Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Các đánh giá trái chiều về chủ nghĩa tư bản hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.77 KB, 14 trang )

1

Nhóm 1 gồm:
1. Nguyễn Ngọc Binh
2. Trần Vinh
3. Nguyễn Thị Bê
4. Trương Thị Thùy Linh
5. Trần Thị Vinh
6. Chế Thị Tin
Nội dung: seminar: ĐÁNH GIÁ VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN HIỆN ĐẠI.
I. Các đánh giá trái chiều về chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Ngay từ khi xuất hiện cho đến ngày nay chủ nghĩa tư bản luôn là đối
tượng nghiên cứu và đánh giá của môn xã hội học của thế giới và đến tận hôm
nay vẫn chưa thể có đánh giá nhất quán về vai trò và tương lai của chủ nghĩa
tư bản. Trong thế kỉ XX đã xuất hiện phong trào cộng sản và nhiều phong trào
cánh tả khác mà mục tiêu cơ bản là để loại bỏ bất công của chủ nghĩa tư bản.
Với thất bại của những nhà nước theo chủ nghĩa cộng sản cổ điển, với độ lùi
nhất định về thời gian sự đánh giá về chủ nghĩa tư bản đã có một nội dung
mới khách quan hơn và toàn diện hơn.
1. Đối với những người phản đối chủ nghĩa tư bản.
Những người phản đối chủ nghĩa tư bản là những người theo đuổi chủ
nghĩa xã hội (cả chủ nghĩa xã hội dân chủ), chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa
phát xít và cả một số người chủ nghĩa vô chính phủ.
Những người phản đối chủ nghĩa tư bản cho rằng: Tính chất ích kỷ của chủ
nghĩa tư bản không hề thay đổi và gây nên những bất ổn trên thế giới. Kể từ
thời Karl Marx và khởi nguồn của chủ nghĩa cộng sản, bản chất bóc lột của
chủ nghĩa tư bản không hề thay đổi: Ngày nay trong quá trình toàn cầu hoá,
chủ nghĩa tư bản trên thế giới lại gây nên khoảng cách giàu nghèo ngày càng


2



lớn giữa các dân tộc, và giữa các giai tầng xã hội bên trong các quốc gia, dân
tộc, gây ra một chế độ áp bức kinh tế (chủ nghĩa đế quốc kinh tế) còn nặng nề
hơn chế độ thuộc địa thực dân ngày xưa, gây bất ổn trên thế giới. Việc các
công ty tư bản bơm vốn sang các nước nghèo để lấy lãi, tránh thuế, tránh các
chi phí đắt đỏ tại chính quốc, chiếm hữu các nguồn tài nguyên, khai thác các
nguồn nhân lực một cách bất công, tối đa hoá lợi nhuận chứng tỏ bản chất bóc
lột của chủ nghĩa tư bản chưa hề thay đổi... Và các thách thức của thế giới
như sự nghèo nàn, nạn đói, nạn khủng bố, phong trào chống toàn cầu hoá... là
thể hiện của các mâu thuẫn này do chủ nghĩa đế quốc kinh tế gây ra. Đây là
tâm lý chung của dư luận các nước chậm phát triển lên án sự bất bình đẳng
kinh tế giữa các dân tộc.
Xã hội công dân của xã hội tư bản không thể giải quyết các mâu thuẫn đối
kháng. Các nhà nước tư bản chủ nghĩa không thể làm tốt công tác điều tiết xã
hội mà nó luôn có xu hướng bảo vệ giai cấp tư sản, bóc lột các tầng lớp lao
động làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc hơn. Sự giàu mạnh của một
số nước tư bản chỉ là kết quả của việc khuyến khích người ta đặt lợi nhuận lên
hàng đầu mà không cần quan tâm đến vấn đề đạo đức hay xã hội. Hậu quả là
một bộ phận nhỏ của xã hội trở nên giàu có dựa trên sức lao động và sự nghèo
khổ của đa số mọi người.
Kinh tế tư bản đặt lợi nhuận làm nền tảng, do đó thường gây ra các vấn
nạn ô nhiễm môi trường, hủy hoại môi sinh, bất chấp hậu quả đối với sức
khỏe cộng đồng, làm cạn kiệt tài nguyên, hay vì lợi nhuận họ có thể làm hàng
giả, thức ăn, đồ uống, sản phẩm tiêu dùng độc hại gây bệnh tật cho người tiêu
dùng (đây thường là một vấn nạn của kinh tế thị trường).
Phân hóa về dân trí và lối sống, băng hoại đạo đức xã hội, gây nhiều tệ
nạn.


