Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Chủ quyền của việt nam đối với hai quần đảo hoàng sa và trường sa luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ QUANG THÀNH

CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM
ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 50512

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ QUANG THÀNH
CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI
HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA

Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số: 50512

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Hoà Bình,
Vụ Luật pháp và Điều ước quốc tế - Bộ Ngoại Giao

HÀ NỘI - 2005




MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA HAI
5
QUẦN ĐẢO HOÀNG SA - TRƯỜNG SA

1.1.
1.1.1.

Quần đảo Hoàng Sa.
Tên gọi và các bộ phận cấu thành.

6

1.1.2.

Vị trí địa lý.

1.2.
1.2.1.

Quần đảo Trường Sa.
Tên gọi và các bộ phận cấu thành.

7
8

8

1.2.2.

Vị trí địa lý.

1.3.
1.3.1.
1.3.2.

Tầm quan trọng của hai quần đảo.
Về kinh tế.
Về an ninh quốc phòng.

1.4.
1.4.1.

Tình hình tranh chấp hiện nay.
Quần đảo Hoàng Sa.

14

1.4.2.

Quần đảo Trường Sa.

15
16

CHƯƠNG 2: LUẬT PHÁP VÀ THỰC TIỄN QUỐC TẾ VỀ XÁC


6

10
11
11
12
14

LẬP VÀ THỰC HIỆN CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ

2.1.
2.1.1.

Khái niệm chủ quyền lãnh thổ.
Lãnh thổ.

16
16

2.1.2.

Chủ quyền lãnh thổ.

2.2.
2.2.1.

Các phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ.
Nguyên tắc xác lập chủ quyền lãnh thổ.


17
18

2.2.2.
2.2.2.1.
2.2.2.2.

Các phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ.
Xác lập chủ quyền lãnh thổ do tác động của thiên nhiên.
Xác lập chủ quyền lãnh thổ do chuyển nhượng.

22
23
23

2.2.2.3.
2.2.2.4.

Xác lập chủ quyền lãnh thổ bằng xâm chiếm.
Xác lập chủ quyền lãnh thổ theo thời hiệu.

24
24

2.2.2.5.

Xác lập chủ quyền lãnh thổ do chiếm hữu.

2.3.


Một số thực tiễn quốc tế về xác lập chủ quyền lãnh thổ.

25
35

18


2.3.1.

Vụ tranh chấp đảo Palmas.

35

2.3.2.

Vụ tranh chấp đảo Clipperton.

37

2.3.3.
2.3.4.

Vụ tranh chấp phần phía Đông đảo Groenland.
Vụ tranh chấp nhóm đảo Minquiers và Ecréhous.

2.4.

Một số nhận xét.


38
40
41

CHƯƠNG 3: LỊCH SỬ XÁC LẬP VÀ THỰC HIỆN CHỦ QUYỀN
CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO

43

3.1.

Giai đoạn từ thế kỷ XVII đến khi Pháp xâm lược Việt Nam.

43

3.2.
3.3.
3.4.

Giai đoạn Pháp đô hộ Việt Nam.
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954.
Giai đoạn từ năm 1954 đến năm 1975.

50
52
54

3.5.

Giai đoạn từ năm 1975 đến nay.


56
60

CHƯƠNG 4: VỀ NHỮNG YÊU SÁCH THIẾU CĂN CỨ ĐỐI VỚI
HAI QUẦN ĐẢO

4.1.

Yêu sách của Trung Quốc.

60

4.2.
4.2.1.

Yêu sách của các bên tranh chấp khác.
Yêu sách của Đài Loan.

73

4.2.2.
4.2.3.
4.2.4.

Yêu sách của Philippine.
Yêu sách của Malaysia.
Yêu sách của Brunei.

73

75
79
80

CHƯƠNG 5: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CHO
TRANH CHẤP ĐỐI VỚI HAI QUẦN ĐẢO

83

5.1.
5.2.
5.2.1.

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
Phương hướng giải quyết tranh chấp.
Đàm phán hoà bình.

83
85

5.2.2.
5.2.3.

Về một số phương án đã được đề xuất.
Cơ chế Toà án quốc tế.

5.3.

Một số kiến nghị.


87
91
96

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

99
100


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Việt Nam là một quốc gia ven biển, có vùng biển rộng, bờ biển dài với
hàng trăm đảo, quần đảo lớn nhỏ gần bờ và xa bờ chạy dọc theo chiều dài đất
nước. Đặc biệt, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược vô
cùng quan trọng không chỉ với Việt Nam mà còn có vị trí địa chính trị cực kỳ
quan trọng đối với cả khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Từ lâu, Việt Nam
đã chiếm hữu và thực hiện chủ quyền đối với hai quần đảo này và Việt Nam
có đủ những bằng chứng lịch sử và pháp lý để chứng minh quan điểm, lập
trường đó của mình.
Ngày nay trước nguy cơ nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng
cạn kiệt, các quốc gia đang từng bước dịch chuyển, tăng cường hướng quan
tâm của mình ra biển và đại dương. Không phải ngẫu nhiên mà người ta coi
thế kỷ 21 là thế kỷ của Đại dương. Xu thế tiến ra biển, chiếm lĩnh và khống
chế không gian biển, sử dụng và khai thác biển đang trở thành xu thế chung
của cả nhân loại. Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và khu vực Biển Đông
cũng không nằm ngoài quy luật đó. Mặt khác, phân tích trên khía cạnh lợi ích

nhiều mặt có thể đạt được từ việc làm chủ được hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, bất kỳ quốc gia nào ven bờ Biển Đông đều mong muốn thiết lập
được chủ quyền của mình trên hai quần đảo này.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, trong vùng Biển Đông đã và đang
tồn tại những tranh chấp về chủ quyền rất phức tạp và kéo dài. Tình hình
tranh chấp này không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, quốc phòng, sự
phát triển của Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến cả hoà bình, ổn định và phát
triển của toàn bộ khu vực.
Hơn bao giờ hết, vấn đề tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo,
đang là vấn đề "nóng, nhạy cảm" đối với Việt Nam và khu vực. Yêu cầu
chứng minh và khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo

