Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Khái quát chung về bảo hiểm xã hội và quỹ bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.11 KB, 27 trang )

Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội và
quỹ Bảo hiểm xã hội
Biên tập bởi:
Nông Hữu Tùng


Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội và
quỹ Bảo hiểm xã hội
Biên tập bởi:
Nông Hữu Tùng
Các tác giả:
Nông Hữu Tùng

Phiên bản trực tuyến:
/>

MỤC LỤC
1. Khái niệm Bảo Hiểm Xã hội
2. Những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
3. Bản chất của bảo hiểm xã hội
4. Chức năng của Bảo hiểm xã hội
5. Tính chất của Bảo hiểm xã hội
6. Những quan điểm cơ bản về Bảo hiểm xã hội
7. Khái niệm Quỹ Bảo hiểm xã hội
8. Nguồn quỹ Bảo hiểm xã hội
9. Mục đích sử dụng quỹ Bảo hiểm xã hội
Tham gia đóng góp

1/25



Khái niệm Bảo Hiểm Xã hội
Khái niệm BHXH
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội quan trọng của Đảng và Nhà
nước. Chính sách BHXH đã được thể chế hoá và thực hiện theo Luật. BHXH là sự chia
sẻ rủi ro và các nguồn quỹ nhằm bảo vệ người lao động khi họ không còn khả năng làm
việc.
"Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao
động khi họ bị mất hoặc giảm khoản thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả
năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành, sử
dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm góp phần
đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo
đảm an toàn xã hội". Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người
lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm của những người lao động tham gia BHXH.
Đồi tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ
theo sự phát triển kinh tế – xã hội cuả mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc
một bộ phận những người lao động nào đó.
Dưới giác độ pháp lý, BHXH là một loại chế độ pháp định bảo vệ người lao động, sử
dụng nguồn tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và sự tài trợ,
bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong
trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, thai sản, thất nghiệp, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật, hoặc
chết.
Quỹ bảo hiểm xã hội dành chi trả các chế độ trợ cấp và quản lý phí được hình thành từ
đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và nguồn hỗ trợ của Nhà nước.
Quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ để tồn tại và phát triển. Mục đích chính của các chế
độ BHXH là trợ cấp vật chất cho người bảo hiểm khi gặp rủi ro đã được quy định trong
luật.

2/25



Những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
Những nguyên tắc của BHXH
BHXH là sự bảo đảm về mặt xã hội
để người lao động có thể duy trì và ổn định cuộc sống khi bị mất sức lao động tạm thời
(ốm đau, thai sản, tai nạn lao động v.v... ).
Đây là nguyên tắc đảm bảo ý nghĩa và tính chất của bảo hiểm. Nó vừa mang giá trị vật
chất, vừa mang tính xã hội. Điểm này được thể hiện trước hết là sự bảo đảm bằng vật
chất (qua các chế độ BHXH). Mức bảo đảm về vật chất cũng là yếu tố quan trọng ảnh
hưởng tới yếu tố tham gia vào BHXH và vì vậy ảnh hưởng đến sự phát triển của sự
nghiệp này. Về mặt xã hội, theo nguyên tắc này, BHXH lấy số đông bù số ít, lấy quãng
đời lao động thực tế có thu nhập là cơ số để bảo đảm cho quãng đời không tham gia vào
lao động (mất sức lao động hay cao tuổi).
BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện
Tính bắt buộc thể hiện ở nghĩa vụ tham gia tối thiểu (thời gian mức đóng bảo hiểm
v.v...). Như vậy, Nhà nước đóng vai trò tổ chức, định hướng để người lao động và người
sử dụng lao động hiểu được nghĩa vụ và trách nhiệm hợp lý tham gia vào các quan hệ
về BHXH. Điều này được thể chế hoá trong Bộ luật Lao động và các văn bản pháp quy
khác về BHXH. Tính tự nguyện có ý nghĩa khuyến khích mức tham gia, các loạI hình
và chế độ bảo hiểm, mà người lao động có thể tham gia trên cơ sở sự phát triển của hệ
thống BHXH của một số nước trong từng giai đoạn nhất định. Nguyên tắc này cho phép
BHXH có điều kiện để phát triển và mở rộng hơn.
Xác định đúng đắn mức tối thiểu của các chế độ BHXH
Vấn đề này có quan hệ trực tiếp đến các khía cạnh có liên quan đến việc thiết kế các
chính sách và nội dung cụ thể của từng chế độ BHXH. Mức tối thiểu của các chế độ
BHXH là mức đóng định kỳ (hàng tháng), mức thời gian tối thiểu để tham gia và được
hưởng các chế độ BHXH cụ thể. Các mức tối thiểu này, khi thiết kế thường dựa vào tiền
lương tối thiểu, tiền lương bình quân, quảng đời lao động v.v... Mặt khác, mức tối thiểu
còn phải tính đến giá trị của các chế độ BHXH mà người tham gia được hưởng. Nguyên

