Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

ĐẦU tư TRỰC TIẾP nước NGOÀI tại VIỆT NAM 25 năm THU hút và PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (379.36 KB, 13 trang )

ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM: 25 NĂM
THU HÚT VÀ PHÁT TRIỂN

Đào Quang Thu
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Sau 25 năm thực hiện chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài với
việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài (ĐTNN) ngày càng phát huy vai trò quan trọng và có những đóng
góp đáng kể trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Việc thu hút, sử
dụng ĐTNN thời gian qua cơ bản đã đáp ứng những mục tiêu đề ra về thu hút
vốn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng năng suất lao động,
tiếp thu công nghệ và kinh nghiệm quản lý hiện đại. Điều này khẳng định chủ
trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển kinh tế, hội nhập
kinh tế quốc tế.
MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Thứ nhất, ĐTNN góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao hiệu
quả sử dụng các nguồn lực đầu tư trong nước
Tính đến tháng 8 năm 2012, cả nước có 14.095 dự án ĐTNN còn hiệu lực,
với tổng vốn đăng ký đạt 206,8 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đã giải ngân được
97,4 tỷ USD (chiếm 47% vốn đăng ký). ĐTNN là khu vực phát triển năng động
nhất với tốc độ tăng GDP cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước: năm 1995 GDP
của khu vực ĐTNN tăng 14,98% trong khi GDP cả nước tăng 9,54%; tốc độ này
tương ứng là 11,44% và 6,79% (2000), 13,22% và 8,44% (2005), 8,12% và
6,78% (2010). Tỷ trọng đóng góp của khu vực ĐTNN trong GDP tăng dần, từ 2%
GDP (1992), lên 12,7% (2000), 16,98% (2006) và 18,97% (2011).
Tác động của ĐTNN đối với tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ hơn thông qua:
Bổ sung cho tổng vốn đầu tư xã hội
Vốn ĐTNN thực hiện tăng nhanh qua các thời kỳ, từ khoảng 20,67 tỷ
USD, chiếm 24,32% tổng vốn đầu tư xã hội (1991 – 2000) lên 69,47tỷ USD,
chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư xã hội (2001 – 2011). Tỷ trọng khu vực ĐTNN


trong cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000 – 2011 tăng 5,4%.
Góp phần quan trọng vào xuất khẩu
Chủ trương khuyến khích ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho
Việt Nam trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu, qua đó giúp chúng ta từng
bước tham gia và cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Trước năm 2001,
xuất khẩu của khu vực ĐTNN chỉ đạt 45,2% tổng kim ngạch, kể cả dầu thô. Từ
năm 2003, xuất khẩu của khu vực này bắt đầu vượt khu vực trong nước và dần trở
9


thành nhân tố chính thúc đẩy xuất khẩu, chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch xuất
khẩu năm 2012.
ĐTNN góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng
giảm tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng
chế tạo1.
ĐTNN tác động tích cực tới việc mở rộng thị trường xuất khẩu nhất là
sang Hoa Kỳ, EU, làm thay đổi đáng kể cơ cấu xuất khẩu, đưa Hoa Kỳ trở thành
thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.
ĐTNN còn góp phần ổn định thị trường trong nước, hạn chế nhập siêu
thông qua việc cung cấp cho thị trường nội địa các sản phẩm chất lượng cao do
doanh nghiệp trong nước sản xuất thay vì phải nhập khẩu như trước đây.
Đóng góp vào nguồn thu ngân sách
Đóng góp của ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng, từ 1,8 tỷ USD (19942000) lên 14,2 tỷ USD (2001 – 2010). Năm 2012, nộp ngân sách của khu vực
ĐTNN (không kể dầu thô) là 3,7 tỷ USD, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách
(18,7% tổng thu nội địa, trừ dầu thô).
Thứ hai, ĐTNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH
Hiện nay, 58,4% vốn ĐTNN tập trung vào lĩnh vực công nghiệp - xây
dựng với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Tốc độ tăng
trưởng công nghiệp - xây dựng của khu vực ĐTNN đạt bình quân gần 18%/năm,
cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành. Đến nay, khu vực ĐTNN đã tạo ra gần

45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành một số ngành công
nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế biến dầu khí, điện
tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng...
ĐTNN đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu
một số công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao
đạt tiêu chuẩn quốc tế, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là
các dự án đầu tư vào phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán
canh tác và điều kiện hạ tầng yếu kém, lạc hậu ở một số địa phương.
Khu vực ĐTNN đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất lượng
cao như khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê,ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán,
tư vấn luật, vận tải biển, lô-gi-stíc, siêu thị... Các dịch vụ này cũng góp phần tạo
ra phương thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, kích thích hoạt động
thương mại nội địa và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.

