Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu một số loài động vật thân mềm sống bám, đục trên cây ngập mặn và khả năng quản lý giảm thiểu tác hại (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.87 KB, 27 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM



HOÀNG THỊ THÙY DƯƠNG

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ LOÀI ĐỘNG VẬT THÂN MỀM
SỐNG BÁM, ĐỤC TRÊN CÂY NGẬP MẶN
VÀ KHẢ NĂNG QUẢN LÝ GIẢM THIỂU TÁC HẠI

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP

Chuyên nghành: Bảo vệ thực vật
Mã số: 62 62 01 12

HÀ NỘI, 2016


Công trình được hoàn thành tại:
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TS Nguyễn Văn Tuất
Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam
2. PGS.TS Nguyễn Đăng Hội
Viện Sinh thái Nhiệt đới
Phản biện 1:


Phản biện 2:
Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án phiên chính thức
tại Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi ..... giờ ..... ngày ..... tháng ..... năm 2016

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Thư viện Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam


1

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Vai trò to lớn của rừng ngập mặn (RNM) đối với tự nhiên và con
người đã được biết đến như chống xói mòn đất, hạn chế ảnh hưởng thiên
tai, là nơi sinh kế của người dân, là bãi đẻ và là môi trường sống của nhiều
loài sinh vật biển,… Mối đe dọa suy giảm diện tích RNM trên thế giới và
nước ta đến từ nhiều nguyên nhân, lý do khác nhau, trong đó có nguyên
nhân của biến đổi khí hậu toàn cầu, con người chặt phá rừng, ô nhiễm môi
trường,…Từ rất sớm, Đảng và nhà nước ta có chủ trương phát triển diện
tích RNM trên toàn quốc, công việc trồng rừng được thực hiện tại các địa
phương ven biển. Một số vấn đề khó khăn, hạn chế trong trồng rừng đã
được nêu ra như nhận thức của người dân địa phương chưa đầy đủ về tác
dụng to lớn của rừng ngập mặn, cây trồng không thích nghi trong điều kiện
được trồng, môi trường ô nhiễm,…
Thực tế khảo sát điều tra kéo dài nhiều năm, tập trung vào 2009 –

2015 thấy rằng, ảnh hưởng của động vật thân mềm (ĐVTM) đến sự sống
của cây ngập mặn là một vấn đề cần được quan tâm chặt chẽ và là một
trong các yếu tố làm suy giảm sự phát triển của RNM cả về diện tích và
chất lượng.
Động vật thân mềm rừng ngập mặn rất đa dạng và phong phú, chúng
bao gồm các loài thuộc lớp hai mảnh vỏ, một tấm vỏ, chân bụng, chân
đầu,... Do đặc điểm phân bố rộng, có vai trò quan trọng trong tự nhiên và
trong đời sống con người, ĐVTM đã được rất nhiều nhà khoa học trên thế
giới quan tâm nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau như nghiên cứu về
phân loại, sinh học, sinh thái,...
Ở Việt Nam, ĐVTM cũng đã được quan tâm nghiên cứu và có những
kết quả đáng ghi nhận về các lĩnh vực: điều tra phân loại, thành phần loài;
sinh học, sinh thái; nghiên cứu đa dạng sinh học và nguồn lợi; thức ăn và
dinh dưỡng; sản xuất giống và nuôi. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề
nghiên cứu về ĐVTM thân mềm gây hại trên cây ngập mặn còn rất hạn
chế và chưa có nghiên cứu đầy đủ nào được công bố.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn trên, đề tài luận án “Nghiên
cứu một số loài động vật thân mềm sống bám, đục trên cây ngập mặn và
khả năng quản lý giảm thiểu tác hại” đã được thực hiện.
2. Mục tiêu, yêu cầu của đề tài
2.1. Mục tiêu
Xác định được các loài động vật thân mềm sống gây hại trên cây ngập
mặn: nghiên cứu đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của chúng và đề xuất
giải pháp quản lý nhằm giảm thiểu nguy cơ tác hại của động vật thân mềm
đối với cây ngập mặn.
2.2. Yêu cầu
- Điều tra xác định thành phần loài động vật thân mềm ở một số khu
vực rừng ngập mặn điển hình của Việt Nam.
- Xác định loài động vật thân mềm có gây hại đối với cây ngập mặn.



2

- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của một
số loài động vật thân mềm gây hại.
- Nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của động vật thân mềm đối với
cây rừng ngập mặn.
- Đề xuất các biện pháp quản lý giảm thiểu tác hại của động vật thân
mềm trên cây ngập mặn.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Xác định được thành phần loài động vật thân mềm chủ yếu ở 3 khu
vực rừng ngập mặn VQG Cát Bà, VQG Côn Đảo, Khu DTSQ Cần Giờ.
- Cung cấp dẫn liệu về một số đặc điểm sinh vật học, sinh thái học
của ĐVTM trong rừng ngập mặn và phương thức gây hại của chúng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Các kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho việc xây dựng biện
pháp quản lý tổng hợp đối với ĐVTM trong điều kiện chúng có khả năng
và nguy cơ gây hại, góp phần bảo vệ, phát triển rừng ngập mặn hiệu quả,
bền vững.
- Góp phần bảo tồn, khai thác các loài ĐVTM có ích phục vụ kinh tế
rừng ngập mặn, phòng tránh rủi ro, thiệt hại trong quá trình phát triển rừng
ngập mặn, nhất là ở các vùng trồng mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Động vật thân mềm (Mollusca), có miệng nguyên sinh
(Protostomia), Phân giới động vật đa bào (Metazoa) và thuộc nhóm Động
vật không xương sống (Invertebrate).
- Các loài cây ngập mặn thuộc rừng ngập mặn VQG Cát Bà, VQG
Côn Đảo và Khu DTSQ Cần Giờ

4.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thành phần loài động vật thân
mềm gây hại tại khu vực rừng ngập mặn VQG Cát Bà, VQG Côn Đảo và
Khu DTSQ Cần Giờ; nghiên cứu đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của
ĐVTM; đề xuất các biện pháp quản lý nhằm giảm thiểu tác hại của động
vật thân mềm gây ra đối với cây ngập mặn.
5. Những đóng góp mới của luận án:
- Xây dựng được danh lục thành phần loài động vật thân mềm khu vực
rừng ngập mặn VQG Cát Bà, VQG Côn Đảo, khu DTSQ Cần Giờ.
- Phát hiện được 4 loài động vật thân mềm gây hại trên cây ngập mặn tại
khu vực rừng ngập mặn VQG Cát Bà, VQG Côn Đảo, khu DTSQ Cần Giờ
và nghiên cứu các đặc điểm sinh vật học, sinh thái học động vật thân mềm
sống bám, gây hại trên cây ngập mặn
- Đề xuất các biện pháp nhằm giảm thiểu tác hại của động vật thân mềm
trên cây ngập mặn và xây dựng quy trình tổng hợp giảm thiểu tác hại của
chúng.