1


Hoàng Sa và Trường Sa là phù hợp với thực tế lịch sử và luật pháp quốc tế đã
và đang được đặt ra hết sức cấp thiết. Chứng minh và khẳng định Việt Nam
đã xác lập và thực hiện chủ quyền như thế nào để vừa đảm bảo toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia, đảm bảo an ninh, quốc phòng, kinh tế lại vừa đảm bảo được yêu
cầu hợp tác, hội nhập quốc tế, không để xảy ra hoặc làm xuất hiện những
nguy cơ xảy ra tranh chấp về lợi ích với các quốc gia hữu quan, thậm chí là
những nguy cơ gây xung đột vũ trang. Câu hỏi này thật sự không bao giờ là
dễ giải đáp, đòi hỏi phải có các giải pháp thích hợp và đặc biệt phải phù hợp
với thực tế lịch sử cũng như luật pháp và thực tiễn quốc tế.
Mặc dù vấn đề này đã được Việt Nam và các quốc gia hữu quan, quan
tâm giải quyết song do quan điểm, lập trường của các bên còn khác nhau quá
xa cho nên việc đưa ra được những phương hướng, giải pháp thích hợp và
được các bên hữu quan cùng chấp thuận luôn gặp rất nhiều khó khăn. Tranh
chấp chủ quyền đối với hai quần đảo tiếp tục tồn tại và nguy cơ xung đột tiềm
tàng xuất phát từ những tranh chấp này có thể gây những ảnh hưởng xấu đến

hoà bình, ổn định trong khu vực.
2. Tình hình nghiên cứu:
Việc nghiên cứu Luật pháp và thực tiễn quốc tế về vấn đề "xác lập chủ
quyền quốc gia đối với các vùng lãnh thổ" để áp dụng vào trường hợp hai
quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa đã được nhiều học giả trong và ngoài nước
quan tâm. Đã có một số công trình nghiên cứu tiêu biểu đó là: "Kể chuyện
đảo Việt Nam" của tác giả Vũ Phi Hoàng NXB Quân đội nhân dân năm 1978;
"Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" của
tác giả Lưu Văn Lợi, NXB Công An Nhân Dân Hà Nội, năm 1995; Luận án
phó Tiến sĩ Luật học của tác giả Hoàng Trọng Lập về “Tranh chấp hai quần
đảo Hoàng Sa - Trường Sa và Luật pháp quốc tế” năm 1996... Các tác giả
nước ngoài cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: "Cuộc
tranh chấp quần đảo Trường Sa - Ai là chủ sở hữu đầu tiên" của tác giả

2


Daniel J. Dzurek, năm 1996; "Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa" của tác giả Monique Chemillier - Gendreau năm 1997...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trong nước dường như vẫn chưa
thực sự rõ ràng khi đưa ra các lập luận pháp lý quốc tế để khẳng định quá
trình xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Còn các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài thì do
không có đầy đủ các tài liệu và bằng chứng lịch sử về hai quần đảo nên đã có
những cách hiểu không chính xác cả về lịch sử xác lập chủ quyền cũng như
một số giai đoạn thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn quốc tế về vấn đề xác lập chủ
quyền quốc gia đối với các vùng lãnh thổ.
- Trình bày, phân tích và đánh giá các bằng chứng lịch sử để từ đó

chứng minh quá trình xác lập và thực hiện chủ quyền của Việt Nam trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là phù hợp với thực tế lịch sử cũng như luật
pháp quốc tế.
- Phân tích và phê phán yêu sách và lập luận sai trái của các bên (Trung
Quốc, Philippine, Malaysia, Brunei và Đài Loan) tranh chấp chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa của Việt Nam.
- Đề xuất các phương hướng và các giải pháp cho tranh chấp song
phương đối với quần đảo Hoàng Sa cũng như những tranh chấp đa phương
đối với quần đảo Trường Sa.
4. Cơ sở lý luận và Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài:
- Cơ sở lý luận của đề tài là quan điểm, lập trường chính thức của Nhà
nước Việt Nam về chủ quyền lãnh thổ đối với hai quần đảo Hoàng Sa –
Trường Sa. Dựa trên cơ sở lý luận, các căn cứ pháp lý về xác lập chủ quyền
lãnh thổ trong những quy định của luật pháp và thực tiễn quốc tế.

3


- Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, đặt cái chung trong cái
riêng để nghiên cứu, trên cơ sở so sánh, đánh giá tìm ra những hạt nhân tiến
bộ, những ưu điểm để áp dụng trong hệ thống lý luận nhằm chứng minh chủ
quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo. Ngoài ra, Luận
văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, thống kê,
so sánh...
5. Những đóng góp của Luận văn:
- Góp phần củng cố lập trường pháp lý của Việt Nam khi tiến hành đấu
tranh đối ngoại trên trường quốc tế bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
- Đề xuất một số suy nghĩ, ý tưởng trong quá trình tìm kiếm giải pháp

cho tranh chấp hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa giữa Việt Nam và các bên
liên quan khác.
6. Kết cấu của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, Luận văn được cơ cấu thành 5 chương như sau:
Chƣơng 1. Vị trí địa lý và tầm quan trọng của hai quần đảo Hoàng Sa Trƣờng Sa.
Chƣơng 2. Luật pháp và thực tiễn quốc tế về xác lập và thực hiện chủ
quyền lãnh thổ.
Chƣơng 3. Lịch sử xác lập và thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo.
Chƣơng 4. Về những yêu sách thiếu căn cứ đối với hai quần đảo.
Chƣơng 5. Phƣơng hƣớng và một số kiến nghị cho tranh chấp đối với hai
quần đảo.

4


CHƢƠNG 1
VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA
HAI QUẦN ĐẢO HOÀNG SA - TRƢỜNG SA
Trước đây, trong một thời gian dài, người Việt và người phương Tây
biết đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày nay ở giữa Biển Đông
một cách mơ hồ và đặt cho chúng một cái tên gọi chung. Người Việt thường
gọi là Bãi Cát Vàng hay Cồn Vàng hoặc về sau này gọi là Hoàng Sa hoặc Đại
Trường Sa hay Vạn Lý Trường Sa (phiên âm theo tiếng Hán). Người phương
Tây, cụ thể là người Bồ Đào Nha gọi là Parcel hay Pracel (theo tiếng Bồ Đào
Nha có nghĩa là: đá ngầm). Cho đến thế kỷ XVII hai quần đảo vẫn được vẽ
gộp lại dưới tên gọi chung Paracel, nằm dọc sát bờ biển miền Trung Việt
Nam. Mãi đến năm 1787 - 1788, đoàn khảo sát Kergariou Locmaria mới xác
định được một cách rõ ràng và chính xác vị trí của quần đảo Paracel như hiện

nay. Từ đó, người phương Tây mới bắt đầu phân biệt quần đảo Paracel ở
phía Bắc với quần đảo ở phía Nam mà sau này đến thập niên 40 của thế kỷ
XX người Pháp mới đặt tên là Spratly để chỉ chung cho quần đảo Trường Sa.
Trung Quốc, một bên tham gia tranh chấp chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đặt tên cho hai quần đảo này là “Tây Sa” và “Nam Sa”.
Một điều hết sức đặc biệt là có sự nhất quán hết sức rõ ràng giữa danh
xưng quần đảo tên Việt và tên phương Tây. Giám mục Tabert đã từng ghi chú
trên bản đồ “An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ” với hàng chữ Paracel seu Cat Vang.
(seu: tiếng Latinh có nghĩa: hoặc là) [20,tr.2]. Ở Trung Quốc hay bất kỳ nước
nào khác đều không hề có các khái niệm này. Chỉ có ở Việt Nam mới chắc
chắn có tên gọi Cát Vàng hay Hoàng Sa để chỉ Paracel do người phương Tây
đặt tên. Điều này là một bằng chứng xác thực chỉ ra rằng ít nhất từ đầu thế kỷ
XIX, người phương Tây đã xác nhận Paracel là Cát Vàng, tức quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam. Một điểm khác biệt nữa cần phải nhấn mạnh là tên
gọi Hoàng Sa được người Việt đặt tên với mục đích xác lập chủ quyền, còn
người phương Tây và cả người Trung Quốc đặt tên xuất phát từ nhu cầu hàng

