Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Xu thế quốc tế hóa về kinh tế trong thời đại ngày nay.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.91 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại ngày nay, không một quốc gia nào trên thế giới dù đó là quốc gia
phát triển lại có thể tiếp tục phát triển hoặc các quốc gia đang phát triển muốn phát
triển mà lại đứng biệt lập, tách rời quan hệ kinh tế với các nước khác. Xu thế quốc
tế hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động chủ yếu trong
đời sống kinh tế quốc tế hiện nay. Xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế là một yếu
tố khách quan, bắt nguồn từ sự khác biệt về điều kiện địa lý tự nhiên giữa các quốc
gia trên thế giới và sự phát triển không đồng đều của lực lượng sản xuất dẫn đến sự
mở cửa để hội nhập với các nền kinh tế quốc tế trở thành điều kiện bắt buộc để
phát triển. Như vậy thì các quốc gia trên thế giới muốn tồn tại và phát triển thì
không còn cách nào khác là phải tham gia vào quá trình phân công lao động quốc
tế.
Việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là yêu cầu rất cấp bách để xây dựng nền kinh
tế phát triển nhanh ở nước ta. Muốn phát triển nền kinh tế lạc hậu, thiếu vốn, thiếu
những kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài thì đầu tư nước ngoài đã trở
nên một vấn đề quan trọng và cần thiết để phát triển nền kinh tế. Thông qua đầu tư
nước ngoài thì nước tiếp nhận đầu tư có thể tranh thủ huy động được nguồn vốn,
công nghệ, kỹ thuật hiện đại của nước ngoài, tiếp thu được những kinh nghiệm
quản lý tiên tiến của nước ngoài. Không những thế đầu tư nước ngoài còn là cơ hội
để tìm kiếm thị trường bên ngoài, tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới.
Nắm bắt được tình hình thực tế đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12
năm 1986) đã đề ra những chính sách hết sức đúng đắn, đánh dấu bước chuyển
biến quan trọng, xoá bỏ hoàn toàn cơ chế quan liêu bao cấp cũ. Một trong những
bước chuyển biến lớn trong định hướng đổi mới kinh tế, thể chế hoá đường lối của
Đại hội VI là việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987.
Từ khi được ban hành, luật đầu tư nước ngoài của nước ta đã được các nhà đầu tư
coi là hấp dẫn, phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt
động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên để phù hợp với thực trạng đầu tư
ở từng giai đoạn, Luật đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất năm
1990 và lần thứ hai năm 1992, mặc dù vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Để thu
hút có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài với quy mô lớn, chất


lượng cao hơn phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì Nhà nước ta đã
ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 thay thế cho các văn bản
luật về đầu tư nước ngoài từ trước tới nay.
Trong nội dung của đề tài này tôi chỉ đề cập đến doanh nghiệp liên doanh, là một
trong nhiều hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tiểu luận này đã được trình bày như sau:
Phần I: Lý thuyết chung về FDI và doanh nghiệp liên doanh.
Phần II: Tình hình hoạt động và thu hút các doanh nghiệp liên doanh ở Việt
Nam.
Phần III: Giải pháp để tăng cường thu hút FDI liên doanh vào Việt Nam.
Phần IV: Kết luận
Phần I
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ FDI VÀ DOANH NGHIỆP LIÊN DOANH
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment – FDI).
Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại
nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một
khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh
hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong
thực thể kinh tế ấy.
Theo luật đầu tư năm 2005, quốc hội khoá XI Việt Nam đã thông qua có các khái
niệm về “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài”, “đầu tư ra nước ngoài”
nhưng không có khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên, có thể thể
“gộp” các khái niệm trên lại và có thể hiểu “FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư
nước ngoài bỏ vốn và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu
tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo
quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”. (nguồn
tham khảo như đã dẫn ở trên).
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “một doanh
nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách
pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc

có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện
quyền kiểm soát công ty”.
Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu
tư ở một nươc khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có
được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc
gia đó, với mục tiên tối đa hoá lợi ích của mình”.
Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy
móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bát động sản, các loại hợp đòng và giáy phép có
giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…)
hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI
bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ
bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư
(pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối
tượng đầu tư.
Các hình thức FDI phổ biến
1. Doanh nghiệp liên doanh .
2. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài .
3. Hợp đồng hợp tác kinh doanh .
4. Đầu tư theo hợp đồng BOT.
5. Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và con .
6. Hình thức công ty cổ phần.
7. Hình thức chi nhánh công ty nước ngoài.
8. Hình thức công ty hợp danh.
9. Hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập.
2. Doanh nghiệp liên doanh:
Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài gọi tắt là liên doanh là hình thức được sử
dụng rộng rãi nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới từ trước đến nay.
Nó công cụ để thâm nhập vào thị trường nước ngoài một cách hợp pháp và có hiệu
quả thông qua hoạt động hợp tác

