Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng xuất khẩu tôm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.95 KB, 43 trang )

hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
LỜI MỞ ĐẦU
Gần nửa thế kỉ qua, ngành thủy sản Việt Nam đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, liên tục cả về số lượng lẫn chất lượng, góp phần tích cực vào sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo bước đột phá tích cực
trong hội nhập quốc tế, vượt qua nhiều rào cản của thị trường , vững bước tiến
lên. Cuộc sống của lao động nghề cá cũng từng bước được cải thiện. Nhiều
ngư dân chí thú làm ăn không vì mục đích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu
dài. Biết vận dụng hợp l‎ý các chính sách của Đảng và Nhà nước, các chương
trình quốc gia, cùng với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, mở rộng
thị trường, dự đoán các bước phát triển hợp với sức và lực của mình để vững
bước đi lên.
Thực tế cho thấy sản lượng của các mặt hàng thủy sản tăng liên tục qua các
năm, nhưng thị trường xuất khẩu của nó luôn luôn biến động tạo sư căng
thẳng cho các nhà chính quyền, cũng như cho chính người lao động. Chính vì
vậy xuật khẩu thủy sản nói chung và xuất khẩu tôm nói riêng đang là một vấn
đề mang tính thời sự hiện nay.
Vậy nguyên nhân của vấn đề đó là gì? Thực trạng của nó ra sao? Và hiện tại
ta đã có giải pháp như thế nào và cũng như những giải pháp mang tính lâu dài
của chúng là gì ?
Hãy cùng tôi tìm hiểu đề tài nghiên cứu về “Thực trạng và giải pháp nâng
cao chất lượng xuất khẩu tôm” để làm rõ những thắc mắc trên.
Nội dung của đề án gồm 3 phần cơ bản như sau:
Phân 1: Khái quát chung về ngàng thuỷ sản va mặt hàng tôm xuất khẩu
Phần 2: THực trạng về tình hình xuất khẩu tôm
Phần 3: Giải pháp – những hướng đi mới – phương hướng phát triển giai
đoạn 2006-2010

Đề án môn học



hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Mặc dù đề án đã hoàn thành, nhưng không thể tránh khỏi những sai xót.
Rất mong được sự dóng góp ý kiến của quí vị để tôi có thể hoàm chỉnh đề án
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn ,giúp đỡ của TS Vũ Anh Trọng
PHẦN I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÀNH THỦY SẢN VÀ MẶT HÀNG
TÔM XUẤT KHẨU

I. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân.
1. Trƣớc đây
Trong quá trình gần nửa thế kỉ từ ngày thành lập 1/4/1960 , Ngành thủy sản
đã trải qua nhiều chặng đuờng với những chủ trương thích hợp với từng thời
kì phát triển của đất nước. Sau những năm “nhanh tay lưới, chắc tay súng”
cùng toàn dân tộc vừa xây dựng miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa, vừa đấu tranh
chống Mỹ cứu nước, giành độc lập thống nhất tổ quốc; rồi vượt qua thời kì
suy thoái nghiêm trọng, tưởng như đến bờ vực phá sản của những năm cuối
1970 của thế kỷ truớc, ngành đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ, là
một trong những ngành kinh tế tiên phong thử nghiệm cơ chế thị trường, góp
phần khẳng định cho đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước do Đảng khởi
xướng và lãnh đạo thực hiện thành công.
Qua 20 năm thực hiện đường lối ấy, cùng với nền kinh tế nước nhà, ngành
thủy sản đã không ngừng tự đổi mới, đối mặt với nền kinh tế thị trường và đã
dần tự khẳng định mình như một ngành kinh tế mũi nhọn, đặc biệt là một
trong những ngành xuất khẩu hàng đầu, đóng góp lượng lớn ngoại tệ cần thiết
cho sự nghiệp phát triển kinh tế nước nhà.
2.Trong giai đoạn từ 2000 đến nay:

Đề án môn học



hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Ngành thủy sản vẫn duy trì được sự tăng trưởng với tốc độ đáng kể, Tổng
sản lượng thủy sản năm 2004 đạt 3,07 triệu tấn, trong đó sản luợng khai thác
thủy sản là 1,72 triệu tấn, sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác nội địa
1,35 triệu tấn, tăng tương ứng 53%, 34% và 87% so với thực hiện năm 2000.

Năm 2000

Năm 2004

Tốc độ tăng C%

Sản lượng khai thác
thủy sản(tấn)

1,28

1,72

34

0,72

1,35

87

2,01


3,07

53

Sản lượng thủy sản
nuôi trồng và khai thác
nội địa(tấn)
Tổng sản lượng thủy
sản (tấn)

Bảng số liệu tốc độ tăng trưởng thủy sản năm 2004 so với năm 2000
Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2004 đạt 2,4 tỷ USD, tăng gần
1 tỷ USD so với năm 2000, chiếm gần 9% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu
của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng là
7%, về giá trị xuất khẩu là 10%.
9
Gi¸ trÞ kim ng¹ch xuÊt khÈu thuû s¶n

Gi¸ trÞ kim ng¹ch xuÊt khÈu c¶ n-íc

91

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Biểu đồ hình quạt: Tỉ trọng giá trị kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản
so với tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước(năm 2004)
Về những đóng góp quan trọng của ngành thủy sản trong 20 năm của thời

kỳ đổi mới đất nước có thể tóm tắt như sau:
Thứ nhất: Ngành thủy sản đã góp phần hình thành và thực hiện nhiều
đường lối, chủ trương, chính sách có tầm chiến lược đối với đất nước. Đó là
quá trình hình thành đường lối đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, hình thành cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; Quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế; Hội nhập ngày càng sâu vào các quan hệ kinh tế quốc
tế…
Thứ hai: Đã đưa nghề cá từ một lĩnh vực sản xuất thứ yếu thành một ngành
sản xuất hàng hóa với lực lượng sản xuất tiên tiến, phát huy được sức mạnh
sáng tạo của nhiều thành phần kinh tế, đặc biệt là bà con nông ngư dân và
các doanh nghiệp, hướng mạnh vào Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Biến
tiềm năng thiên nhiên thành của cải vật chất, phát huy lợi thế về xuất khẩu,
đưa nước ta từ chỗ chưa có tên trong danh sách đến vị trí 10 nước xuất khẩu
thủy sản lớn nhất thế giới, với nhưng sản phẩm đứng ở vị trí số một thị
truờng như tôm sú, cá tra…
Thứ ba: Đóng góp quan trọng trong sự nghiệp xóa đói giảm nghèo, bảo đảm
an ninh luơng thực, tạo lập công bằng xã hội, nhất là đối với các vùng nông
thôn nghèo, vùng sâu, vùng xa .Tại nhiều địa phương, thủy sản , đặc biệt là
nuôi trồng thủy sản, đã được xác định và mở hướng để chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nông thôn, đảm bảo nguồn sinh kế và đảm bảo thực
phẩm cho dân cư, cải thiện vai trò người phụ nữ.…

