Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Phương hướng và các chương trình hành động bảo vệ môi trường ở Việt nam.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 36 trang )

I.GIỚI THIỆU
II.VẤN ĐỀ HIỆN NAY
1.Tình trạng:
Một vấn đề nóng bỏng, gây bức xúc trong dư luận xã hội cả nước hiện nay là tình
trạng ô nhiễm môi trường sinh thái do các hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con
người gây ra. Vấn đề này ngày càng trầm trọng, đe doạ trực tiếp sự phát triển kinh tế xã hội bền vững, sự tồn tại, phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai. Giải quyết
vấn đề ô nhiễm môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện
nay không chỉ là đòi hỏi cấp thiết đối với các cấp quản lí, các doanh nghiệp mà đó còn
là trách nhiệm của mỗi chúng ta và của toàn xã hội. Trong những năm đầu thực hiện
đường lối đổi mới, vì tập trung ưu tiên phát triển kinh tế và cũng một phần do nhận
thức hạn chế nên việc gắn phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường chưa chú trọng
đúng mức. Tình trạng tách rời công tác bảo vệ môi trường với sự phát triển kinh tế - xã
hội diễn ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi
trường diễn ra phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Đối tượng gây ô nhiễm môi
trường chủ yếu là hoạt động sản xuất của nhà máy trong các khu công nghiệp, hoạt
động làng nghề và sinh hoạt tại các đô thị lớn.Ô nhiễm môi trường bao gồm 3 loại
chính là: ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí, ô nhiễm đất.

hinh 1: Ô nhiễm không khí

1.1 Nhận định chung:
1.1.1 Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của
Quốc hội, tỉ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở một số địa
phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 - 20%, như tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một
số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng hầu như
không vận hành vì để giảm chi phí. Đến nay, mới có 60 khu công nghiệp đã hoạt động
có trạm xử lí nước thải tập trung (chiếm 42% số khu công nghiệp đã vận hành) và 20
khu công nghiệp đang xây dựng trạm xử lí nước thải. Bình quân mỗi ngày, các khu,
cụm, điểm công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải
độc hại khác. Dọc lưu vực sông Đồng Nai, có 56 khu công nghiệp, khu chế xuất đang
hoạt động nhưng chỉ có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả


trực tiếp vào nguồn nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp
nhận... Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã phá vỡ hệ thống
thuỷ lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán, ngập úng và ô nhiễm nguồn nước tưới, gây
trở ngại rất lớn cho sản xuất nông nghiệp của bà con nông dân.Nhìn chung, hầu hết các
khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn về môi


trường theo quy định. Thực trạng đó làm cho môi trường sinh thái ở một số địa
phương bị ô nhiễm nghiêm trọng. Cộng đồng dân cư, nhất là các cộng đồng dân cư lân
cận với các khu công nghiệp, đang phải đối mặt với thảm hoạ về môi trường. Họ phải
sống chung với khói bụi, uống nước từ nguồn ô nhiễm chất thải công nghiệp... Từ đó,
gây bất bình, dẫn đến những phản ứng, đấu tranh quyết liệt của người dân đối với
những hoạt động gây ô nhiễm môi trường, có khi bùng phát thành các xung đột xã hội
gay gắt.

Hình 1.1.1:Chất thải từ các
khu công nghiệp
1.1.2 Cùng với sự ra đời ồ ạt các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề thủ công
truyền thống cũng có sự phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Việc phát triển các làng nghề
có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm ở các
địa phương. Tuy nhiên, hậu quả về môi trường do các hoạt động sản xuất làng nghề
đưa lại cũng ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm không khí, chủ yếu là do
nhiên liệu sử dụng trong các làng nghề là than, lượng bụi và khí CO, CO 2, SO2 và Nox
thải ra trong quá trình sản xuất khá cao. Theo thống kê của Hiệp hội Làng nghề Việt
Nam, hiện nay cả nước có 2.790 làng nghề, trong đó có 240 làng nghề truyền thống,
đang giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động, bao gồm cả lao động thường
xuyên và lao động không thường xuyên. Các làng nghề được phân bố rộng khắp cả
nước, trong đó các khu vực tập trung phát triển nhất là đồng bằng sông Hồng, Bắc
Trung Bộ, Tây Bắc Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Hoạt động gây ô nhiễm môi
trường sinh thái tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh

hoạt và sức khoẻ của những người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những
người dân sống ở vùng lân cận, gây phản ứng quyết liệt của bộ phận dân cư này, làm
nảy sinh các xung đột xã hội gay gắt.

Hình 1.1.2: ô nhiễm không khí


1.1.3 Bên cạnh các khu công nghiệp và các làng nghề gây ô nhiễm môi trường, tại
các đô thị lớn, tình trạng ô nhiễm cũng ở mức báo động. Đó là các ô nhiễm về nước
thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn... Những năm gần đây, dân số
ở các đô thị tăng nhanh khiến hệ thống cấp thoát nước không đáp ứng nổi và xuống
cấp nhanh chóng. Nước thải, rác thải sinh hoạt (vô cơ và hữu cơ) ở đô thị hầu hết đều
trực tiếp xả ra môi trường mà không có bất kỳ một biện pháp xử lí môi trường nào nào
ngoài việc vận chuyển đến bãi chôn lấp. Theo thống kê của cơ quan chức năng, mỗi
ngày người dân ở các thành phố lớn thải ra hàng nghìn tấn rác; các cơ sở sản xuất thải
ra hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc hại; các phương tiện giao thông thải ra
hàng trăm tấn bụi, khí độc. Trong tổng số khoảng 34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày,
thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của thành
phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh có mức benzen và sunfua đioxit đáng báo
động. Theo một kết quả nghiên cứu mới công bố năm 2008 của Ngân hàng Thế giới
(WB), trên 10 tỉnh thành phố Việt Nam, xếp theo thứ hạng về ô nhiễm đất, nước,
không khí, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là những địa bàn ô nhiễm đất nặng nhất.
Theo báo cáo của Chương trình môi trường của Liên hợp quốc, thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu châu Á về mức độ ô nhiễm bụi. (Nguồn:Tư liệu của
công ty MT Đại Việt)

Hính 1.1.3: Ô nhiễm do sinh hoạt

1.2 Thực trạng ô nhiễm môi trường của việt nam hiện nay:
1.2.1 Ô nhiễm môi trường nước:

Hiện Nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các
ngành đã có nhiều cố gắng trọng việc thực hiện
chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường,
những tình trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất
đáng lo ngại. Tốc độ công nghiệp hóa và đô thị
hóa diễn ra khá nhanh và sự gia tang dân số gây
áp lực ngày càng nặng nề đối với tài nguyên
nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở
nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề càng
ngày bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất
thải rắn.
Hình 1.2.1: ô nhiễm môi trường nước.
Tính đến năm 2012, cả nước có 289 khu công nghiệp, khu chế xuất, còn có gần 900


cụm công nghiệp. Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi
trường của Quốc hội, tỉ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lí nước thải tập trung ở
một số địa phương rất thấp, có nơi chỉ đạt 15 - 20%, như Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh
Phúc. Một số khu công nghiệp có xây dựng hệ thống xử lí nước thải tập trung nhưng
hầu như không vận hành vì để giảm chi phí. Bình quân mỗi ngày, các khu, cụm, điểm
công nghiệp thải ra khoảng 30.000 tấn chất thải rắn, lỏng, khí và chất thải độc hại
khác. Ví dụ nguồn nước thuộc lưu vực sông Sài Gòn - Đồng Nai hiện đang bị ô nhiễm
nặng, lượng NH3, chất rắn lơ lửng, ô nhiễm hữu cơ (đặc biệt là ô nhiễm dầu và vi
sinh) tăng cao tại hầu hết các rạch, cống và các điểm xả, hàm lượng chì trong nước
vượt tiêu chuẩn quy định nhiều lần, chất rắn lơ lửng vượt tiêu chuẩn từ 3 - 9 lần… Ví
dụ khác ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất
gấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải
khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng song Cầu; nước thải từ
sản xuất giấy có pH từ 8,9-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/l, hàm lượng chất hữu cơ cao,
nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…

Tình trạng ô nhiễm nguồn nước ở nước ta hiện nay không thể thiếu sự “đóng góp
tích cực” từ các đô thị, thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Ở các thành phố , nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp
xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương,…). Mặt khác, có rất nhiều cơ sở sản
xuất không xử lý nước thải; phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống
xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được…
là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nguồn nước.Hiện nay, mức độ ô nhiễm
trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng. Thành phố Hà Nội, tổng
lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; lượng rác thải sinh
hoạt chưa được thu gom khoảng 1.200 m3/ngày đang xả vào các khu đất ven hồ, kênh,
mương trong nội thành. Thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4000
tấn/ngày; 24/142 cơ sở y tế lớn là có hệ thống xử lý nước thải. Không chỉ ở 2 thành
phố lớn Hà Nội và Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Nam Định,
Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai… nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý, độ ô nhiễm
nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện
nay Việt Nam đa số dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc
hậu, phần lớn rác thải sinh hoạt và các chất thải của gia súc không được xử lý, làm cho
tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Trong sản
xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến các nguồn nước
ở sông, mương, ao, hồ bị ô nhiễm, ảnh hưởng đến lớn môi trường sông của động vật
và sức khỏe của con người. Ngoài ra, một số làng nghề như sắt thép, đúc đồng, nhôm,
chì, giấy, dệt nhộm cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn mét khối trên ngày không
qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực. Đây là vấn đề rất
khó giải quyết khi mà đây chỉ là những làng nghề thủ công, rất là tốn kém và lãng phí
nếu như đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải ở những làng nghề như thế này.