3

6. Cấu trúc luận án
Luận án có 163 trang, gồm phần mở đầu 5 trang; chương 1. Cơ sở
khoa học và tổng quan tài liệu (28 trang); chương 2. Vật liệu, nội dung và
phương pháp nghiên cứu (17 trang); chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo
luận (82 trang); Kết luận và kiến nghị (2 trang); với 22 bảng số liệu, 42
hình. Tham khảo 109 tài liệu, trong đó có 63 tài liệu tiếng Việt, 43 tài liệu
tiếng Anh và 3 tài liệu tiếng Nga.
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài

Động vật thân mềm gây hại trên cây ngập mặn đã được xác định trên
thực địa và được các nhà nghiên cứu đề cập đến trong các công trình
nghiên cứu của mình như Phan Nguyên Hồng (2004), Nguyễn Quang
Hùng (2008). Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu đầy
đủ về thành phần loài động vật gây hại.
Hiện trạng chung của rừng ngập mặn nước ta và trên thế giới đang bị
suy giảm, trong khi đó thiên tai, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu
ngày càng phức tạp và đe dọa đến sự an toàn của con người. Trước thực
trạng này, việc trồng rừng và bảo vệ rừng ngập mặn là một vấn đề cấp
thiết. Tuy nhiên, trên thực tế, việc trồng rừng không đạt kết quả cao do
nhiều nguyên nhân, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là sự phá
hủy và làm chết cây do động vật thân mềm sống bám và đục trên cây gây
ra.
Theo nhận định của Phan Nguyên Hồng (1999) cùng với việc điều
tra, nghiên cứu từ năm 2005, trong đó tập trung từ 2009 đến nay, có đến
30% cây chết trong giai đoạn cây non là do động vật thân mềm gây nên.
Xác định được thành phần loài động vật thân mềm gây hại và các đặc
điểm của chúng là cơ sở đề xuất các biện pháp giảm thiểu tác hại, nâng cao
hiệu quả trồng cây, mở rộng diện tích rừng ngập mặn, đáp ứng được mục
tiêu trồng rừng tại các địa phương ven biển.
1.2. Hiện trạng rừng ngập mặn trên thế giới và Việt Nam
1.2.1. Hiện trạng rừng ngập mặn trên thế giới
Thế giới có khoảng 18 triệu ha RNM, các nước Đông Nam Á chiếm
35% diện tích, trong đó, ở vùng Ấn Độ Dương rừng ngập mặn đa dạng
nhất với trên 50 loài cây (Spalding, 2010). Rừng ngập mặn đã và đang đối
mặt với nhiều thách thức như diện tích rừng ngập mặn trên thế giới liên tục
suy giảm.
1.2.2. Hiện trạng rừng ngập mặn ở Việt Nam
Trong báo cáo về đa dạng sinh học tại Việt Nam lần thứ 5 do Bộ Tài
Nguyên và Môi trường chủ trì (năm 2014), đã thống kê: năm 2012, 56%

tổng diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam được coi là "rừng trồng" với sự
đa dạng của các loài rất thấp. Khu vực rừng ngập mặn tự nhiên đã gần như
hoàn toàn biến mất. Suy thoái rừng ngập mặn được thể hiện rõ qua sự suy
giảm nhanh chóng cả diện tích và chất lượng rừng. Năm 1943, cả nước có


4

hơn 408.500 ha rừng ngập mặn, năm 1990, diện tích rừng ngập mặn còn
khoảng 255.000 ha, giảm đến 209.741 ha vào năm 2006, và 140.000 ha
trong năm 2010. Đến cuối năm 2012 chỉ có 131.520 ha rừng còn lại.
1.3. Tình hình nghiên cứu động vật thân mềm trong và ngoài nước
1.3.1. Tình hình nghiên cứu động vật thân mềm trên thế giới
1.3.1.1. Phân loại
Động vật thân mềm là động vật không xương sống-thân mềm, có các
đặc điểm như cơ thể mềm, có thể có vỏ đá vôi che chở và nâng đỡ, tùy môi
trường sống mà vỏ và cấu tạo cơ thể có thể thay đổi.
Nghiên cứu phân loại động vật thân mềm đã được tiến hành từ rất
sớm. Từ thời cổ Hy Lạp (năm 322-384 trước Công nguyên), nhà triết học
Aristode đã có nhiều công trình nghiên cứu về phân loại ĐVTM. Ông là
người đầu tiên sáng lập ra bộ môn ĐVTM và đưa ra phương pháp phân
loại, ông chia chúng thành hai nhóm lớn là nhóm có vỏ và nhóm không có
vỏ. Tuy nhiên, phương pháp phân loại của ông chủ yếu dựa trên các đặc
điểm hình thái bên ngoài của chúng. Đến giữa thế kỷ 18, Linne và các
cộng sự đã kế thừa, phát triển phương pháp phân loại của Aristode và xây
dựng cuốn “Systema nature, 1758”. Đến nửa cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20,
các nhà khoa học như Deshayer (1853), Tryon (1884) đã nghiên cứu và
phân loại nhiều loài ĐVTM phân bố ở nhiều vùng biển trên thế giới, nhất
là vùng Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Đến năm 1939, Shintaro đã
mô tả, định loại được 359 loài ĐVTM và nêu những đặc trưng phân bố ở