1

Trước năm 2003, dầu thô chiếm tới gần một nửa xuất khẩu của khu vực ĐTNN. Từ năm 2007, tỷ lệ dầu thô
trong tổng kim ngạch xuất khẩu chỉ còn khoảng 7%.

10


Thứ ba, ĐTNN tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và
thay đổi cơ cấu lao động
Hiện nay khu vực ĐTNN tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3
- 4 triệu lao động gián tiếp, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng CNH-HĐH. Doanh nghiệp ĐTNN được xem là tiên phong trong
việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ của công nhân, kỹ
thuật viên, cán bộ quản lý, trong đó một bộ phận đã có năng lực quản lý, trình độ

khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Ngoài ra, ĐTNN
đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua hiệu
ứng lan tỏa lao động, cập nhật kỹ năng cho bên cung ứng và bên mua hàng.
Thứ tư, ĐTNN là kênh chuyển giao công nghệ quan trọng, góp phần
nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế
Khu vực ĐTNN sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên
tiến đã có trong nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Từ năm 1993 đến
nay, cả nước có 951 hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được phê duyệt/đăng
ký, trong đó có 605 hợp đồng của doanh nghiệp ĐTNN, chiếm 63,6%. Thông
qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực ĐTNN đã góp phần thúc đẩy
chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ
trong nhiều lĩnh vực. Xét về cấp độ chuyển giao công nghệ, công nghiệp chế
biến, chế tạo đạt hiệu quả cao nhất. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một số
ngành đã thực hiện tốt chuyển giao công nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông,
tin học, cơ khí chế tạo, ô tô, xe máy và dệt may, giày dép, trong đó viễn thông,
dầu khí được đánh giá có hiệu quả nhất.
Tác động lan tỏa công nghệ của khu vực ĐTNN được thực hiện thông qua
mối liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước,
qua đó tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước tiếp cận hoạt động chuyển giao
công nghệ. Nhìn chung, khu vực ĐTNN có tác động lan tỏa gián tiếp tới khu
vực doanh nghiệp sản xuất trong nước cùng ngành và doanh nghiệp dịch vụ
trong nước khác ngành. Bên cạnh đó, thông qua mối quan hệ với doanh nghiệp
ĐTNN, doanh nghiệp trong nước ứng dụng công nghệ sản xuất tương tự để sản
xuất sản phẩm/dịch vụ thay thế và sản phẩm/dịch vụ khác để tránh cạnh tranh.
Đồng thời có tác động tạo ra các ngành sản xuất, dịch vụ khác trong nước để hỗ
trợ cho hoạt động của các doanh nghiệp ĐTNN.
Thứ năm, ĐTNN có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp
độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm
Nhiều sản phẩm xuất khẩu Việt Nam đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng
vững chắc trên các thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Kết quả phân tích các chỉ

tiêu về vốn, công nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trường (đầu vào
và tiêu thụ sản phẩm) và năng lực tham gia mạng sản xuất toàn cầu cho thấy
11


năng lực cạnh tranh của khu vực ĐTNN cao hơn so với khu vực trong nước.
Đồng thời, khu vực ĐTNN đã và đang có tác động thúc đẩy cạnh tranh của khu
vực trong nước nói riêng và của nền kinh tế nói chung thông qua thúc đẩy năng
suất, tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, nâng cao trình
độ công nghệ, trình độ lao động và chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thứ sáu, ĐTNN góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị
doanh nghiệp, tạo thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Thực tiễn ĐTNN đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về công tác
quản lý kinh tế và doanh nghiệp, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc đẩy quá
trình hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, công khai, minh
bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế; đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý phù
hợp với xu thế hội nhập.
Thứ bảy, ĐTNN đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế
Hoạt động thu hút ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN,ký Hiệp
định khung với EU, Hiệp định Thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ và Hiệp định đối tác kinh tế
(EPA) với Nhật Bản và nhiều nước.
MỘT SỐ HẠN CHẾ
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài thời gian qua vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế cần phải khắc
phục trong thời gian tới, đó là:
Thứ nhất, hiệu quả tổng thể nguồn vốn ĐTNN chưa cao. Trong công
nghiệp – xây dựng, các dự án ĐTNN chủ yếu tập trung vào lắp ráp, giá trị gia
tăng thấp; có quá ít dự án về cơ sở hạ tầng; tỷ trọng dự án trong nông – lâm –