1.2.3 Ô nhiễm môi trường không khí:



Ô nhiễm môi trường không
khí đang là một vấn đề bức
xúc đối với môi trường đô thị,
công nghiệp và các làng nghề
ở nước ta hiện nay. Ô nhiễm
môi trường không khí có tác
động xấu đối với sức khỏe của
con người, ảnh hưởng đến hệ
sinh thái và biến đổi khí hậu,
… Công nghiệp hóa càng
mạnh, đô thị hóa càng phát.
triển thì nguồn khí thải gây ô
nhiễm môi trường không khí
ngày càng nhiều, yêu cầu bảo
vệ môi trường không khí càng
Hình 1.2.3: Ô nhiễm không khí
quan trọng. Ta có thể chia việc ô nhiễm không khí thành các loại:
+ Ô nhiễm bụi: Ở hầu hết các đô thị nước ta đều bị ô nhiễm, nhiều nơi ô nhiễm bụi
trầm trọng, tới mức báo động. Ô nhiễm bụi chủ yếu là do các hoạt đông giao thông và
xây dựng gây ra. Nồng độ bụi trung bình của các khu dân cư cạnh đường giao thông
lớn và các khu công nghiệp đều vượt trị số TCCP từ 1,5-3 lần, các trường hợp cá biệt
gần nhà máy nhiệt điện, nhà máy gạch đều vượt quá từ 5-8 lần. Còn lại các khu dân cư
xa đường giao thông lớn, các cơ sở sản xuất hay các khu công nghiệp đều xấp xỉ tri số
TCCP(trung bình 1 ngày là 0,2 mg/m3).
+ Ô nhiễm chì (Pb) và các loại khí độc hại: Việc ô nhiễm chì chủ yếu là do các
phương tiện giao thông chạy xăng pha chì gây ra. Ô nhiễm chì trong không khí ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Theo tiêu chuẩn chất lượng không khí ở Việt
Nam, nồng độ chì trong không khí không được vượt quá 0,005mg/m3. Nồng độ khí
SO2, CO2, NO2, CO ở một số khu công nghiệp, các nút giao thông lớn thì vượt quá
mức độ cho phép nhiều lần. Lấy ví dụ, tại Hà Nội mỗi năm phải tiếp nhận khoảng

80.000 tấn khói bụi, 9.000 tấn khí SO2, 46.000 tấn khí CO từ hàng trăm cơ sở sản xuất
công nghiệp, đó là chưa kể khói của hơn 100 ngàn ôtô và hơn 1 triệu xe máy.

1.2.4 Ô nhiễm môi trường đất:
Đất là tài nguyên quý giá nhất, là tư liệu sản xuất đặc biệt, yếu tố quyết định cấu thành
các hệ sinh thái. Do nhiều nguyên nhận đất chia làm nhiều loại khác nhau như sa mạc,
núi rừng, đất nông nghiệp và đất đô thị. Tùy thuộc vào mức độ đối xử của con người
với đất mà có thê phất triển theo chiều hướng tốt cũng có thể phát triển theo chiều
hướng xấu đi. Nhưng hiện nay ở nước ta mức độ ô nhiễm môi trường đất đang diễn ra
hết sức nghiêm trọng mà chủ yếu do các nguyên nhân sau:
+Ô nhiễm môi trường đất do nước bị ô nhiễm: Đất và nước luôn có mối quan hệ mật
thiết với nhau nên việc môi trường nước bị ô nhiễm cũng đã trực tiếp gây ra những hậu
quả xấu cho môi trường đất nước ta.
+ Ô nhiễm môi trường đất do chất thải rắn tạo ra: Cùng với sự phát triển của công
nghiệp, đời sống của nhân dân ngày càng tăng lên và đô thị hóa nhanh chóng, lượng
chất thải rắn cũng ngày càng tăng. Theo thống kê của Cục Hạ tầng Kỹ thuật (Bộ Xây
dựng), tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên cả nước hiện (năm 2013) vào
khoảng 61.500 tấn/ngày. Đáng lưu tâm nhất là hiện cả nước chỉ có khoảng 26,8% số
bãi chôn lấp chất thải rắn là đảm bảo vệ sinh, trong tổng gần 460 bãi chôn lấp được
giám sát. Các thành phần của chất thải rắn bao gồm: giấy carton, vải, gỗ, rác hữu cơ, lá


cây, thực phẩm, chất dẻo, cao su, nilon,
kim loại, thủy tinh, vật liệu xây dựng...
Lượng chất thải chưa được thu gom thì
bị đổ trực tiếp ra sông ngòi hoặc được
chôn lấp sơ sài do nhiều người dân chưa
có ý thức bảo vê môi trường nên gây ra
những hiểm họa tiềm tàng về môi trường
và cho sức khỏe của mọi người.

(Nguồn:Luanvan.net.vn)

Hình 1.2.4 ô nhiễm đất.

2.Nguyên nhân
Ngày 18/12/2015 lúc (7:45:21)AM .Một bức tranh toàn cảnh truyền từ vệ tinh cho
thấy rằng ô nhiễm môi trườngđang diễn ra ở khắp mọi nơi trên Trái Đất. Do đâu mà
hiện tượng này lại phổ biến đến vậy? Nhìn nhận theo quan điểm duy vật lịch sử,
nguyên nhân của sự ô nhiễm môi trường toàn cầu bao gồm nguyên nhân từ tồn tại xã
hội và nguyên nhân từ kiến trúc thượng tầng.

2.1 Nguyên nhân từ tồn tại xã hội
Chúng ta đều biết rằng tồn tại xã hội là toàn bộ những yếu tố vật chất mà xã hội dựa
vào để phát triển. Nó tồn tại khách quan ngoài ý thức xã hội và quyết định ý thức xã
hội. Có 3 yếu tố hợp thành tồn tại xã hội là phương thức sản xuất, dân số và hoàn cảnh
địa lí.

2.2 Phương thức sản xuất
Vấn đề môi trường đã nảy sinh từ thời kì xa xưa, từ khi con người còn sống bằng việc
hái lượm và săn bắn. Người nguyên thủy do hái lượm và săn bắn quá mức, đã phá hoại
nguồn thức ăn trong nơi cư trú của mình nên phải di chuyển đến nơi khác. Đó là vấn
đề môi trường sớm nhất mà con người phải
giải quyết
Ngày nay vấn đề môi trường của con người
khác với thời cổ đại ở chỗ nó đó trở thành
một vấn đề toàn cầu. Nhưng xem xét một
cách khách quan, nguyên nhân gây ra ô
nhiễm môi trường ngày nay cũng giống
như những thời kì trước, đó là do phương
thức sản xuất của cải vật chất của con

người chưa khoa học nên đã tác động, ảnh
hưởng mạnh mẽ vào tự nhiên
Hinh2.2:phá rừng bừa bãi

2.3 Lực lượng sản xuất:
Người lao động trên thế giới ngày càng có trình độ, kĩ năng làm việc tốt hơn trước
kia. Các công cụ được làm ra ngày càng tinh xảo và thuận lợi hơn cho con người trong
quá trình lao động. Yếu tố công cụ lao động cũng được xem là yếu tố động nhất, cách
mạng nhất trong lực lượng sản xuất


Nhưng trên thế giới ngày nay, ở những quốc
gia nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, công
cụ sản xuất còn rất thô sơ, lạc hậu, việc sử
dụng phân bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc
bảo vệ thực vật quá mức cho phép đã
khiến ô nhiễm môi trường đất, nước,
không khí trầm trọng
Tại các nước phát triển như Mĩ, Trung
Quốc, Nhật Bản, công nghiệp được coi là
ngành xương sống trong phát triển kinh tế,
công cụ lao động được đầu tư chủ yếu là
những máy móc, trang thiết bị hiện đại
nhưng đối lập với nó, vấn đề môi trường
vẫn chưa được quan tâm đúng mức: khí
thải công nghiệp, nước thải công nghiệp
chưa qua xử lí xả trực tiếp vào môi trường
gây ra ô nhiễm không khí và ô nhiễm
nguồn nước nặng nề


Hinh2.3:Nước thải công nghiệp
2.4 Quan hệ sản xuất:
Nếu lực lượng sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong quá
trình sản xuất thì quan hệ sản xuất biểu thị mối quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình sản xuất
Mối quan hệ này bao gồm quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ về tổ chức quản
lí và quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất là quan trọng nhất, chi phối 2 yếu tố
cộng lại
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu
sản xuất là sở hữu tư nhân và sở hữu xã
hội. Nhưng có thể nhận thấy ngày nay dưới
bất kì hình thức sở hữu nào, có rất ít những
ông chủ biết quan tâm đến vấn đề bảo vệ
môi trường