tắc này liên quan trức tiếp đến việc tạo nguồn, xây dựng quỹ BHXH, và khuyến khích
người lao động và các tầng lớp xã hội tham gia.

3/25


BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức tham gia và thời gian
thức hiện, đảm bảo quyền lợi của người lao động
Nguyên tắc này đảm bảo sự thích hợp của BHXH trong cơ chế thị trường, trong đó sự
di chuyển và biến động lao động có thể xảy ra, thậm trí mang tính thường xuyên. Sự
thay đổi nơI làm việc và thay đổi hợp đồng lao động cả vể nội dung đối, tác v.v… tạo
ra những giai đoạn có thể vệ thời gian và không gian của quá trình làm việc. Điều này
có thể xảy ra trong cả các quan hệ về BHXH. Việc đảm bảo cho người tham gia BHXH
có thể duy trì quan hệ một cách liên tục theo thời gian có tham gia và thống nhất về các
chế độ sẽ tạo ra sự linh hoạt cần thiết và thuận tiên cho người lao động tham gia vào các
quan hệ BHXH tốt hơn, đầy đủ và tích cực hơn. Do vậy, mức tham gia và thời gian thực
tế tham gia là căn cứ chủ yếu nhất đẻ duy trì quan hệ BHXH đối với người lao động.
Công bằng trong BHXH
Đây là nguyên tắc rất quan trọng songcũng rất phức tạp trong chính sách BHXH. Quan
hệ BHXH được thực hiên trong một thời gian dài, cả trong và ngoài quá trình lao động.
Trong quá trình đó có thể có sự thay đổi diễn ra. Mức và thời gian tham gia của từng
người và mức hưởng lương của họ cũng có thể không giống nhau. Việc theo rõi và ghi
nhận các vấn đề này không đơn giản nhất là trong điều kiện một hệ thống BHXH đang
còn có những khác biệt về đối tượng thành phần và khu vực tham gia ở nước ta hiện
nay. Do vậy đảm bảo công bằng trong BHXH là rất cần thiết nhưng rất khó đảm bảo
tính tuyệt đối .
Sự công bằng, trước hết là phải đặt trong trong quan hệ giữa đóng góp và được hưởng.
Điều này được thể hiên trong nội dung và điều kiên tham gia trong từng chế độ về
BHXH. Xét trên góc độ khác, công bằng còn đặt trongcác quan hệ xã hội giữa những
người tham gia BHXH trong từng khu vực hay giữa các vùng, địa bàn, ngành nghề khác

nhau v.v… dựa trên nguyên tắc tính xã hội của bảo hiểm.
Trên đây là những nguyên tắc phải tính đến khi thiết kếvà thực hiện các quan hệ và các
chế độ về BHXH.

4/25


Bản chất của bảo hiểm xã hội
Bản chất của BHXH
Bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà
sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động
phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và
hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá
trạng thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra
giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH
có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên
BHXH (Bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước
lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều
kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có
thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không
hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản v.v.... Đồng thời những biến cố đó có thể
diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố,
rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại.
Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ
trợ từ phía Nhà nước.

- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động
trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ
chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh
sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoản và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của
người già, người tàn tật và trẻ em.