5


hải. Tên gọi Hoàng Sa do người Việt đặt còn đồng thời dùng để chỉ tên một tổ
chức do Nhà nước phong kiến Việt Nam thành lập nhằm khai thác và kiểm
soát, làm chủ các hải đảo mang tên Hoàng Sa hay Cát Vàng. Như vậy, đây
cũng có thể coi là một bằng chứng xác thực chứng minh việc xác lập chủ
quyền của người Việt trên các quần đảo này [20,tr.2].
1.1. Quần đảo Hoàng Sa.
1.1.1. Tên gọi và các bộ phận cấu thành.
Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam hay còn gọi là Tây Sa (theo cách gọi
của người Trung Quốc) hoặc Paracels theo cách gọi của người phương Tây.
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2 bao gồm

khoảng 30 đảo đá và bãi nổi, trong đó có 23 vị trí đã được đặt tên. Quần đảo
này được chia thành 02 nhóm là Lưỡi Liềm và An Vĩnh.
A: Nhóm Lƣỡi Liềm (Croissant Group).
Nhóm Lưỡi liềm còn gọi là nhóm “Trăng Khuyết” hay “Nguyệt
Thiềm”. Nếu nhìn từ trên không xuống, nhóm này trông như hình chiếc bánh
sừng bò. Nhóm có 5 đảo chính và vô số các mỏm đá nhỏ khác.
+ Đảo Hoàng Sa hình bầu dục, nơi rộng nhất khoảng 700m và dài
khoảng 900m, diện tích phần nổi thường xuyên trên mặt nước biển vào
khoảng 0,3km2. Phía Đông Bắc của đảo vẫn còn một số ngôi mộ của binh lính
thời nhà Nguyễn. Phía Tây Nam đảo còn có một Am thờ gọi là miếu Bà,
trong đó có một pho tượng Phật Bà Quan Âm. Trên đảo có đài khí tượng với
tên gọi “Station d‟ Observation 838” chính thức hoạt động từ năm 1938. Từ
năm 1931 đến những năm 1974, thường xuyên có một trung đội lính của
chính quyền Nguỵ Sài Gòn đồn trú tại đây.
+ Đảo Hữu Nhật được đặt theo tên của đội thuỷ binh do Đô đốc Phạm
Hữu Nhật lĩnh suất. Đội này được vua Minh Mạng phái ra Hoàng Sa để đo
đạc thuỷ trình và vẽ bản đồ vào năm 1836. Đảo nằm ở phía Nam đảo Hoàng
Sa khoảng 3 hải lý, hình bàu tròn, đường kính khoảng 800m, chu vi 2000m,
diện tích khoảng 0,32km2, có vành đai san hô bao quanh ngoài xa, ở giữa đảo
và vành đai san hô quanh đảo là vùng nước lặng. Chung quanh đảo cây cối
um tùm, chính giữa là lòng chảo không sâu lắm.

6


+ Đảo Duy Mộng nằm ở vị trí phía Đông Nam đảo Hữu Nhật, phía
Đông Bắc đảo Quang Hoà, thành phần chính cấu tạo nên đảo là san hô, bãi
san hô có nơi nhô lên mặt nước tới 4m [20,tr.8]. Đảo có hình bầu dục, diện
tích khoảng 0,41km2 trên đảo không có cây lớn, chỉ có các loại cây nhỏ, ở
giữa đảo là một vùng đất trống.

+ Đảo Quang Hoà là đảo lớn nhất trong nhóm đảo Lưỡi Liềm. Chung
quanh đảo là bãi cát màu vàng, vành san hô bao quanh đảo lan ra rất xa khỏi
bìa đảo. Cạnh đảo có những hòn đảo nhỏ, nối với nhau bằng những bãi cát
vàng trải dài. Nhiều tài liệu địa lý ghi lại và chia đảo Quang Hoà thành hai
đảo là Quang Hoà Đông và Quang Hoà Tây. Tổng diện tích của đảo khoảng
57 ha.
+ Đảo Quang Ảnh là nơi nhô lên cao nhất so với mực nước biển trong
nhóm đảo Lưỡi Liềm. Đảo mang tên một vị đội trưởng đội Hoàng Sa là Trần
Quang Ảnh, được vua Gia Long sai ra đảo để đo đạc thuỷ trình vào năm
1815. Đảo có hình bầu dục, hơi tròn, có diện tích khoảng 3ha [20,tr.10].
+ Trong nhóm đảo Lưỡi Liềm ngoài năm đảo chính nêu trên còn có
một số đảo nhỏ khác đó là: đảo Ba Ba; đảo Lưỡi Liềm; đá Hải Sâm; đảo Đá
Lồi.
B: Nhóm An Vĩnh (Amphitrite Group).
Nhóm đảo An Vĩnh bao gồm các đảo tương đối lớn, cao trên mặt nước
biển nhất của quần đảo Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất ở Biển
Đông.
+ Đảo Phú Lâm là đảo lớn nhất trong nhóm đảo An Vĩnh, bề dài
khoảng 3.700m và ngang khoảng 2.800m. Trên đảo nhiều cây cối nên gọi là
Phú Lâm. Đảo có cầu tàu lớn, sân bay, đài kiểm báo, và nhiều phương tiện
quân sự khác. Ngoài đảo lớn nhất là Phú Lâm, nhóm An Vĩnh còn có nhiều
các đảo, bãi khác như: Đảo Bắc (North Island); Đảo Nam (South Island); Đảo
giữa (Midle Island); Đảo đá (Rocky Island); Cồn Cát Tây (West Sand) [20,
tr.10].

+ Cụm đảo Linh Côn.
Cụm đảo Linh Côn nằm về phía cực Đông của quần đảo Hoàng Sa, các
đảo thuộc nhóm này chỉ là những mỏm san hô, nhấp nhô trên mặt nước biển.