HHinh2.4:Ô nhiễm không khí
2.5 Dân số
Tác động tiêu cực của tình trạng gia tăng dân số hiện nay trên thế giới tạo ra sức ép
lớn tới tài nguyên thiên nhiên và môi trường Trái Đất do khai thác quá mức các nguồn
tài nguyên phục vụ cho các nhu cầu nhà ở, sản xuất lương thực, thực phẩm, sản xuất
công nghiệp
Tạo ra các nguồn thải tập trung vượt quá khả năng tự phân huỷ của môi trường tự
nhiên trong các khu vực đô thị, khu sản xuất nông nghiệp, công nghiệp
Sự gia tăng dân số đô thị và sự hình thành các thành phố lớn – siêu đô thị làm cho


môi trường khu vực đô thị có nguy cơ bị suy thoái nghiêm trọng. Nguồn cung cấp
nước sạch, nhà ở, cây xanh không đáp ứng kịp cho sự phát triển dân cư kéo theo ô

nhiễm môi trường không khí, nước tăng lên
Điều kiện sống thấp ở vùng nông thôn hay trong những khu nhà ổ chuột ở thành phố là
những tác nhân gây ra ô nhiễm môi trường

Hinh2.5:Dân số tăng
2.6 Hoàn cảnh địa lí
Trên Trái Đất, điều kiện tự nhiên phân bố không đồng đều, có nơi thuận lợi, có nơi
còn gặp nhiều khó khăn. Ở những nơi tự nhiên thuận lợi, dân cư thường tập trung đông
đúc tạo ra sức ép tới tài nguyên, môi trường
Còn tại những nơi điều kiện khó khăn hơn, đặc biệt ở những vùng sâu vùng xa, đa
phần nhận thức của người dân về vấn đề bảo vệ môi trường còn hạn chế. Vì thế hoàn
cảnh địa lí cũng là một trong những yếu tố gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường
Bên cạnh đó, những thảm họa tự nhiên như sóng thần, bóo lụt, hạn hán, động đất,
cháy rừng… cũng ảnh hưởng không nhỏ tới
môi trường.
(Nguồn:Khotailieu.net)

Hinh2.6:Sống thần ở nhật bản
2.7 Một số nguyên nhân khác:
Ngoài ra,tình trạng ô nhiễm môi trường nêu trên có nhiều nguyên nhân khác nhau,
song tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu sau đây:
-Thứ nhất, nhiều người vô tư vứt rác bừa bãi (cả công khai lẫn lén lút) bất kể địa
điểm, thậm chí cả ở nơi có biển “cấm đổ rác”… Tệ hại hơn họ còn coi đó là điều bình
thường, không hề cảm thấy xấu hổ. Ý thức
của nhiều người dân về bảo vệ môi trường
còn kém, chưa hiểu rõ hết tác hại của những
hành động ấy tác động đến môi trường xung
quanh như thế nào. Công tác tuyên truyền,
giáo dục về bảo vệ môi trường trong xã hội
còn hạn chế, dẫn đến chưa phát huy được ý

thức tự giác, trách nhiệm của các tổ chức, cá
nhân, cộng đồng trong việc tham gia gìn giữ
và bảo vệ môi trường.
Hinh2.7:Vứt rác bừa bãi
-Thứ hai, quyền hạn pháp lí của các tổ chức
bảo vệ môi trường, nhất là của lực lượng


Cảnh sát môi trường chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm
tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường. Các cở sở pháp lí, chế tài xử phạt đối với các loại hành vi gây ô nhiễm môi
trường và các loại tội phạm về môi trường vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến hạn
chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với những hành vi xâm hại môi trường.
Rất ít trường hợp gây ô nhiễm môi trường bị xử lí hình sự; còn các biện pháp xử lí
khác như buộc phải di dời ra khỏi khu vực gây ô nhiễm, đóng cửa và đình chỉnh hoạt
động của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường cũng không được áp dụng nhiều, hoặc có
áp dụng nhưng các cơ quan chức năng thiếu kiên quyết, doanh nghiệp trây ỳ nên cũng
không có hiệu quả.
-Thứ ba, các cấp chính quyền chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng mức đối với
công tác bảo vệ môi trường, dẫn đến buông lỏng quản lí, thiếu trách nhiệm trong việc
kiểm tra, giám sát về môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra về môi trường của các
cơ quan chức năng đối với các cơ sở sản xuất dường như vẫn mang tính hình thức,
hiện tượng “phạt để tồn tại” còn phổ biến. Công tác thẩm định và đánh giá tác động
môi trường đối với các dự án đầu tư còn tồn tại nhiều bất cập và chưa được coi trọng
đúng mức, thậm chí chỉ được tiến hành một cách hình thức, qua loa đại khái cho đủ
thủ tục, dẫn đến chất lượng thẩm định và phê duyệt không cao.
-Thứ tư, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác
bảo vệ môi trường còn hạn chế; phương tiện kỹ thuật phục vụ công tác kiểm tra chưa
đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Do đó, trong nhiều trường hợp, đoàn kiểm tra
không thể phát hiện được những thủ đoạn tinh vi của doanh nghiệp thải các chất gây ô

nhiễm ra môi trường.
-Thứ năm, những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi
trường và việc tổ chức thực hiện của các cơ quan chức năng. Theo thống kê của Bộ Tư
pháp, hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường để điều chỉnh
hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế, các quy trình kỹ thuật, quy
trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản này vẫn còn
chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao, tình trạng văn
bản mới được ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm
hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế...
trong việc bảo vệ môi trường.(Nguồn:Luanvan.net.vn)

3.Tác hại của ô nhiễm môi trường:
3.1 Tác hại của ô nhiễm nguồn nước: Là tỉ lệ người mắc các bệnh cấp và mãn
tính liên quan đến ô nhiễm môi trường nước như viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư,…
ngày càng tăng.Người dân sinh sống quanh khu ô nhiễm ngày càng mắc nhiều loại
bệnh tình nghi là do dùng nước bẩn trong sinh hoạt.Ngoài ra ô nhiễm nguồn nước còn
gây tổn thất lớn cho các nghành sản xuất kinh doanh, các hộ nuôi trồng thủy sản. Các
nghiên cứu khoa học cũng cho thấy, khi sử dụng nước nhiễm Asen để ăn uống, con
người có thể mắc bệnh ung thư trong đó thường gặp là ung thư da. Ngoài ra Asen còn
gây nhiễm độc hệ thống tuần hoàn khi uống phải nguồn nước có hàm lượng Asen 0,1
mg/l. Người nhiễm chì lâu ngày có thể mắc bệnh thận, thần kinh, nhiễm Amoni, nitrat,
nitrit gây bệnh xanh da, thiếu máu, có thể gây ra ung thư.Metyl tert-buty
1ete(MTBE)là chất phụ gia phổ biến trong khai thác dầu lửa có khả năng gây ung thư
rất cao. Nhiễm natri(Na)gây ra bệnh cao huyết áp, bệnh tim mạch. Lưu huỳnh gây
bệnh về đường tiêu hóa.Kali (k),Cadimi(Cd) gây các bệnh thoái hóa cột sống,đau
lưng.Hợp chất hữu cơ, thuốc trừ sâu,thuốc diệt côn trùng, diệt cỏ, thuốc kích thích tăng
trưởng, thuốc bảo quản thực phẩm,photpho,…gây ngộ độc,viêm da,nôn mửa.Tiếp xúc


sẽ gây ung thư nghiêm trọng,các cơ quan nội tạng.Chất tẩy trắng Xenon

perocidi,sodium percarbonate gây viêm đường hô hấp,oxalate kết hợp với calcium tạo
ra calcium oxalate gây đau thận, sỏi mật.Vi khuẩn,kí sinh trùng các loại là nguyên
nhân gây ra các bệnh đường tiêu hóa,nhiễm giun,sán. Kim loại nặng
như:Titan,sắt,chì,cadimi,asen,thủy ngân,kẽm đều gây đau thần kinh, thận,hệ bài
tiết,viêm xương,thiếu máu.

Hình 3.1:Ô nhiễm nguồn nước gây chết cá
3.2 TÁC HẠI CỦA BỤI
-Thành phần hóa học, thời gian tiếp xúc là các yếu tố ảnh hưởng đến các cơ quan
nội tạng.
-Mức độ bụi trong bộ máy hô hấp phụ thuộc vào kích thước, hình dạng, mật độ hạt
bụi và cá nhân từng người.
- Bụi vào phổi gây kích thích cơ học, xơ hóa phổi dẫn đến các bệnh về hô hấp như
khó thở, ho và khạc đờm, ho ra máu, đau ngực …
- TCVN 2005 qui định bụi tổng cộng trong không khí xung quanh 0,5 mg/m3.
- Bụi đất đá không gây ra các phản
ứng phụ: tính trõ, không có tính
gây độc. Kích thước lớn (bụi
thô), nặng, ít có khả năng đi vào
phế nang phổi, ít ảnh hưởng đến
sức khỏe.
- Bụi than: thành phần chủ yếu là
hydrocacbon đa vòng (VD: 3,4benzenpyrene), có độc tính cao,
có khả năng gây ung thư, phần
lớn bụi than có kích thước lớn
hơn 5 micromet bị các dịch nhầy
ở các tuyến phế quản và các lông
giữ lại. Chỉ có các hạt bụi có
kích thước nhỏ hơn 5 mm vào
được phế nang.