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
II. Đóng góp của mặt hàng tôm xuất khẩu :
1.Trong thị trƣờng nội địa:
Trong những năm qua giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng mạnh.
Hàng thủy sản đã xuất khẩu tới 105 nước và vùng lãnh thổ. Chính nhờ sự

tăng trưởng mạnh mẽ của các mặt hàng thủy sản xuất khẩu đã góp phần làm
thị trường nội địa có bước chuyển dịch.
Mặc dù mức tiêu thụ thủy sản nội địa thấp, song vấn đề tổ chức quản lí
thị trường thủy sản nội địa; vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng sản phẩn,
bao gói nhãn mác, xuất sứ hàng hóa được thực hiện tốt sẽ là thứ thuốc
“kháng sinh” mạnh đảm bảo tính cạnh tranh hiệu quả của hàng hóa xuất
khẩu.
Vì vậy để tăng doanh số xuất khẩu thì thủy sản nội địa là vấn đề cần
được quan tâm, thông qua việc tìm hiểu và phân tích nhu cầu trong nước.
Với mỗi mức nhu cầu khác nhau sẽ có qui mô phát triển, loại hình nuôi
trồng thủy sản cho thích hợp.
Hiện nay ở nước ta tôm là loại thủy sản rất được quan tâm cả về cách
thức nuôi trồng, khai thác, chế biến, tiêu thụ và xuất khẩu.
Thị trường tôm tập trung hầu hết ở các tỉnh có nguồn nước mặn, nước
nợ hay có thị trường tiêu thụ rộng lơn như : Đồng bằng sông cửu long, Hải
phòng, Thái bình.…
Như vậy vấn đề đặt ra với thị trường tôm nội địa là phải cho ra các sản
phẩm phong phú về chủng loại: đồ tươi, khô, đông lạnh, các loại tôm chất
lượng đa dạng: từ cấp thấp, cao cấp đến đặc biệt ,phù hợp khả năng tài chính
của các tầng lớp dân cư.
Bên cạnh đó cũng phải chú ‎ ý tới mặt hàng tôm nhập khẩu, bởi càng
ngày người dân càng trở lên “sính ngoại” , chúng ta cần có cách thức quản
lí để người dân nhận ra rằng: Mặt hàng tôm của ta chất lượng không kém
mà giá cả lại hợp lí, không những thế lại dược xuất khẩu sang những thị
trường rộng lớn như EU, Mỹ, Nhật bản.
Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Tóm lại chúng ta cần ổn định thị trường nội địa của các mặt hàng thủy sản

nói chung và của mặt hàng tôm nói riêng để tạo điều kiện cho xuất khẩu
thủy sản phát triển bên vững.

2.Trên thị trƣờng quốc tế:
Trong thời gian qua xuất khẩu tôm ở Viêt Nam vào thị trường quốc tế có
những biến động rõ rệt.
Nhất là xuất khẩu vào Mỹ _ thị trường chiếm 23-26% tổng kim ngạch xuất
khẩu thủy sản Việt Nam, tiêu thụ 50% tôm xuất khẩu của Vệt Nam là thị
trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng xuất khẩu Việt Nam nó đã góp phần
không nhỏ vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản.
Nhưng đó là thị trường đầy nguy hiểm . Kỳ đầu 2005 xảy ra vụ kiện tôm
giữa Mỹ và 54 doanh nghiệp Việt Nam đã làm cho mặt hàng tôm trong nước
và xuất khẩu chao đảo, hiện tượng rớt giá và vấn đề uy tín làm đau đầu các
nhà cầm quyền.
Mặc dù sự kiện trên đã được giải quyết ổn thỏa, nhưng nó là bài học kinh
nghiệm cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Việc Việt Nam ra nhập WTO, bỏ qua hàng rào thuế quan sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho những bước phát triển của mặt hàng xuất khẩu thủy sản. Bên
cạnh đó để có thể cạnh tranh với các thị trường tôm khác trên thế giới buộc
các nhà quản lí phải có những chính sách cụ thể. Đẩy mạnh việc xuất khẩu
thủy sản không chỉ về số lượng mà còn cả chất lựơng.
Để làm được điều đó chúng ta cần nhìn nhận lại thực trạng phát triển của
xuất khẩu thủy sản và xuất khẩu tôm để có những biện pháp cải thiện hữu
hiệu nhất.

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
PHẦN II

THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU TÔM
I.Những thuận lợi và khó khăn của vấn đề đầu vào.
Ngành xuất khẩu thủy sản nói chung và ngành xuất khẩu tôm nói riêng,
vấn đề đầu vào là một điểm quan trọng quyết định đến khối lượng và số
lượng xuất khẩu của thủy sản nước ta. Như vậy chúng ta cần phải nhìn nhận
những tác động gây ảnh hưởng đến nghề nuôi tôm ở đây là gì? Những thuận
lợi và khó khăn? Để từ đó có phương hướng phát triển và biện pháp khắc
phục kịp thời.

1.Về thuận lợi:
Được đánh giá và phân loại thành 7 loại thuận lợi chính như sau:
Thứ nhất : Nước ta là một nước có nhiều tiềm năng phát triển thủy sản: là
một quốc gia biển và giàu đất ngập nước với 3 kiểu môi trường nước đặc
trưng là ngọt - lợ và mặn. Đây là chỗ dựa tạo kế sinh nhai cho ngư dân dân
đặc biệt thuận lợi cho việc nuôi trồng, khai thác và chế biến các loại tôm.
Tại hội nghị tổng kết ngành thủy sản năm 2004, thủ tướng chính phủ Phan
Văn Khải đã nhấn mạnh : “Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển thủy
sản và cần phải phát triển thủy sản nhanh hơn , mạnh hơn..Mục tiêu cuối
cùng của ngành thủy sản là để phục vụ lợi ích người lao động”.
Thứ hai : Lực lượng lao động ngày càng phát triển và có tâm huyết với
nghề. Trước đây số hộ nuôi tôm rất ítt và tập trung ở một số tỉnh vùng sông
nước, bây giờ nhận thức của mọi người đã được nâng cao, mô hình nuôi
tôm sú và một số loại tôm có giá trị kinh tế cao khác đã được mọi nguời

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
quan tâm. Vì vậy nghề nuôi tôm phát triển khắp cả nước với qui mô to nhỏ
tùy thuộc vào từng hình thức nuôi trồng.

