Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tiểu luận triết học những giá trị và hạn chế của nho giáo ảnh hưởng của nho giáo đến việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA XÂY DỰNG

TIỂU LUẬN MÔN THỐNG KÊ ỨNG DỤNG

NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA NHO GIA
ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIA ĐẾN VIỆT NAM

Thành Phố Hồ Chí Minh , Tháng 6 năm 2016


1

Mục Lục
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 2
A. MỞ ĐẦU................................................................................................................... 3
B. NỘI DUNG ............................................................................................................... 5
PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ NHO GIÁO .................................................................. 5
1. Khái niệm Nho giáo. ......................................................................................... 5
2. Nguồn gốc ra đời và tư tưởng chủ đạo của Nho giáo. ................................... 5
3. Những tư tưởng chính của Nho giáo đựơc các học trò của Khổng Tử phát
triển và lưu truyền tới các thế hệ sau, nó được thể hiện qua các phương diện
sau: ............................................................................................................................ 6
PHẦN 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA NHO GIA ............................... 7
I.

Tích cực.............................................................................................................. 7

II. HẠN CHẾ. ....................................................................................................... 11
PHẦN 3 : ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI VIỆT NAM ........................... 15
I.



QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO HỌC VÀO VIỆT NAM. .................. 15

II. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG VIỆT NAM. .... 16
III. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam. ... 19
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 22
Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo .................................................................................... 23


2

LỜI MỞ ĐẦU
Bên cạnh những mặt tích cực Nho giáo còn bộc lộ những hạn chế nổi bậc là cơ sở để chế
độ phong kiến dựa vào đó để cai trị, cuộc sống của con người bị chà đạp, bất bình đẳng,
tam tòng tứ đức đè nặng lên thân phận của người phụ nữ. Chính vì thế mà ngày nay có
rất nhiều luồng ý kiến khác nhau về giá trị và hạn chế của Nho giáo và sự ảnh hưởng của
tư tưởng này đến xã hội, lối sống và nhân cách của mỗi con người Việt Nam chúng ta
trong xã hội hiện nay. Để làm sáng tỏa những thắc mắc trên, em xin chọn đề tài: “Những
giá trị và hạn chế của Nho gia. Ảnh hưởng của Nho gia đến Việt Nam”. Do kiến thức
còn hạn hẹp nên trong bài viết không tránh được những thiếu sót mong thầy cô giúp đỡ
em hoàn thành đề tài tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.


3

A. MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
-


Đối với mỗi người dân Việt Nam khi lớn lên ít hoặc nhiều cũng nghe, cảm nhận
và tìm hiểu về một tôn giáo mà họ cho là đúng đắn. Ở Việt Nam hiện nay Phật
Giáo và Thiên Chúa Giáo hiện đang chiếm phần đông so với các tôn giáo khác
đang được Việt Nam công nhận.

-

Tuy nhiên, trong lịch sử nghìn năm dựng nước và giữ nước, nền văn hóa của nước
ta đã chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn hóa Trung hoa đó là Nho giáo. Việt nam
tọa lạc tại khu vực Đông Nam của Châu Á, từ trước thế kỷ XIX Đông Nam Á vẫn
chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực địa lí - lịch sử - văn hóa chính trị riêng biệt. Bởi nó đã bị lu mờ giữa hai nền văn minh phát triển rất rực rỡ
là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ. Là một nước láng giềng, lại trải qua
Thời Bắc thuộc kéo dài hơn 1.000 năm (207 TCN - 906) trải qua các triều đại
Triệu, Hán (Đông Hán và Tây Hán), Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy,
Đường. đây là thời kì mà Nho giáo phát triển thịnh vượng và chiếm được vị thế
độc tôn. Do đó cuộc sống của người Phương Đông nói chung và tại Việt Nam nói
riêng ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa Trung Hoa, trong đó có thể kể
đến tư tưởng của Nho giáo (hay còn gọi là đạo Nho, đạo Khổng), vậy đạo giáo
này đã có những ảnh hưởng rất sâu đậm như thế nào đối với kinh tế chính trị, văn
hoá, xã hội của người Việt Nam trong quá khứ và kéo dài đến tận ngày nay? Bài
viết này hy vọng sẽ cung cấp một cách khái quát nhất về sự hình thành, phát triển,
những ưu điểm, nhược điểm để làm sáng tỏa vấn đề ở trên.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

-

Nho giáo có một lịch sử phát triển lâu dài, trên hai ngàn năm trăm trải qua nhiều
sự đổi thay và khác biệt về văn hoá chính trị, xã hội… và bao biến cố, thăng trầm
trong lịch sử xã hội con người, Nho giáo vẫn có được chỗ đứng trong lòng mỗi
người Phương Đông. Qua các giai đoạn phát triển, Nho giáo cũng có những thời

kì hưng thịnh nhưng cũng không tránh khỏi những thăng trầm, những đóng góp
của Nho giáo đối với xã hội loài người là không thể phủ nhận. Nho giáo đã trở


4

thành hệ tư tưởng độc tôn và luôn giữ được vị trí của nó cho đến ngày cuối cùng
của xã hội phong kiến, điều đó đã nói lên rằng: Nho giáo phải có gì đặc biệt thì
mới có ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến như vậy. Do đó, mục đích nhiệm vụ
khoa học của đề tài của đề tài này nhằm phân tích giá trị tích cực và hạn chế của
Nho giáo nhằm phát triển, cải thiện cho tốt hơn, phù hợp với cuộc sống hiện nay
bên cạnh việc giữ gìn và phát huy những phẩm chất tốt đẹp vốn có của Nho giáo.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-

Ưu điểm, nhược điểm của Nho giáo trong các lĩnh vực đời sống, giáo dục, chính
trị, văn hóa, xã hội và tác động của Nho giáo đến Việt Nam.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:

-

Cơ Sở lý luận dựa trên các tài liệu có sẵn trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu
về Nho giáo thông qua các phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:

-

Ý nghĩa lý luận: Làm rõ những nội dung cơ bản về các yếu tố nhân văn của Nho
giáo, các tác động đến Việt Nam trong quá trình tiếp thu và phát triển.


-

Ý nghĩa thực tiễn: giúp học viên có thêm kiến thức về Nho giáo thế giới và Việt
Nam, và có cái nhìn khách quan về hệ tư tưởng này.
Kết cấu của đề tài:

-

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu liên quan, nội dung tiểu
luận bao gồm 3 phần chính.