ngư nghiệp rất thấp và có xu hướng giảm dần trong khi đây là những ngành Việt
Nam có thế mạnh. Trong dịch vụ, các dự án bất động sản quy mô lớn còn cao
song nhiều trong số dự án này chậm triển khai, gây lãng phí về đất đai, vay vốn
trong nước. ĐTNN vào các dịch vụ trung gian, dịch vụ giá trị gia tăng cao, giáo
dục đào tạo, y tế, chăm sóc sức khỏe, môi trường… còn hạn chế.
ĐTNN hiện tập trung chủ yếu tại địa bàn có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ
tầng, nguồn nhân lực, thị trường tiêu thụ sản phẩm gây mất cân đối vùng miền,
không đạt được mục tiêu hướng ĐTNN vào địa bàn khó khăn. Các KKT, KCN,
KCNC không tạo ra lợi thế khác biệt cho từng địa phương và vùng lãnh thổ.
Đối tác đầu tư vào Việt Nam chủ yếu từ Châu Á, nhà đầu tư nước ngoài là
doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ cao. Hiện mới chỉ thu hút được trên 100
12


trong tổng số 500 tập đoàn xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Tỷ lệ vốn thực
hiện thấp so với vốn đăng ký, chỉ khoảng 47,2%.
Thứ hai, mục tiêu thu hút công nghệ (công nghệ cao và công nghệ
nguồn), chuyển giao công nghệ chưa đạt được như kỳ vọng
Trên 80% doanh nghiệp ĐTNN sử dụng công nghệ trung bình của thế
giới, 5-6% sử dụng công nghệ cao, 14% ở mức thấp và lạc hậu, cá biệt có trường
hợp sử dụng công nghệ lạc hậu. Chuyển giao công nghệ chủ yếu thực hiện theo
chiều ngang – giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, ít có những biến đổi về trình
độ và năng lực công nghệ. Do mặt bằng công nghệ sử dụng trong các dự án
ĐTNN chưa cao nên hiệu quả chuyển giao công nghệ theo chiều ngang còn hạn
chế. Không ít trường hợp nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng sơ hở của luật pháp,
yếu kém trong quản lý nhà nước để nhập khẩu vào Việt Nam máy móc, thiết bị
lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, khai tăng giá trị nhập khẩu và giá trị chuyển
giao công nghệ. Công nghệ thấp dẫn đến các doanh nghiệp tại Việt Nam chủ yếu
thực hiện việc gia công, một số doanh nghiệp được coi là công nghệ cao nhưng
những khâu sử dụng công nghệ cao lại không thực hiện ở Việt Nam. Hệ quả là

doanh nghiệp Việt Nam tạo ra gia trị gia tăng thấp, khó tham gia vào mạng sản
xuất toàn cầu.
Thứ ba, số lượng việc làm tạo ra chưa tương xứng, đời sống người lao
động chưa cao, tranh chấp và đình công có xu hướng gia tăng
Tỷ lệ việc làm mới do khu vực ĐTNN tạo ra không tương xứng (chỉ
chiếm 3,4% trong tổng số lao động có việc làm năm 2011). Thu nhập bình quân
theo tháng của người lao động ở khu vực doanh nghiệp ĐTNN chỉ cao hơn khu
vực doanh nghiệp tư nhân trong nước nhưng thấp hơn khu vực doanh nghiệp nhà
nước. Nhu cầu về nhà ở, đời sống văn hóa ở các khu tập trung nhiều lao động đã
trở nên bức xúc mà chưa đáp ứng được.
Từ năm 1995 đến nay, cả nước đã xảy là 4.142 cuộc đình công, trong đó
75,4% (3.122 cuộc) của doanh nghiệp ĐTNN, chủ yếu xảy ra tại doanh nghiệp
của Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản; tập trung ở ngành gia công, sử
dụng nhiều lao động như dệt may, cơ khí, điện tử, da giày xuất phát từ yêu cầu
về lợi ích của người lao động. Điều đáng nói là hầu hết các cuộc đình công
không tuân thủ theo đúng trình tự quy định của pháp luật mặc dù 70% số cuộc
đình công xảy ra ở doanh nghiệp có tổ chức công đoàn. Trên thực tế, tổ chức
công đoàn cơ sở còn nhiều hạn chế trong việc bảo đảm các quyền lợi cho người
lao động, đặc biệt là vấn đề thỏa thuận mức tiền lương và điều kiện lao động.
Thứ tư, hiệu ứng lan tỏa của khu vực ĐTNN sang khu vực khác của
nền kinh tế còn hạn chế, có dấu hiệu chèn lấn.