Thứ ba: Các địa phương đã thay bằng việc thả, nuôi trồng hàng loạt, ban
đầu đã học tập việc duy trì thả giống tôm và một số loài cá kinh tế khác để
tái tạo, phát triển nguồn lợi tạo thu nhập cao.
Thứ tư: Bước đầu đã có sự áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào các
hoạt động: Từ giống tôm đến hoạt động nuôi trồng , khai thác chế biến.
Đánh giá về hoạt động khoa học công nghệ trong phát triển ngành thủy sản
phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm trong bài phát biểu truớc hội nghị toàn quốc
về khoa học công nghệ giai đoạn 2001-2005 của ngành thủy sản ngày
28/3/2005 tại Hà Nội đã nhấn mạnh: “ cùng với việc nuôi trồng thủy sản,
ngành ta đã chú y đến việc áp dụng công nghệ mới , sử dụng vật liệu mới,
nâng cao trang thiết bị cho tàu thuyền đánh cá, tìm hướng đánh bắt thủy sản,
đẩy mạnh đánh bắt xa bờ, đánh cá ngừ đại dương. Việc làm này không chỉ có ‎
ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa về mặt an ninh, quốc phòng bảo vệ chủ
quyền đất nước”.
Ngoài ra phó thủ tướng còn đánh giá hoạt động công nghệ trên 3 lĩnh vực
sau:
- Công tác điều tra, nghiên cứu cơ bản và đánh giá môi trường.
- Đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ: tạo gống mới có
năng xuất chất lượng cao và phòng được dịch bệnh.
- Vấn đề đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong đánh bắt, chế biến, bảo
quản các sản phẩm thủy sản nhất là các sản phẩm xuất khẩu.
Công tác quản lí khoa học công nghệ của bộ thủy sản đã có nhiều tiến bộ
theo chủ trương hướng mạnh về cơ sở.
Như vậy việc áp dụng khoa học công nghệ là một bước đi lớn mang tính đột
phá trong ngành thủy sản nói chung và xuất khẩu thủy sản nói riêng.
Thứ năm: Được sự hướng dẫn chỉ đạo của chính phủ, công tác tổ chức quản
lí và thanh tra được chú trọng. Nhờ vậy không những khuyến khích được
Đề án môn học



hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
nghề nuôi tôm phát triển một cách có quy hoạch cụ thể mà còn nâng cao được
chất lượng đầu vào cho mặt hàng tôm xuất khẩu.
Thứ sáu: Cơ sở hạ tầng tốt, hình thức đánh bắt và nuôi trồng đa dạng.
Thứ bẩy: Đa dạng về chủng loại nuôi trồng thủy sản.
Trong đó đối tượng nuôi chủ lực là tôm, chủ yếu là tôm sú va một số nơi
nuôi tôm chân trắng.
Nói đến tôm sú hẳn là rất quen thuộc với mọi người - đó là gống tôm chủ
lực ở hầu hết các khu vực nuôi trồng thủy sản, nó đựợc giới thiệu ở rất nhiều
các bài viết. Vì vậy tôi chỉ đề cập đến giống tôm chân trắng qua đề án nghiên
cứu này.
Theo các thông tin chưa chính thức , tôm trắng được đưa vào Thái Lan năm
1999, quá trình nuôi cho thấy có năng xuất, mặc dù nuôi dưới hình thức nhập
giống bất hợp pháp, sau đó thu hoặc được vận chuyển sang Xingapo bán do
nhãn của sản phẩm tôm trắng chưa có tại Thái Lan . Cho đến năm 2002, cục
thủy sản - DOF chính thức ban hành qui định về nhập khẩu tôm chân trắng.
Về kĩ thuật nuôi tôm chân trắng; quản lí trại giống; quản lí trại nuôi; quản lí
cho ăn; dịch bệnh và ngăn chặn được đề cập rõ trong Tạp chí thủy sản số
4/2005*35
Về các hoạt động nghiên cứu và phát triển nuôi tôm chân trắng đã được
DOF lên kế hoạch như sau:
+Tăng cường công suất sản xuất tôm chân trắng bố mẹ tại địa phương.
+ Thiết lập chương trình cấp giấy chứng nhận cho các trại sản xuất giống.
SPF- giống không mang nguồn bệnh đặc trưng. Đây là chương trình tự
nguyện, các trại giống tư nhân có thể xin giấy chứng nhận SPF.
+Các trại giống tư nhân được phép nhập khẩu tôm chân trắng bố mẹ, phải
giữ lại 10% tôm giống tại 1 khu vực riêng để phát triển đàn giống SPF hoặc
SPR- giống kháng được nguồn bệnh đặc trưng.
+Lập chương trình nghiên cứu riêng để phát triển đàn giống SPF hoặc SPR.
Đề án môn học



hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
+Đánh giá và giám sát môi trường sống của tôm chân trắng tại các vùng
duyên hải.
Tôm chân trắng hiện đang được phát triển ở Thái Lan , Mỹ và một số
nước khác. ở Việt Nam giống tôm này mới đang được áp dụng nuôi trồng ở
một số khu vực. Vì vậy đây sẽ là vấn đề mà các nhà quản lí cần phải quan
tâm.