Khái niệm liên doanh là một hình thức tổ chức kinh donah có tính chất quốc tế,
hình thành từ những sự khác biệt giữa các bên về quốc tịch, quản lý, hệ thống tài
chính, luật pháp và bản sác văn hoá; hoạt động trên cơ sở sự đóng góp của các bên
về vốn, quản lí lao động và cùng chịu trách nhiệm về lợi nhuận cũng như rủi ro có
thể xảy ra; hoạt động của liên doanh rất rộng, gồm cả hoạt động sản xuất kinh
doanh, cung ứng dịch vụ, hoạt động nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu triển khai.
* Đối với nước tiếp nhận đầu tư
- Ưu điểm: giúp giải quyết tình trạng thiếu vốn, giúp đa dạng hoá sản phẩm, đổi
mới công nghệ, tạo ra thị trường mới và tạo cơ hội cho ngưòi lao động làm việc,
kết nối ngược trở lại với nền kinh tế nước nhà một cách mạnh hơn và học tập kinh
nghiệm quản lí của nước ngoài.
- Nhược điểm: mất nhiều thời gian thương thảo vác vấn đề liên quan đến dự án đầu
tư, thường xuất hiện mẫu thuẫn trong quản lý điều hành doanh nghiệp; đối tác
nước ngoài thương quan tâm đến lợi ích toàn cầu, vì vậy đôi lúc liên doanh phải
chịu thua thiệt vì lợi ích ở nơi khác.; thay đổi nhân sự ở công ty mẹ có ảnh hưởng
tới tương lai phát triển của liên doanh.
* Đối với nhà đầu tư nước ngoài:
- Ưu điểm: tận dụng được hệ thống phân phối có sẵn của đối tác nước sở tại; được
đầu tư vào những lĩnh vực kinh doanh dễ thu lời, lình vực bị cấm hoặc hạn chế đối
với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; thâm nhập được những thị
trường truyền thống của nước chủ nhà. Không mất thời gian và chi phí cho việc
nghiên cứu thị trường mới và xây dựng các mối quan hệ. Chia sẻ được chi phí và
rủi ro đầu tư
- Nhược điểm: khác biệt về nhìn nhận chi phí đầu tư giữa hai bên đối tác; mất
nhiều thời gian thương thảo mọi vấn đề liên quan đến dự án đầu tư, định giá tài sản
góp vốn giải quyết việc làm cho người lao động của đối tác trong nước; không chủ
động trong quản lý điều hành doanh nghiệp, dễ bị mất cơ hội kinh doanh khó giải
quyết khác biệt về tập quán, văn hoá.
Phần II
TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM

1. Tình hình thu hút và thực hiện vốn đầu tư nước ngoài đến năm 2009
Tính đến tháng 10/2009, cả nước có 10.805 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng
ký 174,7 tỷ USD.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành trong hệ thống phân ngành
kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo vẫn là lĩnh vực
thu hút đầu tư nước ngoài lớn nhất, chiếm 62,1% số dự án và 50,6% vốn đăng ký
tại Việt Nam.
Đến nay, 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có đầu tư vào Việt Nam, trong đó Đài
Loan là nhà đầu tư số 1 với 2.010 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 21,28 tỷ
USD. Hàn Quốc đứng thứ 2 với 2.283 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 20,4 tỷ
USD. Tiếp theo là nhà đầu tư Malaysia, Nhật Bản và Singapore.
Đầu tư nước ngoài đã có mặt 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó TP HCM
vẫn là nơi thu hút nhiều nhà đầu tư nhất với 3.092 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký
27,1 tỷ USD, chiếm 28,6% tổng dự án và 15,5% tổng vốn đăng ký cả nước. Bà Rịa
- Vũng Tàu
2. Thực trạng thu hút nguồn vốn FDI liên doanh vào Việt Nam
PHÂN THEO HÌNH THỨC ĐẦU TƯ
TT Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư đăng ký (USD) Vốn điều lệ (USD)
1 100% vốn nước ngoài 8391 108.633.853.167 34.410.651.818
2 Liên doanh 2000 54.564.356.809 15.732.624.395
3 Hợp đồng hợp tác KD 221 4.961.177.440 4.479.464.521
4 Công ty cổ phần 183 4.711.218.301 1.354.147.481
5 Hợp đồng BOT,BT,BTO 9 1.746.725.000 466.985.000
6 Công ty mẹ con 1 98.008.000 82.958.000
Tổng số 10.805 174.715.338.717 56.526.831.215
Qua bảng số liệu, ta thấy rằng nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào hình thức
công ty có 100% vốn nước ngoài, tiếp đó là liên doanh nhưng cũng chiếm tỷ lệ rất
thấp, các hình thức khác thì không đáng kể. Điều đó chứng tỏ rằng Việt Nam vẫn
chưa thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh với các công ty Việt
Nam.

Nguyên nhân do cơ chế quản trị của ba loại hình doanh nghiệp hiện đang tồn tại ở
Việt Nam (sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân và đầu tư nước ngoài) có đặc điểm

×