13


Mặc dù doanh nghiệp trong nước được hưởng lợi từ ĐTNN chủ yếu thông
qua tác động mở rộng thị trường, nhưng từ năm 2007 (Việt Nam chính thức
tham gia WTO) đến nay, doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ trong nước ở một số
lĩnh vực đã chịu tác động chèn lấn của doanh nghiệp ĐTNN.
Thứ năm, một số dự án được cấp phép nhưng chưa bảo đảm tính bền

vững, gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng, tài nguyên, chưa chú ý
đầy đủ tới an ninh quốc phòng.
Quy định về môi trường của Việt Nam áp dụng chuẩn của các nước phát
triển, song việc thẩm định chỉ mang tính hình thức, tập trung nhiều vào khâu tiền
kiểm, dẫn đến nhiều dự án khi triển khai đã vi phạm nghiêm trọng quy định về
môi trường, gây tác động lâu dài tới sức khỏe người dân và hệ sinh thái khu vực.
Không ít dự án nhập khẩu máy móc, thiết bị lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường
không được phát hiện kịp thời. Có chiều hướng dịch chuyển dòng ĐTNN tiêu
tốn năng lượng và tài nguyên, nhân lực, không thân thiện với môi trường, vào
Việt Nam nhưng nhiều địa phương không có cơ chế kiểm soát về môi trường.
Một số dự án chiếm giữ đất lớn nhưng không triển khai gây lãng phí tài nguyên.
Một số trường hợp thu hút đầu tư chưa tính đến hiệu quả tổng thể cả về an
ninh quốc phòng, nhất là các dự án trồng rừng, khai thác khoáng sản, nuôi trồng
thủy, hải sản ở vùng nhạy cảm về an ninh quốc phòng, một số dự án sử dụng
nhiều lao động phổ thông nước ngoài.
Thứ sáu, có hiện tượng chuyển giá, trốn thuế.
Một số doanh nghiệp ĐTNN có biểu hiện áp dụng các thủ thuật chuyển
giá tinh vi như nâng khống giá trị góp vốn (bằng máy móc, thiết bị, bản
quyền…), giá trị mua bán nguyên vật liệu đầu vào, bán thành phẩm, thành
phẩm, dịch vụ, phí quản lý, tiền bản quyền, chi phí bảo lãnh, cho vay, trả lương,
đào tạo, quảng cáo, nhà thầu, chuyển nhượng vốn … tạo nên tình trạng lỗ giả, lãi
thật, gây thất thu ngân sách, làm cho đa số bên Việt Nam phải rút khỏi liên
doanh, doanh nghiệp trở thành 100% vốn nước ngoài.
NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ
Thứ nhất, chưa chuẩn bị tốt tiền đề thu hút ĐTNN: Kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, hệ thống doanh nghiệp trong nước…chuẩn bị chưa tốt dẫn đến
giảm khả năng hấp thụ, cũng như hiệu quả của ĐTNN.
Thứ hai hệ thống luật pháp,chính sách liên quan đến đầu tư còn bất
cập, chồng chéo, chưa đảm bảo yêu cầu quản lý nhà nước. Khi xây dựng khung
pháp lý chung áp dụng cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, chưa tính hết

tính đặc thù của ĐTNN. Một số đạo luật chuyên ngành (thuế, kinh doanh bất động
sản, xây dựng, giáo dục…) quy định cả thủ tục đầu tư, gây chồng chéo và không
thống nhất với Luật Đầu tư. Nhiều thủ tục quy định theo hướng đơn giản, nhưng
14


chưa tính đến yêu cầu quản lý nhà nước; thiếu hàng rào kỹ thuật để sàng lọc dự
án và nhà đầu tư khi Việt Nam tham gia WTO.
Chính sách ưu đãi đầu tư chưa phù hợp, chưa đủ hấp dẫn nhà đầu tư đối
với những ngành, lĩnh vực cần khuyến khích đầu tư; chưa có tính đột phá; thiếu
linh hoạt; tồn tại nhiều Danh mục lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư khác nhau,
thiếu nhất quán.
Chính sách về lao động, quan hệ lao động còn một số bất cập. Chính sách
tiền lương hay thay đổi nhưng không có lộ trình. Quy định mức lương tối thiểu
thấp là một trong những nguyên nhân dẫn đến đình công. Nhưng khi Nhà nước
tăng mức lương tối thiểu phù hợp với điều kiện sinh hoạt thực tế của người lao
động thì tạo áp lực tăng chi phí đầu vào cho nhà đầu tư.
Thu hút và chuyển giao công nghệ chưa đạt được mục tiêu. Nguyên nhân
chủ yếu là do Việt Nam chưa đủ hấp dẫn các nhà đầu tư có công nghệ cao, công
nghệ nguồn. Bên cạnh đó, chính sách về thu hút công nghệ còn nhiều bất cập
(chính sách ưu đãi chưa đủ sức hấp dẫn; quy định về Danh mục công nghệ cao
được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được
khuyến khích phát triển khó thực hiện…). Ngoài ra, còn phải kể đến nguyên
nhân khách quan là bí quyết kỹ thuật, công nghệ riêng thường không chuyển
giao thông qua hình thức mua bán bản quyền mà thông qua nhượng quyền hoặc
các hình thức khác.
Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường chưa đầy đủ, thiếu
đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập;
quản lý nhà nước về môi trường thiên về tiền kiểm (nhà đầu tư phải thực hiện
báo cáo đánh giá tác động môi trường trước khi thực hiện quy trình đầu tư đối