5/25


Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được
Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/
1948 rằng: "Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo
hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và
văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người".
Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội. Ngoài
BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh
sống khác đối với mọi thành viên trong xãhội, trong nhưng trường hợp bị bất hạnh, rủi
ro, nghèo đói, khôngđủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thânvà gia đình.
Sự giúp đỡ này dược thể hiện bằng các nguồn quỹ dự phòng của Nhà nước, bằng tiền
hoặc hiện vật đíng góp của các tổ chức xã hội và những người hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt về cả vật chất và tinh thần của Nhà nước, của xã
hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay một bộ phận xã hội có nhiều cống
hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với nước, liệt sỹ và thân nhân liệt sỹ,
thương binh,bệnh binh v.v... đều là những đối tượng được hưởng sự đãi ngộ của Nhà
nước, của xã hội, ưu đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự bố thí, ban ơn, mà nó là
một chính sách xã hội có mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội, góp phần củng cố thể chế

chính trị của Nhà nước trước mắt và lâu dài, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng và phạm vi, song BHXH, cứu trợ xã hội
và ưu đãi xã hội đều là những chính sách xã hội không thể thiếu được trong một quốc
gia. Những chính sách này luôn bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đề góp phần
đảm bảo an toàn xã hội.

6/25


Chức năng của Bảo hiểm xã hội
Chức năng của BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi
họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ
đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của
BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH
với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng
phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ,
tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH.
Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những người sử dụng lao động.
Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một
số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người
này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy,
theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc
và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người lao động có thu nhập cao và thấp, giữa
những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v...
Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao

động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất,
người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi ốm đau, thai
sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị
mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa.
Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ
đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế.
Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao
năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động
với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động
vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động
v.v... Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt,
cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho
họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho

7/25


BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó
khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định,
kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.

8/25


Tính chất của Bảo hiểm xã hội
Tính chất của BHXH
BHXH gắn liền với đời sống của người lao động, vì vậy nó có một số tính chất cơ bản
sau:
- Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội

Như ở phần trên đã trình bày, trong quá trình lao động sản xuất người lao động có thể
gặp nhiều biến cố, rủi ro khi đó người sử dụng lao động cũng rơi vào tình cảnh khó khăn
không cảm như: sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, vấn đề tuyển dụng lao động và hợp
đồng lao động luôn phải được đặt ra để thay thế v.v... Sản xuất càng phát triển, những
rủi ro đối với người lao động và những khó khăn đối với người sử dụng lao động càng
nhiều và trở nên phức tạp, dẫn đến mối quan hệ chủ - thợ ngày càng căng thẳng. Để
giải quyết vấn đề này, Nhà nước phải đứng ra can thiệp thông qua BHXH. Và như vậy,
BHXH ra đời hoàn toàn mang tính khách quan trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi
nước.
- BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian.
Tính chất này thể hiện rất rõ ở những nội dung cơ bản của BHXH. Từ thời điểm hình
thành và triển khai, đến mức đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH.
Từ những rủi ro phát sinh ngẫu nhiên theo thời gian và không gian đến mức trợ cấp
BHXH theo từng chế độ cho người lao động v.v...
- BHXH vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội, đồng thời còn có tính dịch vụ.
Tính kinh tế thể hiện rõ nhất là ở chỗ, quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo toàn và
tăng trưởng phải có sự đóng góp của các bên tham gia và phải được quản lý chặt chẽ, sử
dụng đúng mục đích. Mức đóng góp của các bên phải được tính toán rất cụ thể dựa trên
xác suất phát sinh thiệt hại cuả tập hợp người lao động tham gia BHXH. Quỹ BHXH
chủ yếu dùng để trợ cấp cho người lao động theo các điều kiện của BHXH. Thực chất,
phần đóng góp của mỗi người lao động là không đáng kể, nhưng quyền lợi nhận được là
rất lớn khi gặp rủi ro. Đối với người sử dụng lao động việc tham gia đóng góp vào quỹ
BHXH là để bảo hiểm cho người lao động mà mình sử dụng. Xét dưới góc độ kinh tế,
họ cũng có lợi vì không phải bỏ ra một khoản tiền lớn để trang thải cho những người lao
động bị mất hoặc giảm khả năng lao động. Với Nhà nước BHXH góp phầm làm giảm
gánh nặng cho ngân sách đồng thời quỹ BHXH còn là nguồn đầu tư đáng kể cho nền
kinh tế quốc dân.