5

B. NỘI DUNG

PHẦN 1: GIỚI THIỆU VỀ NHO GIÁO
1. Khái niệm Nho giáo.
-

Nho giáo, còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết học
xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các
môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị. Nho giáo
rất có ảnh hưởng tại ở các nước châu Á như: Trung Quốc, Đài Loan, Nhật
Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành theo các tín
điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.

2. Nguồn gốc ra đời và tư tưởng chủ đạo của Nho giáo.
-


Khổng Tử là người có đóng góp rất lớn cho Nho giáo, ông là người đặt nền móng
cho Nho giáo phát triển. Khổng Tử sinh năm 551 và mất năm 479 trước công
nguyên, ông là người rất ham học, sớm nổi tiếng uyên bác, thông hiểu văn hiến
lễ nhạc nhà Hạ, nhà Thương, nhà Chu (là các vương triều cổ đại Trung Hoa).
Ngoài năm mươi tuổi, ông bỏ quan đi chu du các nước và để đến hơn hai chục
năm trời chuyên tâm vào việc sưu tập văn hoá và dạy học trò. Khổng Tử có công
sưu tầm và viết lại năm bộ sách: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân, Thu gọi chung là Ngữ
kinh do Khổng Tử để lại là kinh điển của Nho giáo.

-

Khổng Tử sống trong thời kì biến động lớn của xã hội. Từ lâu, chính trị rối loạn,
mỗi người đều chọn cho mình một thái độ sống khác nhau. Là một triết nhân, thái
độ sống của Khổng Tử hết sức phức tạp, ông vừa hoài cổ, vừa sượng sùng đổi
mới. Trong tâm trạng phân vân, dần dần ông hình thành tư tưởng lấy nhân nghĩa
để giữ vững sự tồn tại chung và khai sáng hệ tư tưởng gọi là phái Nho giáo. Phái
Nho giáo đã tạo ra ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Trung Quốc nói riêng và xã hội
Phương Đông nói chung.


6

3. Những tư tưởng chính của Nho giáo đựơc các học trò của Khổng Tử phát
triển và lưu truyền tới các thế hệ sau, nó được thể hiện qua các phương diện
sau:
-

Về vũ trụ và giới tự nhiên: Khổng Tử tin có trời. Nhưng đối với ông, trời có ý chí,
ý trời là thiên mệnh không thể thay đổi được, không thể cải được mệnh trời. Ông
gộp trời đất vào một thể. Quan điểm này được thể hiện đầy đủ rõ ràng. Đối với

quỷ thần, ông có tư tưởng thiếu nhất quán. Đến các thế hệ học trò của ông trừ
Tuân Tử tư tưởng thiên mệnh được củng cố và khẳng định và là tư tưởng cơ bản
của Nho giáo chi phối các tư tưởng khác.

-

Về đạo đức: đạo theo Nho gia là quy luật biến chuyển, tiến hoá của trời đất, muôn
vật. Đạo của người chính là nhân nghĩa. Nhân là lòng thương người, nghĩa là dạ
thuỷ chung. Nho giáo đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức của con người. Đức
gắn chặt với đạo, từ đức trong quan điểm của Nho giáo thường được dùng để chỉ
một cái gì thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người trong tâm hồn ý thức. Nội
dung cơ bản của đạo đức cua Nho giáo chính là luân thường. Có năm luân cơ bản
là: cha - con, vua - tôi, anh - em, vợ - chồng, bè - bạn. Trong đó ba điều chính là
vua - tôi, cha - con, vợ - chồng gọi là tam cương. Đặc biệt quan trọng là quan hệ
vua - tôi biểu hiện bằng chữ trung, quan hệ cha - con được biểu hiện bằng chữ
hiếu. Thường có năm điều chính gọi là ngũ thường đều là những đức tính trời phú
cho con người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đứng đầu ngũ thường là nhân, nghĩa. Đạo
của Khổng Tử trước hết là đạo nhân nghĩa thì nhân là chủ đạo.

-

Về chính trị xã hội : một xã hội không loạn lạc cũng là xã hội có trật tự, không
lộn xộn. Chính vì thế, ông tổ Nho giáo đã mong ước lập một tổ chức xã hội mà ở
đó có trên có dưới phân minh phổ biến thì đó là trật tự danh vị của thuyết chính
danh. Chính danh là danh và thực phải phù hợp với nhau. Danh và phận của mỗi
người, trước hết do các mối quan hệ quy định. Theo ông mỗi cái danh đều bao
hàm một số trách nhiệmvà bổn phận mà mỗi cá nhân mang cái danh đó phải có
trách nhiệm và bổn phận phù hợp với cái danh đó. Ngoài ra, Khổng Tử còn chủ
trương dùng thuyết lễ trị để đưa ra cách trị nước an dân.



7

-

Về nhân thức luận: Khổng Tử quan tâm tới giáo dục vì theo ông giáo dục để cải
tạo nhân tính của con người.

PHẦN 2: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA NHO GIA
I.

Tích cực

Qua các giai đoạn phát triển, Nho giáo đã có những thời kỳ hưng thịnh cũng như không
tránh khỏi những trầm luân. Cái khó khăn nhất của Nho giáo là làm thế nào để tồn tại và
phát triển đến ngày nay. Để tồn tại được nó phải có những mặt tích cực mà không ai có
thể phủ nhận được. Đó là cái tinh thần cứu đời mà Khổng Tử đã trịnh trọng nêu lên như
là cái mục đích cao cả, làm thành cái đặc tính thiêng liêng của một Nho sĩ và như vậy nó
đã không chỉ còn cái nguyên văn của triết học, đạo học, hay tôn giáo, xứng đáng với cái
nhân văn cao cả của nó.
1. Tích cực trong việc hoàn thiện con người:
-

Nho giáo đã đưa ra những tiêu chuẩn đạo đức nhằm cải tạo con người, hoàn thiện
nhân cách của con người. Đạo theo Nho gia là quy luật chuyển biến, tiến hoá của
trời đất, muôn vật. Đối với con người đạo là con đường đúng đắn phải noi theo
để xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt đẹp. Đạo của người theo quan điểm của Nho
gia là phải phù hợp với tình người do con người lập nên. Trong kinh dịch: sau hai
câu “lập đạo của trời, nói âm và dương”, lập đạo của đất, nói nhu và cương” là
câu “lập đạo của người nói nhân và nghĩa”. Khổng Tử chủ trương cải tạo xã hội

bằng đạo đức. Theo ông làm người cần phải có đức.