3


Sự ganh đua của các nhà tư bản và lao động dẫn đến gia tăng lối sống ích
kỷ, hẹp hòi.
2. Đối với những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản bao gồm những người theo các học
thuyết chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa bảo thủ, dân chủ Thiên Chúa giáo, đôi khi
cả dân chủ xã hội.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cho rằng: Hình thức kinh tế thị
trường tự do không bị nhà nước can thiệp của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là
bộ điều tiết kinh tế tổng hợp vạn năng cho kinh tế thế giới và cùng với các
kinh nghiệm phòng tránh khủng hoảng mà kinh tế tư bản chủ nghĩa thu nhận
được nó sẽ mang một sức sống mới cho tương lai kinh tế nhân loại. Đây là
luận điểm của một số nhà kinh tế học hàng đầu của châu Âu và Mỹ ngày nay
đứng

đầu

là Alan

Greenspan (Alan

Greenspan sinh

ngày 6

tháng

3 năm 1926 tại Thành phố New York) là nhà kinh tế học Mỹ và là Chủ tịch
Hội đồng Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ từ 1987 đến 2006) là đại
điện cổ vũ cho một nền kinh tế thị trường tự do toàn phần không bị nhà nước

can thiệp.
Trong quá trình tự tổ chức và cạnh tranh vì lợi nhuận của các doanh
nghiệp tư bản, xã hội sẽ được lợi hơn và xã hội sẽ tiến nhanh về phía trước
hơn là hình thái đặt mục tiêu trực tiếp thoả mãn các quyền lợi của xã hội lên
trên quyền lợi của các doanh nghiệp tư bản tư nhân. Đây là luận điểm mà đại
diện là Adam Smith (Adam Smith sinh ngày 16 tháng 6 năm 1723; mất
ngày 17 tháng 7 năm1790) là nhà kinh tế chính trị học và triết gia đạo đức
học lớn người Scotland) ông tổ của kinh tế học tư bản chủ nghĩa và đã phần
nào được chứng thực bằng thực tế tranh đua của hai nền kinh tế cộng sản – tư
bản trong thế kỉ XX.


4

Maximilian Carl Emil Weber (Maximilian Carl Emil Weber (1864 –
1920) là nhà kinh tế chính trị học và xã hội học người Đức). cho rằng chủ
nghĩa tư bản là tương lai của nhân loại vì nó phát triển tính năng động của nền
kinh tế nói riêng và xã hội nói chung. Người lao động gắn bó với chức phận
và nghề nghiệp.
Chủ nghĩa tư bản sẽ mất dần tính ích kỷ và dần sẽ biến đổi thành chủ
nghĩa tư bản nhà nước với sở hữu dần tập trung vào tay nhà nước hoặc chủ
nghĩa tư bản toàn dân với hình thức các công ty cổ phần. Đây là phái lý luận
ủng hộ sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế tư bản chủ nghĩa mà đại diện
là John Maynard Keynes (John Maynard Keynes (1883 - 1946) là một nhà
kinh tế học người Anh).
Xã hội công dân của chủ nghĩa tư bản có khả năng điều tiết các bất bình
đẳng để hướng đến một xã hội ngày càng công bằng hơn mà vẫn giữ được
tính năng động tư bản chủ nghĩa.
Chủ nghĩa tư bản trên cơ sở cạnh tranh để tồn tại và tối đa hóa lợi nhuận,
do đó chú trọng phát triển khoa học kỹ thuật, sáng tạo, tôn trọng người tài

năng, có trí thức.
Chủ nghĩa tư bản trên cơ sở tư hữu, cạnh tranh, do đó hạn chế tha hóa nhà
nước.
Chủ nghĩa tư bản khích lệ tư tưởng tự do cá nhân, quyền cá nhân.
II. Đánh giá chung về chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Như vậy, đánh giá như thế nào cho thật sự khách quan về chủ nghĩa tư bản
hiện đại là không dễ dàng, nhưng với góc độ khách quan mà nói từ thực tế
lịch sử của thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay cho chúng ta
thấy rằng chủ nghĩa tư bản hiện đại đã có sự thay đổi so với trước trên tất cả
các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, xã hội.