9/25



BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã hội của nó thể
hiện rất rõ nét. Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia
BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và
gia đình họ, kể cả khi họ còn đang trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn
gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì tính
dịch vụ và tính chất xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng cao.

10/25


Những quan điểm cơ bản về Bảo hiểm xã
hội
Những quan điểm cơ bản về BHXH
Khi thực hiện BHXH, Các nước đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoả
mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tạp quán, khả năng trang trải và đình hướng phát
triển kinh tế - xã hội của nước mình. Đồng thời, phải nhận thức thống nhất các quan
điểm về BHXH sau đây:
Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phần quan trọng nhất trong
chính sách BHXH
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia
đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng
lao động, mất việc làm. Ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách và xã hội
của Đảng và Nhà nước. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với người
lao động nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người
, nhu cầu an toàn về việc làm,an toàn lao động,an toàn xã hội v.v... Chính sách BHXH
còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản
lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định,nó còn thể hiện tính ưu việt của
một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn
phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã

hội của đất nước.
Người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người lao
động
Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân có
thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm
thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng luật
pháp quy định. Người sử dụng lao động muốn ổn định sản xuất kinh doanh thì ngoài
việc phải chăm lo đầu tư để có thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay
nghề và đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc
bình thường thì phải trả lương thoả đáng cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm đau, tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp v.v... trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình
lao động với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm
BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất,
phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu
quả kinh tế cho doanh nghiệp.

11/25


Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không
phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp v.v...
Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều được hưởng BHXH như tuyên
ngôn dân quyền đã nêu,đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp
BHXH. Người lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn hay
trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, muốn được
BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mìnhlà dàn trải rủi ro của mình cho
nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết. Điều đó có nghĩa là
người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH còn tuỳ thuộc vào điều
kiện kinh tế - xã hội, vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội ổn định thì người lao

động tham gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông.
Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố





Tình trạng mất khả năng lao động
Tiền lương lúc đang đi làm
Tuổi thọ bình quan của người lao động
Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.

Tuy nhiên, về nguyên tắc trợ cấp BHXH phải thấp hơn lúc đang đi làm, nhưng thấp hơn
cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Quan điểm này vừa phải phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân
phối lại quỹ BHXH cho những người lao động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là loại
trợ cấp thay thế tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả
cho người lao động khi họ thực hiện được những công việc hoặc định mức công việc
nào đó. Nghĩa là, chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường
và thực hiện được nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già
không làm việc được mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ
cấp đó không thể bằng tiền lương do lao động tao ra được. Mức trợ cấp bằng hoặc cao
hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải có gắng tìm kiếm việc làm và
tích cực làm việc để có lương, mà ngược lại sẽ lợi dụng BHXH để được nhận trợ cấp.
Hơn nữa cách lập quỹ BHXH theo phương thức dàn trải rủi ro cũng không cho phép trả
trợ cấp BHXH bằng lúc đang làm việc. Và như vậy thì chẳng khác gì người lao động bị
rủi ro và qua rủi ro của mình dàn trải hết cho những người khác.
Như vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm. Tuy nhiên,
do mục đích bản chất và phương thức BHXH thì mức trợ cấp thấp hơn cũng không thể
thấp hơn mức sống tối thiểu.