HÌNH 3.2:Khối bụi
3.3 TÁC HẠI CỦA SO2 VÀ NOX
-SO2, NOX là chất kích thích, khi tiếp xúc với niêm mạc ẩm ướt tạo thành axít


(HNO3, H2SO3, H2SO4). Các chất khí trên vào cơ thể qua đường hô hấp hoặc
hòa tan vào nước bọt rồi vào đường tiêu hoá, sau đó phân tán vào máu tuần
hoàn.
-Kết hợp với bụi => bụi lơ lửng có tính axít, kích thước < 2-3µm sẽ vào tới phế
nang, bị đại thực bào phá hủy hoặc đưa đến hệ thống bạch huyết.
- SO2 nhiễm độc qua da làm giảm dự trữ kiềm trong máu, đào thải amoniac ra nước
tiểu và kiềm ra nước bọt.
- Độc tính chung của SO2 thể hiện ở rối loạn chuyển hóa protein và đường, thiếu
vitamin B và C, ức chế enzym oxydaza.
- Giới hạn phát hiện thấy bằng mũi SO2 từ 8 – 13 mg/m3.
- Giới hạn gây độc tính của SO2 là 20 – 30 mg/m3, giới hạn gây kích thích hô hấp,
ho là 50mg/m3.
-Giới hạn gây nguy hiểm sau khi hít thở 30 – 60 phút là từ 130 đến 260mg/m3
-Giới hạn
gây tử
vong
nhanh
(30’ –
1h) là
1.000-

1.300mg/m3.
-Tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y Tế Việt Nam đối với SO2, SO3, NO2 týõng ứng là
0,5; 0,3 và 0,085 mg/m3 (nồng độ tối đa 1 lần nhiễm).


Hình
3.3: khí từ
các khu công
nghiệp va núi
lửa

3.4 TÁC HẠI CỦA HF
-HF sinh ra do quá trình sản xuất hóa chất (HF) và là một tác nhân ô nhiễm quan
trọng khi nung gạch ngói, gốm sứ.
-Không khí bị ô nhiễm bởi HF và các hợp chất fluorua gây ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống sinh vật và sức khoẻ của người. Các hợp chất fluorua gây ra bệnh
fluorosis trên hệ xương và răng.
Hình 3.4: Công nhân làm việc ở lò gach
3.5 TÁC HẠI CỦA CO


-Ôxít cacbon (CO) kết hợp với hemoglobin (Hb) trong máu thành hợp chất bền vững
là cacboxy hemoglobin (HbCO) làm cho máu giảm khả năng vận chuyển ôxy
dẫn đến thiếu ôxy trong máu rồi thiếu ôxy ở các tổ chức.

3.6 AMONIAC (NH3)
-NH3 không ăn mòn thép, nhôm,
tan trong nước gây ăn mòn
kim loại màu: kẽm, đồng và
các hợp kim của đồng. NH3
tạo với không khí một hỗn hợp
có nồng độ trong khoảng từ 16
đến 25% thể tích sẽ gây nổ.
-NH3 là khí độc có khả năng kích
thích mạnh lên mũi,miệng và hệ thống hô hấp.

-Ngưỡng chịu đựng đối với NH3 là 20 – 40 mg/m3.
-Tiếp xúc với NH3 với nồng độ 100 mg/m3 trong khoảng thời gian ngắn sẽ không để
lại hậu qủa lâu dài.
-Tiếp xúc với NH3 ở nồng độ 1.500 – 2.000 mg/m3 trong thời gian 30’ sẽ nguy hiểm
đối với tính mạng.
Hình 3.6: Ung thư tuyến nước bột
3.7 HYDRO SUNFUA (H2S)
-Phát hiện dễ dàng nhờ vào mùi đặc trưng.
- Xâm nhập vào cơ thể qua phổi, H2S bị oxy hoá => sunfat, các hợp chất có độc tính
thấp. Không tích lũy trong cơ thể. Khoảng 6% lượng khí hấp thụ sẽ được thải ra
ngoài qua khí thở ra, phần còn lại sau khi chuyển hóa được bài tiết qua nước
tiểu.
- Ở nồng độ thấp, H2S có kích thích lên mắt và đường hô hấp.
- Hít thở lượng lớn hỗn hợp khí H2S, mercaptan, ammoniac… gây thiếu oxy đột
ngột, có thể dẫn đến tử vong do ngạt.
- Dấu hiệu nhiễm độc cấp tính: buồn nôn, rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy, mũi họng khô
và có mùi hôi, mắt có biểu hiện phù mi, viêm kết mạc nhãn cầu, tiết dịch mủ và
giảm thị lực.
-Sunfua được tạo thành xâm nhập hệ tuần hoàn tác động đến các vùng cảm giác –
mạch, vùng sinh phản xạ của các thần kinh động mạch cảnh.
-Thường xuyên tiếp xúc với H2S ở nồng độ dưới mức gây độc cấp tính có thể gây
nhiễm độc mãn tính. Các triệu chứng có thể là: suy nhược, rối loạn hệ thần
kinh, hệ tiêu hóa, tính khí thất thường, khó tập trung, mất ngủ, viêm phế quản
mãn tính…
3.8 TÁC HẠI CỦA HYDROCACBON
-Hơi dầu có chứa các chất hydrocacbon nhẹ như metan, propan, butan, sunfua hydro.
-Giới hạn nhiễm độc của các khí như sau:
Metan: 60-95 %
Propan : 10 %
Butan : 30 %

Sulfua hydro: 10 ppm


-Tiêu chuẩn của Bộ Y Tế Việt Nam năm 1977 qui định tại nơi lao động: dầu xăng
nhiên liệu là 100mg/m3, dầu hỏa là 300mg/m3. TCVN 5938-2005 qui định
nồng độ xăng dầu trong không khí xung quanh tối đa trong 1 giờ là 5mg/m3.
- Nồng độ hơi xăng, dầu từ 45% (thể tích) trở lên sẽ gây ngạt thở do thiếu ôxy. Triệu
chứng nhiễm độc như say, co giật, ngạt, viêm phổi, áp xe phổi.
- Dầu xăng ở nồng độ trên 40.000 mg/m3 có thể bị tai biến cấp tính với các triệu
chứng như tức ngực, chóng mặt, rối loạn giác quan, tâm thần, nhức đầu, buồn
nôn, ở nồng độ trên 60.000 mg/m3 sẽ xuất hiện các cơn co giật, rối loạn tim và
hô hấp, thậm chí gây tử vong.
-Người nhạy cảm xăng dầu: tác động trực tiếp lên da (ghẻ, ban đỏ, eczema, bệnh nốt
dầu, ung thư da).
-Các hydrocacbon mạch thẳng như dung môi naphta; các hydrocacbon mạch vòng
như cyclohexan; các hydrocacbon mạch vòng thơm như benzen, toluen, xylen;
các dẫn xuất của hydrocacbon như cyclohexanol, butanol, axeton, etyl acetat,
butyl acetat, metyletyl xeton (MEK) và các dẫn xuất halogen.
- Các hợp chất hữu cơ bay hơi (THC): Dưới ánh sáng mặt trời, các THC với NOx
tạo thành ozon hoặc những chất oxy hóa mạnh khác. Các chất này có hại tới sức
khỏe (rối loạn hô hấp, đau đầu, nhức mắt), gây hại cho cây cối và vật liệu.
3.9 TÁC HẠI CỦA FORMALDEHYDE
- Formaldehyde với nồng độ thấp kích thích da, mắt, đường hô hấp, ở liều cao có tác
động toàn thân, gây ngủ.
- Nhiễm theo đường tiêu hoá với liều lượng cao hơn 200mg/ngày sẽ gây nôn,
choáng váng.
- Người bị nhiễm độc mãn tính có tổn thương rất đặc trưng ở móng tay: móng tay
màu nâu, mềm ra, dễ gẫy, viêm nhiễm ở xung quanh móng rồi mưng mủ.
- Nồng độ tối đa cho phép của hơi formaldehyde trong không khí là 0,012mg/m3
(TCVN 5938-1995), trong khí thải là 6 mg/m3.

- Tổ chức Y tế Thế giới: nồng độ giới hạn formandehyde là 100 mg/m3 trong
không khí với thời gian trung bình 30phút.
3.10 TÁC HẠI CỦA Ô NHIỄM KHÔNG
KHÍ ĐỐI VỚI ĐỘNG THỰC VẬT
- Ô nhiễm không khí gây ảnh hưởng tai hại
cho tất cả sinh vật.
- Thực vật rất nhạy cảm đối với ô nhiễm
không khí.
SO2, NO2, ozon, fluor, chì… gây hại trực
tiếp cho thực vật khi đi vào khí
khổng, làm hư hại hệ thống giảm
thoát nước và giảm khả năng kháng
bệnh.
- Ngăn cản sự quang hợp và tăng trưởng của thực vật; giảm sự hấp thu thức ăn, làm
lá vàng và rụng sớm.
- Đa số cây ăn quả rất nhạy đối với HF. Khi tiếp xúc với nồng độ HF lớn hơn 0,002
mg/m3 thì lá cây bị cháy đốm, rụng lá.
- Mưa acid còn tác động gián tiếp lên thực vật và làm cây thiếu thức ăn như Ca và
giết chết các vi sinh vật đất. Nó làm ion Al được giải phóng vào nước làm hại rễ
cây (lông hút) và làm giảm hấp thu thức ăn và nước.
- Ðối với động vật, nhất là vật nuôi, thì fluor gây nhiều tai họa hơn cả. Chúng bị


nhiễm độc do hít trực tiếp và qua chuỗi thức ăn.