với các dự án thuộc diện phải đánh giá tác động môi trường), chưa chú trọng đến
hậu kiểm; thiếu chế tài xử lý nghiêm minh.
Thứ ba, quản lý nhà nước về ĐTNN chưa đạt yêu cầu
Công tác quy hoạch còn bất cập, thể hiện ở việc thiếu một số quy hoạch
ngành, quy hoạch sản phẩm; chất lượng quy hoạch chưa cao do thiếu tính dự báo
dài hạn và thiếu tính liên kết vùng, liên kết ngành hàng; việc xây quy hoạch
nhưng chưa tính đến năng lực sản xuất trong nước và của ĐTNN, dẫn đến các quy
hoạch còn dàn trải, hiệu quả tương hỗ thấp.
Thực hiện việc phân cấp đầu tư chưa phù hợp với tình hình thực tế,
Phân cấp đầu tư “đại trà, dàn đều” chưa tính đầy đủ đến đặc thù của địa
phương về năng lực quản lý, trình độ cán bộ, quy mô nền kinh tế địa phương…
Tình trạng cạnh tranh trong thu hút ĐTNN dẫn đến một số địa phương cấp
phép cho các dự án tiềm ẩn gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn năng lượng sử
15


dụng và khai thác tài nguyên không hiệu quả, chưa chú ý đầy đủ tới an ninh
quốc phòng, không tính đến chất lượng, lợi ích quốc gia.
Phân cấp trong bối cảnh luật pháp chính sách còn chồng chéo, thiếu quy
hoạch ngành, quy hoạch chi tiết, cụ thể và đồng bộ; thiếu nội dung phân cấp phù
hợp với đặc thù của từng địa phương, vùng lãnh thổ.
Chưa làm tốt cơ chế hướng dẫn, kiểm tra, giám sát, cùng với việc quy kết
trách nhiệm, chế tài xử lý nghiêm những vi phạm liên quan đến phân cấp; cơ chế
báo cáo, trao đổi thông tin giữa trung ương – địa phương, giữa các bộ, ngành.
Quản lý nhà nước về XTĐT còn hạn chế, phương thức XTĐT chưa được
điều phối hiệu quả và thông suốt từ trung ương tới địa phương, có tình trạng
nhiều đoàn XTĐT tại một địa bàn vào cùng khoảng thời gian gần nhau, gây lãng
phí nguồn lực, làm ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh quốc gia; trong quá trình
XTĐT một số ngành, lĩnh vực mà ta có nhu cầu lại chưa được quan tâm (giáo
dục – đào tạo, dạy nghề, y tế, dự án công nghệ cao...), cơ quan chuyên ngành

chưa thực sự quan tâm, từ khâu xây dựng danh mục dự án đến khâu phối hợp tổ
chức vận động XTĐT.
Hình thức XTĐT tại chỗ (hỗ trợ các nhà đầu tư đang hoạt động), xây
dựng trang web, tài liệu XTĐT chưa phát huy được hiệu quả tối đa. Nội dung
các hoạt động XTĐT chưa mang tính trọng điểm, liên ngành, liên vùng. Công
tác nghiên cứu về dòng ĐTNN, xu hướng của các đối tác, các tập đoàn xuyên
quốc gia chưa được chú trọng. Kinh phí dành cho hoạt động XTĐT còn hạn chế.
Hoạt động của các đại diện XTĐT tại nước ngoài mới được triển khai, còn
gặp nhiều khó khăn (nhân lực, cơ sở vật chất, phương tiện, kinh phí...), nhiều địa
bàn tiềm năng nhưng chưa có đại diện XTĐT (Anh, Nam Phi, Trung Quốc, Nga,
Myanmar, Campuchia...).
Quản lý nhà nước đối với ĐTNN còn nặng về khâu cấp phép. Khi số
lượng dự án được cấp phép tăng, các vấn đề thực tiễn phát sinh ngày càng nhiều,
đã dẫn đến tình trạng lúng túng trong quá trình xử lý vướng mắc.
Một số bộ, ngành, địa phương chưa kịp thời ban hành các hướng dẫn, tiêu
chí, hàng rào kỹ thuật hợp lý, phù hợp với thông lệ quốc tế trong từng ngành,
lĩnh vực, đặc biệt là đối với một số ngành sau khi Việt Nam gia nhập WTO
(trong đó có một số ngành nghề mới chưa có tại Việt Nam). Trong khi đó, chính
sách thuế chưa được điều chỉnh kịp thời đã dẫn đến không kiểm soát được một
số ngành (dịch vụ đơn giản, quy mô nhỏ…) do mở cửa, không giữ chân được
các doanh nghiệp FDI thực hiện chức năng sản xuất (xu hướng doanh nghiệp
chuyển từ chức năng sản xuất sang kinh doanh thương mại, dịch vụ) gây ảnh
hưởng đến sản xuất và thị trường trong nước, cũng như khó khăn trong việc cấp
GCNĐT và công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan. Bên cạnh đó,
16