5

1. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã chuẩn bị một lực lượng sản xuất và cơ sở
vật chất kĩ thuật ở mức độ rất cao.
Thành tựu lớn của chủ nghĩa tư bản hiện đại là sự phát triển của lực lượng
sản xuất và cơ sở vật chất kĩ thuật đầy đủ nhất cho tương lai: năng suất lao
động hơn nước đang phát triển khoảng 100 lần; nông nghiệp hơn 5-8 lần; làm
ra khoảng 2/3 sản phẩm trên thế giới; đời sống con người hơn 10-20 lần.
Cách mạng công nghệ thông tin và công nghệ cao phát triển mạnh mẽ.
Công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành lớn nhất và ngành
tăng trưởng nhanh, nhất là vào nửa cuối thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Cùng với
sự lan rộng trên toàn cầu của cách mạng công nghệ thông tin, các ngành công
nghệ cao mới khác như sinh học, vật liệu mới, nguồn năng lượng mới, hàng
không vũ trụ... cùng đang phát triển mạnh mẽ. Sự tiến bộ và những bước đột
phá của khoa học kỹ thuật đã mở ra không gian rộng lớn mới cho sự phát triển
của sức sản xuất.
Giáo dục - đào tạo được tăng cường làm cho tố chất công nhân được nâng
cao, từ đó đặt nền móng vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động và

sức cạnh tranh.
Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh
tế tri thức. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra 200 năm
trước, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển đổi từ kinh tế nông nghiệp sang kinh
tế công nghiệp, cách mạng công nghệ thông tin hiện nay đang thúc đẩy nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức.
Trong kinh tế tri thức, vai trò của tri thức và kỹ thuật đã cao hơn các yếu
tố như nguồn tài nguyên tự nhiên và vốn, trở thành yếu tố sản xuất quan trọng
nhất. Vận hành của kinh tế tri thức chủ yếu không còn do người lao động cơ
bắp thao tác máy móc mà chủ yếu do những người lao động trí óc trong các
ngành thiết kế, nghiên cứu phát triển cũng như truyền bá tri thức thúc đẩy.


6

Cùng với sự chuyển đổi loại hình kinh tế, kết cấu ngành nghề của chủ
nghĩa tư bản cùng được điều chỉnh và nâng cấp hơn, chuyển sang dịch vụ hóa
và công nghệ cao hóa. Điều này thể hiện ở chỗ: trong ba ngành nghề lớn, vị trí
của nông nghiệp hạ thấp vị trí của dịch vụ, đặc biệt là ngành dịch vụ có liên
quan đến công nghệ mới được tăng lên.
2. Kiến trúc thượng tầng của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Có sự kế thừa, đan xen giữa kiến trúc thượng tầng cũ và mới, cả trong văn
hóa, nghệ thuật, nhà nước pháp quyền…
Đa đảng và đa nguyên chính trị: Vì nền tảng kinh tế tư bản chủ nghĩa
khước từ mô hình chỉ huy tập trung, kinh tế tư bản đề cao sự hành động của cá
nhân nên trong xã hội cũng hiếm có với những quan điểm hoặc tín lý mang
tính chi phối áp đảo. Các quốc gia tư bản chủ nghĩa không có giáo lý chung
cho "chủ nghĩa" của hệ thống này. Xã hội tư bản chủ nghĩa không bắt buộc
công nhận bất cứ "chủ nghĩa", học thuyết hoặc nhân vật thần thánh nào. Tôn
giáo cũng bị phán xét, mọi lý thuyết xã hội, chính trị hoặc lý luận của các tổ

chức và cá nhân đều phải qua thực tế kiểm nghiệm và phán xét công khai và
được chấp nhận hoặc loại bỏ. Do đó chế độ chính trị của xã hội tư bản chủ
nghĩa thường dựa trên chế độ đa đảng cạnh tranh và đa nguyên chính trị. Đây
là đặc điểm tư tưởng chính trị khác nhau cơ bản của một "nhà nước tư bản chủ
nghĩa" với một "nhà nước xã hội chủ nghĩa", cộng sản chủ nghĩa hoặc
một nhà nước thần quyền.
Tuy nhiên không phải chủ nghĩa tư bản luôn đi kèm với đa nguyên, đa
đảng, mà nó có thể len lỏi vào các chế độ nhất nguyên, hay độc tài - chuyên
chế, mà biểu hiện của nó thường kinh tế thị trường không hoàn thiện, sự tồn
tại của chủ nghĩa tư bản nhà nước, tư nhân và nước ngoài, hạn chế cạnh tranh
hay cạnh tranh không bình đẳng, độc quyền lợi nhuận.