Hình 3.10: Tác hại đối với động vật.

3.11 TÁC HẠI CỦA Ô NHIỄM ĐẤT:
- Đất bị ô nhiễm trực tiếp ảnh hưởng
đến sức khỏe con người thông

qua tiếp xúc trực tiếp với đất hoặc
qua đường hô hấp do sự bốc hơi
của chất gây ô nhiễm đất.

Hình 3.11: Tác hại của ô nhiễm đất.
3.12 TÁC HẠI CỦA VIỆC KHAI THÁC KHOÁNG SẢN Ở VIỆT NAM
-Hoạt động khai thác khoáng sản ở nước ta đã và đang gây nhiều tác động xấu đến
môi trường xung quanh. Biểu hiện rõ nét nhất là việc sử dụng thiếu hiệu quả các
nguồn khoáng sản tự nhiên; tác động đến cảnh quan và hình thái môi trường; tích tụ
hoặc phát tán chất thải; làm ảnh hưởng đến sử dụng nước, ô nhiễm nước, tiềm ẩn nguy
cơ về dòng thải axit mỏ... Những hoạt động này đang phá vỡ cân bằng điều kiện sinh
thái được hình thành từ hàng chục triệu năm, gây ô nhiễm nặng nề đối với môi trường,
trở thành vấn đề cấp bách mang tính chính trị và xã hội của cộng đồng một cách sâu
sắc.
Hình 3.12: Khai thác than
-Nhận định về những tác động đến môi trường do hoạt động khai thác khoáng sản
hiện nay, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bùi Cách Tuyến cho rằng: Đáng
lo ngại nhất là các hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản quy mô nhỏ đang diễn ra
khá phổ biến ở nước ta. Do vốn đầu tư của các doanh nghiệp này hạn chế, khai thác
bằng phương pháp thủ công, bán cơ giới, công nghệ lạc hậu và nhất là chạy theo lợi
nhuận, ý thức chấp hành luật pháp chưa cao nên các chủ cơ sở ít quan tâm đến công


tác bảo vệ môi trường, an toàn lao động, bảo vệ tài nguyên khoáng sản, để lại nhiều
hậu quả xấu đến môi trường. Đa số các mỏ đang hoạt động hiện nay sản lượng khai
thác thấp hơn nhiều so với sản lượng được cấp phép, hoạt động không tuân thủ dự án,
thiết kế và báo cáo đánh giá tác động môi trường, hoặc bản cam kết được duyệt.
-Đơn cử như việc khai thác than, từ năm 2000 đến nay sản lượng ngành than đã
không ngừng tăng. Song vấn đề bức xúc nhất đối với các mỏ khai thác than về góc độ
bảo vệ môi trường là đất đá thải. Để sản xuất 1 tấn than, cần bóc đi từ 8 – 10 m 3 đất

phủ, thải từ 1 - 3 m3nước thải mỏ. Chỉ tính riêng năm 2006, các mỏ than của Tập đoàn
Công nghiệp Than và Khoáng sản Việt nam đã thải vào môi trường tới 182,6 triệu m3
đất đá, khoảng 70 triệu m3 nước thải mỏ, dẫn đến một số vùng của tỉnh Quảng Ninh bị
ô nhiễm đến mức báo động như Mạo Khê, Uông Bí, Cẩm Phả...
Đất đá thải loại trong khai thác khoáng sản cũng là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến tác
động cộng hưởng về phát thải bụi từ các mỏ, gây suy giảm môi trường không khí do
nhiễm bụi ở các khu dân cư ở trong vùng khai thác. Trên các mỏ than thường có mặt
với hàm lượng cao các nguyên tố Sc, Ti, Mn...Các khoáng vật sulphua có trong than
còn chứa Zn, Cd, HG...làm cho bụi mỏ trở nên độc hại với sức khỏe con người.
- Trong khai thác mỏ kim loại, tác động rõ nét nhất là tàn phá mặt đất, ảnh hưởng lớn
đến rừng và thảm thực vật. Việc khai thác vật liệu xây dựng, nguyên liệu cho sản xuất
phân bón và hóa chất như đá vôi làm ô nhiễm không khí, ô nhiễm nước nghiêm trọng.
Do quy trình khai thác lạc hậu, không có hệ thống thu bụi nên hàm lượng bụi tại
những nơi này thường lớn gấp 9 lần so với tiêu chuẩn cho phép.
-Một trong những loại vật liệu xây dựng được khai thác từ các lòng sông là cát. Hoạt
động này diễn ra trên toàn bộ hệ thống
sông suối ở nước ta. Tại miền Nam có
tới 120 khu vực được UBND các tỉnh
cấp phép khai thác cát xây dựng, khối
lượng cát đã khai thác từ những con
sông lớn như Đồng Nai - Nhà Bè, Sài
Gòn, Vàm Cỏ Đông, sông Tiền và sông
Hậu... kể từ năm 1990 đến nay lên tới
100 triệu m3. Hậu quả môi trường mà
các tỉnh này đang phải gánh chịu là làm đục nước sông, cản trở thuyền bè qua lại và
nguy cơ gia tăng tai nạn giao thông đường thủy. Đặc biệt là gây sạt lở nghiêm trọng
các bờ sông, nhất là ở sông Đồng Nai và sông Sài Gòn đã và đang sạt lở nặng nề nhất .

4.PHƯƠNG HƯỚNG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
4.1 Dân số

Dân số nước ta gia tăng quá nhanh với tỉ lệ gia tăng hằng năm là 2,1%, cao hơn
mức trung bình toàn thế giới (1,7%). Mỗi năm có thêm 1,5 triệu nhân khẩu. Ðiều này
gây một áp lực thực sự to lớn cho vấn đề sản xuất lương thực, tài nguyên và môi
trường. Cho nên, nhất thiết phải giảm đà gia tăng dân số để trong vài thập niên tới dân
số có thể đạt được mức ổn định.
Hình 4.1:Kế hoạch hóa gia đình

4.2 Sản xuất lương thực


Trong 50 năm qua, nông nghiệp nước ta phát triển chậm về sản lượng lương thực,
năng suất cây trồng và bình quân lương thực tính theo đầu người còn ở khoảng hơn
300 kg, tức còn rất thấp, và là mối đe dọa thường xuyên của mọi người.
Cho nên trong thời gian tới, cần gia tăng sản lượng lương thực bằng cách giải
phóng sức sản xuất nông nghiệp, khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng đất đai, sức
lao động, vốn và kinh nghiệm sản xuất của nông dân.Cần cân nhắc kỷ việc khai

Hình 4.2: Quy trình khép kín sản xuất lúa
khẩn đất mới, phá rừng trồng lúa, sao cho có hiệu quả kinh tế đồng thời bảo vệ môi
trường.

4.3 Trồng rừng và bảo vệ sinh học
Trong mấy chục năm qua, rừng và đa dạng sinh học của nước ta bị tàn phá nghiêm
trọng. Năm 1943, rừng che phủ 44% tổng diện tích, đến nay chỉ còn 20 đến 28% tức là
rất thấp so với mức an toàn sinh thái (bằng hay trên 1/3 tổng diện tích). Hàng năm có
từ 160-200 ngàn ha rừng bị mất đi. Rừng bị mất kéo theo sự giảm đa dạng sinh học
vốn rất phong phú và đa dạng. Nhiều
loài đã và đang bị tuyệt chủng. Trong
4
thập niên qua, có ít nhất là 200 loài

chim và 120 loài thú bị diệt vong (Báo
cáo của CHXHCNVN, 1992).
Biện pháp bảo vệ rừng và đa dạng
sinh học là cấp thiết sống còn của đất
nước. Chúng ta cần thực hiện các biện
pháp trước mắt và lâu dài như sau:
- Cấm phá rừng nguyên sinh, rừng
đầu nguồn.
- Ổn định dân số, giảm nghèo đói cho dân vùng rừng núi và các vùng nông thôn.
- Có chính sách giao đất, giao rừng bảo đảm lợi ích nông dân và lợi ích quốc gia
- Trồng lại rừng và cây phân tán ở tất cả các nơi.
- Kiểm soát việc săn bắt, buôn bán và tiêu thụ động vật hoang dã.
- Cấm các phương tiện đánh bắt có tính cách hủy diệt sự sống (chất độc, bom mìn,
điện, lười diệt chủng...).
- Củng cố và mở rộng các
vườn quốc gia, các khu bảo tồn
tài nguyên.