7



Tên đảo gắn liền với tên một chiếc tàu bị nạn trong khu vực này vào đầu thế
kỷ XX. Phía Nam nhóm Linh Côn có một đảo tương đối giàu tài nguyên hải
sản và san hô đó là đảo Tri Tôn [20,tr.11].
1.1.2. Vị trí địa lý.
Quần đảo Hoàng Sa nằm trong một phạm vi rộng khoảng 15.000km2 ,
từ 1110 đến 1130 kinh độ Đông, từ 170 05‟ xuống 150 vĩ độ Bắc. Xung quanh
vùng biển có độ sâu hơn 1000m song giữa các đảo lại chỉ sâu khoảng 100m.
Quần đảo Hoàng Sa nằm ngang bờ biển các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi. Đảo gần nhất là đảo Hoàng Sa,
cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 120 hải lý, cách Cảng Đà Nẵng
khoảng 170 hải lý và cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 156 hải lý.
1.2. Quần đảo Trƣờng Sa.
1.2.1. Tên gọi và các bộ phận cấu thành.
Người Pháp gọi quần đảo Trường Sa là Archipel des Spratly, người
Anh, người Mỹ gọi là SpratleyIslands. Người Trung Quốc gọi là Nam Sa,
người Philippine gọi là Kalayan (vùng đất tự do), người Nhật gọi là Shinan
Guto [20,tr.12].
Quần đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất
vào khoảng 350 hải lý, đảo xa nhất khoảng 500 hải lý, cách Vũng Tàu 270 hải
lý, cách đảo Hải Nam của Trung Quốc khoảng 600 hải lý, cách Đài Loan
khoảng hơn 900 hải lý.
Quần đảo Trường Sa trải dài trên một diện tích mặt nước tương đối
rộng, chiếm một vùng biển khoảng 160.000 – 180.000km2 . Vùng biển tuy
rộng nhưng diện tích các đảo đá, các bãi nổi trên mặt nước lại rất ít, chỉ tổng
cộng khoảng 11km2 . Về số lượng đảo, theo thống kê trong một công trình
khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thao (Vụ Biển – Ban Biên Giới Chính
phủ) năm 1988 quần đảo Trường Sa bao gồm 137 đảo đá và bãi ngầm.
Căn cứ theo hải đồ được xây dựng vào năm 1979 của Cục Bản đồ quân

sự thuộc Bộ Tổng Tham Mưu nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
quần đảo Trường Sa có thể chia làm 8 cụm đảo chính theo chiều từ Bắc
xuống Nam như sau:
Cụm 1: Cụm đảo Song Tử.

8


Bao gồm 2 đảo, hai bãi nổi, hai đá. Thông thường chúng ta vẫn biết đến
hai đảo chính của cụm này với tên gọi là đảo Song Tử Đông và đảo Song Tử
Tây. Hai đảo này như sinh đôi, nằm ở cực Bắc của quần đảo Trường Sa. Trên
đảo có cây cối, với độ cao trung bình, có nhiều phân chim (nguyên liệu làm
phân bón). Đảo Song Tử Đông hình dạng hơi tròn, có diện tích khoảng
0,225km2 . Năm 1963, Việt Nam Cộng Hoà có dựng tại đây một tấm bia chủ
quyền. Năm 1968, Philippine đã cho quân chiếm đóng đảo này một cách trái
phép. Đảo Song Tử Tây hiện do Việt Nam giữ, có hình dạng lưỡi liềm, diện
tích khoảng 0,21km2 , trên đảo có nước ngọt, hiện vẫn còn một trạm rađa từ
thời Việt Nam Cộng Hoà dựng ở đây. Cụm đảo Song Tử này còn có Đá Bắc
và Đá Nam và hai bãi cạn đó là bãi Đinh Ba và bãi Núi Cầu.
Cụm 2: Cụm đảo Thị Tứ.
Nằm ở phía Nam đảo Song Tử, cụm đảo này gồm có đảo Thị Tứ và
một số bãi đá khác. Đảo Thị Tứ nằm ở phía Đông Bắc của quần đảo Trường
Sa, do san hô tạo thành lẫn với cát trắng và đá vôi. Đảo hình bầu dục, bề
ngang 550m, dài 700m, diện tích khoảng 0,382 km2, có giếng nước ngọt. Trên
đảo có cây mù u, cây bàng, nhiều cây leo chằng chịt. Chung quanh đảo có rất
nhiều rong biển và các bãi đá ngầm. Quanh đảo có nhiều cá, đồn đột, rong
biển [20, tr.14].
- Phía Bắc đảo Thị Tứ gồm đá Hoài An, đá Tri Lễ, đá Trâm Đức, đá Vĩnh
Hảo, đá Cái Vung .
- Phía Nam đảo Thị Tứ là đá Xu Bi, cách đảo Thị Tứ chừng 14 hải lý (đã bị

Trung Quốc chiếm đóng năm 1988)
Cụm 3: Cụm đảo Loại Ta.
Ở phía đông cụm đảo Thị Tứ, gồm đảo Loại Ta phía dưới và cồn san
hô Lan Can hay An Nhơn ở phía Đông. Đảo có hình dạng tròn, đường kính
khoảng 300m, cao hơn so với mặt nước biển chừng 2m, có nhiều cây lớn mọc
quanh đảo. Bên cạnh đó, cụm đảo Loại Ta còn có sự hiện diện của một số bãi
và thực thể khác như: Đá An Lão, bãi Đường, bãi An Nhơn Bắc, bãi Loại Ta
và bãi Loại Ta Nam. Phía Đông đảo Loại Ta còn có đảo Dừa và đá Cá Nhám.
Cụm 4: Cụm đảo Nam Yết hay còn gọi là cụm đảo TiGia

9


Đảo Nam Yết nằm ở phía Nam đảo Loại Ta, là một liên kết của vòng
san hô Tizard Bank bao gồm đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca, đảo Ba Bình, và bãi
Bàn Than, đá Núi Thị, đá En Đất, đá Lớn, đá Nhỏ, và đá Đền Cây Cỏ. Trong
quần thể cụm đảo này, đảo rộng nhất là đảo Ba Bình (do Đài Laon giữ) và
đảo cao nhất là đảo Nam Yết. Trên đảo Nam Yết, cũng có nhiều lùm cây với
kích thước lớn nhất [20,tr.15].
Đảo Nam Yết là đảo lớn thứ hai trong cụm đảo sau đảo Ba Bình, tuy
vậy, đây là hòn đảo cao nhất của quần đảo. Nằm ở phía Nam của cụm đảo, có
hình dạng chữ C, diện tích khoảng 0,175km2 cao khoảng 4,7m.
Đảo Sơn Ca có hình dạng chữ C, với chiều cao khoảng hơn 3m so với
mặt nước biển. Trước năm 1975, đều có quân đội Việt Nam Cộng Hoà chiếm
giữ và sau năm 1975, Quân đội Nhân Dân Việt Nam đã tiếp quản.
Đảo Ba Bình là đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa, độ cao chừng
4m, dài khoảng 1.360m, rộng khoảng 350m, diện tích gần 1,5km2. Phía Tây
Nam cụm đảo Nam Yết có đá Chữ Thập, đây là một đá không lớn song có
tầm quan trọng về chiến lược rất lớn và đang do Trung Quốc chiếm đóng.
Cụm 5: Cụm đảo Sinh Tồn.