2.Về khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên làm góp phần tăng sản lượng tôm xuất khẩu
nhanh qua các năm, vấn đề đầu vào của tôm xuất khẩu cũng gặp phải những
trở ngại sau:
Một là: Điều kiện khí hậu, môi trường nước ta diễn biến rất thất thường
ảnh hưởng đến sự sinh trưởng, phát triển của các loại tôm. Đặc biệt có thể
có nững biến động lớn làm thiệt hại đến sức người, sức của.
Hai là: Vấn đề sử dụng hóa chất, kháng sinh cấm kỵ làm giảm sút chất
lượng của mặt hàng tôm xuất khẩu. Đây là nguyên nhân một măt do nhận
thức còn hạn chế của các ngư dân họ chỉ biết cái lợi trước mắt của việc tăng
năng suất mà không quan tâm đến tác hại của việc sử dụng không hợp lí các
hóa chất, kháng sinh cấm kỵ trong nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó là việc
quản lí lỏng lẻo của các cấp chính quyền về vấn đề này. Do đó cần phải quan
tâm hơn nữa để đảm bảo chất lượng tôm không chỉ cho mặt hàng tiêu dùng
trong nước mà cho cả mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế lớn.
Ba là: Thiếu nguyên liệu sản xuất ở một số địa phương là khó khăn lớn nhất
mang tính phổ biến ở các địa phương. Tình trạng này bộc lộ trầm trọng nhất
ở khu vực phía bắc và duyên hải miền trung.
Bốn là: Các cộng đồng ven biển nhìn chung còn nghèo, thiếu vốn đầu tư và
cơ sơ hạ tầng sản xuất thủy sản kém: Từ cơ sở ngiên cứu khoa học công

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
nghệ thủy sản, khu vực bảo tồn biển và bảo tồn thủy sản nội địa, thủy lợi
đầu mối, cảng cá và khu tránh trú bão, hệ thống thông tin quản lí ngành
nghề thủy sản. Điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng nuôi trồng, khai
thác, chế biến các mặt hàng thủy sản, từ đó sẽ tác động lớn đến mặt hàng
tôm xuất khẩu.
Năm là: Về đánh bắt và khai thác còn nhiều bất cập: mức độ khai thác
chưa hợp lí, phương tiện khai thác chưa đảm bảo.
Sáu là: Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lí đầu tư xây dựng vừa yếu vừa
thiếu, chưa đủ điều kiện năng lực theo qui định, tất cả các chủ đầu tư đều
kiêm nhiệm ; quá trình đầu tư từ chủ trương đến quản lí xây dựng, quyết
toán công trình đều thụ động. Chất lượng các tư vấn dự án khả thi, thiết kế
lập tổng dự án còn hạn chế.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng được đánh giá trong năm
2005: Tổng vốn đầu tư từ ngân sách cho phát triển ngành thủy sản là 578,4 tỉ
đồng, trong đó vốn do bộ trực tiếp quản lí là 172 tỉ đòng. Các dự án do bộ trực
tiếp quản lí đã hoàn thành khối lượng ước đạt 114810 triệu đồng, chỉ bằng
khoảng 66,75% kế hoạch, giải ngân khoảng 74,441 triệu đồng, bằng khoảng
43,45% kế hoạch.
Vậy những khó khăn trên cần phải có biện pháp khắc phục kịp thời
chúng ta cùng đề cập đến phần ba của đề án này.
3. Thực trạng của vấn đề đầu vào:
3.1.Thực trạng về nuôi trồng thủy sản:
Hiện nay, các loài chủ lực như tôm sú, tôm càng xanh được tiếp tục tập
trung nghiên cứu hoàn thiện theo hướng sản xuất giống chất lượng cao, sạch
bệnh, đồng thời mở rộng chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho các địa
phương, khuyến khích phát triển trại giống tập trung. Kết quả là công nghệ

sản xuất tôm sú đã được mở rộng áp dụng từ Nam trung bộ ra Nam bộ và Bắc
Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
bộ. Riêng về tôm sú năm 2003 đạt trên 20 tỉ giống- đây là yếu tố quyết định
mở ra hướng phát triển mạnh mẽ về nghề nuôi tôm sú ở các địa phương ven
biển, phục vụ nuôi trồng tập trung , qui mô, năng suất cao. Đến năm 2004, với
hơn 5000 tại giống trong cả nước, đã sản xuất gần 26 tỉ tôm giống PL15, góp
phần làm nên con số sản lượng tôm nuôi trên 290.000 tấn, tăng 22% cả về giá
trị và sản lượng so với năm trước.
Mạng lưới trên 50 trại giống tôm càng xanh ở Nam Bộ sản xuất khoảng 60
triệu giống phục vụ đủ nhu cầu giống của khu vực và hỗ trợ cung cấp cho các
địa phương khác. Đảm bảo chủ động giống lớn, chất lượng được cải thiện tạo
điều kiện hình thành và phát triển sản xuất thủy sản tập trung quy mô lớn,
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị
trường quốc tế góp phần mở rộng thị trường và nâng cao giá trị sản lượng
xuất khẩu thủy sản.
Thành công lớn trong nuôi trồng thủy sản nữa là đã ứng dụng các tiến bộ kĩ
thuật sinh học phân tử trong phòng và trị bệnh nguy hiểm đối với các loại tôm
cá, sử dụng các chế phẩm sinh học nhằm tăng khả năng chống chịu bệnh và
quản lí chất lượng.
Về nuôi tôm nước lợ, diện tích năm 1999 là 210.448 ha so với năm 2005 là
604.479 ha
với mức tăng trưởng bình quân hàng năm là 31,2% đây là tốc độ tăng trưởng
rất cao do vấn đề mở rộng diện tích gặp rất nhiều khó khăn và trở ngại. Đối
với nuôi tôm nước lợ – mặn, sản lượng năm 1999 là 63.644 tấn. Song dưới tác
dụng của mở rộng diện tích và tăng cường đầu tư khoa học kĩ thuật và vốn,
sản luợng nuôi trông đã đạt 324.680 tấn gấp 5,1 lần đem lại hiệu quả kinh tế
cao. Các tỉnh Nam Trung Bộ thì diện tích nuôi tôm hùm lồng phát triển mạnh

và bước đầu được nuôi tại Quảng Ninh với kết quả đạt được là từ 7.290
(1999) với tổng sản lượng là 425 tấn tăng lên 43.510 lồng với sản lượng là
4.800 tấn và đã chủ động được giống với 3.061 lồng ươm giống, nuôi tôm
hùm là hình thức nuôi có vốn đầu tư lớn và mang lại hiệu quả cao nên một số
Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
doanh nghiệp và cá nhân nuôi tôm hùm đã thành công nhanh chóng với mức
doanh thu hàng năm hàng tỷ đồng và có những hộ sau khi trừ chi phí vẫn còn
đạt lợi nhuận tiền tỷ – Tôm càng xanh năm 2005 ước đạt 6.400 tấn trong đó
tập trung tại các tỉnh Tây Nam Bộ, các tỉnh này có sản lượng là 6.612 tấn
(93,9%) thu lợi từ 50 – 80 triệu đồng/ha và năng xuất theo khảo sát tại huyện
Cao Lãnh, Tam Nông thì năng suất trung bình đạt từ 1,2 – 2 tấn/ha và cá biệt
có những xã năng suất đạt 2,5 tấn/ha và diện tích nuôi tôm càng xanh trong
những năm tiếp theo thì có thể tăng lên nhiều và năng xuất tiếp tục tăng với
tốc độ cao do trình độ người nuôi trồng và khả năng áp dụng khoa học kĩ
thuật ngày càng mạnh và có hiệu quả.

