Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Cac thiet che dam bao quyen con nguoi cua LHQ, khu vuc va QG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.19 KB, 22 trang )

KHOA LUẬT – ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
-----------------------------------

BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT NHÂN QUYỀN QUỐC TÊ
Chuyên đề 3&4:
Các thiết chế đảm bảo quyền con người của liên hợp quốc
Các thiết chế đảm bảo quyền người ở cấp độ khu vực và quốc gia
LỚP CAO HỌC LUÂÂT QUỐC TẾ K19
NHÓM 2:
Vũ Thị Hồng Dung

Vũ Thu Hà

Phạm Mỹ Dung

Phạm Trường Hải

Trần Thị Thùy Dương

Đỗ Thị Hằng

Phạm Thị Giang

Trần Ánh Hồng

Nguyễn Thị Thanh Hà

Nguyễn Thị Hương

Hà Nội, 4/2014




MỤC LỤC

2


LỜI MỞ ĐẦU
Nhân quyền, hay quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không bị
tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Tuy nhiên, trước khi các cơ chế bảo đảm nhân
quyền ra đời thì các khái niệm nhân quyền và các yếu tố liên quan đến nhân quyền nằm ở các
văn bản rời rạc và ít được tôn trọng. Sự ra đời của tổ chức LHQ các tổ chức quốc tế khác như
Hội chữ thập đỏ đã đánh dấu 1 bước quan trọng trong việc xây dựng các cơ chế và đảm bảo thực
thi nhân quyền. Từ đây, nhân quyền được đảm bảo bằng các văn bản với quy định rõ ràng, cụ thể
đồng thời có các cơ quan, cơ chế giám sát việc thực hiện. Cho dù có nhiều ý kiến khác nhau
nhưng có thể khẳng định , trên bình diện thế giới, với sự ra đời của các cơ chế nhân quyền ,
quyền con người ngày càng được tôn trọng và đảm bảo. Nhất là khi càng ngày có càng nhiều
quốc gia tham gia vào các cơ chế nhân quyền này. Đảm bảo nhân quyền trở thành một đòi hỏi tất
yếu của xã hội văn minh. Trong phạm vi bài thảo luận này, nhóm tôi chỉ đi vào xem xét hai vấn
đề là các thiết chế đảm bảo quyền con người của liên hợp quốc và các thiết chế đảm bảo
quyền người ở cấp độ khu vực và quốc gia.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người (human rights) là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác
nhau. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định,
nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người
thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định nghĩa này, quyền con người là những
bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân

phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental freedoms) của con
người.
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan
nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người
thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được
ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Như vậy, nhìn ở góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như
là những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những chuẩn mực này kết
tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng với con người, cho tất cả mọi người.
Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân
phẩm và mới có điều kiện phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con

3


người. Cho dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con
người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và trong mọi giai
đoạn lịch sử.
1.2. Nguồn gốc của quyền con người
Về nguồn gốc của quyền con người, có hai trường phái cơ bản đưa ra hai quan điểm trái
ngược nhau. Những người theo học thuyết về quyền tự nhiên (natural rights) cho rằng quyền con
người là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng chỉ đơn giản bởi họ
là thành viên của gia đình nhân loại. Các quyền con người, do đó, không phụ thuộc vào phong
tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức,
cộng đồng hay nhà nước nào; và không một chủ thể nào, kể cả các nhà nước, có thể ban phát hay
tước bỏ các quyền con người bẩm sinh, vốn có của các cá nhân.
Ngược lại với học thuyết về quyền tự nhiên là học thuyết về các quyền pháp lý (legal
rights), trong đó cho rằng các quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một
cách tự nhiên mà phải do các nhà nước xác định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật
hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa. Như vậy, theo học thuyết về quyền pháp lý, phạm vi,

giới hạn và ở góc độ nhất định, cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người phụ thuộc vào ý chí
của tầng lớp thống trị và các yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa...của các xã
hội.
Trên đây là những miêu tả khái quát hai học thuyết về nguồn gốc tự nhiên và pháp định
của quyền con người. Cho đến ngày nay, cuộc tranh luận về tính đúng đắn của hai học thuyết này
vẫn còn tiếp tục. Nhân loại vẫn đang bị chia rẽ bởi vấn đề này. Việc phân định tính chất đúng,
sai, hợp lý và không hợp lý của hai học thuyết này là không đơn giản do chúng liên quan đến
một phạm vi rộng lớn các vấn đề triết học, chính trị, xã hội, đạo đức, pháp lý…
1.3. Tính chất của quyền con người
Theo nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, quyền con người có các tính chất cơ bản là:
tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc
lẫn nhau, cụ thể như sau:
Tính phổ biến (universal): Thể hiện ở chỗ quyền con người là những gì bẩm sinh, vốn có
của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại,
không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính,
tôn giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân...
Tính không thể chuyển nhượng (inalienable): Thể hiện ở chỗ các quyền con người
không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả các cơ quan

4


và quan chức nhà nước, trừ một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một người phạm một
tội ác thì có thể bị tước quyền tự do.
Tính không thể phân chia (indivisible): Thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm
quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền
nào. Việc tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm,
giá trị và sự phát triển của con người.
Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau (interrelated, interdependent): Thể hiện ở chỗ việc
bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ thuộc và tác

động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến
việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp
hoặc gián tiếp tác động tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác.
I.4.
-

Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người
Bộ luật Nhân quyền quốc tế

Bộ luật về Quyền con người bao gồm các văn kiện sau đây: Tuyên ngôn thế giới về Nhân
quyền năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội và Công ước quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (cùng hai Nghị định thư của Công ước).
Tuyên ngôn thế giới về Nhân quyền năm 1948 (Tuyên ngôn Nhân quyền):
Tuyên ngôn Nhân quyền được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948.
Tuyên ngôn Nhân quyền không phải là một Điều ước quốc tế, do đó, nó không trực tiếp xác lập
nghĩa vụ pháp lý cho các quốc gia, Tuyên ngôn Nhân quyền chỉ mang tính khuyến nghị.
Tuyên ngôn ghi nhận các quyền và tự do cơ bản của con người theo hai nhóm quyền chủ
yếu: nhóm các quyền dân sự, chính trị và nhóm các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Tuyên ngôn
Nhân quyền không chỉ quy định và bảo vệ các quyền và tự do của con người mà còn xác định
những nghĩa vụ của các cá nhân tại cộng đồng họ sinh sống và tôn trọng các quyền và tự do của
những người khác phù hợp với trật tự công cộng, lợi ích và phúc lợi chung trong xã hội.
Công ước về các quyền dân sự và chính trị 1966:
Công ước là sự mở rộng và cụ thể hóa các quyền được bắt nguồn từ Tuyên ngôn Nhân
quyền 1948. Công ước ghi nhận quyền tự quyết của các dân tộc, việc ghi nhận này đã nhấn mạnh
giá trị, tầm quan trọng của các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới được đấu tranh giành
độc lập dân tộc, thực hiện quyền tự quyết của mình. Ngoài ra, Công ước cũng quy định tất cả các
quốc gia là thành viên của Công ước cam kết tôn trọng và đảm bảo cho mọi người trong phạm vi
lãnh thổ và thẩm quyền pháp lý của mình các quyền đã được ghi nhận trong Công ước này.
Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội 1966:
Ngoài việc ghi nhận quyền tự quyết của các dân tộc, Công ước xác định nghĩa vụ cho các

quốc gia thành viên sử dụng tối đa các tài nguyên sẵn có của mình nhằm thực hiện ngày càng