Nằm ở phía Nam của cụm đảo Nam Yết, cụm đảo Sinh Tồn bao gồm
các vị trí sau đây: Đảo Sinh Tồn, đá Sinh Tồn Đông, đá Nhạn Gia, đá Bình
Khê, đá Ken Nan, đá Tư Nghĩa, đá Bình Sơn, đá Bãi Khung, đá An Bình...
Cụm 6: Cụm đảo Trường Sa.
Nằm ở phía Nam và Tây Nam cụm đảo Sinh Tồn, trải dài theo chiều
ngang. Là một quần thể bao gồm nhiều bãi, đảo và các thực thể khác, cụm
đảo Trường Sa nằm ở phía Đông, kế cận các bãi, đá thuộc thềm lục địa Việt
Nam như bãi Phúc Tần, Huyền Trân, Tư Chính..... Đảo Trường Sa là đảo lớn
nhất, có dạng hình tam giác cân mà cạnh đáy hơi lệch về phía Bắc. Cạnh đáy
của tam giác cân đó dài khoảng 350m, mỗi cạnh bên dài 450m, cao độ ở phía
Bắc là 3,5m phía Nam là 2,1m so với mặt nước biển lúc nước lớn. Ngoài các
đảo, đá, bãi kể trên còn có đảo Trường Sa Đông, đảo Phan Vinh [20,tr.19].
Cụm 7: Cụm đảo An Bang.
Nằm ở phía Nam cụm đảo Trường Sa, đảo An Bang có hình dạng giống
như hình cái túi, đáy nằm ở phía Đông còn miệng thì thắt lại ở phía Tây. Đảo

10


tương đối dài và nhỏ, dài đến hơn 200m nhưng rộng chỉ khoảng 20m và cao
hơn so với mặt nước biển là khoảng 2m.
Cụm 8: Cụm đảo Bình Nguyên.
Cụm đảo này nằm ở hướng Đông bao gồm có hai đảo là đảo Bình
Nguyên và đảo Vĩnh Viễn. Xung quanh hai đảo này còn có một số đá, bãi và
một số vị trí khác.
1.2.2. Vị trí địa lý.
Quần đảo Trường Sa trải dài từ vĩ độ 602B tới 110 28B, từ kinh độ 1120
Đ đến 1150 Đ. Cách Vũng Tàu 270 hải lý, cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách
Cam Ranh (Khánh Hoà) 250 hải lý. Các đảo, vị trí thường xuyên nổi trên mặt
nước có diện tích khoảng 11km2 [20,tr.12].

Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều nằm trong vùng Biển Đông nơi
mà người Trung Quốc gọi là Nam Hải và người Phương Tây gọi là biển Nam
Trung Hoa. Hai quần đảo cách nhau khoảng 500km, trải dài từ Bắc xuống
Nam, khoảng 11 vĩ độ, từ vĩ độ 170 05B xuống 60 20‟ 9” B, từ Tây sang Đông
khoảng 7 kinh độ, từ kinh độ 1100 Đ đến kinh độ 1170 Đ.
Cả hai quần đảo này đều có nguồn gốc từ san hô, bao gồm nhiều các vị
trí khác nhau, có cả các đảo, đá, bãi cạn. Tổng diện tích phần thường xuyên
nổi trên mặt nước của mỗi quần đảo khoảng hơn 10km2 .
1.3. Tầm quan trọng của hai quần đảo.
1.3.1. Lợi ích về kinh tế.
Biển Đông nói chung và khu vực biển xung quanh hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa nói riêng có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt và các mỏ khoáng sản
như: mỏ Sunphát, kết cuội sắt, Mangan...rất lớn. Theo số liệu của nhiều nhà
khoa học và cơ quan khoa học quốc tế dự đoán, Biển Đông chứa khoảng 130
tỷ thùng dầu, trong đó khu vực quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
chiếm khoảng hơn 70%. Các cuộc thăm dò của Trung Quốc đã khẳng định
rằng có khoảng 25 tỷ m3 khí và ước có khoảng 105 tỷ thùng dầu lửa ở khu vực
thềm lục địa xung quanh quần đảo Trường Sa. Chính vì thế, Biển Đông còn
được coi như “Vịnh Ba Tư” thứ hai.
Bên cạnh nguồn lợi về dầu khí mà vùng Biển Đông mang lại, hải sản ở
khu vực này cũng mang lại nhiều hứa hẹn. Với tốc độ đánh bắt cá như hiện

11


nay, tổng sản lượng hải sản đánh bắt ở khu vực này đã chiếm một phần không
nhỏ trong sản lượng của toàn thế giới.
Tại vùng biển quanh quần đảo Hoàng Sa, do các hoàn cảnh khách
quan, chúng ta chưa có điều kiện để đánh giá. Tuy nhiên vùng biển quanh
quần đảo Trường Sa theo số liệu mới nhất, qua khảo sát sơ bộ bằng lưới rê,

các nhà khoa học Việt Nam đã xác định được 18 họ hải sản với 32 giống và
37 loài. Bằng ngư cụ là câu văng, đã xác định được 9 họ hải sản, 13 giống và
14 loài cá trong đó có các loài cá có giá trị kinh tế cao như: Cá ngừ mắt to, cá
thu ngàng...Theo các tài liệu nghiên cứu của phái đoàn Naga thuộc Viện Đại
Học California (Mỹ), vùng biển quanh quần đảo Trường Sa là nơi tập trung
nhiều loài cá với mật độ rất cao [Theo 34].
Cùng với tài nguyên hải sản, vùng biển quanh hai quần đảo là nơi có
trữ lượng san hô cực lớn, có thể dùng để sản xuất ra các sản phẩm mỹ nghệ
xuất khẩu mang lại lợi ích kinh tế cao.
Trên các nhóm đảo ở xa đường xích đạo, có nhiều cây cối rậm rạp. Các
đảo và các vị trí khác trong hai quần đảo là nơi cư trú lý tưởng cho các loài
chim biển về làm tổ, sống và sinh sản, cũng là địa điểm rất lý tưởng cho các
loài rùa biển làm tổ, đẻ trứng. Phân chim từ lâu đời, tích tụ lại hoà trộn với
san hô phong hoá, tạo nên một loại phốt phát vôi mà qua khảo sát đã xác định
được đó là loại phốt phát có chất lượng cao tương đương với loại phốtphát vôi
xuất hiện ở Pêru vì trong đó có chứa nhiều chất đồng hoá, cây trồng rất dễ hấp
thụ [Theo 35].
Như vậy, có thể thấy tầm quan trọng về kinh tế trong khu vực xung
quanh hai quần đảo là rất lớn song hầu hết các nhà quan sát, nghiên cứu quốc
tế đều nhận xét rằng “những lực đẩy chính hướng về biển Biển Đông là vị trí
chiến lược hết sức quan trọng của hai quần đảo này” [Theo 35].
1.3.2. Về an ninh quốc phòng.
Không có một vùng biển nào trên thế giới lại có tầm quan trọng như
Biển Đông.
Nằm ở trung tâm Biển Đông, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là
một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế giới. Trên
các tuyến đường biển của Châu Á có hai điểm trọng yếu: Thứ nhất là eo biển

