Công cụ kinh tế có thể tác động trực tiếp
đến các nhà sản xuất dưới dạng thuế môi trường, lệ phí xả thải hoặc trực tiếp vào người
tiêu thụ dưới dạng phí sử dụng. Trong tất cả các trường hợp đó, công cụ kinh tế đều có
mục đích chung là hạn chế số lượng chất thải phát sinh, giảm ảnh hưởng của việc tiêu thụ
tài nguyên và năng lượng.
Công cụ kinh tế rất đa dạng gồm thuế môi trường, phí và lệ phí môi trường, quỹ
môi trường, cota môi trường, ký quỹ môi trường, trợ cấp tài chính, nhãn sinh thái...Mỗi
công cụ kinh tế có những ưu điểm trong từng nội dung quản lý cụ thể.
1.3.1. Thuế tài nguyên
Thuế tài nguyên là một khoản thu của Ngân sách Nhà nước đối với các doanh
nghiệp về việc sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất. Mục
đích của thuế tài nguyên là:
Hạn chế các nhu cầu không cấp thiết trong sử dụng tài nguyên;
Hạn chế các tổn thất tài nguyên trong quá trình khai thác và sử dụng;
Tạo nguồn thu cho ngân sách và điều hòa quyền lợi của tầng lớp dân cư về việc
sử dụng tài nguyên.
Thuế tài nguyên bao gồm một số sắc thuế chủ yếu như thuế sử dụng đất, thuế sử
dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài nguyên khoáng sản...
Cơ cấu tính thuế tài nguyên phải được thay đổi phù hợp với khả năng công nghệ
của doanh nghiệp, phương thức quản lý của nhà nước và điều kiện địa chất kỹ thuật của
khu vực khai thác tài nguyên để đảm bảo có sự phân biệt đối với các doanh nghiệp hoặc
hoạt động gây ra các tổn thất tài nguyên và suy thoái môi trường ở các mức độ khác
nhau; nguyên tắc chung là hoạt động càng gây nhiều tổn thất tài nguyên và suy thoái môi
trường thì càng phải chịu thuế cao hơn. Việc xác định đúng đắn phương pháp tính thuế
tài nguyên là rất quan trọng sẽ góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư công nghệ, kỹ
thuật năng lực quản lý nhằm làm giảm tổn thất tài nguyên, đặc biệt các tài nguyên không
tái tạo.
Trong thực tế khi áp dụng thuế tài nguyên người ta thường phân biệt tài nguyên
thành 2 loại theo mức độ xác định trữ lượng:
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
7
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
Loại tài nguyên đã xác định trữ lượng: thuế được tính sẽ dựa trên trữ lượng địa
chất (hoặc trữ lượng công nghiệp) của loại tài nguyên mà doanh nghiệp được
phép khai thác;
Loại tài nguyên chưa xác định trữ lượng hoặc xác định chưa chính xác trữ
lượng: Có thể sử dụng sản lượng khai thác làm cơ sở tính thuế trong khi chờ
các thăm dò địa chất về trữ lượng bổ sung.
Ngoài ra, thuế tài nguyên cũng phải được áp dụng từ từ từng bước để tránh làm
mất cân bằng kinh tế nên công bố thời hạn áp dụng.
1.3.2. Thuế và phí môi trường
Thuế và phí môi trường được sử dụng phổ biến tại các nước công nghiệp phát
triển (OECD) từ hơn hai thập kỉ qua và đã bước đầu được áp dụng có kết quả tại các
nước Châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Singapore, Philippin...
Thuế và phí môi trường là công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường vào sản
phẩm theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Thuế và phí môi trường nhằm
hai mục đích chủ yếu: Khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra
môi trường và tăng nguồn thu cho ngân sách. Hiện tại ở nhiều nước nguồn thu từ thuế
môi trường được sử dụng cho ngân sách chung của chính phủ như các nguồn thu từ thuế
khác; còn nguồn thu từ phí môi trường sẽ được dành riêng để chi cho các hoạt động bảo
vệ môi trường như để thu gom xử lý phế thải, nước thải, khắc phục ô nhiễm, hỗ trợ các
nạn nhân của ô nhiễm...
Trên thực tế thuế và phí được áp dụng dưới nhiều dạng khác nhau tùy thuộc vào
mục tiêu và đối tượng ô nhiễm như: thuế/phí đánh vào nguồn ô nhiễm, thuế/phí đánh vào
sản phẩm gây ô nhiễm, phí đánh vào người sử dụng.
Thuế/phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm là loại thuế/phí đánh vào các chất ô
nhiễm được thải vào môi trường nước (như BOD, COD, SS, kim loại nặng...), khí thải
(như SO2, CO2, NOx, CFCs...), đất (như rác thải, phân bón) hoặc gây tiếng ồn (như máy
bay, các loại động cơ...) ảnh hưởng tới môi trường xung quanh.
Thuế/phí đánh vào nguồn ô nhiễm được xác định trên cơ sở khối lượng và hàm
lượng (nồng độ) các chất gây ô nhiễm.
Thuế/phí đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm được áp dụng đối với những loại
sản phẩm gây tác hại tới môi trường một khi chúng được sử dụng trong quá trình sản
xuất, tiêu dùng hay hủy bỏ chúng. Loại phí được áp dụng đối với các loại sản phẩm có
chứa các chất độc hại cho môi trường như kim loại nặng, PVC, CFCs, xăng pha chì, thủy
ngân, các loại vỏ hộp, vỏ chai, giấy bao gói...
Phí đánh vào sản phẩm có thể được sử dụng thay cho phí gây ô nhiễm nếu vì lí do
nào đó, người ta không thể trực tiếp tính được phí đối với các chất gây ô nhiễm. Loại phí
này có thể đánh vào sản phẩm là nguyên liệu đầu vào, sản phẩm trung gian hay thành
phẩm, tùy theo từng trường hợp.
Phí đánh vào sản phẩm được sử dụng rộng rãi ở các nước OECD dưới dạng phụ
phí đánh vào giá xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, bột tẩy giặt...
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
8
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
Phí đánh vào người sử dụng là tiền phải trả do được sử dụng các hệ thống
dịch vụ công cộng xử lý và cải thiện chất lượng môi trường như phí vệ sinh thành phố,
phí thu gom và xử lý rác thải, nước thải, phí sử dụng nước sạch, phí sử dụng đường và
bãi đổ xe, phí sử dụng danh lam thắng cảnh, phí hành chính nhằm đóng góp tài chính cho
việc cấp phép, giám sát, quản lý hành chính đối với môi trường...
Các khoản thu từ phí này được dùng để góp phần thiết lập hệ thống kiểm soát,
xử lý ô nhiễm công cộng, bù đắp chi phí đảm bảo cho hoạt động của hệ thống đó. Đối
tượng thu là các tổ chức cá nhân trực tiếp sử dụng các hệ thống dịch vụ môi trường công
cộng.
Nói chung mức phí nước thải phải tương ứng với chi phí của loại dịch vụ môi
trường được sử dụng. Phí đánh vào người sử dụng nhằm mục đích hạn chế việc sử dụng
quá mức các dịch vụ môi trường.