12/25


Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính
sách BHXH
Bởi vì, BHXH là một bộ phần cấu thành các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn
định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cho nên, vai trò của Nhà nước
là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ, nếu không có sự can thiệp của Nhà nước, nếu không
có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử
dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ bị
phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch định chính sách,
đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp v.v... Vì vậy, Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình
này, hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Trước hết, phải khảng định rằng việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và
quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các
dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó là hướng dẫn,
kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước phụ thuộc vào chính
sách BHXH do Nhà nước quy định. Có những mô hình về bảo đảm vật chất cho BHXH
do ngân sách Nhà nước cung cấp thì vai trò quản lý Nhà nước là trực tiếp và toàn diện,
nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước
đóng góp thì Nhà nước tham gia quản lý.
Để quản lý BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp và bộ máy tổ
chức. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được
Nhà nước giao cho Bộ Lao động hoặc bộ xã hội trực tiếp điều hành.

13/25



Khái niệm Quỹ Bảo hiểm xã hội
Khái niệm QUỸ BHXH
Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của từng quốc gia vào điều kiện lịch sử trong thời kỳ nhất định của đất nước. Trình
độ kinh tế - xã hội càng phát triển thì các chế độ BHXH dược áp dụng càng mở rộng,
nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao và khi kinh tế
phát triển,người lao động có thu nhập cao, càng có điều kiện tham gia BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ
thống tài chính quốc gia. Nó ra đời tồn tại và gắn với mục đích bảo đảm ổn định cuộc
sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ
lao động, mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Như vậy, Quỹ BHXH là quỹ
tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước.

14/25


Nguồn quỹ Bảo hiểm xã hội
Nguồn quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp.
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm.
- Các nguồn khác như: cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần quỹ
nhàn rỗi...
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động
được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ
lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về
phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh
được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người

lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời nó góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp,
kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía người lao động, đóng góp một
phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình,
vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như
nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia
đóng góp của Nhà nước. Trước hết là các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những
chuẩn mực pháp lý cho cả người lao động và người sử dụng lao động đều phải tuân theo,
những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết.
Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, biện pháp và mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước
không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH, mà còn chở thành chỗ dựa
để đảm bảo cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn trên. Tuy
nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác
nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện
vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức lương và
quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào

15/25


mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung cho toàn bộ nền kinh tế
quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn
bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình,
các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi
bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ
BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH v.v...
Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới


Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới

Mức đóng góp BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ
này phải được tính toán trên cơ sở khoa học. Trong thực tế, việc xác định mức đóng góp
BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương
pháp toán học khác nhau để xác định. Khi xác định mức đóng góp BHXH, có thể có
những căn cứ tính toán khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở để
xác định mức đóng góp.
- Quy định mức đóng góp BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ mức
hưởng BHXH này có thể xác định được mức đóng góp.
Mặc dù chỉ thuần tuý mamg tính kỹ thuật nhưng xác định mức đóng góp BHXH lại khá
phức tạp vì nó liên quan tới cả người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và kiều kiện phát triển

16/25


kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định mức đóng góp BHXH vẫn phải
đảm bảo nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức đóng
góp xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cấu BHXH và điều chỉnh sao
cho tối ưu nhất.
Mức đóng góp BHXH được cấu thành từ 3 bộ phận và được xác định theo công thức:
P = f1 + f2 + f3
Trong đó: P - Mức đóng góp BHXH
f1- Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH
f2- Đóng góp dự phòng
f3- Đóng góp quản lý

Đóng góp thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các
chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn (thường
là 1 năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ... Vì vậy, số đóng góp BHXH
phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu
trí mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng v.v... quá trình
đóng góp và quá trình hưởng tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời
gian nhất định. Cho nên, sự công băng giữa đóng góp và hưởng BHXH phải được dàn
trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài đóng góp thuần tuý phải có đóng góp dự phòng
để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Như vậy, để xác định được mức đóng góp và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu
tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo tuổi,
giới tính, ngành nghề v.v... ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ bình quân
của quốc gia; xác suất ốm đau, tai nạn, tử vong của người lao động v.v...