12



Malaca (nằm giữa đảo Sumatra của Indonesia và Malaysia). Vị trí này vô
cùng quan trọng vì tất cả hàng hoá của các nước Đông Nam Á và các nước ở
khu vực Bắc Á phải đi qua. Thứ hai là vùng Biển Đông, nhất là khu vực
quanh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
Vị trí chiến lược của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa còn có thể
được sử dụng để kiểm soát các tuyến đường biển tại Biển Đông và dùng cho
các mục đích quân sự như: đặt trạm rađa, trạm thông tin, xây dựng các trạm
dừng chân, các trạm tiếp nhiên liệu cho tàu bè. Khu vực quanh hai quần đảo
này án ngữ lối ra vào lục địa Châu Á của hải quân Hoa Kỳ và Nhật Bản cũng
như đường qua lại của tàu chiến Ấn Độ. Việc xây dựng các căn cứ không
quân trên khu vực này sẽ cho phép quốc gia nào xác lập được chủ quyền trên
hai quần đảo theo dõi, thậm chí có thể đe doạ các nước công nghiệp mới trong
khu vực Đông Nam Á, chưa kể tới khả năng giám sát mạng lưới dày đặc
đường hàng không ở khu vực này.
Lãnh thổ Việt Nam trải dài theo bờ biển với chiều dài lên tới hơn
3000km. Vì thế, bờ biển luôn luôn là nơi xung yếu nhất trong công cuộc
phòng thủ đất nước. Lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam
đã chứng kiến nhiều cuộc tập kích đường biển của giặc ngoại xâm, vì thế
Hoàng Sa và Trường Sa là những trạm quan sát và phòng thủ tiền tiêu hết sức
quan trọng cho việc bảo vệ Tổ quốc. Từ nhiều thế kỷ trước, ông cha ta đã
nhận biết được tầm quan trọng về chiến lược của hai quần đảo này. Năm Bính
Thân, niên hiệu Minh Mệnh thứ 17 (1836), Bộ Công đã dâng sớ tâu lên vua
rằng: “Xứ Hoàng Sa thuộc cương vực biển nước ta, hết sức hiểm yếu” [Theo
15]. Sách Đại Nam Nhất Thống Chí năm 1838 cũng viết: “...phía Đông có bãi

cát nằm ngang (Hoàng Sa) liền với biển xanh làm hào”. Tác giả người Trung
Quốc là Vương Bích Nam trong cuốn sách Hải Lục viết năm 1842 cũng đã
nhận xét: “Vạn Lý Trường Sa gồm những bãi cát nổi trên biển dài mấy ngàn
dặm, làm phên dậu bên ngoài của nước An Nam” [Theo 18,tr.6].

Trong thời đại khoa học kỹ thuật quân sự phát triển như hiện nay, nếu
một quốc gia khác chiếm hữu được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thì
có thể kiểm soát được toàn bộ bờ biển Việt Nam. Đó sẽ là “một trong những
mối đe doạ nghiêm trọng nhất đối với việc phòng thủ và toàn vẹn lãnh thổ”

13


của Việt Nam [18,tr.6]. Việc chiếm hữu được hai quần đảo không những kiểm
soát được toàn bộ tuyến đường ra vào Vịnh Bắc Bộ mà còn phong toả toàn bộ
tuyến giao thông đường bộ, đường sắt huyết mạch nối liền Nam - Bắc của
Việt Nam do các tuyến giao thông này đều nằm sát bờ biển. Mặt khác, từ hai
quần đảo này còn có thể làm bàn đạp cho không quân và hải quân tấn công vào
đất liền.
Mặc dù có vai trò to lớn về kinh tế và chiến lược như vậy nhưng chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này không hoàn toàn xuất phát từ vị
trí địa lý và tầm quan trọng của hai quần đảo. Chủ quyền của Việt Nam đối
với hai quần đảo dựa trên những bằng chứng lịch sử, pháp lý rõ ràng phù hợp
với luật pháp và thực tiễn quốc tế. Để làm rõ ràng hơn vấn đề này, chương 2
của luận văn sẽ phân tích kỹ càng hơn về vấn đề xác lập và thực hiện chủ
quyền lãnh thổ trong luật pháp và thực tiễn quốc tế.
1.4. Tình hình tranh chấp hiện nay.
1.4.1. Quần đảo Hoàng Sa.
Việt Nam xác lập và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo
Hoàng Sa (bãi Cát Vàng) từ thế kỷ XVII. Cho đến cuối thế kỷ XIX, chủ
quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa không hề gặp bất kỳ một sự
phản đối từ bất kỳ quốc gia nào trong khu vực.
Đến tận đầu thế kỷ XX, trước hành động của Nhật chiếm đóng đảo
Đông Sa, Trung Quốc vội vã ra chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Việt
Nam mà họ gọi là “Tây Sa” (1909) và sau đó sáp nhập vào đảo Hải Nam

(1921) [36,tr.8]
+ Năm 1950, Pháp trao trả quyền quản lý quần đảo Hoàng Sa cho
Chính phủ Bảo Đại và quân đội Trung Hoa Dân Quốc rút về Đài Loan.
+ Năm 1974, lợi dụng Việt Nam phải đối phó với quân đội Mỹ ở Miền
Nam Việt Nam, Trung Quốc đã cho quân đội ra đánh chiếm nốt cụm đảo Phía
Tây của quần đảo, hoàn thành việc thôn tính quần đảo Hoàng Sa.
+ Sau năm 1975, Việt Nam khẳng định có đầy đủ căn cứ pháp lý, bằng
chứng lịch sử để chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.

14


+ Từ năm 1979 đến năm 1982, cả Việt Nam và Trung Quốc đều ra
Sách Trắng chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo. (Việt Nam
ra Sách trắng vào các năm 1979, 1982, 1988)
+ Năm 1988, Trung Quốc lại dùng vũ lực chiếm đóng tiếp một số bãi
đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa và sáp nhập vào tỉnh Hải Nam.
+ Năm 1992, Trung Quốc ra tuyên bố về vùng lãnh hải và tiếp giáp
lãnh hải bao gồm cả hai quần đảo ở Biển Đông.
+ Gần đây nhất, ngày 15 tháng 02 năm 2005, lần đầu tiên trong lịch sử,
Trung Quốc tiến hành khảo sát các đảo san hô dưới biển với quy mô lớn ở
vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa. Chính phủ Việt Nam một lần nữa khẳng
định chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với quần đảo này và cho
rằng mọi hành vi nếu không được sự chấp thuận của Việt Nam đều là vi phạm
chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam.
Như vậy, tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hiện nay
chỉ là tranh chấp song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Hiện nay, toàn
bộ quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng một cách trái phép, mặc
dù đó đích thực là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng, không thể tách rời của

Việt Nam.
1.4.2. Quần đảo Trường Sa.
+ Cho đến năm 1933, cũng như quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường
Sa là phần lãnh thổ thiêng liêng của Việt Nam mà không có bất kỳ một sự
tranh chấp của bất kỳ quốc gia nào. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện chủ
quyền quốc gia và quản lý hành chính trên 21 đảo và vị trí trong quần đảo
Trường Sa.
Tranh chấp về chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa là tranh chấp đa
phương giữa 5 nước, 6 bên liên quan.
+ Trung Quốc và Đài Loan đòi chủ quyền đối với khoảng 80% phần
diện tích Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo
đường hình chữ U (đường lưỡi bò) mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố vào
năm 1947 và được vẽ lại trong Bản đồ Nam Hải Chư Đảo năm 1950. Từ năm
1988, Trung Quốc đã chiếm 9 bãi ngầm thuộc quần đảo Trường Sa. Đài Loan
đang chiếm đóng đảo Ba Bình (đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa). Đây