Một số vấn đề áp dụng thuế/phí môi trường trong thực tế:
Nếu như trong mô hình lý thuyết chúng ta có thể dễ dàng thấy được vai trò của
thuế môi trường trong việc buộc các doanh nghiệp “nội vi hóa các chi phí ngoại ứng” thì
trong thực tế, việc này hoàn toàn không đơn giản.
Thuế môi trường có thể đánh lên một đơn vị sản phẩm gây ô nhiễm hoặc chính
đơn vị ô nhiễm đấy. Về mặt lý thuyết, thuế suất phải đúng bằng chi phí ngoại ứng cận
biên của ô nhiễm mà trong thực tế chi phí này lại không như nhau đối với các doanh
nghiệp và các vùng lãnh thổ khác nhau. Vì vậy, nhà nước phải đặt ra một mức thuế suất
chung, trên cơ sở đó các doanh nghiệp sẽ có những phản ứng cụ thể riêng biệt và thích
hợp.
1.3.3. Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường (cota ô nhiễm)
Giấy phép môi trường thường được áp dụng cho các tài nguyên môi trường khó có
thể qui định quyền sở hữu và vì thế thường được sử dụng bừa bãi như không khí, đại
dương. Công cụ này được áp dụng ở một số nước, ví dụ giấy phép (cota) khai thác cá ngừ
và sử dụng nước ở Australia, giấy phép ô nhiễm không khí ở Mỹ, Anh và một số thành
viên của OECD như Canada, Đức, Thụy Điển. Giấy phép xả thải có thể mua bán được là
khái niệm chỉ loại thị trường trong đó hàng hóa là các loại giấy phép thải khí và nước
thải, người bán là các đơn vị sở hữu giấy phép, người mua là các đơn vị cần giấy phép để
xả thải. Thị trường này vận hành theo quy luật cung – cầu như các thị trường thông
thường nhưng lại có đặc điểm gần giống với thị trường chứng khoán ở chỗ giao dịch các
chứng chỉ, các giấy phép mang một giá trị nhất định với giá cả được định đoạt theo chủ
quan, kì vọng và dự báo các bên tham gia giao dịch. Nguyên lý cơ bản của thị trường
giấy phép (hay thị trường môi trường) là việc đặt ra giới hạn tối đa về lượng khí thải hoặc
nước thải nào đó ở mức thống nhất với chỉ tiêu môi trường tại một vùng hay khu vực cụ
thể. Một khi tổng lượng thải cho phép thấp hơn lượng thải mà các đơn vị hoạt động trong
vùng muốn thải sẽ tạo nên sự khan hiếm về quyền được thải và làm cho nó có giá ở thị
trường.
Để thực hiện công cụ này trước hết nhà nước phải xác định mức sử dụng môi
trường chấp nhận được để trên cơ sở đó phát hành giấy phép. Việc này không đơn giản
và cũng đòi hỏi chi phí thực hiện khá lớn. Sau khi qui định mức thải tối đa trong vùng, có
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
9
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
thể phát không giấy phép cho doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn trên một số căn cứ
nào đó hoặc tổ chức bán đấu giá. Cách thực hiện được nhiều người tán thành nhất là phân
phối giấy phép dựa vào mức độ ô nhiễm hoặc hiện trạng đánh giá tác động môi trường
của từng doanh nghiệp, nói cách khác là thừa kế quyền được thải quá khứ. Khi đã có giấy
phép các doanh nghiệp tự do giao dịch, mua đi bán lại số giấy phép đó; giá giấy phép trên
thị trường sẽ điều tiết nhu cầu trong phạm vi tổng hạn mức.
Ưu điểm đáng kể nhất của loại công cụ này là sự kết hợp giữa tín hiệu giá cả và
hạn mức ô nhiễm. So với các loại thuế môi trường hay phí ô nhiễm thị trường giấy phép
mang tính chắc chắn, đảm bảo hơn về kết quả đạt mục tiêu môi trường vì dù giao dịch
mua bán như thế nào thì tổng lượng giấy phép vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát ở số
phát hành ban đầu. Mặt khác, công cụ giấy phép linh hoạt ở chỗ nó cho phép các doanh
nghiệp lựa chọn các phương án mua thêm giấy phép để tiếp tục thải hay tìm cách cải
thiện hiện trạng, giảm thải xuống mức cho phép. Hơn nữa, quyền được bán giấy phép với
giá được xác định bởi cầu của thị trường còn tạo ra động cơ khuyến khích các doanh
nghiệp giảm thải nhiều hơn để có thể bán các giấy phép thừa ra đó. Đây là xuất phát điểm
cho các cải tiến về công nghệ, kỹ thuật có lợi cho môi trường.
Các khó khăn chính cho việc thực hiện côta ô nhiễm là:
+ Để xác định chính xác giá trị côta ô nhiễm và cấp côta cho một khu vực, một lưu
vực hay một vùng cần phải có các nghiên cứu về khả năng tự làm sạch của môi trường.
Điều này thường đòi hỏi nhiều kinh phí và kinh nghiệm chuyên môn cao;
+ Hoạt động phát triển kinh tế và chất lượng môi trường khu vực liên tục thay đổi
theo thời gian, do vậy các giá trị của côta ô nhiễm cũng rất dễ thay đổi trước sức ép nói
trên. Hiện tại chúng ta xác định các mức côta ô nhiễm là không nguy hiểm đối với môi
trường, nhưng trong tương lai điều đó không thể chấp nhận được. Vì vậy, cần nhiều công
sức để điều chỉnh côta dẫn đến chỗ các giải pháp mua hoặc bán côta rất khó thực hiện
hoặc hiệu quả thực tế nhỏ;
+ Hoạt động mua và bán côta chỉ có thể diễn ra một cách bình thường trong nền
kinh tế mở, hoạt động theo cơ chế thị trường, với một hệ thống pháp lý hoàn thiện về
quyền và nghĩa vụ cũng như khả năng quản lý môi trường tốt. Trong trường hợp khác đi,
việc trao đổi mua bán chỉ còn là hình thức hoặc kém hiệu lực, do đó có gian lận trong
việc xác định côta và kiểm soát ô nhiễm.
1.3.4. Hệ thống đặt cọc hoàn trả
Đặt cọc – hoàn trả được sử dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường bằng cách
quy định các đối tượng tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường phải
trả một khoản tiền (đặt cọc) khi mua hàng, nhằm đảm bảo cam kết sau khi tiêu dùng sẽ
đem sản phẩm đó (hoặc phần còn lại của sản phẩm đó) trả lại cho các đơn vị thu gom phế
thải hoặc tới những địa điểm đã quy định để tái chế, tái sử dụng hoặc tiêu hủy theo cách
an toàn đối với môi trường. Nếu thực hiện đúng người tiêu dùng sẽ nhận lại khoản đặt
cọc do các tổ chức thu gom hoàn trả lại. Mục đích của hệ thống đặt cọc – hoàn trả là thu
gom những thứ mà người tiêu thụ đã dùng vào một trung tâm để tái chế hoặc tái sử dụng
một cách an toàn đối với môi trường.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
10
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
Đặt cọc – hoàn trả được coi là một trong những ứng cử viên sáng giá cho các
chính sách nhằm giúp nền kinh tế thoát khỏi chu trình sản xuất tuyến tính (khai khoáng
→ nguyên liệu thô →sản phẩm→phế thải) và hướng tới chu trình tuần hoàn trong đó các
tài nguyên được tái chế, tái sử dụng tới mức tối đa có thể được.