Hình 4.3: Trồng rừng bảo vệ môi
trường


4.4 Phòng chống ô nhiễm
Môi trường nước, không khí và đất đã bị ô nhiễm, có khi đến mức trầm trọng cả ở
thành thị lẫn nông thôn. Rác thải, nước thải và khí thải ở các đô thị là vấn đề phức tạp
nhất. Ở nông thôn, tập quán ở theo kinh rạch, không đủ điều kiện vệ sinh, lạm dụng
phân bón và nông dược làm cho môi trường nông thôn cũng ô nhiễm, đặc biệt là khan
hiếm nước sạch. Ðiều đáng nói là nước ta chưa có hệ thống sử lý chất thải, cho nên
những thứ dơ bẩn điều vứt trực tiếp ra môi trường.
Hình 4.4: Chung tay bảo vệ môi trường

Ðể từng bước cải thiện tình trạng ô nhiễm môi trường cần có các biện pháp sau đây:
- Nâng cao dân trí, làm cho mọi người thấy rằng môi trường xung quanh và các
công trình công cộng là của chúng ta, chớ không phải của chúng nó.
- Các tiêu chuẩn quốc gia và địa phương về chất thải phải được mọi người tuân
thủ. Do đó, nhà máy, xí nghiệp phải tự giảm thiếu chất thải bằng qui trình công nghệ
và xây dựng hệ thống xử lý chất thải của cơ sở.
- Khuyến khích công nghệ sạch (sử dụng phân hữu cơ thay thế một phần phân hóa
học, biện pháp quản lý tổng hợp dịch hại (IPM) ở nông thôn; công nghệ ít chất ô
nhiễm trong công nghiệp...).
- Xây
dựng nhà
máy xử lý
chất thải
sinh hoạt.

4.5 Quản
hoạch môi

lý và qui
trường

- Thành
lập Bộ
Khoa học Công nghệ
- Môi trường
và các Sở
Khoa học Công nghệ
- Môi trường
ở các tỉnh.
- Xây dựng chính sách và pháp luật về môi trường.

- Ban hành tiêu chuẩn môi trường và cách đánh giá tác đông môi trường.
- Xây dựng hệ thống quan trắc (monitoring system) quốc gia.
- Ðẩy mạnh nghiên cứu về môi trường nhằm giải quyết các vấn đề cấp bách, đồng
thời hướng tới việc phát triển bền vững.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong việc bảo vệ và qui hoạch môi
trường.

Hình 4.5:Quản
lý nhà nước vì tài


nguyên và môi trường
4.6. Tăng cường các biện pháp hỗ trợ : giáo dục, đào tạo...
- Nâng cao dân trí tổng quát và cải thiện điều kiện sống của quần chúng.
- Ðưa chương trình giáo dục về môi trường, tình yêu thiên nhiên vào các lớp học
chính khóa và ngoại khóa (du khảo, tham quan).
- Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng.
- Ðào tạo đội ngũ cán bộ có kiến thức cơ bản về khoa học môi trường và có khả
năng đề xuất các ý kiến xử lý và bảo vệ môi trường.
Hình 4.6:Mô hình xử lý chất thải
Tất cả chương trình hành động trên có thể làm cơ sở để chúng ta phát triển, đồng thời
sử dụng và bảo vệ tài nguyên và môi trường của mỗi địa phương, quốc gia và góp
phần bảo vệ trái đất, cái nôi của sự sống.

* Kinh nghiệm giải quyết vấn đề môi trường của Mỹ và Nhật bản là bài học
quý báu cho Việt Nam.
+Không khí ở Việt Nam bẩn thứ 10 thế giới
-Hai trung tâm nghiên cứu môi trường thuộc Đại học Yale và Columbia của
Mỹ thực hiện báo cáo thường niên mang tên The Environmental Performance
Index (EPI), khảo sát 132 quốc gia. Kết quả nghiên cứu được công bố theo từng

quốc gia (country profile), gồm nhiều chỉ số như chất lượng không khí, nước,
ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe, nông nghiệp, biến đổi khí hậu, rừng....
-Theo kết quả nghiên cứu công bố năm 2012 tại Diễn đàn Kinh tế thế giới
Davos, Việt Nam nằm trong số 10 quốc gia có chất lượng không khí thấp nhất
thế giới và ảnh hưởng nhiều nhất đến sức khỏe.
-Về ảnh hưởng của môi trường đến sức khỏe, Việt Nam đứng vị trí 77. Về
chất lượng nước Việt Nam được xếp hạng 80. Tính theo chỉ số chung EPI, Việt
Nam xếp thứ 79.
-Các chuyên gia cho biết, không khí ô nhiễm, đặc biệt là các dạng hạt nhỏ
trong không khí sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe con người. Không
khí bẩn và các hạt nhỏ gây nguy cơ mắc bệnh đường hô hấp, bệnh về phổi. Các
hạt nhỏ có thể vượt qua rào
chắn như khẩu trang, chất nhờn
ở trong mũi, miệng để chui vào
và nằm lọt trong phổi, gây bệnh
nguy hiểm và lâu dài. Không
khí bẩn cũng là tác nhân tạo ra
tỷ lệ mắc bệnh về tai, mắt và da
cao.
+Kinh nghiệm giải quyết
của Mỹ và Nhật Bản
Mỹ: hướng tới phát triển nền kinh tế xanh
Ở Mỹ, kể từ sau khủng hoảng tài chính năm 2008 đang có một sự xem xét
lại chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,


tăng việc làm, áp dụng chiến lược “Tái công nghiệp hóa”. Tháng 11/ 2009 Tổng
thống Obama đưa ra mô hình tăng trưởng của Mỹ phải chuyển sang mô hình
tăng trưởng bền vững. Trong chiến lược “Tái công nghiệp hóa” cho giai đoạn 10
năm tới nhằm phát triển công nghệ mới dự kiến đầu tư 15.000.000 USD hỗ trợ

cho các nguồn năng lượng mới, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công
nghệ, tiết kiệm năng lượng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Mỹ muốn trở
thành nhà lãnh đạo sạch trong công nghệ. Hướng tiếp cận mới theo cách “Kinh
tế các bon thấp”, giảm thiểu phát thải khí nhà kính.
-Cách tiếp cận ở Mỹ luôn lấy tiêu chí hiệu quả Kinh tế để thực thi chính sách,
động lực thị trường thúc đẩy đổi mới công nghệ. Thực thi bảo vệ môi trường có
khoa học và kế hoạch rõ ràng chia theo giai đoạn, trước hết người dân phải hiểu,
thứ đến phải có can thiệp khoa học và cuối cùng thực hiện theo chương trình kế
hoạch đã có. Tuy nhiên tuỳ theo đặc trưng từng vùng có kế hoạch khác nhau, ví
dụ vùng cần bảo vệ nguồn nước có chương trình riêng của lĩnh vực này, bảo vệ
đất hay duy trì đa dạng sinh học có chương trình cụ thể thích hợp cho từng loại
đất.
-Trong nông nghiệp, sản xuất sản phẩm hữu cơ và kết hợp nhiều loại sản phẩm
khác nhau trong một trang trại sản xuất được chủ trang trại phát huy cao độ. Cây
trồng vật nuôi được kết hợp và phù hợp với đặc điểm sinh thái của nơi sản xuất,
duy trì chất lượng đất. Tại trang trại sản xuất nông nghiệp, xu hướng tiết kiệm
năng lượng, sử dụng năng lượng mặt trời khá phổ biến. Chủ trang trại luôn tính
toán hiệu quả kinh tế của các phương án sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, gắn sản
xuất với tiêu thụ thông qua việc hoàn thiện sản phẩm từ khâu thu hoạch đến
đóng gói, đưa trực tiếp sản phẩm tới các siêu thị để đến người tiêu dùng nhanh
nhất, hạn chế chi phí qua trung gian, tăng lợi nhuận. Việc sử dụng hầm Biogas,
trợ cấp cho năng lượng sạch được thực hiện ở các vùng sản xuất nông nghiệp và
chăn nuôi quy mô lớn. Cơ quan dịch vụ sản xuất nông trại- FSA (Farm Service
Agency) khuyến khích trang trại không sử dụng hoá chất diệt côn trùng và các
dịch vụ hỗ trợ khoa học kỹ thuật khác.
-Trong công nghiệp, vấn đề được chú trọng nhất là tiết kiệm năng lượng và sử
dụng năng lượng thay thế nhằm hạn chế sử dụng nhiên liệu hoá thạch. Để quyết
định lựa chọn theo hướng nào, bài toán kinh tế được tính toán theo vận hành của
cơ chế thị trường theo phương án trước mắt và dài hạn. Xu hướng sử dụng năng
lượng mặt trời từ việc sản xuất ra nhiều tấm pin đã và đang được triển khai, hiện

nay có khoảng 22 thành phố đã sản xuất và sử dụng, không chỉ giải quyết công
ăn việc làm, mà còn tiết kiệm năng lượng, mang lại hiệu quả và tiếp cận theo
hướng cac bon thấp.
-Những nơi chịu nhiều rủi ro của thiên nhiên và con người như New Olean,
sau cơn bão Catrina, nhiều vùng không có người quay lại sinh sống ở các ngôi
nhà cũ. Chính quyền địa phương đã thiết lập lại quy hoạch khu dân cư mới với
nguồn đóng góp vốn của chính phủ, cộng đồng và các nhà tài trợ khác, quy
hoạch mới tính tới ảnh hưởng của bão, lụt và phù hợp hơn với điều kiện sinh
thái tự nhiên của vùng. Từ hướng tiếp cận kinh tế Cac bon thấp, đối với phát
triển đô thị, những khu đô thị mới, chẳng hạn khu vực sân bay cũ nay không còn
sử dụng ở gần thành phố Austin thuộc bang Taxes, được quy hoạch lại chuyển