17/25


Mục đích sử dụng quỹ Bảo hiểm xã hội
Mục đích sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau đây:
- Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH.
Các chế độ BHXH được áp dụng phổ biến trên thế giới
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử dụng để trợ
cấp cho các đối tượng tham gia BHXH nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho bản thân
và gia đình họ, khi đối tượng tham gia bảo hiểm gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9
chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong Công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp

4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp khi tàn phế
9. Trợ cấp cho người còn sống (trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã
hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác
nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong 5
chế độ: (3); (4); (5); (8); (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên
những cơ sở kinh tế xã - hội; tài chính; thu nhập; tiền lương v.v... Đồng thời, tuỳ từng
chế độ khi xây dựng còn phải tính đến yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia;
nhu cầu dinh dưỡng; xác xuất tử vong v.v...
18/25


Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế đọ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia
BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và
an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố
liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như tựng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng
hạn, khi xác định điều kiện trợ cấp BHXH tuối già phải dừa vào cơ sớ sinh học là tuổi
đời và giới tính của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí

của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó, có những
nước quy định: Nam 60 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những
nước quy định: Nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi v.v... Hoặc khi xác định điều kiên hưởng trợ
cấp cho chế độ tai nan lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố như: điều
kiên và môi trương lao động; bảo hộ lao động v.v... Các yếu tố này thường có quan hệ
và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng tới điều kiện BHXH của từng chế độ và
toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể và thời gian đóng bảo hiểm của người lao động, trên cơ sở tương ứng
giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán
chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người
lao động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn mức tiền lương hoặc
mức tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỷ lệ phần trăm
nhất định so với tiền lương hay tiền công. Ở các nước kinh tế phát triển do mức lương
cao, nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại ở những nước đanh phát triển do mức tiền
lương còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao. Ví dụ: ở Pháp, mức trợ cấp hưu trí
chỉ bằng 50% của mức lương bình quân 10 năm cao nhất (với điều kiện đóng BHXH đủ
37,5 năm). Ốm đau được trợ cấp bằng 50% tiền lương, thời gian nghỉ ốm được hưởng
trợ cấp không quá 12 tháng. Sinh con được hưởng trợ cấp bằng 90% tiền lương trong
vòng 16 tuần v.v... Còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí từ 42% đến 102%tuỳ thuộc vào

19/25


nhóm lương khác nhau. Ốm đau được hưởng 65%, sinh con được nghỉ 45 ngày và được
hưởng bằng 100% tiền lương v.v...
Tuy vậy, việc các nước qui định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ phần trăm tiền lương so với
tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH. Vì vậy, một số nước đã
phải tìm cách khắc phục như: trả ngay một lần khi nghỉ hưu (Nhật bản một lần khi nghỉ
hưu là 15 triệu yên; Ấn Độ, Malaixia, Inđônêxia trả một lần bằng tổng số tiền mà chủ và

thợ đã đóng góp cộng với lãi) hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ phần trăm của một mức thu
nhập quy đinh và hưởng cũng theo tỷ lệ phần trăm của mức quy định.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng cho
chi phí quản lý như: tiền lương chi trả cho ngũng người làm việc trong hệ thống BHXH;
khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác v.v... Phần quỹ
nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lời. Mục đích đáu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn
và tăng trưởng nguồn quỹ.
Qúa trình đầu tư quỹ BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: an toàn, có lợi nhuận, có khả
năng thanh toán và đảm bảo lợi ích kinh tế - xã hội.
Các chế độ BHXH đang được thực hiện ở Việt Nam hiện nay
Theo điều 2 của Điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5 chế độ:
1. Chế độ trợ cấp ốm đau
2. Chế độ trợ cấp thai sản
3. Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
4. Chế độ hưu trí
5. Chế độ tử tuất
So với trước đây, chế độ trợ cấp mất sức lao động bị loại bỏ. Nội dung của 5 chế đọ nêu
trên được quy định thống nhất trong chương II của Điều lệ. Mỗi chế độ BHXH khi xây
dựng đều căn cứ vào một loạt những cơ sở như: sinh học; kinh tế - xã hội; điều kiện và
môi trường lao động v.v...