15


là hành vi trái với luật pháp và thực tiễn quốc tế, xâm phạm nghiêm trọng chủ
quyền lãnh thổ của Việt Nam.
+ Philippin đòi chủ quyền đối với tất cả các vị trí kể cả chìm và nổi
trong khu vực biển mà họ gọi là “Kalayan” (vùng đất tự do). Vùng biển này
bao gồm hầu hết khu vực quần đảo Trường Sa. Thomas Cloma một công dân
Philipine đã tuyên bố chiếm hữu vào năm 1950. Cho đến nay, Philipine chiếm
giữ 8 đảo và vị trí trong khu vực quần đảo Trường Sa.
+ Malaysia đòi thực hiện quyền quản lý đối với 5 vị trí trong khu vực
quần đảo Trường Sa.
+Brunei đòi hỏi vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý bao gồm đá
Luisa ở phía Nam quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, Brunei là quốc gia duy

nhất không chiếm giữ bất kỳ đảo hay vị trí nào trong quần đảo.
CHƢƠNG 2
LUẬT PHÁP VÀ THỰC TIỄN QUỐC TẾ
VỀ XÁC LẬP VÀ THỰC HIỆN CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ
2.1. Khái niệm chủ quyền lãnh thổ.
2.1.1. Lãnh thổ.
Trong các giáo trình, tài liệu về luật pháp quốc tế có nhiều định nghĩa
khác nhau về lãnh thổ, song xét trên mọi phương diện thì: “Lãnh thổ quốc gia
là một phần của trái đất bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng
lòng đất thuộc chủ quyền hoàn toàn riêng biệt và đầy đủ của quốc gia”
[30,tr.136].

Vị trí địa lý và cấu trúc tự nhiên làm cho lãnh thổ của mỗi quốc gia
không hoàn toàn giống nhau. Tất cả hoàn toàn phụ thuộc vào cấu trúc tự
nhiên của lãnh thổ quốc gia. Lãnh thổ quốc gia được cấu thành bởi các yếu tố
sau:
-Vùng đất.
Là một bộ phận cơ bản của lãnh thổ mà không một quốc gia nào không
có và thường chiếm phần lớn trong tổng diện tích lãnh thổ so với các bộ phận

16


khác. Vùng đất bao gồm đất liền của lục địa và các đảo thuộc chủ quyền quốc
gia. Riêng với các quốc gia quần đảo thì bao gồm toàn bộ các đảo lớn, nhỏ
thuộc về quốc gia đó. Các vùng đất nói trên thuộc chủ quyền hoàn toàn, riêng
biệt và tuyệt đối của quốc gia [30,tr.136].
-Vùng nước.
Toàn bộ các vùng nước nằm phía trong đường biên giới của quốc gia là
lãnh thổ của quốc gia đó. Vùng nước nằm trong đường biên giới quốc gia bao

gồm: Vùng nước nội địa, vùng nước biên giới, vùng nước lịch sử, nội thủy,
lãnh hải.
-Vùng lòng đất.
Là phần đất nằm dưới lòng đất và vùng nước thuộc chủ quyền hoàn
toàn, tuyệt đối của quốc gia. Luật pháp quốc tế mặc nhiên thừa nhận vùng
lòng đất của quốc gia được kéo dài đến tận tâm trái đất [30,tr.138].
-Vùng trời.
Là khoảng không gian nằm trên vùng đất và vùng nước của quốc gia.
Trong khoảng không gian này, quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và riêng biệt.
Như vậy, tổng thể hoàn chỉnh của lãnh thổ một quốc gia bao gồm:
Vùng đất, vùng nước, vùng trời và vùng lòng đất.
2.1.2. Chủ quyền lãnh thổ.
Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn, riêng biệt và tuyệt đối đối với
lãnh thổ của mình. “Chủ quyền đó gọi là quyền tối cao của quốc gia đối với
lãnh thổ hay còn gọi là chủ quyền lãnh thổ” [30,tr.139].
Luật pháp quốc tế hiện đại ghi nhận quyền tối cao của quốc gia đối với
lãnh thổ trong mối quan hệ tổng thể lôgic biện chứng giữa những yếu tố tự
nhiên với những yếu tố có liên quan mật thiết khác như chế độ chính trị, kinh
tế, văn hoá, lịch sử.... của cộng đồng một quốc gia với cộng đồng quốc tế
[30,tr.139]. Với ý nghĩa là thộc tính không thể tách rời và vốn có của một quốc

gia, chủ quyền lãnh thổ được thể hiện trên hai phương diện cơ bản.

17


-Phương diện quyền lực.
Đây chính là sự tồn tại, sự khẳng định và sự phát triển của hệ thống các
cơ quan Nhà nước trong hoạt động nhằm thực hiện quyền lực bao trùm lên tất
cả các lĩnh vực của đời sống quốc gia. Quyền lực này mang tính hoàn toàn và

riêng biệt, không chia sẻ với bất kỳ quốc gia nào khác và là chủ quyền thiêng
liêng của từng quốc gia [30,tr.142].
Trên phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia được quyền tiến hành mọi
hoạt động với điều kiện các hành động đó không trái với luật pháp quốc tế.
Trong quá trình tiến hành các hoạt động hợp pháp đó, quốc gia cũng phải lưu
ý đến một nguyên tắc có tính tập quán quốc tế là: không sử dụng lãnh thổ của
quốc gia mình để gây thiệt hại cho quốc gia khác.
Đi đôi với việc thực hiện chủ quyền lãnh thổ, quốc gia có nghĩa vụ tôn
trọng và bảo đảm quyền bất khả xâm phạm lãnh thổ của quốc gia khác. Đây là
một nguyên tắc rất quan trọng của luật pháp quốc tế – nguyên tắc bất khả xâm
phạm và toàn vẹn lãnh thổ – với một số nội dung chính như: Cấm đe doạ sử
dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực để chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ; Không sử
dụng lãnh thổ quốc gia khi không có sự chấp thuận của quốc gia chủ nhà;
Biên giới quốc gia là ổn định và bất khả xâm phạm...
-Phương diện vật chất.
Khi lãnh thổ thuộc về một quốc gia nào đó thì cũng có nghĩa là quốc
gia có quyền sở hữu một cách đầy đủ, trọn vẹn trên cơ sở lợi ích của cộng
đồng dân cư sinh sống trên lãnh thổ đó và phù hợp với các quyền dân tộc cơ
bản. Tức là mọi sự thay đổi hoặc định đoạt liên quan đến số phận của một
vùng lãnh thổ nào đó phải dựa trên quyền dân tộc tự quyết mới được coi là hợp pháp.
2.2. Các phƣơng thức xác lập chủ quyền lãnh thổ.
2.2.1. Nguyên tắc xác lập chủ quyền lãnh thổ.
Là một chế định của luật pháp quốc tế, “lãnh thổ” phải tuân thủ những
nguyên tắc nhất định của luật pháp quốc tế. Và theo đó, việc xác lập chủ