5


đầy đủ các quyền được ghi nhận trong Công ước. Công ước đã đưa ra những giới hạn áp dụng
các quy định của Công ước phụ thuộc vào ý chí, điều kiện, hoàn cảnh của từng quốc gia.
Hai nghị định thư của Công ước về các quyền dân sự và chính trị 1966:
+ Nghị định thư về cơ chế quốc tế xử lý những khiếu nại của cá nhân, NĐT này ghi nhận
sự tự nguyện hạn chế chủ quyền của quốc gia ký kết, bằng việc công nhận thẩm quyền của Ủy
ban Quyền con người, xem xét các khiếu nại trực tiếp của các cá nhân của quốc gia bên tham gia
NĐT.
+ Nghị định thư về bãi bỏ án tử hình, NĐT này xác lập nghĩa vụ cho các quốc gia ký kết
thực hiện các biện pháp cần thiết để bãi bỏ án tử hình trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Các văn kiện quốc tế khác về quyền con người:
+
Công ước quốc tế 1948 về ngăn ngừa và trừng trị nạn diệt chủng;
+
Công ước quốc tế 1965 về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc;
+
Công ước 1979 về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chống lại phụ nữ;
+
Công ước 1984 về chống tra tấn và mọi hình thức đối xử hay trừng phạt thô bạo, vô
nhân đạo hoặc hèn hạ;
+
Công ước 1989 về các quyền của trẻ em;
+
Công ước 1990 về việc bảo vệ quyền của những người lao động vi trú và thành viên
gia đình họ.
Những công ước quốc tế này có hiệu lực pháp lý và ràng buộc tất cả các quốc gia trong

công đồng quốc tế là thành viên công ước.
Vấn đề thực thi các quốc ước quốc tế cơ bản trên của các quốc gia được đặt dưới sự giám
sát bởi các ủy ban, nhóm công tác được thành lập theo Công ước.
II. CÁC THIÊT CHÊ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI CỦA LIÊN HỢP
QUỐC
2.1. Đại hội đồng – Liên hợp quốc
2.1.1. Quyền hạn và chức năng
Đối với vấn đề nhân quyền, quyền hạn và chức năng của Đại hội đồng được ghi nhận rõ
ràng tại điều 13 (1b) của hiến chương Liên hợp quốc giao cho Đại hội đồng “đề xướng những
nghiên cứu và thông qua những khuyến nghị” với mục đích “thực hiện các quyền con người và
các quyền tự do cơ bản đối với mọi người không biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn
giáo”. Khác với hội đồng bảo an, đại hội đồng chỉ thông qua các khuyến nghị, nghị quyết kể cả
các nghị quyết thông qua các điều ước quốc tế. Những khuyến nghị này không mang tính ràng
buộc về mặt pháp lí.
2.1.2. Thực tiễn hoạt động và hiệu quả
Bên cạnh việc thông qua những khuyến nghị và nghị quyết về các vấn đề liên quan, đặc
biệt là các vấn đề về quyền con người, Đại hội đồng còn thông qua các văn kiện khác có giá trị là

6


những văn bản thiết lập các tiêu chuẩn đặc biệt về quyền con người. Những văn bản này bao
gồm các điều ước quốc tế về quyền con người mà nếu các quốc gia thành viên Liên hợp quốc
chấp nhận tham gia, chúng sẽ trở thành những văn kiện có giá trị ràng buộc đối với quốc gia đó.
Ở giai đoạn đầu tiên của Liên hợp quốc, từ năm 1946 đến 1948, đại hội đồng đã thông
qua một loạt các nghị quyết về quyền con người, tái khẳng định nguyên tắc của luật pháp quốc tế
áp dụng đối với các tội ác chống nhân loại và tội ác chiến tranh. Những nguyên tắc này thể hiện
rõ trong Hiến chương Tòa án Nuremberg và các phán quyết của tòa này. Năm 1946, Đại hội
đồng tái tuyên bố rằng diệt chủng là một tội ác vi phạm luật quốc tế và mở ra quá trình pháp điển
hóa nhanh chóng các quy định trừng trị loại tội phạm này. Và công ước ngăn ngừa và trừng trị

tội diệt chủng đã ra đời tháng 12-1948.
Ngoài ra Đại hội đồng còn liên tiếp thông qua các khuyến nghị về các vấn đề về quyền
bình đẳng nam nữ, đặc biệt trên lĩnh vực quyền chính trị, quyền lao động và bảo vệ quyền thành
lập và gia nhập công đoàn, quyền trẻ em..
Từ những năm 1950 đến cuối thể kỉ XX, Đại hội đồng đã tích cực xây dựng và từng bước
hoàn thiện hệ thống các văn kiện quốc tế về quyền con người trên tất cả các lĩnh vực có liên quan
từ quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đến quyền dân sự và chính trị, từ quyền phụ nữ, trẻ em đến
các quyền của các nhóm thiểu số… Hệ thống các văn kiện này đã hình thành nên một ngành luật
quan trọng trong hệ thống pháp luật quốc tế nói chung, đó là luật quốc tế về quyền con người.
Những đóng góp của Đại hội đồng trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người có vị
trí lớn lao, thể hiện ý chí nguyện vọng của toàn thể các dân tộc về một thế giới ma ở đó quyền
con người được tôn trọng.
Tuy nhiên Đại hội đồng vẫn còn có những hạn chế cơ bản trong việc thực hiện các tiêu
chuẩn và quy định về quyền con người đã được nó xây dựng nên. Thực tế cho thấy, các văn kiện
về quyền con người đã đạt đến độ tương đối hoàn chỉnh về số lượng lẫn chất lượng nhưng việc
biến chúng thành thực tiễn ở các quốc gia trên thế giới còn là một vấn đề cực kì nan giải. Lý do
là bởi sự khác biệt về các điều kiện kinh tế, văn hóa, chính trị, lịch sử và văn hóa khi thực thi luật
nhân quyền giữa các quốc gia trong khi các quy định của các văn kiện này còn mang tính chung
chung, khái quát. Ở nhiều nơi trên thế giới, tình trạng vi phạm nghiêm trọng các quy định của
các văn kiện trên vẫn thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên Đại hội đồng và các cơ quan có liên quan
vẫn chưa thể có các biện pháp để đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện triệt để các quyền con người
như đã được ghi rõ trong hệ thống các văn kiện được Đại hội đồng thông qua.
2.2. Hội đồng bảo an
2.2.1. Chức năng và quyền hạn
Hội đồng bảo an là cơ quan quyền lực cao nhất của LHQ. Hội đồng bảo an có thẩm quyền
đưa ra những khuyến nghị hoặc quyết định những giải pháp để duy trì, giữ gìn hòa bình và an

