Cơ sở hóa học tinh thể
NXB Đại học quốc gia Hà Nội 2006.
Tr 6 – 7.
Tài liệu trong Thư viện điện tử ĐH Khoa học Tự nhiên có thể được sử dụng cho
mục đích học tập và nghiên cứu cá nhân. Nghiêm cấm mọi hình thức sao chép, in
ấn phục vụ các mục đích khác nếu không được sự chấp thuận của nhà xuất bản và
tác giả.
Chương 0. Mở đầu
Trịnh Hân
Ngụy Tuyết Nhung
MỞ ĐẦU
Nội dung môn học
Căn cứ vào kết quả phân loại các chất kết tinh theo các tiêu chí về đặc điểm thành phần và
cấu trúc bên trong, vào kết quả nghiên cứu tính chất của chúng, hoá học tinh thể có nhiệm vụ góp
phần xử lí mối tương quan của thành phần hóa học và cấu trúc của tinh thể với tính chất của
chúng, nhằm giúp ngành vật liệu học, ngọc học, v.v... rút ra những luận điểm mang tính quy lu
ật
trong nghiên cứu chế tạo, hoặc xử lí chế tác nguyên liệu khoáng vật, làm ra những vật liệu mới
với tính năng định sẵn, hoặc những sản vật mới với giá trị thương phẩm cao.
Với tư cách là sản phẩm của tự nhiên, tinh thể khoáng vật luôn lưu giữ những dấu ấn của
các quá trình xảy ra sâu trong lòng đất. Khảo sát đặc điểm về thành phần và cấ
u trúc tinh thể của
khoáng vật trong sự phụ thuộc vào điều kiện (nhiệt độ và áp suất) thành tạo là một nội dung
nghiên cứu của địa chất.
Sơ lược lịch sử phát triển môn học
Một trong những người đặt nền móng cho hoá học tinh thể là Goldschmidt. Trong những
công trình về địa hoá học, ông đã quan tâm đặc biệt đến ý nghĩa của môn học này. Ông đã công
bố nhiều công trình ở Vi
ện Hàn lâm Khoa học Na Uy và năm 1954, sau khi ông qua đời, nhiều
công trình khác của ông được đăng tải trong tạp chí “Hoá học tinh thể”.
Trước khi trở thành môn học độc lập, hoá học tinh thể đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển.
− Haỹy R.Y. (1801) đã đề xuất ý tưởng cho rằng tất cả các hợp chất tương đồng về thành
phần hoá học thì sẽ kết tinh theo một đa diện tinh thể nhất đị
nh. Quy luật này được hiệu chỉnh
một phần bởi một vài phát kiến sau đó.
− Theo Wollaston W.H. (1808), một số hợp chất khác nhau về thành phần hoá học lại có
dạng tinh thể giống nhau. Ví dụ, calcit CaCO
3
, magnesit MgCO
3
và siderit FeCO
3
, chúng kết
tinh thành cùng một đa diện hình mặt thoi (gồm 6 mặt hình thoi bằng nhau).
− Mitscherlich E. (1819) cũng có phát hiện tương tự với cặp hợp chất KH
2
PO
4
và
KH
2
AsO
4
. Ông gọi đó là hiện tượng đồng hình (isomorphism).
Hình dạng đều đặn của tinh thể làm nảy sinh khuynh hướng tìm nguyên nhân trong sự sắp
xếp nguyên tử bên trong đa diện. Ngay từ năm 1675, Newton I. đã viết trong “Quang học” rằng
khi tinh thể thành tạo thì không những các hạt xếp ngay hàng thẳng lối để tạo đa diện đều đặn, mà
nhờ khả năng phân cực chúng còn tự xoay, hướng các đầu giống nhau về một phía.
− Ha
ỹy R.Y. (1784) đã làm thí nghiệm trên những tinh thể có cát khai (tính dễ tách giãn
thành tinh thể đa diện dưới tác dụng của lực cơ học) tốt và đi đến giả định rằng tinh thể của mỗi
chất hình thành từ những “phân tử” xếp song song và kề nhau. Phân tử của mỗi chất kết tinh có
dạng đa diện riêng.
− Năm 1813 Wollaston W.H. đề nghị thay “phân tử” của Haỹy bằng những nút điểm toán
học (chẳng hạn, điểm trọng tâm của “phân tử ”). Từ đó, khái niệm mạng không gian (tập hợp nút
điểm xếp theo một trật tự nhất định) ra đời, nhằm mô tả trật tự sắp xếp bên trong tinh thể. Đây là
quan điểm tiến bộ, bởi vì cho đến lúc đó chưa có phương pháp nào giúp nghiên cứu hình dạng hạt
(nguyên tử, phân tử). Đồng thời, ý tưởng ấy cho phép nghiên cứu khía cạnh hình học của sự đối
xứng trong mạng tinh thể.
− Chính từ đó, Bravais A. (1855) đã chứng minh
được 14 loại mạng không gian.
Năm 1890, Phedorov E.S. và Schoenflies A., mỗi người theo cách riêng, đã đi đến cùng
một kết quả về các tổ hợp yếu tố đối xứng trong mạng không gian. Chính sự ra đời của 230 nhóm
đối xứng không gian ấy (xem phụ lục 1) đã đặt nền móng lí thuyết về cấu trúc tinh thể cho hoá
học tinh thể hiện đại.
Từ năm 1912, những thực nghiệm đầu tiên của Laue M., Bragg W.H. và Bragg W.L.
đã giúp tìm ra năng lực mới của tia X là nhiễu xạ trong mạng tinh thể. (Trước đó tia X chỉ
được coi là bức xạ dùng xuyên thâu và công phá vật chất). Thế kỷ 20 chứng kiến sự chấn
hưng của hoá học tinh thể, lí thuyết hình học của cấu trúc tinh thể dần dần được củng cố
bằng hệ phương pháp phân tích cấu trúc tinh thể v
ới độ chính xác và tự động hóa ngày
càng cao. Cũng từ đó, dữ liệu thực tế của môn học ngày một tăng cường; hàng loạt chất
rắn được phân tích cấu trúc, bắt đầu từ đơn chất qua các hợp chất đơn giản, sang hợp kim,
silicat và hợp chất hữu cơ.
Ngoài nhiễu xạ Roentgen, các phương pháp thực nghiệm khác như nhiễu xạ điện tử,
quang phổ hồng ngo
ại, cộng hưởng từ hạt nhân v.v… cũng là những công cụ bổ trợ để
nghiên cứu cấu trúc tinh thể.