18


quyền lãnh thổ cũng phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của luật pháp
quốc tế. Tuy vậy, xuất phát từ đặc thù riêng của chế định “lãnh thổ”, không

phải bất kỳ một sự xác lập chủ quyền lãnh thổ nào cũng đều phải tuân theo tất
cả các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Những nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế sau có liên quan trực tiếp tới vấn đề “xác lập chủ quyền lãnh
thổ”
- Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia.
Chủ quyền là thuộc tính chính trị pháp lý không thể tách rời của quốc
gia bao gồm hai nội dung chủ yếu: Quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi
lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong các quan hệ đối ngoại.
- Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực.
Nguyên tắc này được hình thành trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
phát xít và đã được khẳng định trong Hiến chương của Liên hợp quốc. Thời
gian đầu nguyên tắc này thể hiện mong muốn của các dân tộc trong việc thiết
lập một trật tự quốc tế công bằng sau chiến tranh. Sau này, với sự phát triển
của các mối quan hệ quốc tế, việc sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực
trong các quan hệ quốc tế đã không còn là mối hiểm hoạ thường trực nữa và
nguyên tắc này chuyển sang một hình thái khác đó là vấn đề sử dụng vũ lực
và đe doạ sử dụng vũ lực trong các quan hệ phi vũ trang. Định ước Henxinki
năm 1975 quy định rằng các quốc gia tham gia sẽ “khước từ sử dụng mọi biện
pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên khác, khước từ tiến
hành hành vi cưỡng bức về kinh tế” [30,tr.35]. Như vậy, khái niệm vũ lực theo
luật quốc tế hiện đại, đã được mở rộng để biểu hiện sử dụng cả các sức mạnh
quân sự, kinh tế... hay đe doạ sử dụng các sức mạnh đó.
- Nguyên tắc giải quyết hoà bình các tranh chấp quốc tế.
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc giải quyết hoà bình các
tranh chấp quốc tế gắn liền với nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử

19


dụng vũ lực [30,tr.38]. Nói cách khác, nguyên tắc này là hệ quả tất yếu của

nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, luật pháp quốc tế cũng đã ghi
nhận một số biện pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp song vào thời điểm
đó nguyên tắc này chưa trở thành một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Về sau này, với mục đích đảm bảo hoà bình, an ninh quốc tế và công
lý, luật pháp quốc tế đã ghi nhận nguyên tắc này như một trong những nguyên
tắc cơ bản. Điều này được thể hiện rõ ràng trong khoản 2, điều 2 Hiến chương
Liên hợp quốc.
- Nguyên tắc dân tộc tự quyết.
Ra đời trong thời kỳ cách mạng tư sản, quyền dân tộc tự quyết đã được
giai cấp tư sản sử dụng để lôi kéo các lực lượng tiến bộ đấu tranh chống lại
giai cấp phong kiến, chống lại sự can thiệp từ bên ngoài của các chế độ quân
chủ chuyên chế [30,tr.44]. Nguyên tắc dân tộc tự quyết được thể hiện trong
nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến chương Liên hợp quốc;
Nghị quyết 1514 (XV) của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 14/12/1960;
Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên tắc điều chỉnh quan
hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia năm 1970...
Học thuyết luật pháp quốc tế về xác lập chủ quyền lãnh thổ của các học
giả trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã bác bỏ các phương
thức xác lập chủ quyền lãnh thổ như: xâm chiếm, khuất phục, chinh phạt...
dựa trên cơ sở văn minh giáo điều và các phạm trù của luật La Mã, và lấy
“nguyên tắc dân tộc tự quyết” – một trong những nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế hiện đại, để làm cơ sở cho việc xem xét vấn đề xác lập chủ
quyền lãnh thổ. Theo nguyên tắc này thì mọi sự thay đổi về lãnh thổ phải dựa
trên ý chí của dân cư sinh sống trên những lãnh thổ đó. Đây là một bước
ngoặt lớn trong lịch sử xác lập chủ quyền lãnh thổ nói riêng và sự phát triển
của luật pháp quốc tế nói chung. Theo các luật gia của các nước xã hội chủ

20



nghĩa trước đây, để xác định một lãnh thổ thuộc quốc gia nào trước hết phải
xét đến ý chí, nguyện vọng của nhân dân sống trên lãnh thổ đó. “Sự phù hợp
giữa quyền tối cao về lãnh thổ với ý chí của nhân dân là cơ sở pháp lý cao
nhất trong việc xác lập chủ quyền lãnh thổ....... Trong mọi trường hợp, khi có
tranh chấp giữa các danh nghĩa pháp lý trước đây với quyền dân tộc tự quyết
thì hiệu lực pháp lý của quyền dân tộc tự quyết sẽ được công nhận. Để lập
luận, bảo vệ cho các quyền của mình về lãnh thổ, một quốc gia có thể dựa
trên một danh nghĩa pháp lý đã có từ lâu nhưng chỉ ở mức độ danh nghĩa đó
không trái với quyền dân tộc tự quyết. Đây là kết quả của việc công nhận
quyền dân tộc tự quyết là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”
[Theo 31,tr.11]. Như vậy, rõ ràng là học thuyết pháp lý quốc tế xã hội chủ

nghĩa cũ trong vấn đề xác lập chủ quyền lãnh thổ đã đặt nguyên tắc “dân tộc
tự quyết” lên trên hết. Song như vậy, không có nghĩa là học thuyết pháp lý
quốc tế xã hội chủ nghĩa cũ đã bác bỏ hoàn toàn các phương thức xác lập chủ
quyền lãnh thổ trong học thuyết và thực tiễn quốc tế. Trong khi luật pháp
quốc tế thực định không có những quy phạm pháp lý cụ thể để điều chỉnh vấn
đề xác lập chủ quyền lãnh thổ thì không thể không xem xét những phương
thức xác lập chủ quyền chủ quyền lãnh thổ trong học thuyết và thực tiễn luật
pháp quốc tế. Bởi theo điều 38 Quy chế Toà án quốc tế, học thuyết luật pháp
quốc tế và các tiền lệ được coi là nguồn bổ trợ của luật pháp quốc tế. Hơn
nữa, chủ quyền lãnh thổ là một phạm trù lịch sử, được hình thành và phát
triển qua nhiều giai đoạn. Các tranh chấp giữa các quốc gia về lãnh thổ đều
xuất phát từ thời xa xưa mà theo nguyên tắc luật đương đại, không thể bỏ qua
được. Đương nhiên, khi sử dụng những phương thức xác lập chủ quyền lãnh
thổ cần phải lấy nguyên tắc “dân tộc tự quyết” làm nền tảng. Liên quan đến
vấn đề này, Giáo sư người Nga, B.M Climenco viết: “Nguyên tắc dân tộc tự
quyết không loại trừ những phương thức xác lập chủ quyền lãnh thổ khác.


21


×