7



ninh thế giới. Những giải pháp mà HĐBA thực hiện gồm: cứu trợ nhân đạo, trừng phạt kinh tế và
can thiệp quân sự.
Theo điều 34, Hội đồng bảo an “có thẩm quyền điều tra mọi tranh chấp hoặc tình thế có
thể dẫn đến sự bất hòa quốc tế hoặc gây ra tranh chấp và xác định xem tranh chấp ấy hoặc tình
thế ấy nếu kéo dài có thể đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế hay không”. Như vậy trong trường
hợp có sự vi phạm nghiêm trọng quyền con người một cách rõ ràng và ở mức độ cao, Hội đồng
bảo an hoàn toàn có khả năng xác định tại điều 39 của hiến chương ( hội đồng bảo an đã ra
những quyết định về chế độ phân biệt chủng tộc A-pác- thai của Nam Phi, sự hiện diện của chế
độ này ở Na-mi-bi-a và hành động của I-rắc trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1990-1991
đặc biệt đối với người Cuốc). Hơn nữa hội đồng bảo an có đủ thẩm quyền thay mặt Liên hợp
quốc để thông qua và áp dụng các biện pháp cưỡng chế nếu sự việc không được giải quyết một
cách thỏa đáng.
Thông qua việc sử dụng thẩm quyền được hiến chương giao cho, Hội đồng bảo an là cơ
quan quyết định cuối cùng về những vấn đề liên quan bao gồm cả vấn đề quyền con người.
2.2.2. Thực tiễn và hiệu quả hoạt động
Hội đồng bảo an là cơ quan duy nhất của Liên hợp quốc có thẩm quyền ban hành các
quyết định mang tính mệnh lệnh. Khi một vấn đề nảy sinh có liên quan đến hòa bình và an ninh
quốc tế được báo cáo, Hội đồng sẽ thông qua các khuyến nghị hoặc đề nghị với mục đích khuyến
khích các bên đi đến biện pháp hòa giải. Nếu không hiệu quả, Hội đồng sẽ thực hiện các cuộc
điều tra hoặc làm trung gian hòa giải của các bên trannh chấp bằng cách gửi phái đoàn của mình
hoặc bổ nhiệm một đại diện của Hội đồng đến hiện trường gặp gỡ các bên có liên quan. Khi
xung đột xảy ra ở mức độ nghiêm trọng và có nguy cơ đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế
hội đồng sẽ tiến hành các biện pháp cưỡng chế. Mặc dù hội đồng bảo an đã và đang đóng một
vai trò tích cực trong việc ngăn ngừa, giải quyết các xung đột quốc tế, khu vực và bảo vệ quyền
con người nhưng thẩm quyền và trách nhiệm của Hội đồng không phải đã được thực hiện một
cách có hiệu quả. Nhiều cuộc xung đột, diệt chủng lẽ ra phải được ngăn chặn kịp thời nếu Hội
đồng bảo an đưa ra được các quyết định nhanh chóng như trường hợp thảm sát và diệt chủng ở
Rwanda.
2.3. Hội đồng kinh tế và xã hội
2.3.1. Chức năng và quyền hạn đối với những vấn đề nhân quyền

Hội đồng kinh tế-xã hội là một cơ quan trực tiếp và cơ bản của Đại Hội Đồng. Chức năng
và thẩm quyền của Hội đồng nằm trong phạm vi nghiên cứu, thảo luận các vấn đề kinh tế xã hội
quốc tế, cũng như đưa ra những khuyến nghị trong việc xây dựng các chính sách liên quan. Hội
đồng kinh tế-xã hội còn có vai trò đặc biệt trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế vì sự phát triển
đồng thời xác định các mục đích ưu tiên cho hoạt động liên quan của Liên Hợp Quốc. Có thể nói,

8


Hội đồng kinh tế-xã hội chính là cơ quan của Liên Hợp Quốc, đảm nhiệm trực tiếp các công tác
về quyền con người.
Hội đồng thực hiện việc nghiên cứu, xây dựng những khuyến nghị về các vấn đề tôn
trọng, tuân thủ quyền con người cũng như bảo vệ và thúc đẩy quyền con người cụ thể trên mọi
lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, sức khỏe... Tóm lại, Hội đồng kinh tế-xã hội có
thể được xem như cơ quan có chức năng và thẩm quyền trực tiếp với vấn đề thúc đẩy sự tôn
trọng và bảo vệ quyền con người.
2.3.2. Thủ tục xét xử các vấn đề về nhân quyền
Các quyết định và khuyến nghị của Hội đồng được thông qua bởi thủ tục bỏ phiếu theo đa
số, mỗi thành viên của Hội đồng có số phiếu như nhau. Hội đồng có: 9 Hội đồng chức năng,
trong đó có Hội đồng Nhân quyền hay Ủy ban Nhân quyền; có 5 Hội đồng khu vực và có 5 Ủy
ban thường trực .
2.3.3. Thực tiễn và hiệu quả hoạt động
Năm 1946, theo Điều 68 Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hội đồng đã thành lập Ủy ban
Nhân quyền – nhiệm vụ hàng đầu trong việc xây dựng Bộ luật Nhân quyền quốc tế.
Hội đồng đã giải quyết hàng loạt các vấn đề liên quan đến quyền con người như: bảo vệ
người thiểu số, ngăn chặn phân biệt đối xử, diệt chủng,ngăn chặn tình trạng người mất quốc
tịch...
2.4. Cao ủy nhân quyền
Cao ủy nhân quyền của LHQ có chức năng và nhiệm vụ: thúc đẩy và bảo vệ các quyền
cho tất cả mọi người; đưa ra các khuyến nghị cho các cơ quan có thẩm quyền của LHQ nhằm

thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; thúc đẩy và bảo vệ quyền được phát triển; cung cấp hỗ trợ kỹ
thuật cho các hoạt động về nhân quyền trong hệ thống Liên hợp quốc, điều phối các chương trình
truyền thông và giáo dục về nhân quyền của Liên hợp quốc; tham gia đối thoại với các chính phủ
về vấn đề nhân quyền; hỗ trợ các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm thúc đẩy, bảo vệ nhân quyền;
điều phối các hoạt động nhân quyền của Liên hợp quốc; xây dựng và củng cố hoạt động của bộ
máy nhân quyền của Liên hợp quốc.
Với chức năng trên, Cao ủy nhân quyền có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực thi
các nhiệm vụ về nhân quyền của Liên hợp quốc.
2.5. Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc
Được thành lập năm 2006 với thành phần gồm 47 quốc gia đại diện để thay thế Uỷ ban
của Liên hợp quốc về quyền con người (the UN Commission on Human Rights được thành lập
trong năm 1946 là cơ quan hoạch định chính sách về quyền con người trong hệ thống Liên hợp
quốc). Hàng năm Hội đồng họp ở Giơnevơ để xem xét, phát triển, mã hoá những tiêu chuẩn quốc

9


tế mới về quyền con người và đóng góp những ý kiến cho các chính phủ. Từ năm 2006, Hội
đồng tổ chức tiến hành Đánh gia tổng thể định kỳ (Universal Periodic Review) tình hình thực
hiện quyền con người quyền con người ở 192 quốc gia thành viên Liên hợp quốc với mỗi năm
với 48 nước. Mỗi quốc gia sẽ đuợc các quốc gia khác đánh giá 4 năm một lần.
Hội đồng nhân quyền là một trong ba hội đồng quan trọng nhất của Liên hợp quốc.
Chức năng của Hội đồng nhân quyền:
Thúc đẩy công tác giáo dục, đào tạo và học tập về nhân quyền, cũng như các dịch
vụ tư vấn, hỗ trợ kỹ thuật và tăng cường năng lực, đáp ứng các nhu cầu tham vấn của các quốc
gia về các vấn đề còn quan tâm;
Hội đồng nhân quyền của LHQ đồng thời cũng là một diễn đàn nơi tiến hành các
cuộc đối thoại, trao đổi về các vấn đề nhân quyền;
Hội đồng có chức năng tham vấn, gợi ý cho Đại hội đồng trong vấn đề sửa đổi,, bổ
sung và hoàn thiện pháp luật quốc tế trong lĩnh vực quyền con người;