vùng biển Nhật Bản, Thái Bình Dương. Ở Khu vực Đông Nam Á, Trương
Tỷ (1960) đã nghiên cứu và mô tả về đặc điểm hình thái, cấu tạo, phân bố
của hơn 200 loài ĐVTM ở vùng Biển Đông, trong đó có nhiều loài được
phát hiện ở Việt Nam.
1.3.1.2. Sinh học, sinh thái
Do đặc điểm phân bố rộng ở hầu hết các vùng biển trên thế giới và
tầm quan trọng trong các lĩnh vực kinh tế, sinh học, sinh thái và bảo vệ
môi trường, nên ĐVTM đã được rất nhiều nhà khoa học trên thế giới quan
tâm nghiên cứu, điển hình như: công trình nghiên cứu của Barnes &
Hughes (1999) về đặc điểm sinh thái học chủ yếu của lớp ĐVTM hai
mảnh vỏ. Trong nghiên cứu của mình, Barnes & Hughes đã mô tả ĐVTM
có 3 phần: đầu, thân và chân, phần lớn loài có cơ thể đối xứng hai bên.
Các đặc điểm này tiếp tục được nghiên cứu và dùng trong mô tả ĐVTM
ngày nay; nghiên cứu của Brand (1972) về cơ chế tuần hoàn máu của loài
Anodonta anatina đã chỉ ra hệ tuần hoàn hở của loài gồm tâm thất và tâm
nhĩ, vòng tuần hoàn theo chu trình: tim – hệ khe hổng – đơn thận – mang –
tim; nghiên cứu của Coe (1943) về phân biệt giới tính ở ĐVTM. Theo
Coe, động vật thân mềm có thể thấy phân tính đực, cái riêng rẽ; lưỡng
tính, đực và cái ở cùng một con. Giữa hai loại này có những dạng trung
gian. Đại đa số động vật thân mềm nguyên thuỷ đều phân tính. Việc phân
biệt đực cái có thể dựa vào cơ quan sinh dục hoặc cơ quan giao cấu, hình
dạng và kích cỡ khác nhau của con đực và con cái; nghiên cứu của
Comfort (1957) về vòng đời và đặc điểm sinh sản, sinh trưởng của nhiều


5

loài ĐVTM, phương thức sinh sản của động vật thân mềm rất phong phú.
Có những loài tự thụ tinh, có những loài cần cả đực và cái. Tuy nhiên, nhìn
chung đều có sự phối hợp giữa yếu tố đực và cái. Hiện tượng giao phối

giữa hai yếu tố đực cái có thể là thụ tinh trong hoặc thụ tinh ngoài.
1.3.1.3. Nghiên cứu về tình hình gây hại và biện pháp phòng trừ
Các nghiên cứu về gây hại và phòng trừ ĐVTM hầu như chỉ tập
trung vào loài ốc bươu vàng sống trên cạn và gây hại cho cây nông nghiệp.
Ngoài ra, có một số công trình nghiên cứu về động vật thân mềm được
công bố đã đề cập tới các loài gây hại nhưng các nghiên cứu này chưa giải
quyết cụ thể về ảnh hưởng gây hại của ĐVTM. Mặt khác, đối tượng bị
ĐVTM gây hại là các vật chủ ngoài thực vật, điển hình như: Nghiên cứu
của Hunt & Scheibling (1998) về sự phân bố sinh thái theo không gian và
thời gian của Vẹm xanh tại các vùng rạn đá ven biển. Nghiên cứu đã chỉ ra
sự phân bố của Vẹm xanh trên các vùng rạn đá, tuy không đánh giá gây hại
mà đi sâu vào điều tra phân bố của Vẹm nhưng nghiên cứu này đã chỉ ra
ảnh hưởng của loài thân mềm này đối với các rạn đá và các công trình
bằng đá. Công trình nghiên cứu của Quayle (1988) về nuôi hàu Thái Bình
Dương ở vùng biển Columbia. Loài hàu này được nuôi với mục đích
thương phẩm, tuy nhiên, Bộ Tài nguyên Môi trường cho biết loài hàu Thái
Bình Dương có ảnh hưởng đến sinh tồn của nhiều loài động vật nổi và
động vật lớn.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu về ĐVTM gây hại được công
bố là rất ít. Các ĐVTM được nghiên cứu và nhận định là có gây hại chủ
yếu đối với các vật chủ là các rạn đá, tàu, thuyền và các công trình xây
dựng khác. Các nghiên cứu về ảnh hưởng gây hại và biện pháp phòng trừ
cần được bổ sung và quan tâm mạnh mẽ hơn nữa.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
1.3.2.1. Điều tra về thành phần loài
Việt Nam là nước nằm trong vùng nhiệt đới, phía Đông và Nam đều
giáp biển, nhiều vũng vịnh, có hàng trăm cửa sông đổ ra biển, nền đáy đa
dạng tạo nên khu hệ ĐVTM rất phong phú về thành phần loài, trong đó
nhiều loài có giá trị kinh tế cao, nhiều loài quí hiếm đặc trưng cho vùng
biển Việt Nam (Nguyễn Hữu Phụng và cs.1996). Từ những năm 19051906, Dautzenberg và Fisher (1906) là những người đầu tiên tiến hành

điều tra, nghiên cứu cơ bản về cấu trúc thành phần loài, phân bố của
ĐVTM Việt Nam. Cho đến năm 1906, hai tác giả đã thống kê và tập hợp
được 97 loài ở khu vực ven biển Thanh Hoá. Chương trình điều tra tổng
hợp vịnh Bắc Bộ hợp tác Việt-Trung (từ năm 1959-1960), đã xác định
được 336 loài động vật thân mềm, trong các năm 1974 – 1980, các tác giả
đã tiến hành kiểm tra, phân loại toàn bộ mẫu động vật thân mềm. Kết quả
đã xác định được 369 loài thuộc 174 giống của 87 họ trong 5 lớp. Trong
đó, lớp hai mảnh vỏ (Bivalvia) có 160 loài, thuộc 74 giống của 36 họ
(Nguyễn Xuân Dục, 2003). Năm 1978, Nguyễn Văn Chung và cs cũng đã
công bố 190 loài ĐVTM điều tra được ở vịnh Bình Cang - Nha Trang,
trong đó lớp ĐVTM hai mảnh vỏ gồm 70 loài, những loài phổ biến thường