Phạm vi sử dụng của hệ thống đặt cọc – hoàn trả bao gồm:
- Các sản phẩm mà khi sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường nhưng có
thể tái chế hoặc tái sử dụng;
- Các sản phẩm làm tăng lượng chất thải, cần các bãi thải có quy mô lớn hoặc tốn
nhiều chi phí tiêu hủy;
- Các sản phẩm chứa chất độc, gây khó khăn đặc biệt cho việc xử lý; nếu tiêu hủy
không đúng cách sẽ gây nguy cơ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường và sức khỏe
con người.
Hệ thống đặt cọc – hoàn trả tỏ ra đặc biệt thích hợp với việc quản lý chất thải rắn.
Các quốc gia thuộc tổ chức OECD đã áp dụng khá thành công hệ thống đặt cọc – hoàn trả
đối với các sản phẩm đồ uống, bia, rượu (đựng trong vỏ chai nhựa hoặc thủy tinh) mang
lại hiệu quả cao cho việc thu gom các phế thải. Hiện nay các nước này đã và đang mở
rộng việc áp dụng hệ thống đặt cọc – hoàn trả sang các lĩnh vực khác như vỏ tàu, ô tô cũ,
dầu nhớt, ắc quy có chứa chì, thủy ngân, Cd, vỏ chai đựng thuốc trừ sâu, các đồ điện gia
dụng như máy thu hình, tủ lạnh, điều hòa không khí...
Nhiều nước trong khu vực Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan cũng đã có thành
công nhất định trong việc áo dụng hệ thống đặt cọc – hoàn trả đối với vỏ lon, vỏ chai
nhựa, thủy tinh, nhôm, sắt, thép, phế liệu, ắc quy, xăm lốp, dầu nhớt, giấy loại...
Theo kinh nghiệm của các nước, mức đặt cọc là một trong những yếu tố quan
trọng tác động đến hiệu quả của hệ thống đặt cọc – hoàn trả. Các mức đặt cọc thấp sẽ
không tạo ra động lực kinh tế đủ mạnh cho việc thu gom và tái chế phế thải. Ngoài ra các
yếu tố như nhận thức và ý thức của người sản xuất và tiêu dùng đối với vấn đề thu gom
phế thải, khả năng tổ chức và quản lý hệ thống thu gom cũng như vấn đề công nghệ tái
chế đều có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hoạt động và thành công của hệ thống.
1.3.5. Ký quỹ môi trường
Ký quỹ môi trường là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế có tiềm
năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường. Nguyên lý hoạt động của hệ thống ký quỹ môi
trường cũng tương tự như hệ thống đặt cọc – hoàn trả. Nội dung chính của ký quỹ môi
trường là yêu cầu các doanh nghiệp các cơ sở sản xuất kinh doanh trước khi tiến hành
hoạt động đầu tư phải ký gửi một khoản tiền (hoặc kim loại quý, đá quý, hoặc các giấy tờ
có giá trị như tiền) tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm sự cam kết về thực
hiện các biện pháp để hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Mục đích chính của việc ký quỹ là làm cho người có khả năng gây ô nhiễm, suy
thoái môi trường luôn nhận thức được trách nhiệm của họ từ đó tìm ra các biện pháp
thích hợp ngăn ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Trong quá trình thực hiện đầu tư và sản xuất, nếu các doanh nghiệp/cơ sở có các
biện pháp chủ động ngăn chặn khắc phục không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
11
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
trường, hoàn nguyên hiện trạng môi trường đúng như cam kết thì họ sẽ được nhận lại số
tiền đã ký quỹ đó. Ngược lại nếu bên ký quỹ không thực hiện đúng cam kết hoặc phá sản
thì số tiền đã ký quỹ sẽ được rút ra từ tài khoản ngân hàng/tổ chức tín dụng để chi cho
công tác khắc phục sự cố, suy thoái môi trường.
Ký quỹ môi trường tạo ra lợi ích cho Nhà nước vì không phải đầu tư kinh phí khắc
phục môi trường từ ngân sách. Ký quỹ môi trường cũng khuyến khích các doanh nghiệp
tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường. Các doanh nghiệp sẽ có lợi ích do lấy lại
được vốn khi không để xảy ra ô nhiễm hoặc suy thoái môi trường.
Với mục đích và nguyên lý hoạt động như vậy, rõ ràng số tiền phải ký quỹ phải
lớn hơn hoặc xấp xỉ kinh phí cần thiết để khắc phục môi trường nếu doanh nghiệp gây ô
nhiễm và suy thoái môi trường. Nếu số tiền ký quỹ quá nhỏ so với chi phí bảo vệ môi
trường, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng từ bỏ nhận lại số tiền ký quỹ đó và không thực
hiện các cam kết bảo vệ môi trường của mình.
Công cụ ký quỹ môi trường đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt
với các hoạt động công nghiệp như khai thác mỏ, khai thác rừng hoặc đại dương.
1.3.6. Trợ cấp môi trường
Trợ cấp môi trường là công cụ kinh tế quan trọng được sử dụng ở nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt các nước thuộc tổ chức OECD. Trợ cấp môi trường có thể dưới các
dạng sau:
-
Trợ cấp không hoàn lại
-
Các khoản cho vay ưu đãi
-
Cho phép khấu hao nhanh
-
Ưu đãi thuế (miễn, giảm thuế)
Chức năng chính của trợ cấp môi trường là giúp đỡ các ngành công – nông
nghiệp các ngành khác khắc phục ô nhiễm trong điều kiện khi tình trạng ô nhiễm môi
trường quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng được đối
với việc xử lý ô nhiễm. Trợ cấp cũng còn nhằm khuyến khích các cơ quan nghiên cứu và
triển khai các công nghệ sản xuất có lợi cho môi trường hoặc các công nghệ xử lý ô
nhiễm.
Tuy nhiên, trợ cấp có thể gây ra sự không hiệu quả. Các nhà sản xuất có thể
đầu tư quá mức vào kiểm soát và xử lý ô nhiễm (làm giảm ô nhiễm nhiều hơn so với mức
tối ưu cũng là không hiệu quả).
Trường hợp ngược lại, trợ cấp không được hoạch toán toàn bộ vào chi phí
giảm ô nhiễm mà một phần được dùng để hạ thấp chi phí cá nhân, làm tăng lợi nhuận.
Trợ cấp môi trường chỉ ra biện pháp tạm thời, nếu vận dụng không thích hợp
hoặc kéo dài sẽ dẫn đến hiệu quả kinh tế vì trợ cấp đi ngược lại với nguyên tắc “người
gây ô nhiễm phải trả tiền”, nó tạo ra sự thay đổi số công ty (vào – ra tự do đối với ngành
công nghiệp), thay đổi mức hoạt động của ngành công nghiệp mà mục đích giảm ô nhiễm
lại không đạt được.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
12
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
Vì vậy, trợ cấp môi trường chỉ có thể thực hiện trong một thời gian cố định với
một chương trình có hoạch định và kiểm soát rõ ràng, thường xuyên.