7

Chủ nghĩa tư bản được hiểu một hình thái kinh tế, nhưng tác động các mặt
chính trị - xã hội và văn hóa. Sự tác động vào văn hóa trước hết là sự chấp
nhận một sự đa dạng về văn hóa, không có định hướng rõ ràng và sự phát
triển của văn hóa tiêu dùng. Văn hóa chịu sự tác động của chủ nghĩa tư bản,
xuất hiện sự cạnh tranh và sự biến đổi mang tính tự nhiên không có tính
cưỡng ép, theo "quy luật đào thải" tự nhiên, và các sản phẩm văn hóa ngày
càng có tính thị trường hóa, hay được xem như một thứ hàng hóa. Các hoạt
động văn hóa phát triển theo chiều hướng phục vụ nhu cầu thị trường, thiếu
dần sự kiểm soát và định hướng, có khi sự thành công của các tác phẩm văn
hóa được "kinh doanh", đo đếm theo doanh thu hay lời lãi, chứ không phải ở
chính giá trị đích thực của nó. Nắm bắt các nhu cầu, bỏ qua hay xem nhẹ tính
định hướng theo các quy chuẩn đạo đức, thẩm mỹ...là một đặc điểm phổ biến.
Do đó sự tồn tại của các tác phẩm văn hóa tiêu dùng, thậm chí là độc hại theo
các quy chuẩn đạo đức phổ quát, tập quán hay của các giáo lý tôn giáo, các tư
tưởng chống chủ nghĩa tư bản là một sự tất yếu, thậm chí phát triển mạnh, như

các thể loại âm nhạc, điện ảnh, văn học, nhiếp ảnh, hội họa có tính chất "bình
dân hóa", "mỳ ăn liền", "rẻ tiền" (các thể loại hay xếp vào dạng này như phim
cấp ba, phim ảnh khiêu dâm, phim, truyện "chưởng", "tâm lý xã hội"...), các
loại hình giải trí rẻ tiền... Đi kèm với sự phát triển này là sự phát triển của báo
lá cải, thường được hiểu là các báo nội dung giải trí rẻ tiền, thường nhắm vào
các đối tượng như nông dân, phụ nữ và thanh thiếu niên ít học,...để thu lợi
nhuận là chính. Báo chí lệ thuộc vào thị trường, năng động nhưng bị chi phối
bởi cung cầu và nhá báo bị lệ thuộc vào người cấp vốn. Các kênh truyền hình
tư nhân thường chỉ chạy theo thị hiếu rẻ tiền, đặc biệt ở các nước kiểm soát
chính trị chặt.
Bản chất của chủ nghĩa tư bản chấp nhận một sự đa dạng và đào thải theo
quy luật tự nhiên chứ không định hướng nên những người ủng hộ chủ nghĩa tư


8

bản cũng thường chấp nhận một nền văn hóa tiêu dùng, và coi nó là một sự
thúc đẩy cho sự phát triển của văn hóa, nghệ thuật vốn dĩ rất đa dạng và
phong phú. Ngược lại, những người chú trọng đến các tư tưởng văn hóa, đạo
đức, giáo lý tôn giáo hay chủ nghĩa xã hội... thường không chấp nhận bởi một
nền văn hóa hỗn tạp, rẻ tiền và chạy theo lợi nhuận sẽ khiến xã hội dần đánh
mất các giá trị đạo đức cao đẹp và các giá trị thẩm mỹ cao đẹp, và họ cố gắng
điều chỉnh nó hoặc gạt bỏ nó... Tuy nhiên một thực tế là "văn hóa tư bản"
đang xâm nhập ngày càng mạnh mẽ vào những xã hội đã từng xa lạ nó, đi
kèm với sự tồn tại của "văn hóa mỳ ăn liền" và lối sống thực dụng.
Một minh chứng cho thấy sự can thiệp của chủ nghĩa tư bản vào văn hóa
hay là "thị trường hóa văn hóa" là vấn đề thu nhập. Nhiều "ngôi sao" ca nhạc,
điện ảnh, hay bóng đá... lại có thu nhập rất cao so với thu nhập bình quân
chung, và thường không phản ánh đúng đóng góp của họ cho xã hội hay công
sức họ bỏ ra. Ví dụ: những diễn viên chuyên đóng phim mỳ ăn liền lại có thể