Thúc đẩy các quốc gia trong cộng đồng quốc tế thực thi đầy đủ các nghĩa vụ của
mình trong vấn đề bảo đảm và thực thi quyền con người tại quốc gia mình, phù hợp với các mục
tiêu và tiêu chí đã cam kết trước cộng đồng quốc tế và Liên hợp quốc;
Dựa trên các nguồn thông tin khách quan và tin cậy, thực hiện các đánh giá định kỳ
mang tính toàn cầu về vấn đề thực hiện các nghĩa vụ bảo đảm quyền con người của các quốc gia,
đưa ra ý kiến đóng góp và khuyến nghị cụ thể nhằm bảo đảm rằng cơ chế thực thi quyền con
người bình đằng và công bằng trên toàn thế giới;
Thông qua đối thoại và hợp tác, góp phần hướng tới ngăn chặn các vi phạm nhân
quyền và giải quyết ngay các vấn đề nhân quyền khẩn cấp;
Gánh vác vai trò và nhiệm vụ của Ủy ban nhân quyền của LHQ như là một văn
phòng thường trực của Cao ủy LHQ về nhân quyền;
Phối hợp chặt chẽ với các chính phủ, các tổ chức quốc tế khu vực, các viện nghiên
cứu về nhân quyền và các tổ chức xã hội dân sự trong lĩnh vực quyền con người;
Đưa ra các khuyến nghị có liên quan tới vấn đề thúc đẩy và bảo đảm quyền con
người;
Đệ trình báo cáo thường niên lên Đại hội đồng LHQ.
2.6. Tòa án Công lý quốc tế
2.6.1. Chức năng và quyền hạn đối với những vấn đề nhân quyền
Tòa án có hai thẩm quyền chính là : xét xử, giải quyết các tranh chấp quốc tế và đưa ra
các ý kiến tư vấn. Theo như Điều 34 (1) của Quy chế Tòa án thì chỉ có các quốc gia liên quan vụ
việc có thể tham gia khiếu kiên tại Tòa. Như vậy, xét trên phương diện nhân quyền, điều này đã
khiến việc Tòa có tư cách xét xử trong các vụ kiện bị giảm sút. Bởi nếu có vi phạm nhân quyền ở
một quốc gia mà quốc gia đó không chấp nhận thẩm quyền của Tòa hay không là thành viên của

10


điều ước quốc tế nào thừa nhận thẩm quyền của Tòa thì Tòa không thể có thẩm quyền xét xử.
Trên thực tế, vấn đề vi phạm nhân quyền thường diễn ra với các cá nhân, nhóm cá nhân trong khi
đó họ lại không có quyền đăng đơn kiện. Có thể thấy nếu như xét trên phương diện này,

Tòa ít có thẩm quyền về vấn đề nhân quyền, mặc dù vấn đề này là vấn đề cốt lõi, quan
trọng trong Hiến chương Liên Hợp Quốc.
2.6.2. Thực tiễn và hiệu quả hoạt động
Hầu hết các công ước, điều ước quốc tế về quyền con người không chứa đựng các quy
định thừa nhận thẩm quyền của Tòa nên các vụ việc trực tiếp có liên quan đến vấn đề này mà
Tòa xét xử là rất ít ỏi. Song không vì thế mà vai trò của Tòa với vấn đề con người hạn chế. Thực
tế cho thấy các quyết định của Tòa, các phán quyết mà Tòa đưa ra trong một số vụ việc đã đặt ra
những nguyên tắc cơ bản có ảnh hưởng quan trọng đến việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Với chức năng tư vấn, Tòa đã đưa ra những ý kiên tư vấn về quyền con người, tạo tiền đề pháp
lý quan trọng cho việc củng cố và phát triển luật quốc tế về quyền con người.
2.7. Các thiết chế đảm bảo quyền con người khác của Liên hợp quốc
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) đẩy mạnh việc thực hiện và bảo vệ các
quyền của trẻ em.
Vụ tiến bộ của phụ nữ trong Liên hợp quốc (DAW) làm việc trực tiếp với Uỷ ban về
xoá bỏ phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và tích cực đẩy mạnh lồng ghép quyền con người
của phụ nữ với các hoạt động quyền con người quốc tế.
Quỹ phát triển phụ nữ của Liên hợp quốc (UNIFEM) có những chương trình và dự
án đặc biệt để thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ.
Tổ chức Giáo dục, văn hoá và khoa học của Liên hợp quốc (UNESCO) đẩy mạnh
việc thực hiện quyền con người trong những lĩnh vực hoạt động của tổ chức này.
Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA) tập trung vào các quyền sức khỏa sinh
sản, bình đẳng giới, tăng cường quyền năng cho phụ nữ. Vấn đề quyền con người được chú trọng
lồng ghép vào các chương trình dân số và phát triển.
Chương trình phòng chống HIV/AIDS của Liên hợp quốc (UNAIDS) coi trọng vấn
đề quyền con người trong các chương trình và dự án của mình.
III. CÁC THIÊT CHÊ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI Ở CẤP ĐỘ KHU VỰC
VÀ QUỐC GIA
3.1. Các thiết chế bảo đảm quyền con người ở cấp độ khu vực
3.1.1. Khu vực Châu Âu
Châu Âu là tổ chức khu vực có hệ thống bảo vệ quyền con người phát triển nhất trên thế

giới.

11


Hội đồng Châu Âu được thành lập năm 1949 với 10 quốc gia thành viên, đến nay Hội
đồng đã có 46 quốc gia thành viên.
Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và các tự do cơ bản
Công ước được ký kết ngày 04/11/1950 và có hiệu lực vào tháng 9/1953. Tất cả các thành
viên Hội đồng đều đã ký và phê chuẩn điều ước. Các quyền được quy định trong Công ước cũng
như 8 nghị định thư đi kèm chủ yếu xuất phát từ các quyền được quy định trog phần nửa đầu của
Tuyên ngôn nhân quyền liên quan đến nội dung các quyền về dân sự, chính trị như: quyền được
sống, cấm tra tấn và nô lệ, quyền tự do cá nhân và an ninh…
Công ước là văn bản đầu tiên đưa ra cơ chế thực thi hiệu quả cho việc bảo vệ quyền con
người trong cộng đồng Châu Âu.
Hiến chương xã hội Châu Âu năm 1961
Hiến chương được thông qua vào năm 1961, đi kèm với nó là 3 nghị định thư 1988, 1991,
1995. Hiến chương xã hội được sửa đổi vào năm 1966 và có hiệu lực vào ngày 01/7/1999. Hiến
chương xã hội quy định về các quyền kinh tế và xã hội.
Hiến chương quy định về các nguyên tắc cơ bản và các quyền cụ thể như: điều kiện làm
việc, tự do lập hội, an ninh xã hội, bình đẳng trong việc đối xử không phân biệt giới tính…
Tòa án nhân quyền Châu Âu
Tòa án nhân quyền Châu Âu được thành lập năm 1959 trên cơ sở Công ước Châu Âu về
bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của con người, ký kết trong khuôn khổ Hội đồng Châu Âu.
Là một cơ quan xét xử tư pháp độc lập, mang tính khu vực, cho đến nay Tòa án Nhân
quyền Châu Âu vẫn được coi là hình mẫu tiêu biểu, thành công nhất về bảo vệ quyền con người
bằng thiết chế xét xử quốc tế.
Tòa án Nhân quyền Châu Âu có hai loại thẩm quyền: thẩm quyền tham vấn và thẩm
quyền xét xử.
3.1.2. Khu vực Châu Mỹ

Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ được thành lập năm 1948 tại Hội nghị Liên Mỹ lần thứ 9.
Tuyên ngôn Châu Mỹ về quyền và nghĩa vụ của con người 1949 (Tuyên ngôn Châu
Mỹ)
Bản tuyên ngôn được xem như văn kiện nhân quyền quốc tế đầu tiên, vì nó xuất hiện sớm
hơn cả Tuyên ngôn Nhân quyền toàn cầu. Các quyền được quy định trong Tuyên ngôn Châu Mỹ
bao gồm các nhóm quyền về dân sự, chính trị và nhóm quyền kinh tế, văn hóa, xã hội. Bên cạnh
việc quy định các nhóm quyền cụ thể trên, Tuyên ngôn quy định các nghĩa vụ cụ thể cho công
dân Châu Mỹ như: nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ có trách nhiệm với cộng đồng, xã hội,
nghĩa vụ quân sự, giáo dục, đóng thuế…
Công ước Nhân quyền Châu Mỹ 1969

12


Công ước Nhân quyền tập trung quy định chi tiết về các quyền dân sự và chính trị. Các
quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội được quy định riêng rẽ tại một điều khoản riêng. Các quyền
kinh tế, văn hóa và xã hội sau đó được quy định trong Nghị định thư San Salvador.
Ủy ban Liên Mỹ về nhân quyền 1959
Ủy ban Liên Mỹ về nhân quyền là một trong hai cơ quan chính của Tổ chức các quốc gia
Châu Mỹ nhằm thúc đẩy và bảo vệ các quyền con người.
Chức năng chính của Ủy ban nhằm thúc đẩy nhận thức về quyền con người ở Châu Mỹ,
cung cấp cho các quốc gia thành viên các dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực quyền con người, chuẩn
bị các báo cáo và các nghiên cứu, tiếp nhận, phân tích và điều tra các khiếu kiện của các cá nhân
liên quan đến những vi phạm quyền con người….Ủy ban có nhiệm vụ đệ trình báo cáo hàng năm
về tình hình nhân quyền lên Đại hội đồng của Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ.
Tòa án Liên Mỹ về Nhân quyền
Tòa án Liên Mỹ có thẩm quyền tư vấn và thẩm quyền xét xử.
Tòa án là một tổ chức tư pháp độc lập mà mục tiêu là để áp dụng và giải thích các Công
ước Châu Mỹ. Để thực hiện mục tiêu này, Tòa án có hai chức năng là chức năng tư pháp và chức
năng tư vấn. Đối với chức năng tư pháp, chỉ có Ủy ban và các quốc gia thành viên của Công ước

Châu Mỹ đã công nhận thẩm quyền của Tòa án có thẩm quyền đưa một trường hợp liên quan đến
việc giải thích hay áp dụng Công ước Châu Mỹ. Liên quan đến chức năng tư vấn của tòa án,
Công ước Châu Mỹ quy định rằng bất kỳ nước thành viên nào của Tổ chức đều có thể tham khảo
ý kiến của Tòa án về việc giải thích của Công ước Châu Mỹ hoặc điều ước quốc tế khác có liên
quan đễn việc bảo vệ nhân quyền.
3.1.3. Khu vực Châu Phi
Liên minh Châu Phi là một tổ chức liên chính phủ khu vực được thành lập năm 2002.
Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc
Hiến chương được tổ chức thống nhất Châu Phi thông qua 1981 và có hiệu lực năm 1986.
Hiến chương đã đề cập đến một khối lượng lớn các quyền, bao gồm các quyền truyền thống như:
dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, bên cạnh đó đề cập đến quyền của các dân tộc, chú
trọng đến quyền tự quyết, quyền phát triển. Hiến chương còn bao gồm cả các quy định về quyền
của các dân tộc như: quyền bình đằng giữa các dân tộc; không dân tộc nào có quyền thống trị
dân tộc khác; quyền dân tộc được tồn tại; quyền dân tộc tự quyết…
Hiến chương Châu phi là một văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên xác định cụ thể nghĩa vụ
cảu cá nhân đối với nhà nước, xã hội và gia đình.
Hiến chương đã thành lập Ủy ban Châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc.
Ủy ban Châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc (Ủy ban)

13


Ủy ban có thẩm quyền thực hiện những biện pháp nhằm thúc đẩy quyền con người như:
nghiên cứu các tình huống cụ thể, tổ chức các hội thảo, phổ biến thông tin, đưa ra các khuyến
nghị tới các quốc gia, thiết lập các nguyên tắc nhân quyền và hợp tác với các tổ chức quốc tế
khác. Bên cạnh đó, Ủy ban còn có chức năng giám sát quá trình thực thi các cam kết nhân quyền
của các quốc gia thông qua việc xem xét các báo cáo theo định kỳ 2 năm của các quốc gia.
Tòa án Châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc
Tòa án có thẩm quyền đối với tất cả các trường hợp và tranh chấp được đệ trình liên quan
đến việc giải thích và áp dụng Hiến chương Châu Phi về quyền con người và quyền của các dân

tộc, Nghị định thư và các văn kiện khác được phê chuẩn bởi các quốc gia có liên quan.
3.1.4. Khu vực Châu Á – ASEAN
- Hiến chương ASEAN
Hiến chương ASEAN ra đời năm 2007 đã đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của
ASEAN, Hiến chương đã khẳng định rõ tư cách pháp lý của ASEAN “là một tổ chức hợp tác
khu vực liên chính phủ”.
Hiến chương là văn kiện pháp lý nền tảng và quan trọng nhất của ASEAN. Hiến chương
thể hiện rõ cam kết của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á trong việc thiết lập một cơ quan
Nhân quyền ASEAN.
Ủy ban Nhân quyền ASEAN
Ủy ban Nhân quyền ASEAN được thành lập năm 2010, hoạt động dựa trên các nguyên
tắc chung của Luật quốc tế như tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ của
các quốc gia. Trên cơ sở đó, Ủy ban cũng tôn trọng các nguyên tắc đặc thù của nhân quyền quốc
tế như: tính toàn thể, tính không tách rời nhau, phục thuộc lẫn nhau và tính tương quan của tất cả
quyền con người và các quyền tự do cơ bản. Cùng với việc ghi nhận các nguyên tắc chung như
trên, Ủy ban cũng đề cập đến các nguyên tắc đặc thù riêng của ASEAN như: tôn trọng bản sắc
dân tộc của tất cả các nước ASEAN, tôn trọng sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo
giữa các nước ASEAN, nhấn mạnh các giá trị chung trên tinh thần thống nhất đa dạng.
Mục đích của Ủy ban: thúc đẩy, bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản của nhân
dân các nước ASEAN; bảo vệ quyền của người dân ASEAN được sống trong hòa bình, tôn trọng
và thịnh vượng. Bên cạnh đó, quy chế của Ủy ban còn hướng đến các mục đích bao trùm hơn
như: tăng cường hợp tác khu vực nhằm hỗ trợ cho các quốc gia trong việc thúc đẩy, bảo vệ nhân
quyền và mục đích duy trì các tiêu chuẩn nhân quyền được quy định trong Tuyên ngôn Nhân
quyền 1948, Tuyên bố và chương trình hành động Viên, các văn kiện quốc tế khác.
Ủy ban được xác định rõ là một cơ quan tư vấn. Chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban tập
trung chủ yếu vào các hoạt động: nghiên cứu, phát triển chính sách chiến lược về bảo vệ nhân
quyền, thu thập thông tin, cung cấp các dịch vụ tư vấn về thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền, tham