1.3.7. Nhãn sinh thái
Nhãn sinh thái là danh hiệu của các tổ chức môi trường dành cho các sản phẩm có
sử dụng những công nghệ hoặc giải pháp thân thiện với môi trường, nhằm cung cấp
thông tin khuyến cáo người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa vì mục tiêu bảo vệ môi trường.
Nhãn sinh thái do một cơ quan môi trường quốc gia hoặc một hiệp hội các nhà sản
xuất loại sản phẩm (nhãn sinh thái ngành dệt của Đức), quản lý (cấp và thu hồi nhãn)
thông thường là một cơ quan quản lý môi trường.
Nhãn sinh thái đánh vào nhà sản xuất thông qua người tiêu thụ và hệ thống tiêu
thụ, bằng giá của sản phẩm và số lượng sản phẩm tiêu thụ.
- Mục đích:
Mục đích của nhãn sinh thái là đẩy mạnh việc tiêu dùng và sản xuất nhiều sản
phẩm về mặt môi trường hơn, bằng việc cung cấp cho người tiêu dùng những thông tin
về ảnh hưởng môi trường của sản phẩm. Trong các quan hệ thương mại quốc tế, nhãn
sinh thái tác động đến vấn đề cạnh tranh xuất khẩu, vượt qua các trở ngại thương mại.
Nhà nước xác nhận các sản phẩm thân thiện với môi trường. Khẳng định uy tín
sản phẩm và của nhà sản xuất.
Những sản phẩm được dán nhãn:
+ Sản phẩm tái chế từ phế thải
+ Sản phẩm thay thế cho các sản phẩm xấu tới môi trường
+ Sản phẩm có tác động tích cực đối với môi trường trong sản xuất và tiêu
dùng.
1.3.8. Quỹ môi trường
Quỹ môi trường là một thể chế hoặc một cơ chế được thiết kế để nhận tài trợ vốn
từ các nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn này để hỗ trợ quá trình thực hiện
các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường.
Nguồn thu cho quỹ môi trường có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau
như:
- Phí và lệ phí môi trường
- Đóng góp tự nguyện của các cá nhân và doanh nghiệp
- Tài trợ bằng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức trong nước, chính quyền địa
phương và chính phủ trung ương
- Đóng góp của các tổ chức, các nhà tài trợ quốc tế
- Tiền lãi và các khoản lợi khác nhau thu được từ hoạt động của quỹ
- Tiền xử phạt hành chính do vi phạm quy định về bảo vệ môi trường
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
13
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
- Tiền thu từ các hoạt động như văn hóa, thể thao, từ thiện, xổ số, phát hành trái
phiếu...
Hỗ trợ do quỹ môi trường cung cấp thường dưới hình thức hỗ trợ tài chính với các
điều khoản ưu đãi chẳng hạn như các khoản trợ cấp không hoàn lại, các khoản vay vốn
dài hạn với lãi suất thấp hơn lãi suất hiện hành trên thị trường để khuyến khích các dự án
đầu tư bảo vệ môi trường, hỗ trợ các dự án nghiên cứu triển khai, đào tạo truyền thông
môi trường, các dự án kiểm soát và xử lý ô nhiễm của các doanh nghiệp. Quỹ môi trường
thậm chí còn hỗ trợ tiền cho việc điều trị của các nạn nhân ô nhiễm.
Tóm lại, sử dụng các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường là biện pháp các
nhà kinh tế cho là hiệu quả cao xét từ góc độ chi phí thực hiện. Đồng thời do đặc tính linh
hoạt của bản thân công cụ, vận hành trên cơ sở sử dụng sức mạnh của thị trường và
nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả, công cụ kinh tế có khả năng khắc phục những
thất bại của thị trường, có hiệu quả trong việc thay đổi hành vi gây ô nhiễm, khuyến
khích sự năng động và tự giác của người gây ô nhiễm. Thực tế việc sử dụng công cụ kinh
tế ở các nước trên thế giới cho thấy những tác động tích cực như các hành vi môi trường
được điều chỉnh một cách tự giác, các chi phí xã hội cho công tác bảo vệ môi trường có
hiệu quả hơn, khuyến khích việc nghiên cứu triển khai kỹ thuật công nghệ có lợi cho bảo
vệ môi trường, gia tăng nguồn thu phục vụ cho công tác bảo vệ môi trường và cho ngân
sách nhà nước, duy trì tốt các giá trị môi trường của quốc gia.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
14
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
CHƯƠNG II.
CÁC CÔNG CỤ MỆNH LỆNH – KIỂM SOÁT VÀ KINH TẾ TRONG
QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TẠI VIỆT NAM
2.1.
Công cụ CAC trong quản lý môi trường tại Việt Nam
2.1.1. Tình hình áp dụng công cụ mệnh lệnh – kiểm soát ở Việt Nam
Ở nước ta cơ sở pháp lý của công tác quản lý môi trường được thể hiện trong luật
môi trường 2005, Nghị định 175/CP và các văn bản khác. Các văn bản này được trình
bày trong 2 tập sách: “Các qui định pháp luật về môi trường Tập 1-1995” và “ Các qui
định pháp luật về môi trường Tập 2-1997” cùng nhiều văn bản liên quan khác như : “Tiêu
chuẩn môi trường Việt Nam, qui chuẩn môi trường Việt Nam.v.v.”. Tuy nhiên, ở nước ta
một số văn bản pháp lý cần thiết cho công tác quản lý môi trường chưa có hoặc chưa
được ban hành: tiêu chuẩn và qui định về môi trường cho các lĩnh vực sản xuất và hàng
hóa cụ thể…Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn còn thiếu, nhận
thức của con người về ô nhiễm môi trường còn hạn chế…
2.1.2. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả công cụ mệnh lệnh – kiểm soát
- Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen, nếp sống và các
phong trào quần chúng bảo vệ môi trường. Cụ thể như: Đưa chương trình bảo vệ môi
trường vào chương trình giáo dục của tất cả các hệ thống giáo dục quốc dân, tạo điều
kiện cho nhân dân nhận được các thông tin về môi trường, động viên nhân dân thực hiện
nếp sống sạch, hợp vệ sinh.
- Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, ban hành các chính
sách phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường, nghiêm chỉnh thi hành luật môi
trường. Giải pháp này nhằm tăng cường hiệu lực của công tác quản lý môi trường bằng
công cụ pháp luật.
- Tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường từ trung ương đến
địa phương. Giải pháp đề ra nhiệm vụ cụ thể như: Nâng cấp cơ quan quản lý môi trường
cấp trung ương từ cục thành tổng cục, tăng cường năng lực quản lý môi trường ở địa
phương bằng cách tạo ra biên chế cán bộ quản lý môi trường ở các cấp quận, huyện.
- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và công nghệ, đào tạo cán bộ, chuyên gia về
lĩnh vực môi trường. Giải pháp đặt ra 4 nhiệm vụ: xây dựng hệ thống quan trắc, đánh giá
và dự báo môi trường toàn quốc; hình thành hệ thống cơ sở nghiên cứu về khoa học và
công nghệ môi trường ; tổ chức đào tạo cán bộ và chuyên gia môi trường ở nhiều mức độ
và nhiều ngành nghề ; hình thành ngành công nghệ môi trường phù hợp với điều kiện
Việt Nam.
- Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường bằng cách tham gia các chương
trình, hợp tác quốc tế và khu vực, hợp tác song phương với các nước về bảo vệ môi
trường.