thu nhập cao hơn nhiều so với các nhà khoa học lao động trí óc và các nghệ sĩ
điện ảnh ưu tú, trong khi mức đóng góp cho xã hội thì ít hơn hẳn. Nó phản
ánh một thu nhập dựa theo các nguyên tắc của thị trường mà không có một
chủ thể kể cả nhà nước đứng ra can thiệp, dựa trên quy luật cung - cầu đáp
ứng nhu cầu xã hội, quy luật đào thải qua cạnh tranh lao động và sức ép mà
những người được hưởng thu nhập cao phải chịu tác động và vượt qua... và đi
kèm với nó là sự bất công. Để thu lợi, người ta sẵn sàng thực hiện các hành vi
phi văn hóa nhưng lại đáp ứng sự hiếu kỳ của công chúng, nó trái với các
nguyên tắc đạo đức vốn nhằm hướng tới bảo toàn lợi ích chung của xã hội
(trong trường hợp này, quyền tự do cá nhân thái quá đã gây tổn hại đến lợi
tích chung của xã hội nhưng lại không có pháp luật đứng ra ngăn chặn).


9

Nhìn chung những người ủng hộ văn hóa tư bản cũng ủng hộ cho lối sống
tự do cá nhân, tự nhận thức, nhưng những người phản đối nó thì dựa vào các
quy phạm xã hội, bảo tồn lợi ích chung mà họ cho là hiển nhiên để bác bỏ.
Y tế trong xã hội tư bản chấp nhận y tế do tư nhân cung cấp, thường là
những người giàu có điều kiện đi khám các bệnh viện tư. Giáo dục thì giai
đoạn đầu dựa trên lao động cơ bắp nên tỷ lệ mù chữ ít học cao, học vấn chủ
yếu là những người giàu, về sau chú trọng kinh tế tri thức thì giáo dục phát
triển hơn, nhưng ở một số nước thường có sự phân biệt hệ thống giáo dục
dành cho người giàu và kẻ nghèo.
3. Về quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Chế độ sở hữu: nhiều chế độ sở hữu: từ sở hữu có tính chiếm hữu nô lệ,
tính phong kiến, và tư sản.
Quan hệ sở hữu cũng có những thay đổi, biểu hiện nổi bật là sự phân tán
quyền nắm cổ phiếu tăng lên. Phân tán hóa quyền khống chế cổ phiếu có lợi
cho cải thiện quan hệ giữa chủ xí nghiệp và công nhân.

Kết cấu giai cấp cũng đã có những biến đổi lớn, các giai cấp, tầng lớp,
đoàn thể xã hội và tập đoàn cùng tồn tại và tác động lẫn nhau. Nổi bật nhất là
sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu (hay còn gọi là giai cấp trung sản), chiếm
khoảng 40-50% dân số. Trên thực tế, phần lớn trong số này có cổ phiếu hoặc
một phần vốn, rất nhiều trong số họ là phần tử trí thức hoặc nhân viên chuyên
ngành, có địa vị nghề nghiệp khá tốt, đã không còn là giai cấp vô sản theo
quan niệm truyền thống nữa.
Về chế độ quản lí: có năng lực làm chủ quản lí khoa học cả vĩ mô lẫn vi
mô, biết xây dựng kế hoạch 5 năm, 10 năm hoặc lâu dài hơn; biết hạch toán
kinh tế, khoa học; biết tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có những biến đổi
lớn. Trong điều kiện mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và kinh tế tri thức,


10

thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ các doanh nghiệp đã thực hiện các
bước điều chỉnh và cải cách lớn.
- Thứ nhất, doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết lập cơ cấu tổ chức
hàng ngang và mạng lưới. Phương hướng cải cách là xóa bỏ hệ thống kiểu
kim tự tháp truyền thống như tập trung quá lớn quyền lực, đa tầng thứ và theo
chiều dọc, thay thế bằng hệ thống kiểu mạng lưới phân quyền, ít tầng thứ và
theo chiều ngang nhằm giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, đơn
giản trình tự quyết sách, phát huy đầy đủ tính chủ động và trách nhiệm của
toàn thể công nhân nhằm nâng cao hiệu quả công tác.
- Thứ hai, dùng công nghệ cao cải cách cơ chế quản lý sản xuất. Để thích ứng
với những thay đổi từ thể chế sản xuất theo "đơn đặt hàng", doanh nghiệp
thiết lập hệ thống sản xuất linh hoạt, hệ thống sản xuất bằng máy tính, chế độ
cung cấp thích hợp và cơ chế phát triển theo nhu cầu (tức khâu sản xuất càng
gần gũi với khách hàng hơn).