Bảng: Sản lượng tôm nuôi trồng so với tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí

Sản lượng (tấn)
Chỉ tiêu
2001


2002



421.019,0

Tôm

2003

2004

2005

486.420,7 604.401,0

761.600,0

933.500,0

154.911,0

186.215,6 237.880,0

281.800,0

330.200,0

khác


133.960,2

172.173,4 160.814,0

159.100,0

173.700,0

Tổng số

709.891,0

844.809,6 1.003.095,0 1.202.500,0 1.437.400,0

Thủy sản

Cơ cấu sản lượng (%)


59,3

57,6

60,3

63,3

64,9

Tôm


21,8

22

23,7

23,4

13,5

20,4

16

13,3

12

100

100

100

100

Thủy sản khác 18,9

Tổng số


Đề án môn học

100


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
( Nguồn tổng hợp từ tổng cục thống kê năm 2004 - 2005)

%

25

21,8%

22%

23,7%

23,4%

20
13,5%

15
10
5
0

2001


2002

2003

2004

2005

Năm

Biểu đồ cơ cấu sản lượng tôm nuôi trồng so với tổng sản lượng thuỷ
sản nuôi trồng.

3.2.Thực trạng về chất lượng các loại tôm:
Đề cập đến vấn đề chất lượng thúy sản. Ông Bửu Huy- giám đốc công ty
Afiex ở An Giang khẳng định: “Thực chất khó khăn lớn nhất của xuất khẩu
thủy sản Việt Nam nói chung là vấn đề chất lượng chứ không phải chuyện
phá giá hay không có thị trường”.
Tình hình phát triển “quá nóng” không kiểm soát được diện tích, sản lượng
của tôm cá đã dẫn đến những yếu kém về quản lí chất lượng. Tỷ lệ nhiễm dư
lượng kháng sinh, hóa chất bị cấm trong cá nuôi khá cao, tình trạng bơm hóa
chất vào tôm chưa được xử lí một cách triệt để, khả năng đảm bảo truy xuất
nguồn gốc sản phẩm kém do diện tích nuôi còn manh mún, trình độ sản xuất
chưa đồng đều đã dẫn đến những bất lợi cho cả hai sản phẩm chủ lực của thủy
sản Việt Nam trước các rào cản “kĩ thuật” của các nước cạnh tranh.
Trong chương trình của VASEP- Đại hội nhiệm kì ba (2005-2001) diễn ra
ngày 12/6/2005 ông Hồ Quốc Lựu phát biểu : “Tính an toàn sản phẩm đã trở
thành yếu tố cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu nói chung, từng doanh
nghiệp nói riêng. Tôi nghĩ, những bài học xương máu đã qua và hiện nay

xung quanh vấn đề chất lượng đã nói lên rằng, nếu không có sự liên kết thật
Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
sự thì thủy sản Việt Nam sẽ còn tiếp tục bị trả giá, không chỉ về kinh tế mà
còn cả về môi trường”.
Thực tế đã chứng minh được ảnh hưởng mạnh mẽ của vấn đề chất lượng của
thủy sản đến khả năng cạnh tranh của xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Năm
2002 một số lô hàng thủy sản của Việt Nam xuất khẩu vào EU không được an
toàn (nhiễm khuẩn, nhiễm bẩn..) và chất lượng chưa ổn định; Vì thế EU đã có
qui định mới cho Việt Nam về lượng dư hóa chất: từ 1.5 xuống còn 0.3 phần
tỉ. Điều nàykhiến các doanh nghiệp Việt Nam điêu đứng, hàng chục lô hàng
xuất khẩu bị hủy. Nhiều đơn vị bị loại khỏi danh sách xuất khẩu thủy sản vào
thị trường này, 100% lô hàng bị kiểm tra, nếu phát hiện nhiễm quá mức dư
lượng hóa chất, EU sẽ đóng cửa ngay hàng thủy sản Việt Nam, như họ đã
từng làm với Trung Quốc.
Ngoài vấn đề về sử dụng lượng hóa chất quá mức cho phép, các loại tôm
thường mắc một số bệnh gây ảnh huởng không những đến năng suất mà còn
ảnh hưởng đến chất lượng tôm xuất khẩu.
Một ví dụ cụ thể là kí sinh trùng trên tôm hùm bông nuôi lồng, bệnh đỏ
thân, đen mang ở vùng biển Phú Yên, Khánh Hòa.
Thống kê năm 2004 của Sở thủy sản Khánh Hòa, Phú Yên cho biết: sản
lượng tôm hùm nuôi lồng của tỉnh Khánh Hòa là 1655 tấn, chiếm 70,36% sản
lượng tôm hùm cả nước; Tỉnh Phú Yên 647 tấn, chiếm 27,51% .
Tuy nhiên, hiện tượng tôm hùm bị bệnh còn xảy ra ở nhiều vùng nuôi trong
đó hai bệnh có tần suất xuất hiện cao và gây nhiều thiệt hại cho tôm hùm nuôi
lồng là bệnh đỏ thân và đen mang.
Sau khi sử dụng phương pháp của V.A.Dogiel ( Hà kí bổ sung để định danh,
tìm tác nhân gây bệnh và xác định tỉ lệ, cường độ nhiễm kí sinh trùng)


Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Sơ đồ nghiên cứu kí sinh trùng cụ thể như sau:
Tôm bệnh còn sống

Quan sát bên ngoài để xác định các
kí sinh trùng có kích thước lớn
nhìn được bằng mắt thường