Cơ chế quản lý quỹ BHXH
Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH
Để thực hiện tốt mục đích của quỹ BHXH, trong quá trình quản lý điều hành hoạt động
quỹ BHXH cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau đây:
20/25


- Tài chính BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu, chi của quỹ phải
luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để bảo đảm quyền lợi cho người

tham gia BHXH. Vì thế, tổ chức quản lý điều hành quỹ BHXH phải được tổ chức độc
lập thống nhất trong phạm vi cả nước trên cơ sở pháp luật của Nhà nước đã ban hành
và chịu sự kiểm tra, giám sát, quản lý của Nhà nước về chấp hành pháp luật BHXH đối
với các bên tham gia BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì mới
có điều kiện theo dõi, kiểm tra, giám sát công việc thu, chi của quỹ, tăng cường công
tác quản lý quỹ và mới có điều kiện để quản lý, sử dụng vốn nhàn rỗi trong cơ chế thị
trường có lợi nhất, không ngừng tinh giảm biên chế gọn nhẹ, giảm chi phí quản lý hành
chính, nghiệp vụ hoạt động BHXH. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, Nhà nước
cần phải luật pháp hoá việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo điều kiện tự chủ
và tự chịu trách nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo toàn và phát triển vốn
nhàn rỗi của quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường.
Việc quản lý điều hành tăng trưởng quỹ phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn được vốn,
không làm vốn bị tổn thất, còn phải làm cho vốn sinh lợi. Việc đầu tư vốn nhàn rỗi của
quỹ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Bảo đảm chắc chắn, an toàn tuyệt đối, có khả năng thanh khoản cao.
+ Phải có lãi.
+ Phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên việc chi trả các chế độ BHXH phát
sinh.
Vì thế, các hình thức đầu tư phải linh hoạt, đa dạng nhưng phải chặt chẽ theo những
nguyên tắc và yêu cầu nêu trên. Thực hiện tốt việc đầu tư vốn nhàn rỗi , quỹ BHXH
không chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn mà còn bảo đảm quyền lợi cho người
lao động trên thực tế. Tổ chức quản lý quỹ đầu tư tăng trưởng vốn nhàn rỗi của quỹ
BHXH phải tuân theo nguyên tắc hạch toàn kinh doanh.
- Phải bảo đảm quyền lợi của người lao động tương ứng với nghĩa vụ đóng góp của họ.
Trong nền kinh tế thị trường, người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình
đẳng hưởng chế độ BHXH. Song người lao động muốn được hưởng quyền lợi về BHXH
thì họ phải có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo các phương thức thích hợp (bắt buộc hay
tự nguyện, ít chế độ hay nhiều chế độ BHXH...) thường xuyên đều đặn trong những
tháng, năm còn tuổi lao động. Quyền lợi được hưởng phải phù hợp với mức đóng góp và
thời gian đóng góp BHXH của từng người lao động theo quy định của pháp luật. Vì thế,

để tạo nguồn tài chính ổn định cho quỹ BHXH, ngoài sự đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động Nhà nước cũng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Trong trường
hợp Nhà nước thay đổi chính sách kinh tế - xã hội làm mất cân đối quỹ, hoặc do các rủi
ro bất khả kháng, Nhà nước phải có trách nhiệm trợ giúp quỹ BHXH để đảm bảo chi trả
có các đối tượng hưởng chế độ BHXH. Số tiền đóng góp phảo được tính trên cơ sở số