6

gặp là Mitra melegera, Vexillum cruentata, Cerithium kochi, Turitella
terebra, Meretrix tribulus (Nguyễn Văn Chung và cs, 1997). Nguyễn
Chính (1996) đã tổng kết các công trình nghiên cứu và giới thiệu 88 loài
ĐVTM có giá trị kinh tế ở biển Việt Nam, lớp hai mảnh vỏ gồm có 24
loài, mỗi loài tác giả đều mô tả đặc điểm hình thái, địa lý phân bố và giá trị
kinh tế, đây là một trong những tài liệu quan trọng giúp cho việc tham
khảo định loại và phân biệt nhanh về các loài ĐVTM hai mảnh vỏ ở Việt
Nam.
1.3.2.2. Sinh học, sinh thái.
Nguyễn Hữu Phụng (1999) nghiên đặc điểm sinh học và nguồn lợi
Sò huyết (Anadara granosa) ở vùng ven biển Việt Nam đã mô tả, Sò
huyết tự nhiên chủ yếu phân bố tại các vùng vịnh vừa và nhỏ có thuỷ triều
lên xuống. Bên cạnh đó, Nguyễn Hữu Phụng và cs (2001) còn nghiên cứu
và mô tả một số đặc điểm sinh học của loài Dòm nâu (Modiolus
philippinarum Hanley, 1843) ở vùng biển Ninh Thuận. Đến năm 2003, tác

giả này tiếp tục nghiên cứu và mô tả một số đặc điểm sinh học của loài
Dòm nâu (Modiolus philippinarum Hanley, 1943) ở vùng biển Bình
Thuận. Nguyễn Thị Xuân Thu (1998), đã nghiên cứu khá chi tiết và đầy đủ
về đặc điểm sinh sản, sinh trưởng và kỹ thuật sản xuất giống nhân tạo loài
Điệp quạt (Chlamys nobilis Reeve, 1952) đã mô tả, Điệp quạt có vỏ lớn,
gần như tròn, chiều dài và chiều cao bằng nhau, đa dạng về màu sắc vỏ,
các phiến sinh trưởng xếp khít nhau dạng vảy. Lỗ tơ chân lớn, có mép răng
cưa, mặt khớp thẳng không răng.
1.3.2.3. Nghiên cứu về tình hình gây hại và biện pháp phòng trừ
Từ trước tới nay các loài thân mềm hầu hết được nghiên cứu với mục
đích đánh giá đa dạng và giá trị nguồn lợi, chỉ một số ít thân mềm đó được
nghiên cứu và đánh giá mức độ gây hại trên một số cây trồng cạn như sên
trần, ốc sên và ốc bươu vàng.
Năm 1967 – 1969, Nguyễn Xuân Dục và cs khảo sát chuyên đề họ
Hà gỗ (Teredinidae) ở vùng biển ven bờ từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến
Cửa Đáy (Ninh Bình) thu được nhiều mẫu ĐVTM hai mảnh vỏ. Kết quả
phân tích mẫu vật đã xác định 22 loài thuộc họ Teredinidae (trong đó có
10 loài sp). Mẫu vật hiện lưu giữ tại Viện Tài nguyên và Môi trường biển.
Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng dừng lại ở mức độ điều tra thành phần
loài của chúng (Nguyễn Xuân Dục, 2003).
Ở nước ta, từ những năm 1960 các loài nhuyễn thể gây hại bắt đầu
được quan tâm, nghiên cứu. Tuy nhiên, những kết quả nghiên cứu về lĩnh
vực này đã được công bố thì còn rất khiêm tốn. Xuất phát từ việc các tàu,
bè, các vật liệu gỗ trên biển bị sự tấn công của một loài nhuyễn thể làm hư
hại. Các nhà nghiên cứu đã tìm hiểu, phân loại và định danh được một số
loài hà thuộc họ Họ Teredinidae. Sau đó, các phương pháp bảo vệ tàu, bè
và các trang thiết bị trên biển làm bằng vật liệu gỗ đã được đề xuất theo
hai hướng là sử dụng nhiệt độ cao của lửa diệt hà và dùng hoá chất.



7

CHƯƠNG II
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Vật liệu trong phòng thí nghiệm
Gồm các thiết bị thí nghiệm: Kính lúp, kính hiển vi Olympus CX40 (độ
phóng đại 4x, 10x, 40x, 100x), máy đo các chỉ tiêu môi trường Hanna;
Dụng cụ thí nghiệm: panh, dao mổ, dao gắp, lamen, đĩa petri, máng mẫu,
bình lọ đựng mẫu, bình định mức,…; Hóa chất thí nghiệm: Cồn,
formaline, thuốc tím, sulfat Mg, Menthol, hoặc Axit baric,...
2.1.2. Vật liệu nghiên cứu thực địa
Thực vật ngập mặn khu vực: Vẹt, Sú, Đước, Mắm và các loại cây
khác - Dụng cụ: Dao, thuổng lấy mẫu, khung lấy mẫu, sàng sinh vật đáy,
cọc tre, gỗ,...; Hóa chất thí nghiệm: Cồn, formaline, thuốc tím, sulfat Mg,
Menthol, hoặc Axit baric,... các loại thuốc BVTV và thảo mộc; Trang thiết
bị: Thiết bị đo độ sâu, máy đo các các chỉ số môi trường, tàu, thuyền lấy
mẫu, giầy lặn, bình khí, quần áo nhái, găng tay,...
2.2. Nội dung nghiên cứu
1. Nghiên cứu một số đặc điểm khu vực rừng ngập mặn Cát Bà, Côn Đảo,
Cần Giờ.
2. Nghiên cứu thành phần loài động vật thân mềm khu vực nghiên cứu.
3. Xác định loài gây hại và các đặc điểm của các loài gây hại.
4. Nghiên cứu ảnh hưởng của các loài gây hại đến cây ngập mặn.
5. Đề xuất biện pháp giảm thiểu tác hại của động vật thân mềm đến cây
ngập mặn.
2.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
2.3.1. Địa điểm nghiên cứu:
- Phòng thí nghiệm Viện Sinh thái nhiệt đới (Trung tâm nhiệt đới
Việt- Nga); Viện BVTV, Viện Nghiên cứu Hải sản,…