Các phần phụ

Nhớt trên thân tôm

Mang,Nội tạng

Quan sát trên kính lúp

Làm tiêu bản, quan sát trên kính hiển
vi có độ phóng đại thấp

Vẽ, chụp ảnh để mô tả hình dạng và
phương thức cảm nhiễm kí sinh trùng

Qua phân tích 145 mẫu tôm đỏ thân và 40 mẫu tôm đen mang cho thấy tỉ lệ
nhiễm kí sinh trùng khá cao, chiếm 71% số tôm có dấu hiệu đỏ thân và 75%
số tôm có dấu hiêu đen mang. Thành phần kí sinh trùng trên tôm hùm bệnh
khá đa dạng, bao gồm zoothamnium, vorticella, balamus, nematoda và loại

động vật bám Pteria.
Ngoài ra còn một số bệnh khác xuất hiện ở tôm chân trắng như: bệnh đốm
trắng (wssv), bệnh còi hoại tử (IHHNV), bệnh taura(TSV) và bệnh đầu vàng
(YHV).
Vì vậy các nhà quản lí cần có biện pháp tích cực trong việc phát triển nuôi
trồng thủy sản, các loại tôm.
Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Bàn về vấn đề này, vừa qua công ty unipersident ( Đài Loan) đã mời ông
Liao I Chiu _ viện sỹ viện nghiên cứu trung ương Đài Loan và bà tiến sĩ Luo
Chu Fang _ giảng viên trường đại học Đài Loan, chuyên gia về bệnh tôm đến
công ty truyền đạt một số biện pháp kĩ thuật và kinh nghiệm của Đài Loan
trong việc nuôi tôm sú bền vững.
Ông Liao I Chiu đã mang tới lớp học những kiến thức kinh nghiệm của Đài
Loan trong việc nuôi tôm sú đạt năng suất cao. Ông đã khuyến cáo người nuôi
tôm sú Đài Loan cũng như Việt Nam không nên thả nuôi mật độ trên 30 con
tôm giống trên/m2 để có điều kiện quản lí tốt môi trường và ngăn chặn kịp
thời mầm bệnh cho tôm nuôi.
Bà Luo Chu Fang cũng đã mang tới lớp học những kiến thức về việc ngăn
ngừa các bệnh cho tôm trong qua trình nuôi, biện pháp kĩ thuật để phát triển
nuôi tôm sú bền vững.
Được biết công ty Unipresident có gần 100 kĩ sử làm việc tiếo thị, bám sẵn
địa bàn, hỗ trợ kĩ thuật cho bà con trong mỗi vụ nuôi tôm nhằm hạn chế
những rủi ro cho bà con ngư dân.
3.3.Nguồn nguyên liệu đầu vào:
Theo bộ thủy sản, giá xăng dầu trong nước tăng mạnh trong khi giá cá
không tăng, thậm chí còn giảm theo xu hướng chung của thị trường thế giới,
khiến nhiều tàu đánh cá phải ngưng sản xuất ở một số thời điểm. Điều đó đã

dẫn đến thiếu nguyên liệu cung cấp cho chế biến xuất khẩu thủy sản, nhất là
các tháng không phải vụ mùa thu hoạch.
Bàn về vấn đề này Tổng thư kí hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản
Việt Nam (VASEP) Nguyễn Hữu Dũng nhận xét : “ Cái dở của chúng ta là
giá nguyên liệu khá cao so với các nước khác. Khâu yếu nhất của chúng ta
hiện nay là chưa có một thị trường nguyên liệu có tổ chức”.
Giám đốc công ty chế biến thủy sản cần thơ ( CAFATEX) Nguyễn Văn
Kịch cho biết : trước đây, ngành thủy sản đã lên kế hoạch xây dựng một chợ
Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
tôm Bạc Liêu, nhưng không có kinh phí. Ông kiến nghị chính phủ hỗ trợ vốn
với lãi xuất ưu đãi để người dân mở chợ nguyên liệu tôm, mà trước mắt là 100
triệu đồng để xây dựng 5 chợ tại miền trung.
Một thống kê năm 2003 cho thấy: khả năng cung ứng nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thủy sản đã mất cân đối trầm trọng. Kể từ năm 2002, tỷ trọng
khai thác thiết bị của các doanh nghiệp chế biến thủy sản chỉ đạt 30 – 60%
công suất tùy theo khu vực và quy mô của mỗi doanh nghiệp, tức là dư thừa
40- 70% công suất.
Nói tóm lại nóng bỏng nhất của vấn đề đầu vào của xuất khẩu tôm chính là
các chủng loại giống tôm; thực trạng của vấn đề việc sử dụng hóa chất không
hợp lí, của vấn đề nguyên liệu đầu vào đắt và khan hiếm.
Tình hình trên đòi hỏi phải có sự quản lí đồng bộ trên tất cả các mặt của các
nhà quản lí đối với đầu vào tôm xuất khẩu để đảm bảo sự gia tăng số lượng
trong điều kiện chất lượng đảm bảo đúng tiêu chuẩn cho phép.

II- Những thuận lợi và khó khăn của vấn đề đầu ra
1.Những thuận lợi:
Một doanh nghiệp đã nhận định “ Tình hình cung cầu thủy sản thế giới sẽ

tiếp tục có lợi cho Việt Nam, do lượng tôm sú của Thái Lan và Indonexia
đang sụt giảm nhiều, sản xuất tôm của Ân Độ cũng bất lợi vì mức thuế chống
bán phá giá cao hơn Việt Nam, trong khi lượng tôm sú của Việt Nam còn khá
lớn, đặc biệt là tôm sú cỡ lớn, một sản phẩm có thế mạnh cạnh tranh của Việt
Nam từ trước đén nay”.
Vậy cơ hội trên là do những yếu tố thuận lợi trên thị trường xuất khẩu thế
giới đem lại?
Đó chính là những thuận lợi sau:
Thứ nhất: Đối với các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thị trường thủy sản có
cơ hội mở rộng và phát triển. Các sản phẩm thủy sản đảm bảo chất lượng
Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
VSATTP và có nguồn gốc xuất xứ rõ vẫn tiêu thụ tốt trên thị trường thế giới.
Thị trường nội địa có sức mua ngày càng tăng. Các công trình, cơ sở hạ tầng
được nhà nước tập trung đầu tư trong những năm qua cùng với sự đầu tư từ
các nguồn ODA , FDI, sự đầu tư lớn của các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế tư nhân, cơ sơ vật chất kĩ thuật toàn ngành đã tăng đáng kể, là nền
tảng thực hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nghề cá.
Thứ hai: Thực hiện hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ- Đã ban hành quy
chế hoạt động của ủy ban liên hợp nghề cá Vịnh Bắc Bộ. Cục khai thác và
bảo vệ nguồn lực thủy sản vầ các cơ sở thủy sản đã tổ chức tập huấn xây dựng
và in ấn các nội dung lẫn tuyên truyền phát đến ngư dân, phối hợp các lực
lượng biên phòng, cảnh sát biển tổ chức kiểm tra, kiểm soát hoạt động nghề
cá tại các vùng nước hiệp định. Đã cấp1543 giấy phép khai thác cho tàu cá
Việt Nam cùng 1004 giấy phép cho tàu cá Trung Quốc, trong đó co 810 tàu
khai thác trong vùng đánh cá chung và 194 tàu khai thác ở vùng dàn xếp quá
độ.
Thứ ba:Việc tổ chức lại sản xuất trên biển đã có những tiến bộ đáng khích lệ