21/25


tiền lương hoặc thu nhập và được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Do vậy, những đơn
vị sử dụng lao động trốn tránh nghĩa vụ đóng góp BHXH, phải xử lý thật nghiêm túc. Vì
họ trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH không những xâm phạm đến quyền lợi BHXH của
người lao động, mà còn gây ra bất bình đẳng với các đơn vị sử dụng lao động thực hiện
nghiêm túc đóng BHXH.
Thực hiện nguyên tắc này sẽ xoá bỏ được bao cấp trong chế độ BHXH, tạo ra sự bình
đẳng giữa người lao động trong các thành phần kinh tế, tạo ra khả năng cân đối thu, chi
quỹ BHXH, xoá bỏ được sự thiếu trách nhiệm của các doanh nghiệp nâng lương bừa bãi
cho người lao động trước khi về hưu để được hưởng trợ cấp hưu trí cao hơn.
- Hoạt động BHXH không mang tính chất kinh doanh mà mang tính chất của quỹ tương
hỗ bảo hiểm. Mục đích hoạt động của quỹ BHXH trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi cho
người lao động khi gặp rủi ro BHXH, sau nữa bảo đảm an toàn cho xã hội và nền kinh
tế. Hoạt động BHXH chủ yếu dựa trên nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” mang tính chất
cộng đồng, tính chất xã hội giữa những người lao động, trừ chế độ bảo hiểm hưu trí và
tử tuất là dựa chủ yếu trên nguyên tắc hoàn trả trực tiếp. Các khoản đóng góp vào quỹ
BHXH phụ thuộc vào mức độ sử dụng chi trả của các chế độ BHXH, nếu quỹ không đủ
bù đắp thì phải nâng mức đóng góp hoặc hạ thấp mức chi trợ cấp BHXH để bảo đảm
quỹ luôn luôn cân đối giữa thu và chi. Nguyên tắc cơ bản quản lý quỹ BHXH là phải cân
đối thu với chi, chính vì vậy đòi hỏi cơ quan quản lý quỹ BHXH phải tổ chức công tác
kế toán, kiểm tra sử dụng một cách chặt chẽ, đúng pháp luật, sử dụng tiền nhàn rỗi đầu
tư sinh lợi có hiệu quả, quỹ được bảo toàn và phát triển để có điều kiện bảo đảm quyền

lợi cho người lao động hoặc giảm được sự tài trợ của Nhà nước.
- Việc đổi mới, hoàn thiện cơ chế tạo và sử dụng quỹ BHXH phải trên cơ sở thực trạng
phát triển kinh tế - xã hội và cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước. Phải tiến hành
đồng bộ với việc đổi mới, hoàn thiện cách chính sách, cơ chế quản lý kinh tế - xã hội
có liên quan như chính sách lao động và việc làm, chính sách thu nhập, tiền lương, tiền
công, chăm sóc y tế, kế hoạch hoá gia đình và các chính sách kinh tế - xã hội khác. Bởi
vì, chính sách cơ chế quản lý kinh tế - xã hội của đất nước, nó phải phù hợp với điều
kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, phù hợp với mức độ phát triển
của từng loại lao động (ít hay nhiều chế độ BHXH). Đặc biệt lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lao động tự do, có như vậy BHXH mới tồn tại và
phát triển vững chắc, phù hợp với sự phát triển của các thành phần kinh tế của đất nước.
Mặt khác, Nhà nước chỉ bảo trợ quỹ BHXH khi Nhà nước có những thay đổi các chính
sách kinh tế xã hội làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH hoặc do các rủi ro bất khả kháng
làm mất cân đối thu, chi quỹ BHXH.
Trên đây là một số nguyên tắc cơ bản cần phải quán triệt trong tổ chức và quản lý quỹ
BHXH làm cơ sở cho việc cải tiến, hoàn thiện các chế độ, chính sách BHXH ở nước ta
trong thời gian tới.

22/25


Tham gia đóng góp
Tài liệu: Khái quát chung về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã hội
Biên tập bởi: Nông Hữu Tùng
URL: />Giấy phép: />Module: Khái niệm Bảo Hiểm Xã hội
Các tác giả: Nông Hữu Tùng
URL: />Giấy phép: />Module: Những nguyên tắc của bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Nông Hữu Tùng
URL: />Giấy phép: />Module: Bản chất của bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Nông Hữu Tùng

URL: />Giấy phép: />Module: Chức năng của Bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Nông Hữu Tùng
URL: />Giấy phép: />Module: Tính chất của Bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Nông Hữu Tùng
URL: />Giấy phép: />Module: Những quan điểm cơ bản về Bảo hiểm xã hội
Các tác giả: Nông Hữu Tùng
URL: />
23/25


×