- Chủ động phòng chống ô nhiễm và sự cố môi trường, khắc phục tình trạng suy
thoái môi trường.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
15
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
2.2.
Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường tại Việt Nam
Áp dụng Công cụ kinh tế trong quản lý môi trường là cách tiếp cận đúng đắn
nhằm hạn chế ô nhiễm và suy thoái môi trường tại Việt Nam. Việc áp dụng công cụ kinh
tế trong quản lý môi trường đã được Chính phủ quan tâm. Một số công cụ kinh tế đã
được triển khai áp dụng ở các quy mô khác nhau. Bước đầu, các công cụ kinh tế đã có tác
dụng tích cực giúp hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường. Tuy nhiên, do chưa có nghiên
cứu đầy đủ về các công cụ kinh tế trước khi ban hành nên quá trình triển khai các công cụ
này còn gặp nhiều khó khăn và hiệu quả thực thi chưa cao. Ngoài ra, năng lực nghiên cứu
và thực thi các công cụ kinh tế còn hạn chế. Còn nhiều công cụ kinh tế chưa được áp
dụng.
2.2.1 Tình hình áp dụng công cụ kinh tế ở Việt Nam
2.2.1.1. Thuế tài nguyên
Pháp lệnh Thuế Tài nguyên ra đời ngày 30/3/1990 và được sửa đổi năm 1998.
Ngày 25/11/2009, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế tài nguyên. Trong Luật thuế Tài
nguyên, các nhóm đối tượng chịu thuế có liên quan đến ĐDSH bao gồm: các sản phẩm
của rừng tự nhiên (thực vật và các loại sản phẩm khác của rừng tự nhiên trừ động vật);
hải sản tự nhiên (gồm các loại động vật và thực vật ở biển) và yến sào thiên nhiên. Thống
kê cho thấy, số tiền thu thuế tài nguyên theo Pháp lệnh Thuế Tài nguyên bình quân trong
giai đoạn 2005 - 2008, mỗi năm trên 23.200 tỷ đồng, chiếm khoảng 15% tổng thu ngân
sách nhà nước.
2.2.1.2. Thuế và phí môi trường
Hiện tại ở Việt Nam, loại thuế/phí đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi trường
đang được áp dụng dưới hình thức phí BVMT đối với nước thải, đối với chất thải rắn và
khai thác khoáng sản.
Phí BVMT đối với nước thải được quy định tại Nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày
13/6/2003. Tuy nhiên, sau hơn 6 năm thực hiện, phí BVMT đối với nước thải vẫn còn
bộc lộ nhiều bất cập. Các cơ quan quản lý còn lúng túng trong cách thu và tính phí. Các
doanh nghiệp còn tìm cách trốn tránh và nợ phí. Kết quả là tỷ lệ thu phí nước thải công
nghiệp còn thấp. Phí BVMT đối với chất thải rắn thông thường và chất thải rắn nguy hại
được quy định trong nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007. Ngoài ra, phí vệ sinh
được áp dụng 2003 theo quy định tại Thông tư số 71/2003/TT-BTC ngày 30/7/2003 của
Bộ Tài chính. Tuy nhiên, khoản thu từ các khoản phí này không đủ bù đắp chi phí thu
gom, xử lý chất thải rắn. Ngoài ra, các văn bản hiện tại không quy định rõ trách nhiệm
thu phí của các đơn vị, tổ chức nên việc thu phí ở các địa phương còn gặp nhiều khó
khăn.
Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được thực hiện theo Nghị định số
63/2008/NĐ-CP ngày 13/5/2008 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thu phí còn gặp nhiều
khó khăn do đối tượng phải nộp phí chưa tự giác thực hiện nghĩa vụ này. Còn tình trạng
doanh nghiệp kê khai sản lượng khai thác thấp hơn thực tế để giảm số phí phải nộp.
Ngoài ba loại phí thuộc nhóm thuế/phí Pigouvan nêu trên còn có Luật Thuế
BVMT mới được thông qua và có hiệu lực từ tháng 7/2011. Đây là quy định thuế đánh
vào nguyên liệu/sản phẩm, bao gồm 8 nhóm sản phẩm: xăng dầu, than, môi chất làm sạch
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
16
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
chứa HCFC, túi nhựa xốp (túi nilon) và nhóm hạn chế sử dụng như: thuốc bảo vệ thực
vật, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ mối và thuốc khử trùng kho. Một điểm đáng lưu ý là thuế
BVMT được định nghĩa là “loại thuế giãn thu, thu vào một số sản phẩm, hàng hóa gây
tác động xấu đến môi trường”. Định nghĩa này là định nghĩa hẹp của thuế BVMT vì mới
đề cập đến loại thuế nguyên liệu/sản phẩm chứ chưa bao hàm loại thuế đánh vào đơn vị ô
nhiễm xả thải ra môi trường. Ưu điểm của việc áp dụng thuế BVMT đối với nguyên
liệu/sản phẩm là dễ tính toán và dễ áp dụng. Nhược điểm, loại thuế này chỉ khuyến khích
gây ô nhiễm mà không khuyến khích đầu tư xử lý ô nhiễm trong quá trình sản xuất ra sản
phẩm đó. Vì vậy, tác động giảm ô nhiễm của loại thuế này chỉ là tác động gián tiếp
(thông qua việc sản xuất ít đi) chứ không phải tác động trực tiếp vào quá trình phát thải ô
nhiễm. Đối với những hàng hóa thuộc loại xa xỉ thì loại thuế này có tác dụng nhiều trong
việc hạn chế ô nhiễm (thông qua hạn chế tiêu dùng/sản xuất) nhưng với hàng hóa thiết
yếu thì loại thuế này ít có tác dụng giảm ô nhiễm.
2.2.1.3. Một số công cụ kinh tế khác
Ký quỹ trong hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số 71/2008/QĐTTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Ký quỹ môi trường đã đem lại những kết
quả bước đầu đáng khích lệ trong công tác kiểm soát ô nhiễm đối với các hoạt động khai
thác khoáng sản. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ này trên thực tế chỉ mới dừng lại các
dự án quy mô nhỏ hoặc còn ở giai đoạn thử nghiệm do công thức dự toán chi phí cải tạo,
phục hồi môi trường, chưa cụ thể, khó thực hiện.
Cơ chế hỗ trợ tài chính cho các các hoạt động BVMT được thực hiện theo quy
định tại Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/1/2009. Ngoài ra, thuế xuất nhập khẩu,
thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có những điều khoản ưu đãi về thuế cho các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, thiết bị và công nghệ môi trường. Mặc
dù đã có cơ chế hỗ trợ tài chính song chưa có nhiều doanh nghiệp tham gia các hoạt động
này vì nhu cầu đầu tư cho môi trường chưa cao. Nói cách khác, "cầu" cho hoạt động
BVMT chưa đủ cao để kích thích các hoạt động "cung".