đổi sang phát triển khu dân cư sinh sống, một tổ chức phi lợi nhuận với sự tài trợ
của Chính phủ và tham gia của nhiều doanh nghiệp, tiến hành quy hoạch, thiết
kế các ngôi nhà và toàn bộ khu dân cư thân thiện môi trường, các ngôi nhà xanh
được hình thành (Green houses). Những ngôi nhà đó so với các kiểu nhà trước
đây sẽ tiết kiệm năng lượng nhiều hơn, sử dụng năng lượng mặt trời, mang lại
lợi ích nhiều hơn cho chủ hộ sử dụng.
-Hệ thống hạ tầng đồng bộ từ đường sá, thu gom phân loại và xử lý rác, các
công nghệ mới được đưa vào ngôi nhà, không gian xanh phù hợp. Khái niệm
“Nhà không dây điện” đã xuất hiện. Xu hướng mới xây dựng nhà công sở cũng
đã được thiết kế và xây dựng ở thành phố Austin, thuộc bang Texat, một ngôi
nhà công sở được thiết kế theo dạng ngôi nhà xanh, tiết kiệm năng lượng, sử
dụng được nước mưa thiên nhiên, các vật dụng trang trí tận dụng chất thải và
nhiều sáng kiến khác được đưa vào là hướng tiếp cận mới đã được thực hiện ở
Mỹ. Hệ thống giao thông, nhất là đối với các đường cao tốc quy hoạch giải phân
cách xanh là yêu cầu bắt buộc. Mặc dù cách giải quyết ở Mỹ theo kiểu “Kinh tế
Các bon thấp”, nhưng với cách tiếp cận đó cũng là nội dung hướng tới phát triển
“Nền kinh tế xanh”.

Nhật Bản: Thiết lập khung pháp lý và cơ quan quản lý môi trường
-Tại Nhật Bản, trong giai đoạn từ 1950 - 1960, Với sự phát triển quá nhanh
của các ngành nghề sản xuất công nghiệp đã làm gia tăng những gánh nặng đối
với môi trường, dẫn đến môi trường sống bị suy thoái, ảnh hưởng đến sức khỏe
con người và sự phát triển của đất nước. Nguyên nhân chủ yếu là do Chính phủ
Nhật Bản coi trọng sự phát triển kinh tế hơn là đảm bảo sức khỏe người dân và
môi trường sống trong lành. Do đó, Chính phủ Nhật Bản đã phải tiến hành các
giải pháp để cải thiện hệ thống pháp luật và thiết lập cơ quan quản lý nhà nước
về môi trường, nhằm giải quyết cùng lúc 3 vấn đề: Giảm thiểu ô nhiễm, BVMT;
Giảm được chi phí kiểm soát ô nhiễm (KSON) và chi phí về sức khỏe của cộng
đồng; Giảm giá thành sản xuất và giảm chi phí năng lượng:
-Chính phủ Nhật Bản đã ban hành những quy định pháp luật nghiêm ngặt về
tiêu chuẩn phát thải chất thải, KSON nước, không khí và giám sát ô nhiễm chất
độc hại. Đặc biệt coi trọng chính sách giáo dục, nâng cao nhận thức cộng đồng
về BVMT, khuyến khích các doanh nghiệp và các tổ chức nỗ lực ngăn chặn,
KSON môi trường. Năm 1967, Nhật Bản ban hành Luật cơ bản về KSON môi
trường, trong đó đưa ra các quy định về kế hoạch KSON, các tiêu chuẩn môi
trường và hệ thống kiểm soát tổng tải lượng ô nhiễm. Đến năm 1971, Bộ Môi
trường Nhật Bản được thành lập nhằm thúc đẩy công tác quản lý KSON và bảo
tồn thiên nhiên của đất nước. Năm 1972, Luật Bảo tồn thiên nhiên đã chính thức
được ban hành nhằm ngăn chặn sự phá hủy môi trường tự nhiên. Những bộ luật
trên đã đạt được những thành công nhất định trong việc giải quyết những vấn đề
môi trường của Nhật Bản tại thời điểm đó và là cơ sở cho Luật Môi trường cơ
bản được ban hành vào năm 1993, trong đó đã đưa ra Hệ thống kiểm soát ô
nhiễm (KSON). Hệ thống KSON bao gồm các chính sách và quy định về KSON
không khí, KSON nước, các vấn đề ô nhiễm đất, các tiêu chuẩn quốc gia về chất
độc hại; Hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về chất lượng môi trường; Những biện
pháp kiểm tra và kiểm soát nghiêm ngặt môi trường sản xuất công nghiệp; Các



quy định về trách nhiệm của cơ sở gây ô nhiễm...
-KSON không khí (Luật KSON không khí) tập trung vào 3 nội dung chính:
Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí; Các tiêu chuẩn và quy định phát
thải (Tiêu chuẩn quốc gia đồng nhất về phát thải; các tiêu chuẩn khác về phát
thải chặt chẽ hơn của địa phương); Tổng tải lượng ô nhiễm ở các thành phố.
Luật KSON không khí đã đưa ra các tiêu chuẩn phát thải, tiêu chuẩn kiểm soát
tổng lượng phát thải, tiêu chuẩn về xây dựng, về đường biên và tiêu chuẩn đối
với các nồng độ trong môi trường không khí (SO2; NO2; bụi thông thường, bụi
đặc thù...). Đồng thời, Luật còn đề cập đến những biện pháp ứng phó với các
chất ô nhiễm không khí nguy hại, kiểm soát các nguồn lưu động (trong giao
thông), quy định về các phương tiện vận tải chạy trên đường.
-Bên cạnh đó, ô nhiễm nước cũng tạo ra những áp lực không nhỏ đối với môi
trường, với hàng loạt các nhà máy sản xuất điện từ than ra đời, các nhà máy sản
xuất công nghiệp, đe dọa các hệ thủy sinh và phá hủy cảnh quan thiên nhiên. Vì
thế, việc ra đời Luật KSON nước là rất quan trọng, giúp hoạt động quản lý môi
trường nước đi vào nề nếp. Luật KSON nước tập trung vào 3 vấn đề: Tiêu chuẩn
chất lượng môi trường nước; Tiêu chuẩn và quy định phát thải; Kiểm soát tổng
lượng chất ô nhiễm. Trong đó, Tiêu chuẩn chất lượng môi trường nước có thể
xem là một mục tiêu quản lý nhà nước, quy định áp dụng đồng bộ cho tất cả mọi
nguồn nước công cộng, đồng thời, được chia thành nhiều nhóm tùy theo mục
tiêu sử dụng nước ở ao, hồ, sông. Trong đó, ô nhiễm nước có thể được phân
thành nhiều loại khác nhau tùy theo ảnh hưởng và cơ chế của ô nhiễm. Mục đích
của kiểm soát tổng tải lượng ô nhiễm là bảo vệ chất lượng nước tương ứng với
tình hình sử dụng nước của vùng nước. Các biện pháp cải thiện chất lượng nước
có thể được phân thành 2 loại: (1). Những biện pháp giảm lượng phát thải tải
lượng ô nhiễm tại vùng nước (biện pháp nguồn phát thải); (2). Những biện pháp
lọc ngay tại khu vực ô nhiễm nước đang tiến triển và lọc tải ô nhiễm đã được
thải ra trong vùng nước đối tượng (biện pháp lọc trực tiếp). Nước thải công
nghiệp từ các nhà máy, cơ sở kinh doanh hay các trại chăn nuôi quy mô lớn
được quy định bởi quy chế kiểm soát nước thải nhằm giảm tải lượng phát thải.

Một trong những biện pháp kiểm soát nước thải thông dụng nhất chính là đặt ra
quy chế nồng độ phát thải mà trong đó có quy định về nồng độ của tải ô nhiễm
chứa trong nước thải.
-Về vấn đề ô nhiễm môi trường đất, Nhật Bản đã ban hành Luật ngăn ngừa ô
nhiễm đất tại vùng đất nông nghiệp. Luật đã đưa ra các biện pháp đặc biệt nhằm
quản lý tài chính quốc gia cho việc ngăn ngừa ô nhiễm và quy định về trách
nhiệm của các công ty vận hành, chi phí vận hành; Các biện pháp ngăn ngừa ô
nhiễm, cũng như các biện pháp xử lý ô nhiễm; Xây dựng hệ thống xử lý đất ô
nhiễm dựa vào "Luật về các biện pháp đặc biệt đối với dioxin", trong đó bao
gồm: Xác định biện pháp KSON dioxin; Kế hoạch tẩy độc đất nhiễm dioxin.
-Bên cạnh một hệ thống chính sách KSON nghiêm ngặt, Chính phủ và các cấp
chính quyền địa phương, cũng như nhân dân Nhật Bản rất nỗ lực trong việc làm
sạch môi trường. Tại Nhật, có hàng nghìn tổ chức phi chính phủ hoạt động trong
lĩnh vực môi trường, hàng trăm tờ báo chuyên về môi trường, về xử lý chất thải
và bảo tồn đa dạng sinh học. Khắp nơi đâu đâu cũng có các thông điệp về