một số bộ, ngành chưa thực hiện công bố công khai, minh bạch điều kiện đầu tư
trong từng ngành theo quy định; lúng túng trong việc xác định các điều kiện đầu
tư trong lĩnh vực quản lý, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang đàm phán mở

cửa thị trường đầu tư.
Các bộ, ngành chưa cập nhật, nắm bắt thông tin trong phạm vi quản lý
chuyên ngành (vốn vay, lao động, môi trường, khoa học công nghệ, công nghiệp
hỗ trợ…). Điều này một mặt dẫn đến khó khăn cho chính bộ chuyên ngành trong
việc quản lý, điều hành, phân tích và dự báo về tình hình trong phạm vi mình
phụ trách, mặt khác, gây khó khăn cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong việc tổng
hợp chung về tình hình đầu tư, cũng như khó khăn cho cả địa phương trong quá
trình thực thi.
Năng lực phản ứng chính sách ở các cấp còn yếu, nên chậm luật hóa vấn
đề bức xúc nảy sinh trong thực tiễn (như chuyển giá, vi phạm quy định về môi
trường, gian lận thương mại...) dẫn đến hiệu quả chưa cao.
GIẢI PHÁP CHO GIAI ĐOẠN TỚI
Để phát huy hơn nữa vai trò tích cực đồng thời khắc phục những hạn chế
của đầu tư nước ngoài, trên cơ sở những định hướng cho giai đoạn mới, thời
gian tới, chúng ta cần tập trung vào một số giải pháp chủ yếu sau đây:
Giữ vững ổn định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, mở rộng thị
trường để tạo ưu thế về quy mô thị trường, tập trung khắc phục bất cập về cơ sở
hạ tầng, nguồn nhân lực, phát triển hệ thống doanh nghiệp trong nước, cải thiện
môi trường kinh doanh là những giải pháp căn bản, mang tính quyết định đến
việc thu hút và hiệu quả của ĐTNN. Đối với giải pháp liên quan đến ĐTNN,
trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung sau:
1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư
Để xử lý các bất cập về sự không thống nhất giữa Luật Đầu tư và pháp
luật về đầu tư, cũng như Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, đề nghị:
- Tổng rà soát toàn bộ hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư, đồng thời
kiến nghị phương án xử lý nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh đồng bộ, rõ
ràng và đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
- Khẩn trương thực hiện dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) và Luật Doanh
nghiệp (sửa đổi) để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 (2013) và thông qua tại kỳ
họp thứ 7 (2014).

- Nghiên cứu, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng một số cam kết chưa
có cách hiểu thống nhất.

17


2. Sửa đổi một cách căn bản chính sách ưu đãi và cơ quan xây dựng
chính sách ưu đãi đầu tư, theo hướng:
Trong thời gian trước mắt, sửa đổi chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với
định hướng thu hút ĐTNN đến năm 2020, đồng thời đảm bảo tính hấp dẫn, cạnh
tranh so với các nước trong khu vực.
Về dài hạn, cần thay đổi một cách căn bản việc xây dựng chính sách ưu
đãi đầu tư theo hướng:
- Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ chuyên
ngành, địa phương xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư (thuế, đất đai, xuất nhập
khẩu…) nhằm đảm bảo tính thống nhất và xuyên suốt với định hướng thu hút
đầu tư và các hỗ trợ khác ngoài hàng rào, trong hàng rào, bảo lãnh, đào tạo…
- Chính sách ưu đãi được xây dựng trên nguyên tắc hậu kiểm có điều kiện
và thời hạn, thay vì phương thức tiền kiểm như hiện nay với định hướng là tập
trung ưu tiên vào ngành, lĩnh vực cần phát triển, vào các dự án đầu tư trong
KCN, KKT.
- Bên cạnh hệ thống ưu đãi chuẩn, cần quy định thêm cơ chế ưu đãi thỏa
thuận để áp dụng đối với các dự án đặc thù. Thủ tướng Chính phủ quyết định
mức ưu đãi thỏa thuận trên cơ sở ý kiến đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (sau
khi tổng hợp ý kiến của các bộ chuyên ngành).
- Để có cơ sở xem xét, quyết định ưu đãi thỏa thuận một cách rõ ràng,
minh bạch, tránh cơ chế “xin cho” cũng như giám sát thực hiện đối với các dự
án này, cần nghiên cứu xây dựng bộ tiêu chí (công nghệ cao, giá trị gia tăng, liên
kết, đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, sử dụng công nghệ xanh, đóng góp cho
ngân sách…) thay vì chỉ dựa vào tiêu chí lĩnh vực và địa bàn như hiện nay.