Một cơ chế khác là Quỹ Môi trường đã được hình thành nhằm hỗ trợ vốn cho các
doanh nghiệp đầu tư BVMT như: Quỹ Môi trường cấp quốc gia (Quỹ BVMT Việt Nam,
Quỹ Bảo tồn Việt Nam), Quỹ BVMT các tỉnh/TP, Quỹ Môi trường ngành. Sau một thời
gian hoạt động, các quỹ môi trường đã góp phần đưa nguồn vốn của Nhà nước để thực
hiện dự án môi trường hiệu quả; bước đầu huy động được một phần nguồn lực từ trong
và ngoài nước cho các hoạt động BVMT. Tuy nhiên các quỹ này chưa phát huy hết hiệu
quả do nguồn vốn chưa đủ, các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin về các thủ tục vay
cũng như chưa có áp lực cần vay vốn đầu tư BVMT.
Chương trình cấp Nhãn sinh thái đã được Bộ TN&MT phê duyệt năm 2009 nhằm
khuyến khích các mẫu hình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Đặt cọc hoàn trả, mặc dù chưa có quy định của nhà nước nhưng cũng đã được áp dụng có
tính tự phát ở một số lĩnh vực như đặt cọc vỏ chai.
Có thể nói một số lượng đáng kể các Công cụ kinh tế trong quản lý ô nhiễm đã
được triển khai ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả của các công cụ này còn chưa được như
mong đợi do các quy định còn bất cập, năng lực thực hiện còn hạn chế đặc biệt là các chế
tài chưa đủ mạnh để tạo động lực tuân thủ các quy định này.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
17
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
2.2.1.4. Một số công cụ có thể áp dụng trong thời gian tới
Trong thời gian tới có thể nghiên cứu áp dụng một số Công cụ kinh tế khác sau
đây.
Giấy phép phát thải có thể chuyển nhượng (tradable permits): kiểm soát mức độ
phát thải qua việc xác định tổng số giấy phép hoặc hạn ngạch thích ứng với khả năng tiêu
huỷ chất thải của môi trường. Các chủ nguồn thải có thể trao đổi hạn ngạch phát thải sao
cho chi phí phát thải ở mức thấp nhất. Công cụ này có tiềm năng áp dụng cho những khu
vực các nguồn ô nhiễm và phạm vi tác động tương đối dễ xác định, ví dụ như các khu
công nghiệp.
Phí BVMT với khí thải: tương tự như phí BVMT đối với nước thải, loại phí này
đánh vào các đơn vị gây ô nhiễm trong khí thải như bụi, NOx, SOx, vì vậy tạo động lực
làm giảm phát thải các chất ô nhiễm vào không khí. Cần lưu ý là loại phí này sẽ tương
đối khó áp dụng vì quan trắc các thông số ô nhiễm là công việc phức tạp. Ngoài ra, cũng
không dễ xác định đối tượng phát thải. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy việc xác định phí
khí thải căn cứ nguyên liệu đầu vào thường thuận lợi hơn phương án xác định dựa vào
việc đo kiểm đầu ra.
Bồi thường thiệt hại môi trường: trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường tạo
động lực để đối tượng gây ô nhiễm điều chỉnh hành vi để phòng tránh việc phải chi trả
tiền bồi thường thiệt hại và trong một số trường hợp là trách nhiệm hình sự do hành vi ô
nhiễm gây thiệt hại môi trường nghiêm trọng. Hiện tại Bộ TN&MT đang thực hiện một
số nghiên cứu nhằm ban hành hướng dẫn cho công tác bồi thường thiệt hại môi trường.
Phí có thể khuyến khích việc tiêu dùng bền vững và cung cấp nguồn tài chính cho
các hoạt động bảo tồn. Các loại phí phù hợp phụ thuộc vào bản chất của khu vực cần bảo
tồn. Đối với các khu bảo tồn, phí có thể dưới hình thức phí vào cửa. Để bảo vệ ĐDSH
trong nông nghiệp, có thể áp dụng phí tính trên đơn vị thuốc trừ sâu và phân bón.
Hỗ trợ tín dụng là những khoản vay ưu đối với mức lãi suất thấp để hỗ trợ các hoạt
động bảo tồn của cá nhân và cộng đồng, có thể áp dụng cho du lịch sinh thái, sản xuất
nông sản hữu cơ, khai thác bền vững rừng, bảo vệ các giống loài có nguy cơ tuyệt chủng.
2.2.2. Đề xuất biện pháp nâng cao hiệu quả công cụ kinh tế
Theo kinh nghiệm của các nước đi trước, để có thể áp dụng thành công các công
cụ kinh tế vào quản lý môi trường, cần xem xét cân nhắc các điều kiện dưới đây:
- Những thông tin cơ bản có liên quan như lợi ích – chi phí của các phương án
chính sách môi trường, các chỉ tiêu biến đổi chất lượng môi trường và phúc lợi xã hội,
khả năng thể chế tài chính và kỹ thuật...cần được cung cấp đầy đủ cho nhà lập chính sách,
các cơ quan chức năng, các đối tượng như doanh nghiệp, người gây ô nhiễm.
- Thể chế pháp lý đủ mạnh, có hiệu lực cưỡng chế về trách nhiệm pháp lý; đặc biệt
quyền tài sản đối với các tài nguyên môi trường và cơ chế sở hữu nguồn lực cần được xác
định rõ và có hiệu lực thực tế.
- Sự vận hành của thị trường cạnh tranh với số lượng lớn người mua – người bán
và có sự chênh lệch lớn trong chi phí giảm ô nhiễm của các đối tượng gây ô nhiễm. Như
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
18
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
vậy, tại các khu vực công nghiệp và đô thị phát triển, việc áp dụng công cụ kinh tế sẽ khả
thi hơn so với các vùng nông thôn.
- Năng lượng quản lý hành chính bao gồm: năng lực của các cơ quan trong việc
thiết kế và thực hiện công cụ, giám sát việc thực hiện, cưỡng chế các điều kiện áp dụng
công cụ, giám sát việc thực hiện, cưỡng chế các điều kiện áp dụng công cụ và điều chỉnh
các công cụ cho phù hợp với điều kiện thực tế. Để đảm bảo nâng cao năng lực quản lý
hành chính, rõ ràng cần có các nguồn tài chính cho việc nghiên cứu, đào tạo nhân lực và
trang bị hệ thống giám sát thực hiện.
- Ý thức chính trị: Việc áp dụng công cụ kinh tế đòi hỏi sự chấp nhận của cơ quan
chức năng, của các đối tượng gây ô nhiễm và của các tổ chức phi lợi nhuận đại diện cho
các nạn nhân của sự xuống cấp môi trường. Trong thực tế các cơ quan đã quen với công
cụ mệnh lệnh – kiểm soát cũ và không muốn thay đổi đòi hỏi những kỹ năng và công
nghệ mới; các đối tượng gây ô nhiễm cũng có thể phản đối khi cho rằng việc áp dụng các
công cụ kinh tế sẽ tạo thêm những khoản chi phí cho họ.
Các điều kiện cần cho việc áp dụng công cụ kinh tế nêu trên thường khó định
lượng. Trong thực tế, không phải bao giờ và ở đâu các điều kiện đều được thỏa mãn. Mặt
khác, không phải tất cả các công cụ kinh tế cần phải có đủ điều kiện trên mới áp dụng
được; một số loại như thuế, phí, trợ cấp hệ thống đặt cọc – hoàn trả có thể được áp dụng
từng bước trong những điều kiện tương đối “dễ dàng” hơn.