- Khu vực rừng ngập mặn thuộc VQG Cát Bà, VQG Côn Đảo và khu
DTSQ Cần Giờ. Các khu vực nghiên cứu chính sau:VQG Cát Bà (Hải
Phòng): Khu vực nghiên cứu chính Gia Luận, Ghềnh Gôi và Phù Long;
VQG Côn Đảo (Vũng Tàu): Khu vực nghiên cứu chính ở Đầm Tre; Khu
DTSQ Cần Giờ (Thành Phố Hồ Chí Minh):
2.3.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/ 2009 đến tháng 9/2015.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp nghiên cứu đặc điểm tự nhiên khu vực rừng ngập
mặn VQG Cát Bà, VQG Côn Đảo và khu DTSQ Cần Giờ
• Điều tra thực vật ngập mặn khu vực nghiên cứu: theo mặt cắt, tuyến
điều tra xác định đảm bảo đi qua môi trường sống của các cây ngập mặn.
Phân loại dựa trên hệ thống phân loại của Phạm Hoàng Hộ kết hợp đánh
giá, phân loại của chuyên gia.
• Phân chia vùng triều: dựa theo nguyên tắc phân chia vùng triều của
Stephenson (1949).


8

• Đo các chỉ tiêu môi trường nước: bằng thiết bị đo cầm tay Hanna. Lập
các trạm đo tại các vùng nghiên cứu và đo theo mùa trong năm. Phân loại
nước theo thang phân bố của Zernop (1934)
2.4.2. Phương pháp nghiên cứu thành phần loài động vật thân mềm
Phương pháp điều tra, thu thập số liệu ngoài thực địa, phân tích, đánh
giá đa dạng sinh học và nguồn lợi ĐVTM được thực hiện theo các hướng
dẫn trong các tài liệu của WWF (2003). Phân loại mẫu: sử dụng hệ thống
phân loại mới nhất hiện nay theo tác giả Beesley et al (1998)
2.4.3. Phương pháp xác định loài gây hại và các đặc điểm của chúng
• Xác định loài gây hại
- Xác định loài gây hại dựa trên tập tính của chúng.

- Quan sát triệu chứng gây hại, đặc điểm sinh trưởng, phát triển, chu
trình xâm nhập, môi trường sống, tham khảo ý kiến chuyên gia và điều tra
hiện trạng của các loài gây hại.
• Phương pháp giải phẫu
Sau khi quan sát hình thái ngoài, xác định khối cơ khép vỏ trước và
sau bằng cách luồn lưỡi sát vỏ phía trước và sau cắt cơ khép vỏ.
Quan sát dạ dày, ruột, trụ gelatin và tuyến sinh dục phải cắt lớp biểu
mô dày ở phần thân theo đường xung quanh thân.
2.4.4. Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của các loài gây hại đến cây
ngập mặn
Tính tỷ lệ cây chết (CC) và cây có thân mềm sống bám (TMSB) theo
công thức:
Số lượng CC hoặc cây có TMSB
Tỷ lệ % CC hoặc có TMSB = ----------------------------------------- x 100
Tổng số cây được theo dõi
2.4.5. Xây dựng đề xuất biện pháp giảm thiểu tác hại của động vật thân
mềm đến cây: Tính hiệu lực của thuốc đối với ĐVTM theo công thức
Henderson – Tilton
2.4.6. Phương pháp xử lý số liệu: Sử sụng phần mềm Excel và Primer 6.0
để xử lý, phân tích số liệu.
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đặc điểm rừng ngập mặn khu vực nghiên cứu
Điều tra thành phần loài cây ngập mặn khu vực rừng ngập mặn Cát
Bà, Côn Đảo, Cần Giờ cho thấy, các loài cây ngập mặn chủ yếu xuất hiện
ở các khu vực này là Sú (Aegiceras corniculatum), Vẹt (Bruguiera
gymnorrhiza), Đước (Rhizophora apiculata), Mắm (Avicenia alba) và một
số loài cây khác như Chà là (Phoenix paludosa), Cóc (Lumnitzera
littoralis), Giá (Excoecaria agallocha),…. Trong đó, Sú, Vẹt là hai loài cây
ngập mặn bắt gặp thường xuyên tại cả 3 khu vực nghiên cứu; Đước là cây



9

bắt gặp thường xuyên tại rừng ngập mặn Côn Đảo và Cần Giờ; Mắm là
cây bắt gặp thường xuyên tại rừng ngập mặn Cát Bà.
3.2. Đa dạng thành phần loài và phân bố động vật thân mềm khu vực
nghiên cứu
Kết quả thành phần loài động vật thân mềm thu được qua điều tra
khảo sát tại ba vùng nghiên cứu: rừng ngập mặn Cát Bà, Côn Đảo và rừng
ngập mặn Cần Giờ là 52 loài, thuộc 20 họ, tập trung vào lớp chân bụng và
hai mảnh vỏ. Trong đó, khu vực rừng ngập mặn Cần Giờ có mức độ đa
dạng loài cao nhất, số loài điều tra được là 40 loài (= 77% tổng số loài ghi
nhận) thuộc 18 họ (4 loài thuộc lớp chân bụng, 36 loài thuộc lớp hai mảnh
vỏ), tiếp đến là Cát Bà với 27 (= 52% tổng số loài ghi nhận) loài thuộc 16
họ gồm 4 loài thuộc lớp chân bụng và 23 loài thuộc lớp hai mảnh vỏ. Thấp
nhất là khu vực rừng ngập mặn Côn Đảo với số lượng 17 loài (= 33% tổng
số loài ghi nhận)
3.3. Đặc điểm của các loài động vật thân mềm gây hại trên cây ngập
mặn
3.3.1. Thành phần loài động vật thân mềm gây hại
Như đã đề cập tại phần thành phần loài động vật thân mềm ở 3 khu
vực nghiên cứu (rừng ngập mặn Cát Bà, Côn Đảo, Cần Giờ), ngoài việc
phân bố tại các vùng triều, bãi cát, bùn, … còn ghi nhận được một số loài
động vật thân mềm phân bố trên lá, thân cây và sống đục trong thân cây.
Khi ĐVTM bám trên cây sẽ gây ra tổn thương cho cây. Có hai kiểu gây
hại chính gồm:
+ Kiểu 1: Cây bị động vật thân mềm bám trên cây, các phần cây bị
bám xù xì, còi cọc, cây ít bị thay đổi hình dáng bên ngoài. Đây là kiểu
triệu chứng do các động vật thân mềm sống bám trên cây gây ra.