- Thứ ba, thực hiện cải cách quản lý lao động lấy con người làm gốc, yêu cầu
đối với công nhân chủ yếu không phải là điều kiện thế lực mà là phải có kỹ
năng và tri thức cao hơn để họ phát huy tính chủ động và tính sáng tạo, từ đó
nâng cao năng suất lao động và tăng cường thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Thứ tư, thay đổi hình thức tổ chức doanh nghiệp xuất hiện xu thế hai loại
hình lớn hóa và nhỏ hóa cùng hỗ trợ nhau tồn tại. Các doanh nghiệp lớn đã
không ngừng mở rộng ưu thế về quy mô, tăng cường sức mạnh thị trường của
công ty. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ linh hoạt hơn, có tinh thần sáng tạo
hơn cũng được phát triển mạnh mẽ, làm cho kinh tế tư bản chủ nghĩa có sức
sống và hiệu quả cao.
Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường.
- Thứ nhất, kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển kinh tế nhằm
nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia. Những năm 90 của thế kỷ XX,


11

việc thiết lập thị trường chung châu Âu và sự ra đời của đồng tiền chung châu
Âu, bất kể đối với châu Âu hay đối với cả thế giới, đều có ý nghĩa không thể
xem nhẹ.
- Thứ hai, sự lựa chọn chính sách thực dụng. Những năm 90 của thế kỷ XX,
dù là Mỹ hay châu Âu đều áp dụng mô hình chính sách "Con đường thứ ba",
trên thực tế là sự dung hòa quan niệm giá trị truyền thống và chủ trương chính
trị của chủ nghĩa tự do với một số biện pháp của chủ nghĩa bá thủ mới, đóng
vai trò tích cực cho việc xoa dịu những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản hiện
nay.
- Thứ ba, căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế khác nhau của từng thời kỳ,
vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách tiền tệ, kịp thời điều
chỉnh mâu thuẫn cung cầu trong xã hội và mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội
khác nhau.

Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan trọng trong hệ
thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, là lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa
kinh tế.
Các công ty xuyên quốc gia (TNC) là các công ty tư bản độc quyền bành
trướng thế lực ra nước ngoài dưới hình thức cài cắm nhanh. Hiện tại, các công
ty xuyên quốc gia được nhà nước ở các nước tư bản chủ nghĩa nâng đỡ, thông
qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài trên quy mô lớn, các công ty xuyên quốc
gia mua và thôn tính các tài sản ở nước ngoài, không ngừng tăng cường thực
lực, mở rộng thị phần. Cùng với sự phát triển nhanh của toàn cầu hóa kinh tế,
ngày càng nhiều xí nghiệp trong nước trở thành công ty xuyên quốc gia. Dựa
vào thực lực hùng hậu của bản thân, các công ty xuyên quốc gia đã trở thành
lực lượng chủ yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản độc
quyền liên quốc gia phát triển. Do có thực lực kinh tế, chính trị hùng mạnh, hệ
thống sản xuất, tiêu thụ, dịch vụ, nghiên cứu khoa học, thông tin toàn cầu hóa,


12

các công ty xuyên quốc gia đã có tác động lớn đến các mặt của đời sống chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, và thế lực của họ đã thâm nhập các lĩnh vực trên
toàn thế giới.
Điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường. Trong bối cảnh toàn cầu
hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tư bản chủ nghĩa ngày càng chú
trọng phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, những xung đột kinh tế như
chiến tranh mậu dịch, chiến tranh tỷ giá hối đoái, chiến tranh lãi suất mà trước
đây thường có giữa các nước phương Tây đã giảm xuống. Việc giải quyết
mâu thuẫn giữa các nước phương Tây đã giảm xuống và thường áp dụng hình
thức thương lượng thỏa hiệp chứ không đối kháng gay gắt như trước. Những
năm gần đây, phối hợp và hợp tác quốc tế được tăng cường rõ rệt, hiệu quả
cũng không ngừng được nâng cao. (Ví dụ như: sự phối hợp giữa các nước tư