14



vấn và khuyến khích các quốc gia gia nhập và thực thi đầy đủ các văn kiện nhân quyền quan
trọng.
Ủy ban Bảo vệ và Thúc đẩy quyền của người lao động di trú (ACMW)
Chức năng của Ủy ban gồm: thúc đẩy hợp tác song phương và khu vực, giúp đỡ các vấn
đề liên quan đến quyền của người lao động di trú; hỗ trợ, chia sẻ dữ liệu và các vấn đề liên quan
đến người lao động di trú nhằm mục đích tăng cường chính sách và chương trình để bảo vệ, thúc
đẩy các quyền của người lao động di trú; thúc đẩy sự hài hòa của các cơ chế của các quốc gia
nhằm bảo vệ, thúc đẩy quyền của người lao động di trú. Bên cạnh đó, Ủy ban có chức năng quan
trọng trong việc xây dựng một văn kiện ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao
động di trú.
Ủy ban Bảo vệ và Thúc đẩy quyền phụ nữ và trẻ em (ACWC)
Mục đích của Ủy ban: thúc đẩy, bảo vệ quyền con người và các quyền tự do cơ bản của
phụ nữ và trẻ em ở ASEAN; thúc đẩy, bảo vệ và đảm bảo phụ nữ và trẻ em ASEAN được sống
trong bình đẳng, hòa bình, công lý và thịnh vượng; tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế nhằm
thúc đẩy và bảo vệ các quyền của phụ nữ và trẻ em.
Tuyên bố Nhân quyền ASEAN
Tuyên bố nhân quyền ASEAN không phải là một văn kiện ràng buộc về mặt pháp lý đối
với các nước thành viên ASEAN, tuy nhiên, nó có giá trị to lớn ở các khía cạnh chính trị và đạo
đức. Hơn nữa, Tuyên bố Nhân quyền ra đời sẽ là cơ sở nhằm thiết lập một bộ khung hợp tác
nhân quyền trong khu vực và đóng góp vào tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN.
Tuyên bố Nhân quyền đê cập đến các vấn đề cơ bản như: các nguyên tắc chung, các
quyền dân sự, chính trị; các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội; quyền phát triển; quyền có hòa
bình và vấn đề hợp tác trong việc thúc đẩy, bảo vệ quyền con người.
3.2. Các thiết chế bảo đảm quyền con người ở cấp độ quốc gia
3.2.1. Ủy ban Nhân quyền của Malaysia (SUHAKAM) được lập ra theo Đạo luật của
Nghị viện năm 1999 (Đạo luật 597) và có chức năng, nhiệm vụ:
- Thúc đẩy nhận thức và giáo dục về nhân quyền
- Tư vấn và hỗ trợ Chính phủ xây dựng luật và các chỉ thị, thủ tục hành chính.
- Khuyến nghị các biện pháp cần thực hiện. Ủy ban có trách nhiệm nộp báo cáo thường

niên, trong đó nêu các kiến nghị về chính sách
- Đưa ra khuyến nghị với Chính phủ về việc đăng ký hay gia nhập các công ước cũng như
các cơ chế quốc tế khác về nhân quyền;
- Điều tra các vụ vi phạm nhân quyền. Ủy ban có quyền tiếp nhận các khiếu nại và tiến
hành các cuộc điều tra theo tiến trình riêng, có quyền khá rộng lớn trong việc thu thập và tiếp
nhận chứng cứ, thẩm vấn các nhân chứng, triệu tập nhân chứng và thu thập tài liệu.31 Dù chức

15


năng bán tư pháp của SUHAKAM khá rộng, Ủy ban bị cấm điều tra bất cứ khiếu nại nào liên
quan đến các cáo buộc vi phạm nhân quyền đang nằm trong tiến trình điều tra xét xử của tòa án,
kể cả đề nghị phúc thẩm hoặc các vụ việc mà tòa án đã có phán quyết cuối cùng32. Các khiếu nại
cá nhân có thể được gửi đến trực tiếp hoặc qua thư từ, email, điện thoại hoặc fax.
3.2.2. Ủy ban Nhân quyền quốc gia của Hàn Quốc (NHRCK) đã đi vào hoạt động từ
tháng 11/2001 và có chức năng:
- Xây dựng các chính sách về nhân quyền thông qua việc tiến hành các nghiên cứu về
nhân quyền và đưa ra các khuyến nghị về chính sách và phân tích luật, chính sách và kinh
nghiệm triển khai thực tế dưới gọc độ nhân quyền. Ủy ban cũng có trách nhiệm rà soát và tiến
hành nghiên cứu về việc xây dựng luật, chính sách và thực tiễn triển khai liên quan đến nhân
quyền và đưa ra các ý kiến, kiến nghị về nhiều vấn đề nhân quyền, bao gồm cả việc Hàn Quốc
tham gia và thực hiện các Công ước quốc tế về nhân quyền. Lãnh đạo các cơ quan nhận được các
khuyến nghị này cần tôn trọng và thực hiện các kiến nghị của Ủy ban. Trong trường hợp không
thực hiện, các cơ quan liên quan cần có hình thức giải trình hợp lý với Ủy ban. Ngoài ra, Ủy ban
có quyền đưa các ý kiến của mình lên tòa án theo yêu cầu hoặc theo đề xuất riêng khi vụ việc
liên quan đến việc thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.
- Điều tra các vụ phân biệt đối xử, vi phạm nhân quyền và hỗ trợ giải quyết vụ việc. Công
việc gồm cả điều tra, kể cả tại hiện trường, các vụ vi phạm nhân quyền do các cơ quan trung
ương và địa phương gây ra hoặc các vụ tại các trung tâm giam giữ và bảo vệ pháp luật cũng như
hỗ trợ cho các nạn nhân. Ủy ban cũng có thẩm quyền đối với các vụ do các đối tượng, tổ chức tư

nhân gây ra liên quan đến phân biệt đối xử theo giới tính, tôn giáo, khuyết tật, tuổi tác, địa vị xã
hội, quốc tịch, chủng tộc, định hướng tôn giáo, ngoại hình, tình trạng hôn nhân, mang thai, địa vị
gia đình, màu da, quan điểm chính trị, xu hướng tình dục, tiền sử bệnh....
- Thúc đẩy giáo dục về nhân quyền và nâng cao nhận thức về nhân quyền. Ủy ban cũng
giúp hỗ trợ kết hợp đưa các nguyên tắc nhân quyền vào chương trình giảng dạy của các cơ sở
giáo dục kể cả các trường tiểu học, trung học và đại học. Ngoài ra, Ủy ban cũng tổ chức nhiều
hoạt động giáo dục để đưa nhân quyền trở thành các tiêu chí quan trọng trong quá trình tuyển lựa
và đánh giá nhân lực, kể cả tại cuộc thi tuyển công chức. Đồng thời, Ủy ban cũng hướng tới mục
tiêu xây dựng một môi trường văn hóa nhân quyền trong xã hội thông qua các ấn phẩm xuất bản
và việc phát triển các nội dung văn hóa. Ủy ban cũng duy trì một thư viện nhân quyền để tạo sự
tiếp cận tốt hơn với các thông tin về nhân quyền.
- Thúc đẩy và giám sát việc thực hiện các công ước quốc tế về nhân quyền ở trong nước.
- Hợp tác với các cơ quan Chính phủ, các tổ chức xã hội dân dự, các cơ quan nhân quyền
LHQ và các tổ chức nhân quyền quốc gia (APF, ICC)