-

Nhân nghĩa theo cách hiểu thông thường thì nhân là lòng thương người, nghĩa là
dạ thuỷ chung, mọi đức khác đều từ nhân mà ra cũng như muôn vật muôn loài
trên trời, dưới đất đều do âm dương nhu cương mà ra. Nhân cao hơn các đức khác,
có phần bao gồm cả các đức mục khác nhưng nhân cũng có những tiêu chí riêng.
Khổng Tử nói: “ai làm được điều này trong thiên hạ người đó có nhân: cung,
khoan, tín, mẫn, huệ”. Cung là khiêm tốn, biết tôn trọng người và tôn trọng công
việc, không tỏ ra coi thường người khác thành ra kiêu ngạo, thành ra không chu
đáo. Khoan là rộng rãi, không biết rộng, thu nhận của người đến kiệt. Tín là nói


8

sao thì làm vậy. Mẫn là nhanh nhẹn không lề mề, ỷ lại. Làm được năm điều đó
dân sẽ tin tưởng, dễ sai khiến. Đó là đức mục của người cầm quyền trong quan hệ
với dân nhân như vậy phải đòi hỏi xuất phát từ lòng thương người, từ sự tôn trọng
của con người mà làm việc có hiệu quả.
-

Ngoài ra nhân còn bao gồm các đức là: lễ, nghĩa, trí và tín. “Lễ” vừa là cách thức
thờ cúng vừa là những quy định có tính luật pháp, vừa là những phong tục tập
quán vừa là một kỷ luật tinh thần “tự khắc kỷ phục lễ”. Suy cho cùng lễ chỉ là sự
bổ sung cụ thể hoá cho chính danh nhằm thiết lập trật tự xã hội phong kiến. Nghĩa
là những việc nên làm nhằm duy trì đạo lý, như ta thường nói “hành hiệp trượng
nghĩa”. Trí là tri thức, phải có tri thức mới thành nhân được. Vậy con người phải
tu nhân để tề gia trị quốc và bình thiên hạ. Tín là lời nói và việc làm phải thống
nhất với nhau. Có tín thì mới có tin. Như vậy đức nhân trong Nho giáo không chỉ

là thương người mà thực chất là đạo làm người. Nhân bao gồm nhiều tiêu chuẩn
đạo đức nên một người có một số tiêu chuẩn khác mà không có nhân thì không
gọi là người có đạo đức được.

-

Đức gắn chặt với đạo. Từ đức trong kinh điển Nho gia thường được dùng để chỉ
một cái gì thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người trong tâm hồn ý thức cũng
như hình thức,dáng điệu…Theo Nho gia, mối quan hệ giữa đạo và đức trong cuộc
sống con người: đường đi lối lại đúng đắn phải xây dựng quan hệ lành mạnh, tốt
đẹp là đạo, noi theo đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng đẳn trong cuộc sống thì có
được đức trong sáng quý báu ở trong tâm.

-

Trong kinh điển của Nho gia, ta thấy năm quan hệ lớn. Bao quát gọi là “ngũ luân”
đã được khái quát bằng quan hệ: vua - tôi, cha - con, anh - em, vợ - chồng, bạn bè. Từ quan hệ ấy, kính lễ đã nêu lên mười một đức lớn: vua nhân, tôi trung, cha
từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng có nghĩa, vợ vâng lời, trưởng có ân, ấu ngoan
ngoãn, với bạn hữu phảo có đức tín.

 Những tiêu chuẩn đạo đức mà Nho giáo đưa ra để khuyên răn, dạy bảo mọi người
có rất nhiều tác dụng đối với sự hình thành nhân cách của mỗi người trong xã


9

hội,chính vì những tư tưởng đó mà Nho giáo còn có ảnh hưởng lớn đến xã hội
ngày nay.
2. Tích cực trong giáo dục:
-


Chủ trương thành lập các trường học: Khổng Tử là người lập trường tư đầu tiên
tại Trung Quốc hướng mọi người tới con đường học hành để mở mang dân trí,
rèn luyện đạo đức con người, cải tạo nhân tính. Những tư tưởngvề giáo dục, về
thái độ và phương pháp học tập của Khổng Tử chính là bộ phận giàu sức sống
nhất trong tư tưởng Nho giáo. Theo Khổng Tử, giáo dục là cải tạo nhân tính.
Muốn dẫn nhân loại trở về tính gần nhau, tức là chỗ “thịên bản nhiên” thì phải để
công vào giáo dục vì giáo dục có thể hoá ác thành thiện. “Tu sửa đạo làm người”
và “làm sáng tỏ đức sáng” là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo nhân
tính. Ông xem giáo dục không chỉ mở mang nhân tính, tri thức, giải thích vũ trụ
mà ông chú trọng tới việc hình thành nhân cách con người, lấy giáo dục để mở
mang cả trí, nhân, dũng, cốt dạy con người ta hoàn thành con người đạo lý.

-

Mục đích của giáo dục là học để ứng dụng cho có ích với đời, với xã hội, chứ
không phải là dể làm quan bổng lộc. Học để hoàn thiện nhân cách. Học để tìm tòi
đạo lí.

-

Phương pháp giáo dục: học một cách đúng lịch trình đúng với điều kiện tâm sinh
lí, coi trọng mối quan hệ giữa các khâu của giáo dục: trong việc học, cần tuân thủ
học gắn liền với tư, với tập, với hành.

-

Khổng Tử coi giáo dục cho dân đạo lí làm người: thể hiện tư tưởng giáo dục của
Nho giáo. Tư tưởng “trăm năm trồng người” của Khổng Tử nhằm đào tạo lớp
người lấy đức trị là chính. Trong việc dạy học trò, Khổng Tử có trả lời sâu hay

nông, cao hay thấp tuỳ theo khả năng của người hỏi. Khổng Tử nói: “tiên học lễ,
hậu học văn” vì học phải đi đôi với hành. Trong giáo dục Khổng Tử coi trọng sự
nêu gương của các tầng lớp vua quan và mở trường học cho dân “hữu giáo vô
đạo” dạy cho mọi người không phân biệt đẳng cấp là tư tưởng tiến bộ của Khổng
Tử và chính ông là người thực hiện tư tưởng tiến bộ này.


10

3. Tích cực về chính trị:
-

Thuyết chính danh:Nho giáo là cơ sở để chế độ phong kiến dựa vào đó để cai trị.
Một xã hội không loạn lạc là một xã hội có trật tự, không lộn xộn. Vì vậy ông tổ
Nho giáo đã mong ước lập một tổ chức xã hội mà ở đó có trên dưới phân minh
phổ biến đó là trật tự về danh vị. Chính danh là tư tưởng chính của Nho giáo nhằm
đưa xã hội loạn trở lại trị. Khổng Tử cho rằng xã hội cũng cần phải có chính danh.
Chính danh là danh (tên gọi chức vụ thứ bậc của một người) và thực (phận sự của
người đó bao gồm cảnghĩa vụ và quyền lợi) phải phù hợp với nhau, chính danh
có nghĩa là một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang.
Trong xã hội mỗi người làm đúng theo danh của mình thì xã hội được yên ổn, có
trật tự.