3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế phân cấp trong quản lý ĐTNN theo
hướng phát huy quyền chủ động của địa phương, đồng thời đảm bảo tập trung
thống nhất, hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước, đặc biệt là đối với các dự án
thuộc thẩm quyền quyết định của Quốc hội và của Thủ tướng Chính phủ; dự án
có tầm ảnh hưởng lan tỏa vùng; dự án thực hiện trên địa bàn từ 2 tỉnh trở lên; dự
án được hưởng ưu đãi đầu tư theo cơ chế thỏa thuận…
Các bộ, ngành tiến hành tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện việc phân
cấp quản lý hoạt động đầu tư trong lĩnh vực quản lý của bộ, ngành mình (môi
trường, lao động, công nghệ, xuất nhập khẩu, tài chính...), từ đó đề xuất giải
pháp khắc phục bất cập và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Trên cơ sở mục tiêu và định hướng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011-2020, Kế hoạch phát triển kinh tế -xã hội 5 năm 2011-2015 của cả nước và
của các ngành, các địa phương và định hướng ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ
nêu trên và cam kết quốc tế, các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, điều
18


chỉnh, sửa đổi quy hoạch ngành, sản phẩm, vùng lãnh thổ; công bố các điều kiện
đầu tư theo quy định tại pháp luật về đầu tư.
Các cấp có thẩm quyền chịu trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ
đúng quy hoạch đối với các dự án khi cấp GCNĐT. Đối với các dự án nằm
ngoài quy hoạch, phải lấy ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và bộ quản lý
ngành và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
Kiên quyết đình chỉ đối với những dự án đã được cấp hoặc điều chỉnh Giấy
chứng nhận đầu tư mà không phù hợp với quy hoạch, quy trình, thủ tục… Cơ quan
cấp Giấy chứng nhận đầu tư có trách nhiệm xử lý các vấn đề phát sinh.
4. Đổi mới công tác XTĐT theo hướng:
- Tăng cường thống nhất điều phối các hoạt động xúc tiến đầu tư ở trong
nước và nước ngoài. Chương trình XTĐT của Bộ, ngành và địa phương chỉ được
thực hiện sau khi thống nhất với Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư về nội dung,

thời gian, địa điểm tổ chức. Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư ban hành tiêu
chí xây dựng kế hoạch XTĐT hàng năm, làm cơ sở cho các bộ, ngành và địa
phương xây dựng chương trình, kế hoạch XTĐT của mình.
- Nội dung XTĐT phải đảm bảo nguyên tắc XTĐT theo vùng và liên vùng,
có trọng tâm, trọng điểm, mang tầm quốc gia, chuyên đề theo lĩnh vực chuyên sâu
bám theo chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, phù hợp với định hướng ĐTNN, gắn với
thị trường, đối tác cụ thể và đáp ứng sự quan tâm của nhà đầu tư.
- Bố trí kinh phí đủ mức để tập trung hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ
thống trang web về ĐTNN và tài liệu XTĐT.
- Đánh giá hoạt động của các đại diện XTĐT tại các cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngoài trong thời gian qua để kiến nghị điều chỉnh, bổ sung cho phù
hợp với tình hình thực tế. Có cơ chế bố trí kinh phí hợp lý để đảm bảo hoạt động
hiệu quả của các đại diện XTĐT ở nước ngoài.
- Tập trung hỗ trợ dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư đang triển
khai hoạt động thuận lợi và có hiệu quả (XTĐT tại chỗ) nhằm thông qua các nhà
đầu tư này để quảng bá hình ảnh về môi trường đầu tư Việt Nam.
5. Hoàn thiện nội dung và quy trình cấp GCNĐT
- Bổ sung nội dung thẩm tra dự án (thẩm tra theo quy hoạch ngành, thẩm tra
năng năng lực tài chính và kinh nghiệm đối với dự án có quy mô lớn, tác động xã
hội; thẩm tra về công nghệ, môi trường, loại đất và quy mô sử dụng đất);
- Nghiên cứu việc thực hiện cấp Giấy chứng nhận đầu tư theo 2 bước.
Bước 1: cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Theo đó, khi nhà đầu tư nộp hồ sơ
đăng ký đầu tư thì nhà đầu tư cam kết tuân thủ các quy định pháp luật. Bước 2:
cấp Giấy chứng nhận đầu tư chính thức sau khi nhà đầu tư đã hoàn thành hoặc
19