Kinh nghiệm của các nước OECD và các nước Đông Á khác đã chỉ ra rằng, quyết
định sử dụng công cụ kinh tế không đồng nghĩa với việc ưu tiên các công cụ này mà bỏ
đi các công cụ mệnh lệnh – kiểm soát truyền thống. Thông thường công cụ kinh tế được
xây dựng trên cơ sở của các quy định cũ, trong đó các một hệ thống hỗn hợp được tạo ra
nhằm duy trì những yếu tố tích cực của công cụ mệnh lệnh – kiểm soát, đồng thời thông
qua công cụ kinh tế, phát huy linh hoạt, giảm chi phí thực hiện, khuyến khích những
bước phát triển bền vững trong công tác bảo vệ môi trường.
Đối với Việt Nam hiện nay để nâng cao hiệu quả công cụ kinh tế trước tiên cần:
- Nâng cao năng lực nghiên cứu về áp dụng công cụ kinh tế thông qua đào tạo và
hợp tác quốc tế; Rà soát các công cụ kinh tế đang áp dụng để điều chỉnh, bổ sung những
vướng mắc, bất cập; Nghiên cứu và triển khai áp dụng một số các Công cụ kinh tế mới.
Nên áp dụng các công cụ này trong phạm vi thí điểm nhằm học hỏi kinh nghiệm trước
khi mở rộng áp dụng ở qui mô lớn. Đặc biệt là các công cụ kinh tế nên được thiết kế theo
hướng đơn giản, dễ áp dụng để phù hợp với bối cảnh thực tiễn hiện nay; Tiếp tục đẩy
mạnh thanh kiểm tra, tuyên tuyền, giáo dục nhằm tạo tiền đề cho Công cụ kinh tế phát
huy hiệu quả.
- Một điểm cần lưu ý nữa để công cụ kinh tế phát huy tác dụng thì cần thực hiện
tốt công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cũng như tuyên tuyền giáo dục nhằm tạo
động lực tuân thủ các qui định về môi trường, trong đó có các quy định về công cụ kinh
tế.
- Kết hợp giữa công cụ kinh tế với công cụ mệnh lệnh – kiểm soát truyền thống.
Thông thường công cụ kinh tế được xây dựng trên cơ sở của các quy định cũ, trong đó
các một hệ thống hỗn hợp được tạo ra nhằm duy trì những yếu tố tích cực của công cụ
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
19
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
mệnh lệnh – kiểm soát, đồng thời thông qua công cụ kinh tế, phát huy linh hoạt, giảm chi
phí thực hiện, khuyến khích những bước phát triển bền vững trong công tác bảo vệ môi
trường.
2.2.3. Bốn nguyên tắc sử dụng công cụ kinh tế để bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Việt Nam đang phải đối diện với nhiều vấn đề bức xúc về môi trường như hiện
nay, cả về ô nhiễm không khí, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất bởi rác thải công
nghiệp, bệnh viện và rác thải sinh hoạt đô thị khác… Thực trạng đó đòi hỏi Việt Nam
phải tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế để bảo vệ và cải thiện môi trường như một
yêu cầu bức xúc, trong đó, việc sử dụng các công cụ kinh tế để bảo vệ môi trường phải
được quán triệt 4 nguyên tắc chủ yếu:
Thứ nhất , trên lý thuyết và thực tế, việc tăng cường sử dụng các công cụ kinh tế
để bảo vệ môi trường, về thực chất là việc thực hiện các khuyến khích và trừng phạt tài
chính để tăng cường năng lực, động lực và sự tự nguyện, tự giác thực hiện các nghĩa vụ,
các hoạt động có lợi hơn cho môi trường, cũng như bảo đảm phân phối công bằng các lợi
ích thụ hưởng và các chi phí phải gánh chịu cho mục đích bảo vệ môi trường. Trước hết,
cần bảo đảm yêu cầu: Người sản sinh ra phế thải và các tác nhân gây ô nhiễm môi trường
sẽ phải trực tiếp chịu trách nhiệm tài chính về hậu quả do mình gây ra, theo mức lũy tiến
tương ứng với sự gia tăng các hậu quả đó; còn người được hưởng lợi từ việc sử dụng
những sản phẩm và dịch vụ bảo vệ môi trường thì phải trả tiền, cũng với mức luỹ
tiến theo mức thụ hưởng. Đồng thời các biện pháp tài chính đưa ra cũng phải hạn chế
tiêu dùng tài nguyên không có khả năng tái tạo, tăng áp dụng công nghệ cao không có
chất thải hoặc sử dụng nguyên liệu tái chế, nguyên nhiên liệu không gây ô nhiễm
(chẳng hạn dùng xăng không chì thay cho xăng pha chì).
Thứ hai, mức độ của các chế tài tài chính phải mang tính cụ thể và thực tế cao,
nằm trong sức chịu đựng của người dân và doanh nghiệp, đồng thời người dân và doanh
nghiệp, đồng thời phải được cân nhắc giữa sức chịu đựng của môi trường với các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; cũng như phải tính đến tác động qua lại giữa môi
trường - tài nguyên thiên nhiên - kinh tế - dân số. Sẽ là không hợp lý khi mà các
chi phí môi trường áp đặt cho doanh nghiệp khiến giá thành sản phẩm (không bị cấm
hoặc hạn chế sản xuất - kinh doanh) của doanh nghiệp bị đội lên quá cao, doanh nghiệp
không bán được hàng và bị phá sản. Cũng sẽ rất bất cập và không khả thi về môi trường
(như việc đóng cửa rừng hoặc di dời những người dân khỏi chỗ ở cũ với nghề nghiệp
quen thuộc trong khuôn khổ những dự án bảo vệ môi trường) cắt đứt nguồn sống tối
thiểu, duy nhất của người dân, trong khi Nhà nước hoặc chủ đầu tư của dự án môi trường
không mở lối thoát thích hợp cho họ về sinh thái… Điều cần lưu ý là các công cụ tài
chính phải được sử dụng mềm dẻo, hợp lý nhằm hạn chế thấp nhất mặt trái của chúng
đến kìm hãm phát triển kinh tế và cả đến mục tiêu bảo vệ môi trường (như nếu đánh
thuế Gas quá cao sẽ khiến người tiêu dùng chuyển sang đun than, do đó làm tăng ô nhiễm
môi trường).
Thứ ba, ngày càng đa dạng hóa và sử dụng đồng bộ, hài hoà và linh hoạt các công
cụ kinh tế phù hợp đối tượng và mục tiêu cụ thể bảo vệ môi trường như đa dạng hóa các
công cụ tài chính được sử dụng cho mục tiêu bảo vệ môi trường, bao gồm: Các định chế
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
20
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
tài chính - tín dụng môi trường (quỹ môi trường, ngân hàng môi trường, các công
ty đầu tư môi trường…), thuế, phí và lệ phí tài nguyên, môi trường.
Ngoài ra, cần không ngừng cập nhật và sử dụng thích hợp những công cụ mới,
như tem, nhãn, chứng chỉ về môi trường để tạo lòng tin cho người tiêu dùng, làm tăng
trách nhiệm của doanh nghiệp, cũng như sự hấp dẫn, cạnh tranh của thương hiệu, sản
phẩm cả trên thị trường trong nước, lẫn quốc tế.