-

Thuyết lễ trị: Nho gia chủ trương theo thuyết lễ trị. Lễ hiểu theo nghĩa rộng là
những nghi thức, quy chế, kỉ cương, trật tự, tôn ti của cuôc sống chung trong cộng
xã hội và cả lối cư xử hàng ngày. Với nghĩa này, lễ là cơ sở của xã hội có tổ chức
bảo đảm cho phân định trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn, không đồng thời
ngăn ngừa những hành vi và tình cảm cá nhân thái quá. Nhờ có lễ, con người mới

có thể biết được như thế nào là hiếu với cha mẹ, là kính với người trên, là lễ từ
với anh em bạn bè thân thích, là bạn hiền của bằng hữu, là nhân của người xung
quanh, là tín với người thân thuộc. Lễ hiểu theo một đức trong ngũ thường thì là
sự thực hành đúng những giáo huấn kỹ cương, nghi thức do Nho gia đề ra cho
những quan hệ “ tam cương”, ngũ thường, thất giáo và cho cả sự thờ cúng thần
linh, đã là người thì phải học lễ biết lễ và có lễ. Con người học lễ từ khi còn trẻ
thơ. Chính vì thế lễ là một nội dung cơ bản của đạo Nho. Lễ với những cách hiểu
trên là cơ sở, là công cụ chính trị, là vũ khí của một phương pháp trị nước, trị dân
lâu đời của Nho giáo. Đó chính là lễ trị.


11

4. Tích cực trong quản lý xã hội:
-

Dựa vào Nho giáo chế độ phong kiến duy trì và củng cố quyền lực để cai trị xã
hội ổn định: Trải qua hàng nghìn năm, xã hội phong kiến tồn tại được là do lấy
Nho giáo làm cơ sở lý luận. Sự thịnh vượng của Nho giáo từ thế kỉ XV cũng là
một hiện tượng góp phần thúc đẩy lịch sử tư tưởng Nho giáo nước ta phát triển.

-

Thực hiện thuyết chính danh: Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, ổn định. Mỗi
người làm đúng danh của mình thì xã hội sẽ có trật tự, kỉ cương, gia đình yên ấm.
Nho giáo đề cao nguyên lí công bằng xã hội.

-

Nho giáo lấy gia đình để hình dung thế giới: Nho giáo coi xã hội như một gia

đình thu nhỏ. Gia đình có hoà thuận, êm ấm thì xã hội mới phát triển. Những cộng
đồng như họ, làng, nước, thế giới cho cả đến vũ trụ cũng được coi như một gia
đình, tức là với các quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh - em, có trên có dưới. Cách
cư xử đúng chức năng như vậy làm cho gia đình thuận hoà, êm ấm. Theo Nho
giáo áp dụng cách thức như vậy trong quan hệ xã hội và trong quan hệ nhà nước
giữa người cầm quyền với người dân cũng tạo ra một cảnh êm ấm của xã hội.
Tóm lại, một xã hội muốn thanh bình thì trước hết cần phải có những gia đình hoà
thuận. để làm được điều đó Nho giáo đòi hỏi mỗi người trong gia đình phải bíêt
tuân theo lễ.

5. Tích cực trong việc phát triển văn hoá:
-

Một trong những nét nổi bật của ảnh hưởng Nho giáo là tình hình phát triển văn
hoá. Nho giáo vốn rất coi trọng văn chương. Cho nên, các nước theo Nho giáo
đều đề cao đức trị, lễ nhạc, văn hiến, đề cao việc giáo dục. Điều đó đẩy mạnh đến
mức biến các nước đó thành đề cao người đi học, người biết chữ người làm được
thơ phú, thậm chí điều đó còn dẫn đến thói quen sùng bái sách vở, quý trọng người
có học vấn.

II.

HẠN CHẾ.

1. Hạn chế trong chính trị.
-

Phong kiến dựa vào Nho giáo để cai trị với những thủ tục hà khắc trong quan hệ
tam cương ngũ thường. Theo Nho giáo mọi người trong xã hội đều bị trói buộc



12

bởi năm mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ cha - con, vua - tôi, vợ - chồng, anh
- em, bạn - bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của cuộc sống hịên thực
là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến mỗi gia đình được
củng cố bằng chế độ tông pháp và chế độ gia trưởng, còn các quan hệ xã hội thì
được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Đi đầu với những mối quan hệ đó là
những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã hội phải thực hiện.
Tương ứng với mối quan hệ đó, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính quy
phạm đạo đức và được pháp luật ngầm bảo trợ. Chính vì thế, có những mối quan
hệ trên Nho giáo trở thành quá cứng nhắc khô khan, khuân mẫu. Trong xã hội,
không có sự bình đẳng với phụ nữ, có sự phân bịêt giai cấp. Người phụ nữ trong
xã hội phong kiến bị trói buộc vì tam tòng tứ đức họ không có quyền tự do quyết
định cuộc sống của mình. Khi lớn lên lấy chồng thì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.
Khi lấy chồng thì phải nghe lời chồng, phải làm tròn bổn phận của mình. Thái độ
chuộng đức và đề cao tu dưỡng của Nho giáo một mặt làm cho con người ngoan
ngoãn chấp nhận quân quyền, phụ quyền và nam quyền có tính áp bức.
-

Nho gia thể hiện tính nguyên tắc.Theo Nho giáo, mỗi người phải có vị trí, nhiệm
vụ của mình trong xã hội. Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó bất đầu
phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp sống
giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân thực
của con người bị xã hội phong kiến làm nó trở nên phản động, cổ hủ lạc hậu.