bản về chính sách tài chính, tiền tệ sau "sự kiện 11-9-2001", sự phối hợp giữa
Mỹ, EU và Nhật Bản để tìm lối thoát ra khỏi khủng hoảng tài chính tiền tệ
trên quy mô toàn cầu năm 2008). Vai trò của các tổ chức kinh tế khu vực và
quốc tế phát huy tác dụng ngày càng nổi bật khi điều tiết quan hệ kinh tế quốc
tế và trở thành một trong những chủ thể mới điều tiết quan hệ kinh tế tư bản
chủ nghĩa (chẳng hạn Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tham gia một cách toàn diện
vào công việc cứu viện trong khủng hoảng tái chính châu Á đã giúp các nước
hội viên khắc phục khó khăn tạm thời về thu chi tài chính quốc tế).
Về phân phối: vừa phân phối theo tư bản, còn phân phối theo lao động
nhiều hình thức phong phú (chiêu hiền đãi sĩ, lượng hóa lao động chất
xám…); có nhà nước phúc lợi chung.
Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất, thu nhập bằng tiền lương của người
lao động cũng có được mức tăng trưởng khá lớn. Điều này cho thấy, mâu
thuẫn giai cấp trong xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn tồn tại nhưng nhờ những điều
chỉnh của chủ nghĩa tư bản về quan hệ sản xuất, mà bắt nguồn từ những thay


13

đổi trong quan hệ sở hữu, nên đã phần nào xoa dịu được tính gay gắt của mâu
thuẫn này.
Như vậy, cả ba mặt lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng
tầng phát triển hài hòa, nhiều nhân tố mới trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện
đại.
4. Những hạn chế của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Hạn chế về thay đổi cơ cấu kinh tế: sự phát triển ngành dịch vụ, giảm ngành
công nghiệp dẫn đến thất nghiệp cơ cấu; kinh tế các nước đang phát triển khó
khăn vừa bị lệ thuộc bên ngoài, vừa thừa vừa thiếu; vừa là bãi rác của chủ
nghĩa tư bản hiện đại.
- Hạn chế về khu vực hóa, toàn cầu hóa: do chênh lệch về trình độ, năng lực

kinh tế nước đang phát triển thiệt thòi trong khu vực hóa, toàn cầu hóa.
- Chạy đua vũ trang: chi phí cho quân sự lớn, nhất là nước nghèo bị đe dọa
chủ quyền lãnh thổ. Mỹ vẫn là nước đầu tư cho quân sự nhiều nhất thế giới
với mức 640 tỉ USD trong năm 2013, dù đã giảm 7,8% so với năm trước đó.
Tại châu Á, Trung Quốc trở thành quốc gia chi tiêu cho quân sự nhiều thứ hai
thế giới với 188 tỉ USD (tăng 7,4%). Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ cũng
thuộc nhóm chi tiêu quân sự cao nhất thế giới.
- Chênh lệch giàu nghèo trong nước tư bản hiện đại. ở Mỹ công bố số liệu cho
thấy trong năm 2008, những người giàu nhất, có thu nhập cao hơn 11,4 lần so
với nhóm cận nghèo hoặc dưới mức nghèo khổ. Trong khi nhóm 10% dân số
Mỹ kiếm được trung bình 138.000 USD mỗi năm, những người nghèo chỉ
kiếm được trung bình 12.000 USD. Chênh lệch giàu nghèo thể hiện rõ rệt nhất
ở những thành phố lớn như Washington, New York và mờ nhạt nhất ở những
vùng đông tầng lớp trung lưu như California, Texas. Ở Đức năm 1998, 10%
số hộ thượng lưu mới chỉ chiếm khoảng 45,1% số tài sản ròng thì năm 2013,
con số này đã tăng lên gần 52%.


14

Nói tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay đã không còn mặc cái áo như xưa
nữa, nó đã thay vào một chiếc áo mới. Những gì mà chủ nghĩa tư bản có ngày
hôm nay cho ta thấy rằng chủ nghĩa tư bản đang trong giai đoạn phát triển hơn
nữa của nó. Việt Nam dù không theo chủ nghĩa tư bản nhưng cần phải bình
tĩnh học hỏi những cái hay, cái tốt của chủ nghĩa tư bản để làm sao nâng cao
đời sống cho nhân dân. Đồng thời, tránh những hạn chế mà chủ nghĩa tư bản
đã vướng phải.




×