16


- Các vấn đề khác được cho là cần thiết để bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền
3.2.3. Ủy ban Quốc gia Kenya về Quyền con người (KNCHR) là cơ quan được thành
lập theo Đạo luật về KNCHR năm 2002) và có chức năng:
- Chủ động điều tra hoặc dựa trên khiếu nại 43các vi phạm về quyền con người;
- Thăm các nhà tù và trại giam hoặc các cơ sở liên quan để kiểm tra và đánh giá về điều
kiện giam giữ;
- Thông tin và nâng cao nhận thức của công chúng về quyền con người nhằm thúc đẩy
việc tôn trọng quyền con người;
- Đưa ra khuyến nghị cho Quốc hội về các biện pháp hiệu quả để thúc đẩy quyền con
người;
- Xây dựng, thực hiện và giám sát thực hiện các chương trình nhằm nâng cao nhận thức
của người dân về nghĩa vụ công dân cũng như về các quyền và nghĩa vụ của họ;

- Đóng vai trò Cơ quan chính của Chính phủ trong việc đảm bảo Chính phủ thực hiện
đúng các nghĩa vụ của mình theo các hiệp ước quốc tế và khu vực và các Công ước về quyền con
người;
- Khuyến khích các nỗ lực và phối hợp với các cơ chế khác trong lĩnh vực liên quan nhằm
thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; và
- Thực hiện các chức năng Ủy ban thấy cần thiết cho việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con
người.
3.2.4. Ủy ban Nhân quyền Uganda (UHRC) được thành lập theo Hiến pháp năm 1995
và có chức năng:
Chủ động điều tra hoặc dựa trên khiếu nại 47của các cá nhân hoặc nhóm cá nhân;
- Thăm nhà tù, trại giam hoặc các cơ sở liên quan nhằm đánh giá và kiểm tra điều kiện
giam giữ tù nhân và đưa ra khuyến nghị.
- Xây dựng các chương trình nghiên cứu, giáo dục và thông tin nhằm thúc đẩy tôn trọng
quyền con người;
- Đưa ra khuyến nghị đối với Quốc hội về các biện pháp hiệu quả để thúc đẩy quyền con
người, bao gồm các điều khoản về bồi thường cho các nạn nhân và gia đình của họ;
- Tạo ra và duy trì nhận thức trong xã hội về các điều khoản của Hiến pháp là luật cơ bản
của người dân Uganda;

17


- Giáo dục và khuyến khích công chúng bảo vệ Hiến pháp khỏi các hình thức lợi dụng
hoặc vi phạm;
- Xây dựng, thực hiện và giám sát thực hiện các chương trình nhằm nâng cao nhận thức
của người dân về quyền công dân cũng như các quyền và nghĩa vụ của họ;
- Giám sát chính phủ trong việc thực hiện đúng các công ước quốc tế và các nghĩa vụ về
quyền con người; và
- Thực hiện các chức năng khác theo quy định của luật pháp.
3.2.5. Viện Nhân quyền của Đức (GIHR) được thành lập với tư cách là một Hiệp hội

có đăng ký vào 7/3/2001
GIHR có chức năng rộng, bao trùm các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội.
Tại Quyết định ngày 7/12/2000, Nghị viện Liên bang quy định “Viện Nhân quyền hoạt động tập
trung vào việc áp dụng và bổ trợ cho các thể chế nhà nước và phi nhà nước, hoạt động với vai trò
hỗ trợ và có quan hệ chặt chẽ với các thể chế này. Viện thông báo về tình hình nhân quyền ở
trong nước và nước ngoài, đóng góp vào việc phòng chống các lạm dụng về quyền con người
cũng như thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Thực hiện nhiệm vụ này, Viện hoạt động theo
sáng kiến tự thân và độc lập với các định hướng và chỉ thị của Chính quyền Liên bang và các chủ
thể công cộng hoặc tư nhân.” Theo đó, Quyết định của Nghị viện Liên bang đã liệt kê la 6 nhiệm
vụ cơ bản cần được nêu rõ
trong Quy chế của GIHR:
- Thông tin và lưu trữ tư liệu,
- Nghiên cứu (nhấn mạnh nghiên cứu thực tiễn),
- Tư vấn chính sách,
- Giáo dục về Nhân quyền,
- Hợp tác quốc tế,
- Hỗ trợ đối thoại và hợp tác giữa các chủ thể liên quan tại Đức.
Viện không có nhiệm vụ trả lời các khiếu nại cá nhân. Tuy nhiên, từ 2009, theo Điều 33.2
của Công ước Quốc tế về Quyền của người Khuyết tật, GIHR hoạt động như một Cơ chế Giám
sát Quốc gia. Để vận hành cơ chế này, Viện được cung cấp thêm các nguồn lực.
IV.
THỰC TIỄN BẢO ĐẢM NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM
4.1. Thực tiễn đảm bảo Nhân quyền ở Việt Nam
Ngày 12/11/2013, Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 68 đã bầu Việt Nam là thành viên
của Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 - 2016, với 184 phiếu thuận trên 192 phiếu bầu, bất

18


chấp nhiều nỗ lực ngăn cản, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam. Đó là sự

khẳng định thành tựu và uy tín của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người tại đất nước mình,
đồng thời có những đóng góp trong đấu tranh vì quyền con người trên thế giới.
Từ khi thực hiện đổi mới, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu trong phát triển mọi
mặt, từ chính trị tới kinh tế, xã hội, văn hóa. Đặc biệt, từ sau Đại hội VIII của Đảng (năm 1996),
thực hiện chủ trương “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế”, nước ta càng có những bước tiến
nhanh trong việc cải thiện quyền con người.
Với chủ trương đổi mới đúng đắn, nhất là trong phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề
xã hội, đất nước đã có bước tiến đáng kể trong cải thiện điều kiện, mức sống của người dân.
Bằng nội lực và sự giúp đỡ, cộng tác với Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ trên thế giới,
Việt Nam đã có bước tiến nhanh chóng trong xóa đói, giảm nghèo, trở thành nước điển hình
thành công, được thế giới thừa nhận. Sau 20 năm, tỷ lệ người nghèo đã giảm từ trên 60% xuống
còn dưới 10%; nâng mức thu nhập bình quân lên khoảng 1.540 USD/người vào năm 2012 và
bước vào ngưỡng các nước thu nhập trung bình. Vấn đề an sinh xã hội, bảo đảm chăm sóc sức
khỏe, giáo dục,... được cải thiện đáng kể.
Hội nhập tích cực, chủ động với thế giới, nước ta đã thực hiện nhiều đổi mới, hoàn thiện
thể chế chính trị, hệ thống luật pháp. Đặc biệt, trong hệ thống luật pháp, đã sửa đổi Luật Đầu tư,
Luật Công ty, các quy định pháp luật về xuất cảnh, quốc tịch, nhận con nuôi theo tinh thần cởi
mở, thông thoáng; ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Báo chí, Luật Xuất bản,... Do
vậy, trên thực tế, các quyền dân sự, chính trị của người dân, bao hàm các quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền tự do đi lại, quyền tham gia đời sống chính trị, quyền của người dân tộc
thiểu số, của nhóm yếu thế trong xã hội,... được nhận thức, tôn trọng và được bảo đảm tốt hơn.
Những thành tựu đó được người dân trong nước và thế giới ghi nhận, đánh giá cao.
thuận lợi và khó khăn, thách thức trên con đường phát triển hơn nữa quyền con người của
đất nước. Thuận lợi rõ nhất là sự phát triển nhận thức lý luận của Đảng ta, nhận thức của các
tầng lớp nhân dân về tầm quan trọng, ý nghĩa của vấn đề quyền con người đã được nâng lên rõ
rệt. Những thể chế pháp lý của nhà nước pháp quyền đã được hình thành và ngày càng hoàn
thiện, tạo khuôn khổ để bảo đảm trên thực tế các quyền con người. Thể chế kinh tế thị trường
cũng đã hình thành và từng bước hoàn thiện, tạo điều kiện để bảo đảm quyền tự do sở hữu và
kinh doanh của cá nhân. Điều kiện tiếp cận với các nguồn thông tin của người dân ngày càng
thuận lợi hơn. Việt Nam được xếp thứ hai ở châu Á về tăng trưởng viễn thông và số người sử

dụng in-tơ-nét.
Thuận lợi còn là thái độ hiểu biết, thiện chí và những quan hệ thiết thực được xây dựng
giữa các tổ chức quốc tế với Chính phủ Việt Nam và các cấp chính quyền địa phương trong việc
hỗ trợ thể chế, kinh nghiệm, tài chính trong phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, mở rộng dân