-

Nho giáo ở vị trí độc tôn thời phong kiến làm cho bệnh khuôn sáo phát triển mạnh
trong tư tưởng giáo dục. Nho giáo gắn với chính quyền tập trung quan liêu: do

vậy để bảo vệ chính quyền phong kiến giai cấp phong kiến sử dụng Nho giáo như
một công cụ để bảo vệ mình. Các học sĩ, quan lại đều lấy thánh kinh, huyền truyện
của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho mọi lời suy nghĩ hành động của
mình, lấy xã hội của thời Nghiêu Thuấn làm khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã
hội, lấy những sự tích và điều phạm trong kinh thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn
để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa
học nghệ thuật nhất là trong văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các


13

lĩnh vực này bị dập vào những cái khuôn có sẵn. Đó là một bệnh tật đã được rèn
đúc ngay từ khi người Nho sĩ phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử
nghiệp. Sự thịnh trị của Nho giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần
tử tri thức đi sâu vào cải tạo “tu bề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh
thiên hạ.
Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam không
tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ trụ,
vì mỗi quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những quan hệ
chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số
phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực.
2. Hạn chế trong vấn đề kinh tế:
-

Các nhà Nho chỉ chăm lo vào học hành thi cử mà không chăm lo phát triển kinh
tế, xa rời thực tế dẫn đến nền sản xuất kèm phát triển. Chính sách kinh tế của nhà
nước là trọng nông, ức thương. Nhiều chính sách xã hội và văn hóa cũng nhằm
ngăn cản cải cách làm ăn. Nho giáo coi thường những người chạy theo lợi nhuận,
làm giàu là “vi phú bất nhân, vi nhân bất phú”, coi thương nhân là hạng bét. Trong
danh vi, chuộng sự thanh nhàn, coi việc hưởng dụng của cải do thương nghiệp

làm ra là một việc bẩn thỉu. Chính vì thế, các giai cấp phong kiến thường sử dụng
biện pháp bế quan toả cảng không buôn bán giao lưu với nước ngoài, làm kinh tế
kèm phát triển.

3. Hạn chế tác động đến Xã hội, văn hoá tư tưởng:
-

Nho giáo nhấn mạnh tư tưởng thiên mệnh, nghĩa lễ, người dưới phục tùng người
trên.: Khổng Tử tin có trời. Nhưng đối với ông, trời có ý chí, ý trời là thiên mệnh
không thể thay đổi được, không thể cải được mệnh trời. Ông gộp trời đất vào một
thể. Quan điểm này được thể hiện đầy đủ rõ ràng. Đối với quỷ thần ông có tư
tưởng thiếu nhất quán. Đến các thế hệ học trò của ông trừ Tuân Tử tư tưởng thiên
mệnh được củng cố và khẳng định và là tư tưởng cơ bản của Nho giáo chi phối
các tư tưởng khác. Nho giáo quan niệm số phận của mỗi người đều được đinh từ
trước.


14

Trong gia đình thì phải có vợ chồng hoà thuận, anh em phải biết đoàn kết thương
yêu đùm bọc lẫn nhau, con cái hiếu thảo, lễ phép với ông bà cha mẹ. Trong quan
hệ xã hội, Nho giáo đòi hỏi trước hết phải có lòng trung thành trong quan hệ vua
tôi và trên dưới. Người dưới phục tùng phải lấy chữ trung làm đầu. Trong các mối
quan hệ thì quan hệ vua tôi đượcđặt lên hàng đầu. Vua bảo bầy tôi phải chết thì
bầy tôi phải chết.
-

Nho giáo mang tính hai mặt đan xen giữa các yếu tố vô thần duy tâm tôn giáo.
Học thuyết của Nho giáo còn mang tính cải lương duy tâm: Trong học thuyết của
Nho gia, trời có nghĩa là bậc nhất. Khổng Tử thường nói đến trời, đạo trời, mệnh

trời. Nho gia gộp trời đất muôn vật vào một thể. Quan niệm về thiên mệnh Khổng
Tử tin vào vũ trụ quan dịch, ông coi trời có ý chí làm chủ thể cả vũ trụ. Tin vào
thiên mệnh, Khổng Tử coi việc hiểu biết mệnh trời là một điều kiện để trở thành
người hoàn thiện. Đó chính là một hạn chế của Nho gia. Ông tin là có quỷ thần,
nhưng quan niệm quỷ thần của ông có tính chất lễ giáo hơn tôn giáo. ông cho
rằng: quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất tạo thành. Như vậy, theo ông vẫn
tồn tại mâu thuẫn đối lập nhau giữa cái thừa nhận có thiên mệnh nhưng đối với
quỷ thần lại xa lánh. Quan niệm thiên mệnh của Khổng Tử được Mạnh tử hệ
thốnghoá, xây dựng thành nội dung triết học duy tâm trong hệ thống tư tưởng triết
học của Nho giáo.

-

Nho giáo hạn chế vai trò của phụ nữ, trọng nam khinh nữ, phân bịêt đẳng cấp:
Do quan niệm của Nho giáo: phụ nữ chỉ được xếp vào hạng tiểu nhân. Họ không
đựơc học hành được thi cử. Họ bị phân biệt đối xử trong gia đình, phải nghe lời
chồng không được đối xử bình đẳng. Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của
nó đặc biệt phát triển mạnh. Khi đó, nó đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp
sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân
thực của con người.
Nho giáo coi kẻ có nhân là quân tử. Ở Khổng Tử, có sự phân biệt giữa quân tử và
tiểu nhân rất rạch ròi. Quân tử và tiểu nhân thời đó không chỉ mang ý nghĩa phân
biệt đẳng cấp. Sự đối lập giữa tiểu nhân và quân tử là sự đối lập giữa dân lao động


15

với tầng lớp quý tộc. Chữ nhân của Khổng Tử có nội dung quân tử nhưng là đòi
hỏi với người cầm quyền hay đẳng cấp thống trị phải coi dân là con người và
thương yêu họ. Chính sự phân biệt đẳng cấp đó cũng là nét đặc trưng của Nho

giáo. Trong xã hội phong kiến, có sự phân biệt rõ ràng giữa các tầng lớp quan lại,
Nho sĩ, dân thường.

PHẦN 3 : ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TỚI VIỆT NAM
I.