trong năm 2005. Ngư dân đã chú trọng khâu bảo quản sản phẩm sau khai thác
để nâng cao chất lượng sản phẩm và tổ chức các hình thức liên kết, hợp tác
trong sản xuất để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Thứ tư: Các cơ sở sản xuất thủy sản đang tiến hành đăng kí thực hiện theo
các tiêu chuẩn quốc gia và tiêu chuẩn quốc tế. Theo số liệu thống kê năm
2005 : Toàn ngành có 439 cơ sở chế biến trong đó có 320 cơ sở chế biến thủy
sản đông lạnh xuất khẩu cấp đông trên 4262 tấn/ ngày. Đã có 171 doanh
nghiệp đạt tiêu chuẩn trong danh sách 1 xuất khẩu vào thị trường EU, 300
doanh nghiệp áp dụng HACCP, Đủ tiêu chuẩn vào thị trường Mỹ, có 295
doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn vào thị trường Trung Quốc, 251 doanh nghiệp đủ
tiêu chuẩn xuất khẩu vào thị trường Hàn Quốc, nhờ đó đã tạo ra đầu ra cho

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
sản phẩm tôm xuất khẩu có chất lượng cao nâng cao khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trên trường quốc tế.
Thứ năm: Sản phẩm chế biến ngày càng đa dạng, nhất là những sản phẩm
giá trị gia tăng. Nhiều mặt hàng mới xuất hiện thích ứng thị trường, tỷ trọng
sản phẩm ăn liền tăng, chiếm tới 40 – 50%. Chủ lực vẫn là tôm, cá tra, cá
basa, tỷ trọng các sản phẩm cá tăng nhanh, đến nay chiếm 22, 84%, các mặt
hàng khi cũng tăng mạnh về giá trị và sản lượng Tân xuất khẩu với nhiều mặt
hàng: Đồ khô, đồ đông lạnh với đủ loại kích cỡ từ loại to, loại vừa, đến loại
nhỏ đang dần xâm nhập vào nhiều thị trường quốc tế tiềm năng như Thái Lan,
Nhật Bản, Mỹ, E4, Austrailia, Hồng Kông. . .…
Thứ saú: Chế biến thuỷ sản tiêu thụ nội địa có nhiều đổi mới, sức mua ngày
càng gia tăng. Thị trường xuất khẩu mở rộng, đến nay đã có đến 80 nước và
vùng lãnh thổ trên thế gíơi có sự hiện diện của sản phẩm Thuỷ sản Việt Nam.
Cộng thêm vào đó các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đẩy mạnh công tác

xác biến thương mại, tiếp thị sản phẩm, mở rộng và tăng tỷ trọng xuất khẩu
vào các thị trường quốc tế.
Các doanh nghiệp chế biến hàng khẩu đã bước đầu áp dụng tiến bộ
khoa học công nghệ, mặc dù còn nhiều hạn chế, song nó cũng mở ra hướng
phát triển rộng lớn cho hàng xuất khẩu Việt Nam.
Tôm các loại được xuất khẩu với khối lượng lớn đến các nước như Mỹ,
EU, Nhật Bản...Đây là những thị trường khá mạnh và lôi cuốn các doanh
nghiệp ở Việt Nam như sự cạnh tranh, thử thách của nó cũng khiến người ta
phải đau đầu.
Điểm hình đó là hàng loạt sự phát triển tôm xuất khẩu Việt Nam đầu năm
2005.

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Chúng ta đã thực sự đáp ứng được nhưng yêu cầu về các tiều chuẩn để nâng
cao sức cạnh tranh của Tôm xuất khẩu hay chưa? Đó còn là bài toán lan giải
cho các nhà quản lý.
Thứ 7: Nổi bật trong xuất khẩu thủy sản năm 2005 là việc thủy sản Việt
Nam vượt qua rào cản thế quan và thi thuế quan trên hai thị trường lớn là Mỹ
và EU. Đây chính là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất thuỷ sản ở Việt
Nam. Bởi đây là hai thị trường tiềm năng rộng lớn cho hàng xuất khẩu thủy
sản Việt Nam. Nhưng cơ hội này không phải dễ dàng nắm bắt mà nó buộc các
doanh nghiệp phải khôn khéo tránh những sự hiện như xuất khẩu tôm đầu
năm 2005. Sự hỗ trợ và chỉ đạo kịp thời của các bộ, nghành, địa phương sẽ
hướng các doanh nghiệp đi đúng hướng phát triển, khắc phục khó khăn, góp
phần làm cho sản xuất và đời sống người nuôi ít bị ảnh hưởng, đáp ứng việc
hoàn thành vượt mức kế hoạch xuất khẩu thủy sản.