19


chủ ở nước ta (chỉ riêng Ngân hàng Thế giới trong vòng 20 năm qua đã hỗ trợ cho Việt Nam 17
tỷ USD để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói, giảm nghèo,...).
Song, khó khăn và thách thức vẫn còn nhiều, như nhận thức về quyền con người của một
số tổ chức chính quyền từ Trung ương đến địa phương và người dân chưa theo kịp sự tiến bộ của
quyền con người; mức độ hoàn thiện thể chế pháp lý còn có hạn; còn nhiều điều về mặt pháp lý
cần phải được nghiên cứu và quy định rõ ràng hơn; trình độ phát triển kinh tế - xã hội còn có
những hạn chế, trong đó có những chính sách phát triển chưa hợp lý, trình độ quản lý còn kém,
ảnh hưởng tới sự ổn định và tăng trưởng kinh tế và cải thiện an sinh xã hội, đời sống của người
dân nông thôn và miền núi còn gặp nhiều khó khăn… Tất cả những điều này không thể khắc
phục ngay trong một tháng, một năm, mà có khi phải bằng cả thập niên. Việt Nam là quốc gia
mới bước vào ngưỡng của nước thu nhập trung bình và cũng là nước có số lượng người khuyết
tật cao (khoảng 6% dân số), trong đó phần lớn là do hậu quả chiến tranh (bom, mìn và chất độc
hóa học). Do vậy, dù đã được cải thiện nhưng chỉ số phát triển con người của Việt Nam vẫn
đứng vào nhóm trung bình của thế giới.
Khó khăn còn xuất phát từ sự thiếu thiện chí của một số thế lực. Hằng năm, Bộ Ngoại
giao Mỹ vẫn công bố báo cáo nhân quyền ở các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, với
thái độ thiếu thiện chí và xuyên tạc sự thật. Năm 2012, Ủy ban Đối ngoại của Hạ viện Mỹ đã
thông qua Luật 1869 về nhân quyền ở Việt Nam với nhiều thông tin và nhận xét sai lệch, thậm
chí xuyên tạc đối với những vụ, việc xảy ra, chẳng hạn, thổi phồng, bóp méo những vụ xét xử tội
phạm hình sự thông thường thành những vụ đàn áp tôn giáo, đàn áp tự do báo chí, ngôn luận,...
Điều này gián tiếp gây khó khăn cho các cấp chính quyền tại các địa phương, nhất là những nơi
có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, và trực tiếp ảnh hưởng tới cuộc sống bình yên của

người dân tại các địa phương đó, làm xấu hình ảnh của Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
4.2. Phương hướng và giải pháp trong giải quyết vấn đề quyền con người ở Việt
Nam
- Chủ động, tích cực tham gia các công ước và diễn đàn quốc tế về quyền con người trong
phạm vi toàn cầu và khu vực.
Ngoài hai công ước lớn là Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và Công ước
về quyền dân sự, chính trị, thế giới coi 7 công ước sau hợp thành “cốt lõi” của quyền con người:
Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (thông qua năm 1966 có hiệu lực năm
1969); Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt với phụ nữ (thông qua năm 1979, có hiệu
lực năm 1981); Công ước về chống tra tấn (thông qua năm 1984, có hiệu lực năm 1984); Công
ước về quyền trẻ em (thông qua năm 1989, có hiệu lực năm 1989); Công ước về quyền của
người khuyết tật (thông qua năm 2006, có hiệu lực năm 2008); Công ước về bảo vệ quyền của
lao động di cư và gia đình họ (thông qua năm 1990, có hiệu lực năm 2003). Việt Nam đã tham

20


gia hầu hết các công ước này. Ngày 7-11-2013, nước ta chính thức là thành viên của Công ước
về chống tra tấn.
Trong điều kiện của hội nhập quốc tế, nước ta có số lượng lao động di cư đông và ngược
lại, có số lượng lao động nhập cư ngày càng lớn, do vậy, đã đến lúc chúng ta nên tham gia Công
ước về bảo vệ quyền của lao động di cư và gia đình họ.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
- Tăng cường pháp chế trong bảo vệ quyền con người.
- Tăng cường hợp tác quốc tế, sẵn sàng đối thoại về quyền con người, đồng thời đấu tranh
với những đòi hỏi và luận điệu phi lý từ bên ngoài.
- Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, lấy sức mạnh kinh tế làm nền tảng lâu dài cải thiện
quyền con người, đồng thời làm sức hút với quốc tế và ngăn cản các thế lực muốn lợi dụng vấn
đề quyền con người để can thiệp vào nước ta.

KÊT LUẬN
Có thể nói rằng cơ chế nhân quyền dựa trên hiến chương mang tính chính trị do thành
phần trong các cơ quan trong cơ chế dựa trên hiến chương thực chất là đại diện của các chính
phủ. Nhìn chung, hệ thống các cơ quan thuộc cơ chế quyền con người dựa trên hiến chương có
chức năng rộng lớn đối với các vấn đề về quyền con người. Hệ thống này vừa đóng vai trò giám
sát việc thực hiện quyền con người của các quốc gia, vừa hỗ trợ việc thúc đẩy quyền con người
chung, lại vừa trực tiếp bảo vệ quyền con người trong 1 số trường hợp. Tuy nhiên, cơ chế quyền
con người này đang bộc lộ nhiều hạn chế như là: hiệu quả thấp, chồng chéo chức năng và thẩm
quyền, hệ thống còn phức tạp, cồng kềnh, tính chính trị còn cao…
Ở các khu vực và các quốc gia trên thế giới cũng đã thành lập các thiết chế nhằm đảm bảo
quyền con người phù hợp với điều kiện thực tiễn của khu vực. Nhìn chung, vấn đề nhân quyền ở
các khu vực ngày càng được chú trọng hơn, không chỉ đối với các quốc gia phát triển, mà còn
đối với các khu vực và các quốc gia đang phát triển và các nước chậm phát triển hơn với sự hỗ
trợ của cộng đồng quốc tế.
Việt Nam hiện nay cũng đang rất chú trọng tới việc đảm bảo quyền con người vì thực tế
nhiều năm đã không thực sự chú ý đến vấn đề này đúng mức và để cộng đồng quốc tế có những
phản ánh, chỉ trích không hay. Hiến pháp 2013 vừa được ban hành với cách thức quy định mới
nhấn vào quyền con người và quyền công dân, nhằm tăng cường tính dân chủ hơn là một bước
tiến quan trọng trong hoạt động đảm bảo quyền con người ở Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra
là thực hiện như thế nào cho tốt chứ không phải chỉ đặt ra quy định mà không thực hiện. Để làm

21


tốt vấn đề này, Việt Nam cần tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế trong vấn đề nhân
quyền, học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia dân chủ lớn trên thế giới và đưa ra những phương
thức thực hiện phù hợp với hoàn cảnh và yêu cầu thực tiễn của Việt Nam.

22




×