+ Kiểu 2: Cây bị động vật thân mềm đục trong thân cây, các phần
cây bị đục ruỗng, gãy mục, có các lỗ xuyên qua thân cây. Đây là kiểu triệu
chứng do động vật thân mềm sống đục trong cây gây ra.
Theo điều tra sơ bộ ban đầu, với 15 ô điều tra ngẫu nhiên (10m
x10m) và quan sát dọc các tuyến tại mỗi vùng rừng ngập mặn, tỷ lệ ô có
cây bị thân mềm sống bám lên tới 40 - 50% số lượng ô điều tra. Từ 52
loài điều tra tại khu vực rừng ngập mặn Cát Bà, Côn Đảo, Cần giờ xác
định được 4 loài gây hại đối với cây ngập mặn. Trong đó:
- Sống bám trên lá, thân cây: xác định được 3 loài là Điệp (Anomia
cytaeum), Hàu lá (Saccostrea cucullata) và Quéo (Brachyodontes
emarginatus). Các loài này sống bám trên cây, có thể sống riêng lẻ hoặc
thành từng đám dày đặc trên cây gây còi cọc, biến dạng hoặc chết cây.
- Sống đục trong thân cây: Xác định được loài Hà (Bankia sauli) ở
khu vực rừng ngập mặn Cần Giờ. Loài thân mềm này đục dần vào thân
cây, sống trong thân cây và phá hủy cây, chủ yếu trên cây có thời gian
ngâm nước trong ngày lớn và được tìm thấy trên thân các cây còi cọc.
Trong 4 loài gây hại trên cây ngập mặn có 3 loài phân bố ở cả ba khu
vực nghiên cứu là: Điệp (Anomia cytaeum), Hàu lá (Saccostrea cucullata)
và Quéo (Brachyodontes emarginatus); riêng loài Hà (Bankia saulii) chỉ


10

tìm thấy tại khu vực rừng ngập mặn Cần Giờ. Vì vậy, 3 loài Điệp (Anomia
cytaeum), Hàu lá (Saccostrea cucullata) và Quéo (Brachyodontes
emarginatus) được đưa vào các nghiên cứu tiếp theo.
Bảng 3.9.Thành phần loài động vật thân mềm gây hại trên
cây rừng ngập mặn (tháng 2/2011 – tháng 6/2012)
Phân bố
TT


Tên khoa học

Tên Việt Nam Cát Côn Đảo Cần Giờ


I Anomiidae
Họ điệp cánh
1 Anomia
cytaeum Điệp
(Gray, 1850)
II Ostreidae
Họ hàu
2 Saccostrea cucullata Hàu lá
(Born, 1778)
III Teredinidae
Họ hà đục gỗ
3 Bankia
saulii Hà
(Wright, 1866)
IV Mytilidae
Họ vẹm
4 Brachyodontes
Quéo
emarginatus (Reeve,
1858)

+

+


+

+

+

+

+

+

+

-

-

+

Ghi chú: “+” Có bắt gặp
“ – “ Không bắt gặp

3.3.2. Đặc điểm của động vật thân mềm gây hại trên cây ngập mặn
3.3.2.1. Đặc điểm của Hàu (Saccostrea cucullata Born,1778)
Hàu lá (Saccostrea cucullata), thuộc:
Lớp Bivalvia
Bộ ostreoida
Họ ostreidea

Giống Saccostrea
• Đặc điểm hình thái, cấu tạo cơ thể
Vỏ lớn, dày, nặng. Đỉnh vỏ Hàu nhô cao ở khoảng gần giữa đường
lưng, cạnh bụng cong. Hình dáng vỏ thay đổi lớn, thường có dạng bầu dục
hoặc tam giác, tỷ lệ chiều cao và chiều dài vỏ không ổn định, màu trắng
đục, mặt ngoài xù xì, thô ráp. Hàu có 2 mảnh vỏ không đều nhau, một
mảnh vỏ lớn chứa nội quan, còn mảnh nhỏ làm nắp đậy. Mặt trong vỏ lõm
sâu màu trắng sữa, vết cơ khép vỏ nằm phía sau gần mép lưng vỏ, màu nâu
nhạt. Bản lề dài hình sừng bò nằm trong máng bản lề. Hai vỏ được khép
vào, mở ra nhờ hai cơ khép vỏ trước và vỏ sau.
Hệ tiêu hóa đơn giản, ruột trước có miệng, hai bên có hai thùy
miệng, phần ruột giữa dài, được cuộn khúc trong phần thân và đổ vào ruột
sau ở phía lưng. Có xi phông thoát và xi phông hút. Hệ sinh dục đơn tính.
Tuyến sinh dục nằm trong phần thân bao quanh ruột. Hệ hô hấp gồm 4 lá
mang, hai lá ngoài mỏng hơn hai lá trong. Bề mặt của mang phủ lông bơi


11

luôn hoạt động gây nên dòng nước đi vào từ xiphong hút mang theo thức
ăn và ôxi hòa tan. Cấu tạo mang hàu dạng hình tấm đăng gồm những tơ
mang sắp xếp hai bên trục mang, trên mỗi tơ mang có các loại tiêm mao:
tiêm mao bên trước, tiêm mao trước, tiêm mao bên. Nước vào mang, mang
theo thức ăn nhờ sự vận động của tiêm mao thức ăn được chuyển đến xúc
biện và theo đường dẫn thức ăn vào miệng. Sự chọn lọc thức ăn theo tính
chất vật lý. Những hạt nhẹ, nhỏ, mịn được đưa đến miệng, những hạt thô,
nặng rơi xuống mép màng áo và được đưa ra ngoài.
• Đặc điểm phân bố:
Hàu lá sống chủ yếu trên các giá thể là cây ngập mặn, bãi đá và các
giá thể khác vùng triều, ven rừng ngập mặn.