QUÁ TRÌNH DU NHẬP CỦA NHO HỌC VÀO VIỆT NAM.
Tiếp thu một học thuyết từ bên ngoài để làm lý luận hướng dẫn tư duy và hành
động cho dân tộc mình là một chân lý phổ biến, là một sự thực khách quan
của các thời đại, của các dân tộc. Thực tế này có căn cứ vững chắc trong sự
phát triển. Đó là sự phát triển không đồng đều của các dân tộc qua không gian
và thời gian. Ở cùng một thời đại, ta thường thâý ở một vùng này, có một dân
tộc hoặc một vài dân tộc khác cao hơn, nhanh hơn, mạnh hơn các dân tộc khác
ở xung quanh. Sự thực này ta có thể tìm thấy ở Châu á, Châu Phi, Châu Âu,
Châu Mỹ, ở thời xưa cũng như thời nay. Những dân tộc ở bất cứ đâu, bất cứ
thời nào muốn sống, muốn nâng cao mức sống của mình không thể không học
tập những dân tộc tiên tiến. Ta không hề thấy một dân tộc nào cứ chịu lạc hậu,
chịu áp bức bóc lột nghèo nàn để chờ sự sáng tạo của riêng mình không thèm
học tập những dân tộc tiến bộ hơn mình. Điều này đúng với khoa học tự nhiên
và kỹ thuật cũng như với khoa học xã hội. Vì thế chúng ta tiếp thu tư tưởng
văn hoá Trung Quốc là một điều tất yếu. Trong ý thức hệ phong kiến mà người
Hán đưa vào nước ta từ thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo lâu bền nhất và có ảnh
hưởng sâu sắc nhất. Phật giáo dần dần rút lui vào chùa chiền, lão giáo cũng
dần biến thành một thứ mê tín dị đoan mà các thầy phù thuỷ dùng làm kế sinh
nhai. Tư tưởng trị vì trong lĩnh vực chính trị và học thuật suốt 2000 năm là tư
tưởng Nho giáo. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân vô cùng
quan trọng là sức sống của dân tộc. Trong hoàn cảnh thời trước, nhất là từ khi
giành được nền tự chủ dân tộc Việt Nam muốn tồn tại thì phải chọn lấy một ý
thức hệ tích cực, quan tâm đến con người, đến cuộc đời, đến xã hội, đến vận



16

mệnh dân tộc. Nho giáo có nhiều hạn chế nhưng trong 3 ý thức hệ phong kiến
thì phải nói Nho giáo có nhiều nhân tố tích cực nhất. Do đó cha ông ta đã chọn
lấy Nho giáo.
Chúng ta đã biết, lúc đầu Nho giáo được đưa vào Việt Nam trong trường hợp
không hay ho gì. Nó bị bọn xâm lược đặt lên nhân dân ta với ý định gây cảnh
“đồng văn” để dễ “đồng hoá”. Nhưng khi đã làm quen với đạo Nho, chắc rằng
nhân dân ta thời đó thấy nó đáp ứng được nhiều vấn đề mà đời sống đặt ra,
nên khi giành được độc lập, nhân dân ta nói lấy nó làm nền tảng lý luận để chỉ
đạo tư duy và hành động của mình. Thế là từ chỗ bị ép học nó, nhân dân ta đã
tự nguyện học nó và ngày một phổ biến nó một cách rộng rãi. Vì thế những
người Việt Nam đầu tiên được giữ những chức vụ quan trọng dưới thời Bắc
thuộc như Lý Tiến, Lý Cầm - làm thái thú, thứ sứ - đều là những người học
thông kinh truyện, xuất thân từ khoa bảng. Ngay khi Ngô Quyền đánh bại
quân Nam Hán, giành được độc lập đã xây dựng thể chế quốc gia, đặt các nghi
lễ phẩm phục, chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, tức là tinh thần tôn ti
đẳng cấp. Các triều đại đầu tiên khi niên hiệu, tôn hiệu cũng đã thể hiện sự tin
tưởng màu sắc là lý thuyết mệnh trời như “ứng thiên”, “thuận thiên”, “Phụng
thiên”. Phần “Chiếu dời đô” của nhà Lý tuy đoạn còn lại với chúng ta rất ngắn,
cũng đượm mùi Nho giáo. Cái gương “nhà Thương, nhà Chu” cũng được nêu
lên, cái gương “kính vâng mạng trời” cũng được nhấn mạnh. Các triều đại sau:
Trần, Lê, Nguyễn thờ đạo Nho như thế nào thì sử sách đã nêu rõ.
II.
-

ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG VIỆT NAM.
Những nhu cầu xã hội giúp cho Nho giáo chiếm được địa vị độc tôn trong thời kỳ
phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam: Nho giáo Việt Nam chiếm được vị trí

độc tôn từ thế kỷ 15 và thịnh đạt nhất vào thời Lê Thánh Tông thì đó không phải
là một hiện tượng ngẫu nhiên. Bởi vì nó có liên hệ với những nhu cầu xã hội nước
ta lúc đương thời. Những nhu cầu này không chỉ tồn tại ở thế kỷ 15 mà đã sớm
xuất hiện từ trước ngay khi Nho giáo còn đang trên đà phát triển. Trong những
nhu cầu đó đáng kể trước hết là nhu cầu xây dựng và tổ chức bộ máy nhà nước


17

phong kiến trung ương tập quyền lớn mạnh và nhu cầu củng cố trật tự đã ổn định
của xã hội phong kiến. Ngay từ sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại ở thế kỷ X, việc
xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đã tỏ ra cần thiết cho
công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tuy nhiên dưới các triều đại
Ngô, Đinh, Tiền Lê việc xây dựng một nhà nước chủ thể mới chỉ làm được những
bước đầu tiên và chưa thực sự được đẩy mạnh, phải đợi đến thế kỷ XI với sự xác
lập của vương triều Lý thì nhà nước phong kiến tập quyền mới được xây dựng
một cách quy mô bề thế, với những tổ chức và thể chế trùng điệp của nó. Tiếp đó
là triệu đại nhà Trần, rồi đến Lê Lợi khi đã lãnh đạo cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc đi đến thắng lợi đều quan tâm tới việc củng cố chế độ phong kiến tập
quyền và xây dựng một bộ máy nhà nước trung ương hùng mạnh không kém gì
phương Bắc. Nhà nước phong kiến tập quyền Việt Nam ra đời là một sự phủ định
chính quyền của bọn phong kiến phương Bắc kéo dài trong 1000 năm Bắc thuộc.
Thế cho nên, khi xây dựng nhà nước tập quyền của mình, giai cấp phong kiến
Việt Nam phải tiếp thu những kinh nghiệm và nguyên tắc tổ chức của nhà nước
phong kiến tập quyền phương Bắc cùng với Nho giáo là cơ sở lý luận của Nhà
nước. Vả lại trong hoàn cảnh lịch sử bấy giờ chỉ có Nho giáo mới có thể giải đáp
được những vấn đề thiết thân đến việc củng cố nhà nước như vấn đề quân quyền,
quy định các chương lễ chế và cơ cấu hành chính từ triều đình đến địa phương...
Đó là những vấn đề mà bản thân phật giáo cũng như Lão giáo với toàn bộ hệ
thống lý thuyết của nó không hề có một sự giải đáp thích đáng nào cả. Cho nên

từ thế kỷ XV trở đi Nho giáo ngày càng được giai cấp phong kiến Việt Nam trọng
dụng thì đó cũng là điều dễ hiểu. Sự thực chứng tỏ rằng trong thời Lý, Trần, Nho
giáo đã bắt đầu được vận dụng một cách rõ rệt vào hoạt động thực tiễn nhằm củng
cố chính quyền nhà nước. Sau nữa, củng cố ở thời Lý, Trần và nhất là thời Lê sơ,
tôn ti trật tự của chế độ phong kiến tập quyền cùng với sự phân biệt rạch ròi về
quyền lợi và đẳng cấp của nó đã dần dần ổn định. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự
khẳng định về mặt lý luận. Vả lại vào cuối triều Lý và nhất là khi nhà Trần suy
vong, mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và đa số nhân dân đã lộ rõ, mầm phản