BVMT, tràn ngập trên các dãy phố, trên mọi phương tiện thông tin đại chúng,
tác động vào nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân Nhật Bản về tình yêu đối với
môi trường và cuộc sống, vì một màu xanh cho thế hệ mai sau.
+Bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam
-Để bảo vệ tài nguyên và môi trường rút ra từ những bài học kinh nghiệm
của Mỹ và Nhật Bản, Việt Nam cần có những thay đổi trong cách tiếp cận mới
sau đây:
-Từ bỏ phương thức phát triển kinh tế cũ của mô hình “Kinh tế nâu”, hướng
tới chuyển đổi mô hình phát triển mới, theo một cấu trúc kinh tế mà hiện nay các
nước đang tiếp cân, đó là “Kinh tế xanh”, không chỉ mang lại phúc lợi cho còn
người mà phải duy trì và phát triển hệ sinh thái. Muốn vậy bên cạnh khai thác
phải đầu tư trở lại cho tự nhiên để phục hồi hệ sinh thái. Đối với những tài
nguyên không tái tạo nguồn lợi thu được cần gìn giữ và đầu tư cho phát triên,

chẳng hạn như đầu tư cho vốn con người.
-Trong bối cảnh của thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ tài nguyên và môi trường cần có sự kết hợp hài hòa giữa các giải
pháp quản lý gồm các giải pháp về điều hành và kiểm soát với các giải pháp
kinh tế. Nên tảng của các giải pháp này là thay đổi nhận thức của con người, chú
trọng tới đạo đức, khơi dậy cái “tâm” của con người đối với thiên nhiên. Ngoài
ra cần phải lượng giá được tài sản của thiên nhiên để có sự so sánh giữa các
phương án lựa chọn phục vụ cho thiết kế chính sách và lựa chọn trong bảo vệ tài
nguyên và môi trường.

5.HOẠT ĐỘNG
Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách,chiến lược :
+Năm 1982: Hội thảo khoa học về môi trường lần thứ nhất với chủ đề "Các
vấn đề môi trường của Việt Nam". Hội thảo đề cập đến các vấn đề môi trường
và tài nguyên đất, khoáng sản, tài nguyên rừng, nước, không khí, dân số.
+Năm 1983: Hội thảo quốc tế về bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên do Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước* (nay là Bộ
Khoa học, Công nghệ và Môi trường) tổ chức.
+Năm 1984: Tổng kết công tác điều tra cơ bản về tài nguyên và môi trường
trên quy mô toàn quốc do Uỷ ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước chủ trì.
+Năm 1985: Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định
246/HÐBT về việc "Ðẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, sử dụng hợp lý tài
nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường".
+Năm 1987: Hội thảo khoa học "Bảo vệ môi trường bằng pháp luật" do Uỷ
ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức.
+Năm 1988: Thành lập Hội Ðịa lý Việt Nam, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi
trường Việt Nam.
+Năm 1990: Hội nghị quốc tế về "Môi trường và phát triển bền vững" do Uỷ
ban Khoa học và Kỹ thuật Nhà nước phối hợp với Chương trình Môi trường của
Liên Hợp Quốc (UNEP) tổ chức tại Hà Nội.



+Năm 1991: Chính phủ thông qua "Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát
triển bền vững 1991-2000".
+Năm 1992: "Hội thảo quốc tế về nghèo khó và bảo vệ môi trường" do Hội
Bảo vệ thiên nhiên và môi trường phối hợp cùng UNEP tổ chức tại Thành phố
Hồ Chí Minh.
+Năm 1993: "Hội thảo Hoá học và Bảo vệ môi trường" do Hội Bảo vệ thiên
nhiên và môi trường Việt Nam và Hội Hoá học Việt Nam phối hợp tổ chức.
+Năm 1994: Luật Bảo vệ Môi trường có hiệu lực.
+Năm 1995: Chính phủ thông qua Kế hoạch quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh
học.
+Năm 1996: Chính phủ ban hành Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 Quy định
Xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường.
+Năm 1997: Quốc hội thông qua Nghị quyết về tiêu chuẩn các chương trình
trọng điểm quốc gia.
- Hội thảo 3 năm thực hiện Luật Bảo vệ môi trường.
- Cuộc Thanh tra diện rộng chuyên đề về môi trường.
- Triển lãm Môi trường Việt Nam.
+Năm 1998: Bộ Chính trị BCHTW Ðảng ban hành Chỉ thị 36 CT/TW, ngày
25/6/1998 về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Hội nghị Môi trường toàn quốc 1998 tại Hà Nội.
+Năm 1999: Việt Nam có các sự kiện quan trọng sau:
-Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khoá X thông qua Bộ
Luật hình sự trong đó có chương XVII - Các tội phạm về môi trường.
-Diễn đàn Môi trường ASEAN lần thứ nhất.
-Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường xây dựng Chiến lược bảo vệ môi
trường quốc gia 2001-2010 và Kế hoạch hành động 2001-2005.
-Hoàn thiện xây dựng 4 đề án thực hiện Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị

Ban chấp hành Trung ương Ðảng về "Tăng cường công tác bảo vệ môi trường
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
-Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược Quản lý chất thải rắn đô thị và
Khu công nghiệp Việt Nam và Quy chế Quản lý chất thải nguy hại.
-Việt Nam ký Tuyên ngôn quốc tế về Sản xuất sạch hơn.
Hội nghị không chính thức cấp Bộ trưởng Môi trường ASEAN lần thứ 5 và
Phát động Năm Môi trường ASEAN.

III.BIỆN PHÁP
1.Luật bảo vệ môi trường 1994 :
Chương IV:Quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường
Điều 37


Nội dung quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường bao gồm:
1- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ
thống tiêu chuẩn môi trường;
2- Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường, kế hoạch phòng,
chống, khắc phục suy thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, sự cố môi trường;
3- Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường, công trình có liên quan đến bảo vệ
môi trường;
4- Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường, dự
báo diễn biến môi trường;
5- Thẩm định Báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh
doanh;
6- Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường;
7- Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường; giải quyết các
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường;
8- Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến

thức, pháp luật về bảo vệ môi trường;
9- Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường;
10- Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Điều 44
Khi có nhiều tổ chức, cá nhân hoạt động trong một vùng mà có gây sự cố môi trường, ô
nhiễm môi trường, suy thoái môi trường thì thẩm quyền xác định trách nhiệm phải xử lý về
môi trường đối với tổ chức, cá nhân được quy định như sau:
1- Sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường hoặc suy thoái môi trường xảy ra trong phạm vi một
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do thanh tra chuyên ngành về bảo vệ môi trường của
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác định hoặc báo cáo, đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xem xét quyết định. Nếu một hoặc các bên không
đồng ý với quyết định trên thì có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường. Quyết định của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường có hiệu lực
thi hành.
2- Sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường hoặc suy thoái môi trường xảy ra trong phạm vi
hai hoặc nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do thanh tra chuyên ngành của Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường xác định hoặc báo cáo, đề nghị Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công
nghệ và Môi trường xem xét quyết định. Nếu một hoặc các bên không đồng ý với quyết định
của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thì có quyền khiếu nại lên Thủ tướng
Chính phủ quyết định.
Chương V:Quan hệ quốc tế về bảo vệ môi trường
Điều 45


Nhà nước Việt Nam thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết hoặc tham gia có liên quan đến
môi trường, tôn trọng các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của nhau.
Điều 47
Tổ chức, cá nhân và chủ phương tiện khi quá cảnh lãnh thổ Việt Nam có mang theo các

nguồn có khả năng gây sự cố môi trường, ô nhiễm môi trường phải xin phép, khai báo và chịu
sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường của Việt Nam.
Trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam về bảo vệ môi trường thì tuỳ theo mức độ mà bị xử
lý theo pháp luật Việt Nam.

2.Nội dung cơ bản Luật bảo vệ môi trường năm 2005
1. Những hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường:
- Phá hoại, khai thác trái phép rừng, các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác;
- Khai thác, đánh bắt các nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ, phương
pháp huỷ diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật;
- Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ, sử dụng các loại thực vật, động vật hoang dã quý hiếm
thuộc danh mục cấm do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
- Chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng nơi quy
định và quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường;
- Thải chất thải chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và
chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước.
- Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ,
các chất ion hóa vượt quá tiêu chuẩn môi trường cho phép;
- Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá tiêu chuẩn cho phép;
- Nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện không đạt tiêu chuẩn môi trường;
- Nhập khẩu, quá cảnh chất thải dưới mọi hình thức;
- Nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch; vi sinh vật ngoài danh mục
cho phép;
- Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh thái; sản
xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá tiêu chuẩn cho
phép;
- Xâm hại di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên;
- Xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường;
- Hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định
là khu vực cấm do mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với sức khỏe và tính mạng

con người;
- Che giấu hành vi huỷ hoại môi trường, cản trở hoạt động bảo vệ môi trường, làm sai lệch
thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với môi trường;
- Các hành vi bị nghiêm cấm khác về bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật.
2. Tiêu chuẩn môi trường
Tiêu chuẩn môi trường là giới hạn cho phép của các thông số về chất lượng môi trường xung
quanh, về hàm lượng các chất gây ô nhiễm trong chất thải được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quy định làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường.
3. Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi trường và cam kết bảo vệ
môi trường
Mục 1. Đánh giá môi trường chiến lược
Đánh giá môi trường chiến lược là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự
án chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm bảo đảm phát triển
bền vững. Điều 14 Luật BVMT 2005 quy định rõ những đối tượng phải lập báo cáo đánh giá
môi trường chiến lược gồm: Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cấp


×