• Đặc điểm dinh dưỡng:
Là loài ăn lọc mạnh. Thức ăn là tảo kích thước nhỏ và mùn bã hữa
cơ. Nhờ vậy, chúng còn đóng vai trò lọc sinh học, làm sạch nước.
• Đặc điểm sinh trưởng:
Kích thước cá thể hàu trưởng thành đạt khoảng 9-10cm chiều dài vỏ,
trọng lượng đạt 150-250g. Tốc độ tăng trưởng của vỏ hàu khác nhau tùy
từng khu vực và chịu ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường. Nhiệt độ nước
là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất. Mùa đông nhiệt độ nước thấp ảnh hưởng
không thuận lợi đến sinh trưởng của vỏ.
• Đặc điểm sinh sản:
Hàu là loài có thể chuyển giới tính giữa các mùa sinh sản. Mùa vụ
sinh sản từ tháng 4 đến tháng 10. Gần đến mùa sinh sản tuyến sinh dục
phát triển mạnh, có màu trắng sữa. Trứng thụ tinh, nở thành ấu trùng bơi
lội trong nước, sau đó tìm giá thể để bám và sống suốt đời ở đó. Thời gian
từ lúc trứng thụ tinh đến khi ấu trùng bám khoảng 2-3 tuần. Sức sinh sản
của hàu rất lớn và tùy thuộc vào kích cỡ cá thể, ví dụ như: hàu bố mẹ loại
40 – 80 mm sẽ cho 39 triệu trứng/cá thể, loại 80 – 100 mm cho 81 triệu
trứng/cá thể.
3.3.2.2. Đặc điểm của Quéo (Brachyodontes emarginatus Reeve, 1858)
Quéo (Brachyodontes emarginatus), thuộc:
Lớp Bivalvia
Bộ Mytiloida
Họ Mytilidae
Giống Brachyodontes
• Đặc điểm hình thái, cấu tạo cơ thể
Vỏ dày chắc, dạng hình trứng, phần đỉnh nhọn, phần sau tròn. Phần
lớn 2 vỏ bằng nhau nhưng hai cạnh không bằng nhau. Vòng sinh trưởng
trên mặt vỏ nhỏ, dày, khá rõ. Mặt vỏ thường màu xanh đen, mặt trong màu
trắng bạc, nhẵn bóng, phía ngoài mép có màu xanh nhạt. Vết cơ khép vỏ
sau hình tứ giác. Mặt ngoài của Quéo bóng, không xù xì như Hàu, kích

thước của chúng nhỏ hơn Hàu.


12

Chân màu nâu tím hay vàng tím như một chiếc gậy ngắn nằm ở phía
bụng bên dưới xúc biện. Mặt bụng của chân có một lỗ tuyến tơ chân tiết ra
chất bám. Quéo có khả năng tự cắt tơ chân và tiết ra tơ chân mới, vì vậy,
nó có thể tự thay đổi vị trí bám của chúng. Tuy nhiên quá trình này chỉ xảy
ra ở Quéo con. Quéo trưởng thành tơ chân thường rất chắc khi bám vào giá
thể.
• Đặc điểm phân bố
Quéo sống ở vùng nước cạn, có độ mặn ổn định, lưu tốc nước vừa
phải và hay bám vào các vật cứng như : cọc cây, trụ nhà sàn, chân cầu, bè
nuôi, bãi đá ngầm và cây ngập mặn. Chúng thường bám lẫn vào nhau tạo
thành một đám lớn. Tuy nhiên, khi gặp điều kiện bất lợi ( môi trường xấu,
thức ăn thiếu, chỗ ở chật hẹp, địch hại nhiều … ) chúng có thể di chuyển
đến nơi khác nhờ vào chân ngoài và tơ bám. Chúng phát triển trong
khoảng nước biển có độ mặn từ 18‰ - 32‰, thích hợp nhất là 20‰ 30‰. Việc bám trên cây tập trung thành những đám lớn vừa đảm bảo sự
an toàn của cá thể trước các mối đe dọa từ địch hại, môi trường cũng như
tận dụng được sức mạnh của tập hợp các cá thể.
• Đặc điểm dinh dưỡng
Quéo thuộc nhóm ăn lọc, thức ăn ưa thích là thực vật phù du và các
chất hữu cơ lơ lửng. Quéo dinh dưỡng liên tục kể cả lúc triều lên và triều
cạn, tuy nhiên quá trình dinh dưỡng giảm dần khi triều cạn.
• Đặc điểm sinh trưởng
Ở những vùng nước cạn thường xuyên, các cá thể sò huyết thường
kém phát triển hơn do thời gian dinh dưỡng ít. Quéo là loài sinh trưởng
chậm. Cá thể thành thục có chiều dài vỏ 2-3 cm. Sự sinh trưởng của Quéo
thể hiện trên sự dày thêm của vỏ và cũng thể hiện trên sự dài thêm của vỏ,

vỏ dày thì chiều dài tăng chậm và ngược lại vỏ mỏng thì chiều dài tăng
nhanh. Ngoài ra tốc độ tăng trưởng của vỏ và tốc độ tăng của thịt cũng
không đều nhau tuỳ theo từng giai đoạn sinh trưởng; một hai năm đầu thịt
tăng rất nhanh, nhưng tuổi càng nhiều thịt càng tăng chậm và vỏ mỗi ngày
một dày thêm. Sự sinh trưởng giữa các cá thể trong cùng một loài cũng rất
khác nhau, con lớn nhanh thì vỏ tương đối mỏng, màu sắc tươi tốt, con lớn
chậm thì vỏ dày, màu sắc kém tươi.
• Đặc điểm sinh sản
Phần lớn Quéo phân tính (đực riêng, cái riêng), nhưng trong quá
trình sống do sự thay đổi của các điều kiện thời tiết, nhiệt độ, độ muối,
thức ăn nên có hiện tượng lưỡng tính hay biến tính. Như vậy về phương
diện tính, có thể thấy mấy loại sau đây: Quéo đực, Quéo cái, Quéo lưỡng
tính, tỷ lệ giữa các loại này không cố định và thay đổi khác nhau cùng với
độ lớn của chúng. Thường một năm tuổi thì tuyến sinh dục của Quéo thành
thục, từ đó hàng năm về sau Quéo có thể sinh sản được. Quéo có thể sinh
sản quanh năm, ở phía Bắc Quéo đẻ trứng vào 2 vụ chính: Vụ đầu năm từ
tháng 3 đến tháng 5, vụ cuối năm từ tháng 9 đến tháng 10. Vào mùa sinh