18

kháng của nhân dân chống lại cái trật tự khắc nghiệt của chế độ phong kiến đã trở
thành một sự nổi bật hơn cả những cuộc hỗn chiến giữa các tập đoàn thống trị.
Trong hoàn cảnh ấy giai cấp phong kiến Việt Nam muốn tăng cường bộ máy Nhà
nước và duy trì trật tự xã hội thì không thể không tìm đến cái đạo trị quốc bình
thiên hạ, cái lý thuyết chính danh định phận và lễ trị của Nho giáo. Quá trình phát
triển của chế độ trung ương tập quyền Việt Nam gắn liền với sự củng cố quyền
sở hữu của Nhà nước và sự bành trướng của sở hữu tư nhân về ruộng đất. Hầu hết
ruộng đất dù là ruộng công của làng xã hay ruộng của địa chủ đều được sử dụng
trong khuôn khổ sản xuất nhờ lấy gia đình làm đơn vị. Trong mỗi gia đình không
những cơ quan hôn nhân, huyết thống mà còn có cả quan hệ sở hữu, phân phối
sản phẩm, phân công lao động cho đến những quan hệ tinh thần. Tất cả những
quan hệ ấy chứng tỏ vai trò của người gia trưởng và tôn ti trật tự của gia đình có
một ý nghĩa rất lớn. Đó chính là cơ sở để Nho giáo dễ thâm nhập vào cuộc sống
bởi vì Nho giáo với các khái niệm hiếu, đễ, tiết, hạnh đã góp phần củng cố uy
quyền của người gia trưởng và tôn ti trật tự trong gia đình. Cuối cùng phải kể đến
nhu cầu phát triển văn hoá và giáo dục nước ta khi chế độ phong kiến tập quyền
đã bắt đầu, việc bổ sung quan lại bằng hai con đường “nhiệm tử” và “thủ sĩ”
không đủ mà cần phải bổ sung một phương thức đào tạo và tuyển lựa quan lại

mới. Phương thức này chỉ có thể phát triển giáo dục văn hoá và thực hiện chế độ
thi cử để tuyển lựa nhân tài. Lúc đương thời Phật giáo, Lão giáo không chỉ đảm
nhiệm công việc đó. Cho nên Nho giáo vốn có đầy đủ lý thuyết và quy chế về
giáo dục và khoa cử tất nhiên phải đảm đương nhiệm vụ lịch sử ấy. Tất nhiên
những nhu cầu xã hội nói trên mới chỉ là những cơ sở khách quan cho sự phát
triển Nho giáo ở nước ta mà thôi. Sự phát triển đó muốn trở thành hiện thực thì
phải thông qua hoạt động của những con người cụ thể, những lực lượng xã hội cụ
thể. Trong thực tế từ vua cho đến các đại thần nắm quyền chính trị dưới càng triều
Lý, Trần cũng như các thế hệ Nho sĩ đời sau đều đã nhận thức được vai trò cần
thiết của Nho giáo. Và đã tiến hành những bước truyền bá và sử dụng Nho giáo
trong xã hội Việt Nam.


19

III.

Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đối với xã hội Việt Nam.
1. Tích cực:

-

Sự phát triển của Nho giáo Việt Nam không tách rời những yêu cầu xã hội như
trên đã nói, cho nên trong buổi thịnh tự nhất, nó không khỏi có một số tác dụng
tích cực. Trước hết là cương vị độc tôn, Nho giáo đã có thêm nhiều sức mạnh và
uy thế tóp phần củng cố và phát triển chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu
mực cho việc chấn chỉnh và mở rộng nhà nước phong kiến tập quyền theo một
quy mô hoàn chỉnh có đầy đủ những thể chế và điều phạm. Mà ở thế kỷ XV, các
xu thế phát triển đó đã và đang giữ vai trò thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt
Nam trên các bình diện sản xuất và củng cố quốc phòng. Như đã biết, quá trình

đi lên của Nho giáo Việt Nam không tách rời yêu cầu phát triển nền kinh tế tiểu
nông gia trưởng dựa trên quyền sở hữu của giai cấp địa chủ của nhà nước và của
một bộ phận nông dân trực tiếp tự canh về ruộng đất. Vì thế cho nên khi chiếm
được vị trí chủ đạo trên vòm trời tư tưởng của chế độ phong kiến, Nho giáo càng
có điều kiện xúc tiến sự phát triển này. Nó làm cho sản xuất nông nghiệp và trao
đổi hàng hoá được đẩy mạnh hơn trước. Đồng thời Nho giáo đem lại một bước
tiến khá căn bản trong lĩnh vực văn hoá tinh thần của xã hội phong kiến nước ta
từ thế kỷ XV, trước hết nó làm cho nền giáo dục phát triển hết sức mạnh mẽ nhất
là dưới triều Lê Thánh Tông. Nền giáo dục ấy cùng với chế độ thi cử đã đào tạo
ra một đội ngũ tri thức đông đảo chưa từng thâý trong lịch sử chế độ phong kiến
Việt Nam. Do đó khoa học và văn học nghệ thuật phát triển. Hơn nữa sự thịnh trị
của Nho giáo từ thế kỷ XVcũng là một hiện tượng góp phần thúc đẩy lịch sử tư
tưởng nước ta tiến lên một bước mới. Là một học thuyết tích cực nhập thể, nó cổ
vũ và khuyến khích mọi người đi sâu vào tìm hiểu những quan hệ xã hội, những
vấn đề của thực tiễn chính trị, pháp luật và đạo đức. Do đó, nhận thức lý luận của
dân tộc ta về các vấn đề ấy cũng được nâng cao hơn. Dựa vào lịch sử của Nho
giáo, nhà vua và các Nho sĩ giải thích các vấn đề ấy có lập luận và có lý lẽ đầy đủ
hơn.