Chi phí của nhà nước và doanh nghiệp cho bảo vệ môi trường phải thường
xuyên tăng (thực tế cho thấy, để phát triển bền vững, mức chi cho nghiên cứu khoa học
- kỹ thuật - công nghệ, giáo dục và đào tạo, cải thiện môi trường của mỗi nước
thường phải đạt tối thiểu 1,5 - 2% GDP hàng năm, riêng chi cho bảo vệ môi trường ở cả
nước phát triển là 0,8-1,7% GDP). Nguồn vốn của các định chế tài chính - tín dụng môi
trường này được hình thành từ các nguồn khác nhau: ngân sách nhà nước, quyên góp,
ủng hộ tự nguyện, vốn viện trợ, vay thương mại, huy động từ xổ số, tín phiếu môi trường,
đặc biệt là từ các loại thuế và lệ phí môi trường.
Thứ tư , kết hợp chặt chẽ, hiệu quả việc sử dụng các công cụ kinh tế với các công
cụ khác nhằm đạt được những mục tiêu bảo vệ môi trường dài hạn, cũng như lựa chọn
thích hợp cho từng thời kỳ cụ thể như sau:
Một mặt, cần coi trọng việc rà soát điều chỉnh, thay thế, nâng cấp, bổ sung và hoàn
thiện các quy định pháp lý về bảo vệ môi trường, cụ thể hóa cho từng nhóm tác nhân,
hành vi gây ô nhiễm môi trường, cho từng loại ô nhiễm, cho từng đối tượng chấp hành cụ
thể trong quá trình thực hiện các hoạt động gây ô nhiễm và giám sát, bảo vệ môi trường.
Quy định rõ cả những tiêu thức, chỉ tiêu, định mức và định tính cho các vi phạm bảo vệ
môi trường và mức xử phạt tương ứng. Mặt khác, cần lồng ghép, gắn kết các nhiệm vụ và
mục tiêu môi trường trong các hoạt động xây dựng và triển khai quy hoạch, kế hoạch,
chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội cả cấp quốc gia lẫn địa phương.
Tăng cường xã hội hoá các hoạt động cung cấp dịch vụ công ích đô thị,
trước hết trong công tác vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch và thoát nước; xây
dựng, khai thác, quản lý các công viên cây xanh, chợ, bến xe và các trung tâm dịch vụ
khác… nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh, khắc phục sự quá tải, cải thiện dần chất lượng
các dịch vụ đô thị, trực tiếp góp phần bảo vệ môi trường. Cần khẩn trương xây dựng,
hoàn chỉnh và công khai hóa các quy định pháp lý cho sự tham gia của các thành phần
kinh tế ngoài nhà nước vào các hoạt
động trên, đồng thời từng bước thu hẹp và bãi bỏ sự độc quyền cung cấp các dịch vụ này
từ các DNNN.
Tăng cường phân cấp và phối hợp, kiểm tra trong quản lý môi trường. Các quy
định pháp lý liên quan đến hoạt động bảo vệ môi trường cần được điều chỉnh theo hướng
tăng cường phân cấp quản lý các hoạt động bảo vệ môi trường cho các quận, huyện, xã,
phường và cơ sở trực tiếp hoạt động tại địa phương. Sự phân cấp trách nhiệm, yêu cầu
bảo vệ môi trường trên từng địa bàn cần được khép kín, tập trung và bao quát, tạo thuận
lợi cho sự chủ động của địa phương, cơ sở, cũng như phát huy sức mạnh, lợi thế,
năng lực, trách nhiệm của từng cấp, từng cơ sở được phân cấp trong tổng thể mạng lưới,
guồng máy hoạt động bảo vệ môi trường; đồng thời, cần gắn với sự phân cấp đầy đủ,
đồng bộ về kinh phí, về quyền hạn, quyền lợi (kể cả về thu và sử dụng phí môi trường)
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
21
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
trong tổ chức triển khai các hoạt động bảo vệ môi trường được phân cấp tương ứng.
Ngoài ra, cần có những quy định cụ thể về yêu cầu, nội dung, phương thức, chế độ kiểm
tra, giám sát, kế toán và kiểm toán thích hợp nhằm đảm bảo mục tiêu, yêu cầu và hiệu
quả của các hoạt động quản lý môi trường, xã hội hóa và phân cấp bảo vệ môi trường.
Kiện toàn công tác tổ chức, nâng cao năng lực, hiệu quả của các đơn vị, tập thể
trực tiếp tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường. Trước hết, cần xây dựng những cơ
quan chuyên trách về quản lý nhà nước trong công tác bảo vệ môi trường theo
hướng tập trung chức năng, định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và cơ chế hoạt
động cụ thể.
Đặc biệt, cần tuyên truyền, phổ biến rộng rãi thông tin của cơ quan chức năng cho
nhân dân biết để tiếp cận dễ dàng việc xử lý các tranh chấp, khiếu kiện và tố giác về các
hành vi xâm hại môi trường diễn ra hàng ngày. Các cơ quan này phải có trách nhiệm và
đủ quyền hạn tiếp nhận, giải quyết theo chế độ "một cửa". Thành lập các tổ thanh
tra môi trường chuyên trách từ cấp Trung ương, tỉnh, thành phố xuống tới các quận,
huyện, xã, phường với quyền hạn lớn, kèm theo các chế tài được quy định rõ
ràng, cụ thể để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm tất cả các hành vi vi phạm các quy
định về quản lý môi trường trên địa bàn. Dùng cơ chế thưởng tiền xứng đáng cho các tổ
này theo phương châm "lấy kinh phí hoạt động của tổ thanh tra chủ yếu từ nguồn thu tiền
phạt mà tổ thu được, giảm thiểu bao cấp và ngăn ngừa lạm dụng, nhũng nhiễu ".
Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo về nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi
trường, nâng cao trách nhiệm bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng và tôn vinh xứng
đáng các cán bộ, nhân viên làm tốt công tác Bảo vệ môi trường cả về vật chất lẫn tinh
thần cho từng người, từng chức danh cụ thể. Đặc biệt, cần ưu tiên bố trí những cán bộ
được đạo tạo cơ bản, có bằng cấp chuyên sâu về môi trường và quản lý đô thị vào các vị
trí then chốt, nhạy cảm trong guồng máy và mạng lưới bảo vệ môi trường các cấp. Tăng
cường hợp tác, giao lưu quốc tế và thế giới để học tập, bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm
quản lý môi trường. Xây dựng hệ thống chức danh tiêu chuẩn chính thức và các giải
thưởng, danh hiệu, chế độ khen thưởng, kỷ luật về môi trường để áp dụng thống nhất, có
hiệu lực và hiệu quả trên toàn quốc, cũng như ở mỗi địa phương, nhằm phát huy sức
mạnh đồng thuận toàn xã hội cho công tác quản lý môi trường.
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
22
Bài tập chuyên đề: Kinh tế môi trường
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TSKH. Đặng Như Toàn, giáo trình kinh tế và quản lý môi trường, NXB giáo
dục 1996;
2. Phan Như Thúc, Giáo trình quản lý môi trường, ĐHBK Đà Nẵng
3. Tạp chí môi trường tháng 3/2011
4. TS. Nguyễn Minh Phong - Tc Tài nguyên và môi trường, số 4, 2007, tr.12
GVHD: TS. Lê Thị Kim Oanh
HVTH: Nguyễn Thanh Sơn
23