hoàn thành xây dựng và lắp đặt thiết bị của từng giai đoạn dự án đầu tư, có xác
nhận của tổ chức kiểm toán hoặc tổ chức giám định có thẩm quyền.
- Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch ngành/lĩnh vực, công bố công khai các

quy hoạch theo vùng và địa phương, ban hành các tiêu chí đối với một số ngành,
lĩnh vực, đặc biệt là đối với các ngành nằm trong cam kết WTO; công bố các
điều kiện đầu tư trong từng ngành để làm cơ sở cho việc cấp GCNTĐT, ban
hành tiêu chuẩn đối với một số sản phẩm, điều kiện về máy móc, thiết bị và môi
trường đối với một số ngành (khai thác khoáng sản...), suất đầu tư/diện tích đất
sử dụng đối với một số dự án sử dụng nhiều đất..., xây dựng các điều kiện, tiêu
chuẩn và yêu cầu về công nghệ xây dựng, tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng
lượng sạch, năng lượng tái tạo... đối với các dự án, trong đó có dự án xây dựng
bất động sản, gồm khách sạn, văn phòng, khu du lịch, khu nghỉ dưỡng, khu đô
thị mới, văn bản pháp quy liên quan đến quản lý, vận hành, giám sát hoạt động
của khu vực ĐTNN.
- Đối với các dự án ĐTNN khai thác nguồn tài nguyên, cần phải thận
trọng trong việc chọn nhà đầu tư gắn khai thác với chế biến sâu, tạo ra giá trị gia
tăng cao bằng công nghệ, thiết bị hiện đại và hệ thống xử lý môi trường để sử
dụng nguồn tài nguyên có hiệu quả.
- Tiếp tục hoàn thiện quy định nhằm kiểm soát công nghệ và môi trường.
6. Xem xét điều chỉnh các rào cản đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài đối
với một số ngành dịch vụmà Việt Nam đang có nhu cầu, đồng thời xây dựng rào
cản kỹ thuật phù hợp với cam kết quốc tế để lựa chọn dự án.
7. Tăng cường hỗ trợ nhà đầu tư và quản lý sau cấp phép
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Hệ thống thông tin quốc gia về ĐTNN,
được nối mạng với cơ quan trung ương, địa phương, doanh nghiệp ĐTNN.
- Tập trung hỗ trợ các dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Trong
khi đầu tư mới chưa thể tăng nhanh thì cần tập trung hỗ trợ, tạo điều kiện thuận
lợi cho dự án đã được cấp phép đi vào sản xuất kinh doanh, tăng vốn giải ngân và
mở rộng sản xuất.
- Cơ quan quản lý nhà nước thực hiện đầy đủ chức năng hậu kiểm theo
chức năng, đặc biệt lưu ý đến các vấn đề chuyển giá, môi trường, gian lận đầu
tư... Hoàn thiện quy định của pháp luật về thanh lý, phá sản... để xử lý dứt điểm
dự án không triển khai thực hiện, dự án nhà đầu tư bỏ trốn để tạo cơ hội cho nhà

đầu tư mới.
Tăng cường sử dụng các công cụ giám sát như báo cáo tài chính đã được
kiểm toán; cơ chế giám định, định giá... để nâng cao hiệu quả công tác giám sát
hoạt động đầu tư.
20


- Tăng cường cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các bộ, ngành, địa
phương để giải quyết những vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.
8. Các cơ quan quản lý nhà nước định kỳ đánh giá hoạt động đầu tư
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì đánh giá tổng thể hoạt động ĐTNN tại
Việt Nam (đánh giá hàng năm, theo giai đoạn).
- Các bộ, ngành chịu trách nhiệm đánh giá về hoạt động ĐTNN theo
chuyên ngành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm đánh giá về hoạt động ĐTNN trên địa bàn.
9. Tăng cường năng lực cho cán bộ về ĐTNN
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây
dựng chương trình đào tạo cho cán bộ về ĐTNN nhằm nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ và cập nhật các quy định của pháp luật liên quan đến đầu tư,
cam kết quốc tế liên quan đến đầu tư.

21



×