20

2. Tiêu cực
-

Nho giáo Việt Nam dù có lý do để tồn tại và phát triển thì cũng vẫn gắn liền với
giai cấp phong kiến địa chủ trong nước và là công cụ thống trị và tư tưởng của
giai cấp đó. Mà giai cấp địa chủ đó từ thế kỷ XV trở về trước tuy có một vai trò
nhất định nhưng vẫn là một giai cấp bóc lột đối với nhân dân. Và bất cứ một giai
cấp bóc lột nào ngay cả khi đang lên cũng mang theo những vết bùn nhơ và bàn

tay vấy máu của những người lao động.

-

Nho giáo với tư cách là vũ khí của giai cấp phong kiến Việt Nam dù cho có không
ít tích cực thì tác dụng tích cực đó cũng còn rất hạn chế. Thực ra, ngay ở thời kỳ
thịnh trị của nó, Nho giáo cũng đã có những mặt tiêu cực nghiêm trọng và chứa
đựng khả năng suy yếu sau này của nó. Nho giáo ở Việt Nam khi chiếm ở vị trí
độc tôn thì đã làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sáo phát triển mạnh
trong lĩnh vực tư tưởng và trong địa hạt giáo dục khoa học. Các quan lại, sĩ phu,
đều lấy thánh kinh, hiền truyện của Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho
mọi người suy nghĩ và hành động của mình, lấy cái xã hội thời Nghiêu Thuấn làm
khuôn mẫu cho mọi tình trạng xã hội, lấy những sự tích và điều phạm trong kinh,
thư, kinh xuân thu làm tiêu chuẩn để bình giá mọi sự việc. Bệnh giáo điều và
khuôn sáo này đã ăn sâu vào trong lĩnh vực khoa học và nghệ thuật nhất là trong
văn học và sử học khiến cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này bị dập vào những
cái khuôn sẵn có. Đó là một tật bệnh đã được rèn đúc ngay từ khi người Nho sĩ
phải mài dũa văn chương để tiến vào con đường cử nghiệp. Sự thịnh trị của Nho
giáo còn khuyến khích mọi người nhất là các phần tử tri thức đi sâu vào cải tạo
“tu tề trị bình” vào việc học hành, thi đỗ, dương danh thiên hạ. Vì vậy mà trong
thực tế, Nho giáo đã làm cho những người gia nhập tầng lớp Nho sĩ này xa rời
sinh hoạt kinh tế và lĩnh vực sản xuất xã hội, nó chỉ biết đề cao đạo tư thân và đạo
tự nước chứ không hề đếm xỉa đến các tri thức về khoa học tự nhiên cũng như về
các ngành sản xuất và lưu thông. Tính chất tiêu cực ấy của Nho giáo càng về sau
càng gây tác hại không nhỏ trong việc phát triển lực lượng sản xuất của xã hội.
Khi đã chiếm được địa vị thống trị trên vũ đài tư tưởng, Nho giáo Việt Nam không


21


tiếp tục đi sâu vào khám phá những vấn đề bản chất của đời sống và của vũ trụ,
vì mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác. Nó chỉ chú trọng đến những quan hệ
chính trị và đạo đức thực tế. Cho nên khi xã hội phong kiến rối loạn, vấn đề số
phận và yêu cầu giải phóng con người được đặt ra thì Nho giáo trở thành bất lực.
Nó không giải đáp được vấn đề ấy vì nó đã sớm bỏ con đường phát triển tư duy
trừu tượng. Hơn nữa, một khi Nho giáo chiếm vị trí độc tôn thì lễ chế của nó đặc
biệt phát triển mạnh. Khi đó nó bắt đầu đè nặng lên con người và bóp nghẹt nếp
sống giản dị, những quan hệ xã hội trong sáng, những tình cảm tự nhiên và chân
thực của suy sụp cùng với xã hội phong kiến thì nó trở nên phản động, cổ hủ và
lạc hậu
 Tóm lại bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, Nho giáo cũng đem lại không ít tác
động tiêu cực mà cho đến nay nó vẫn còn là nhân tố kìm hãm sự phát triển văn
hoá tại các vùng nông thôn Việt Nam.


22

KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu nội dung của chủ đề này, học viên phần nào hiểu thêm được nguồn
gốc và sự ra đời của Nho giáo, hệ tư tưởng của nó và ảnh hưởng của nó đến xã hội và
người dân nước ta, đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Một vấn đề quan trọng thấy
rõ nhất là việc xây dựng và hình thành nhân cách và tư duy của người Việt Nam trong
lịch sử và những biến chuyển của nó tới ngày nay với sự hỗ trợ của những giá trị đạo
đức nhân văn của Nho giáo.
Dù còn những khuyết điểm, hạn chê song chúng ta không thể nào phủ nhận những giá
trị đã mang lại từ hệ tư tưởng Nho gia về đạo đức, những thành quả trong giáo dục, kinh
tế, tác động vào đời sống xã hội, chính trị. Đặc trưng hướng nội của Nho gia giúp con
người suy nghĩ về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để không gây ra đau khổ,
bất hạnh cho người khác. Nó giúp con người sống thân ái, yêu thương nhau, xã hội yên
bình.

Như ta đã biết, Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì những tư tưởng bảo thủ, hủ Nho sẽ là những cản
trở không nhỏ cho quá trình chuyển đổi ấy. Mặc khác, Việt Nam hiện nay đang cất giữ
thể ổn định của xã hội, đó là điều mà Nho giáo đã theo đuổi hàng ngàn năm nay, mục
tiêu ổn định. Nho giáo đã suy tư rất nhiều về phương cách thực hiện mục tiêu ấy, Ta cần
tham khảo các vấn đề đó từ nhiều nguồn thông tin, trong đó có Nho giáo, nghiêng cứu
để vận dụng vào Việt Nam sao cho phù hợp với điều kiện đang có và phù hợp trong điều
kiện nước ta hiện nay. Vì vậy, nghiêng cứu những giá trị và hạn , những ảnh hưởng của
Nho gia là cực kì cần thiết.


23

Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo

1. Trần Trọng Kim ( 2003 ), Nho Giáo,nhà xuất bản văn học
2. Phan Đại Doãn (1998),Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam,học viện chính
trị quốc gia.
3. Bộ giáo dục và đào tạo (2015),Giáo trình triết học, nhà xuất bản chính trị
quốc gia.
4. Trần Trọng Kim (2015), Việt Nam Sử Lược, nhà xuất bản văn học.



×