2. Những khó khăn
Diễn biến của thị trường xuất khẩu thủy sản ngày càng phức tạp, thị trừơng
quốc tế rộng lớn một mặt đem lại thuận lợi cho xuất khẩu thủy sản nước ta
nhưng mặt khác nó gây ra những khó khăn nhất định, thể hiện rõ rệt qua các
sự việc sau:
Đối với thị trường xuất khẩu vào Mỹ mặt hàng xuất khẩu tôm đang gặp
những bất lợi nhất định.
Hồi đầu năm 2005, các doanh nghiệp xuất khẩu tôm sang Mỹ bị yêu
cầu xét mức thuế. Thông tin từ Vasep cho biết liên minh Tôm Miền Nam Hoa
Kỳ (SSA) đã nộp đơn lên bộ Thương mại Mỹ (DDC) yêu cầu xem xét lại
mức thuế của toàn bộ các doanh ngiệp xuất khẩu Tôm vào Mỹ của 6 nứơc liên
quan đến vụ kiện tôm trong đó có Việt nam , Việt Nam có 54 doanh nghiệp
nằm trong danh sách này, trong đó doanh nghiệp hiện có mức thuế chống bán
phá giá vào Mỹ thấp nhất là 4,3% vào nhất lên tới 26%. Những doanh ngiệp
chịu thuế cao thời gian qua hầu như không xuất tôm vào Mỹ.
Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Chính áp lực trên từ Mỹ đã làm cho mặt hàng tôm của ta có biến động
trong năm:
+ Khối lượng hàng tồn kho lớn trong khi đó mùa vụ thu hoạch thì
không thể rút ngắn. Vì lí do trên giá tôm đã hạ mạnh, gây bất lợi không những
cho các doanh nghiệp xuất khẩu Tôm sang thị trường này mà nó còn ảnh
hưởng trực tiếp tới người mua tôm.
Đến tháng 3/2005 qui chế về đóng bond (bảo lãnh thanh toán )Là một khoản tiền tương đương với giá trị nhập khẩu trong vòng 1 năm nhân
với mức thuế chống bản phá giá. Khoản ký quỹ này đóng theo từng năm, dựa
trên giá trị nhập khẩu của năm trước và chỉ được trả sau 3 năm khi có được
kết quả tức là xét tính lại giá thành, giá bán. . .của từng lô hàng để quyết định
mức thuế mới.

Hải quan Mỹ đã áp dụng qui chế này làm cho hoạt động xuất khẩu thủy sản
vào thị trường này gần như án binh bất động. Nhiều doanh nghiệp thủy sản
trước đây có kinh doanh xuát khẩu Tôm vào Mỹ lên đến vài trục triệu USD,
thì giờ đây không đưa được lô hàng nào vào thị trừơng này.
Diễn biến của thị trường Mỹ còn tác động mạnh mẽ đến các thị trường nhập
khẩu khác như: Nhật, Hàn Quốc, Trung Đông... Một số là hàng Tôm xuất
khẩu lẽ ra đưa vào thị trường Mỹ, nay chuyển sang các thị trường đó, khiến
giá Tôm không những giảm mà tiêu thụ cũng khó khăn hơn.
Vậy tại sao khoản tiền “bond” trên lại gây ra tình trạng trên đối với các
doanh nghiệp Viật Nam? Một giám đốc của một doanh nghiệp chuyên xuất
khẩu Tôm vào thị trường Mỹ khẳng định: Chỉ trừ khi có sự can thiệp của
chính phủ hai nước hoặc người tiêu dùng Mỹ phản ứng, những rắc rối về
đống bond mới có thể được tháo gỡ. Theo các doanh nghiệp, với số vốn
không nhiều, hầu hết doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam đều không đủ
khả năng để mua bond, do đó việc xuất khẩu Tôm vào thị trường Mỹ trong
thời gian tới được cho là “ nhiệm vụ bất khả”.

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Cho đến nay mặc dù vấn đề xuất khẩu Tôm đã trở về với trạng thái bình
thường song với con số không kê ước tính về chi phí thiệt hại khoảng 75.000
USD/ công ty thì đó sẽ là một bài học lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Vậy những khó khăn gì của hàng xuất khẩu Tôm đã gây lên những biến
động của mặt hàng này ? Chúng ta có thể tóm tắt những khó khăn chính như
sau:
- Không có sự qui định thành luật về các điều lệ đối với các doanh
nghiệp xuất khẩu Tôm
- Khâu quả lí tổ chức sản xuất và quản lí chất lượng tại các doanh nghiệp

còn thể hiện nhiều yếu kém.
- Các rào cản Thương Mại của các nước nhập khẩu gây nhiều khó khăn
cho ta.
- Thị trường tiêu thụ rộng lớn song lại có nhiều biến động.
- Các doanh nghiệp xuất khẩu Tôm của Viêt Nam còn rất non yếu cá về
uy và lực do đó khó có thể đối phó với những diễn biến bất thường của
thị trừơng xuất - nhập khẩu Tôm trên thế giới.
3. Thực trạng tôm xuất khẩu:
Thực trạng của vấn đề xuất khẩu thủy sản năm 2005 được thể hiện khác
đầy đủ qua bảng số liệu về kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch năm 2005
và thời thời kỳ 2001 - 2005 như sau:

Đề án môn học


hocthuat.vn –Tài liệu online miễn phí
Chỉ tiêu

Năm
2005

1 Tổng sản
lượng (nghìn 3.432,8
tấn)

So với
2004

So với
2000


Mức tăng trưởng
Tổng 5 năm (%)
2004 - 2005
5 năm
Từng
năm

109,24

152,53

14.516,6

2. Giá thị
kinh ngạch
2.650.000 110,38
XKTS (100
USD)

180,27

11.067.782

40,99

8,97

49,9


10,50

Như vậy tổng sản lượngthủy sản năm 2005 đã tăng 109,29 nghìn tấn so
với năm 2004 tương ứng với tốc độ tăng trưởng là 8,97%...Trong đó giá trị
kim ngạch xuất khẩu thủy sản năm 2005 tăng 110,39% nghìn tấn so với năm
2004 với tốc độ tăng tương ứng là 40,50%, cao hơn cả mức tăng trưởng của
hàng thuỷ sản nói chung.
Cụ thể của hàng xuất khẩu thủy sản Việt Nam được biểu hiện ở những mặt
sau:
3.1 Những tháng đầu năm 2005:
-Về lượng và giá của hàng xuất khẩu:
Theo số liệu của hải quan năm 2005 cho thấy: Kim ngạch xuất khẩu thủy
sản sang Austrailia trong tháng 4 đạt hơn 4,8 triệu USD, đưa tổng kim ngạch
xuất khẩu 4 tháng đầu năm lên 24,42 triệu USD, tăng gần 50% so với cùng
kỳ.
Một ví dụ về chế biến tôm xuất khẩu tại công ty Minh Phú: trong
tháng4, mặt hàng thủy sản xuất khẩu sang Austrailia chủ yếu là tôm đã chiếm
44% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, cá tra, basa chiếm 32%. Bên cạnh đó là
nhiều hàng thủy sản khác, nhưng kim ngạch còn ở mức thấp, như mực và
bạch tuộc đông lạnh (chiếm 6% trong tổng kim ngạch) chả giò tôm, chả cá, cá

Đề án môn học


×