13

sản tuyến sinh dục của con cái có màu đỏ gạch non, tuyến sinh dục con
đực màu vàng nhạt.
3.3.2.3. Đặc điểm của Điệp (Anomia cytaeum Gray, 1850)
Điệp Anomia cytaeum, thuộc:
Lớp Bivalvia
Bộ Pectionoida
Họ Anomiidae
Giống Anomia
• Đặc điểm hình thái, cấu tạo cơ thể

Vỏ có hình tròn hoặc hình oval sáng. Cơ thể dẹt và đối xứng 2 bên.
Không có cơ khép vỏ trước, cơ khép vỏ sau thoái hóa. Điệp sống bám trên
giá thể cứng, các sợi tơ bằng chitin hoặc đá vôi tiết ra từ một lỗ trên vỏ
phải bám vào giá thể. Do lối sống ít hoạt động thích nghi với đời sống lọc
nước, bám trên giá thể trong quá trình sống nên phần đầu tiêu giảm, chân
hình lưỡi rìu phía dưới thân, thò ra ngoài khi di chuyển. Xoang áo phát
triển hơn so với các động vật thân mềm khác. Vỏ gồm có 2 mảnh chứa
toàn bộ cơ thể.
Loài Anomia cytaeum có chân tiêu giảm, chúng di chuyển bằng
cách đột ngột khép 2 mảnh vỏ, tạo ra 2 tia nước bắn về phía bản lề để bơi
theo hướng ngược lại phía sau chân có tuyến tơ tiết tơ bám chặt vào giá
thể.
Vỏ gồm có 2 mảnh, che kín 2 bên thân, dính liền với
nhau ở mặt lưng nhờ dây chằng và các khớp. Bờ lưng của 2 vỏ Điệp khép
với nhau nhờ các răng giống nhau về kích thước.
• Đặc điểm phân bố
Điệp phân bố trong rừng ngập mặn, trên vùng rạn đá, vụn san hô.
Điệp sống ở khu vực nước chảy chậm, ít đục.
• Đặc điểm dinh dưỡng
Điệp ăn các vụn bã hữu cơ lắng đọng, động vật và thực vật nổi
cỡ bé, Hệ tiêu hóa gồm: miệng, thực quản, dạ dày, ruột giữa, ruột sau và
khối gan tụy. Thực quản là một ống lớn thông với phần trước của dạ dày.
Tiếp theo là ruột giữa khá dài, cuộn thành nhiều khúc: Đoạn đầu ruột
chạy từ dạ dày hướng ra phía sau và xuống dưới, đoạn cuối cùng nằm gần
song song đọan đầu nhưng theo chiều ngược lại, từ dưới lên trên, hướng
về phía trước, ruột sau, có một đoạn chui qua tâm thất. Hậu môn nằm gần
xiphông thoát, trong xoang áo. Tấm miệng và dạ dày có cơ khoẻ,
hoạt động như một tấm nghiền để nghiền thức ăn.
• Đặc điểm sinh sản
Trứng của Điệp phát triển trong tấm mang, hình thành ấu trùng có

cấu tạo thích nghi với sống bám và được gọi là ấu trùng glochidium.
Glochidium có 2 mảnh vỏ, có gai bám và tuyến dính, tuy nhiên chân,
miệng, hậu môn và ống tiêu hoá chưa phát triển. Ấu trùng theo dòng nước
qua ống thoát nước rồi rơi xuống đáy hay bám vào các động vật bơi qua


14

(cá, tôm...). Thường chúng bám vào vây, mang của cá như là một vật ký
sinh và sau khoảng 20 ngày rời vật chủ rơi xuống đáy để phát triển cho ra
dạng trưởng thành. Nhờ có khả năng ngoại ký sinh trên động vật khác
nên ấu trùng của loài thân mềm này có thể sử dụng thức ăn và mở rộng
khả năng phát tán vùng phân bố của loài.
3.3.3. Quá trình xâm nhập của động vật thân mềm và triệu chứng biểu
hiện trên cây khi bị động vật thân mềm gây hại.
3.3.3.1. Quá trình xâm nhập của động vật thân mềm trên cây
Nuôi hai loài động vật thân mềm có mức độ bám cao trên cây ngập
mặn trong giai đoạn thành thục để quan sát và nghiên cứu chu trình xâm
nhập của chúng như sau:
• Hàu (Saccostrea cucullata)
Điều tra, thu mẫu và quan sát giải phẫu thấy rằng: Mùa vụ sinh sản của
hàu vào khoảng từ tháng 4 đến tháng 10 hàng năm. Các cá thể hàu có kích
thước lớn, vỏ nguyên vẹn, chiều dài vỏ có kích thước trung bình khoảng 910 cm, chiều cao vỏ khoảng 12,5 – 14,5 cm và khối lượng toàn thân trung
bình khoảng 600 – 1400g là các cá thể có khả năng sinh sản cao.
Trong điều kiện nhiệt độ 28 – 300C, độ mặn 18 – 30‰, sau 20 ngày ấu
trùng hàu xuất hiện chân bò và có khả năng bám.
• Quéo (Brachyodontes emarginatus)
Qua điều tra thực địa và quan sát, giải phẫu cơ thể thấy rằng, Quéo
có kích thước khoảng 6,5 – 8 cm, tức là đã trên 1 năm tuổi tính từ giai
đoạn ấu trùng, đây là giai đoạn Quéo có tuyến sinh dục phát triển chín

muồi. Sau khi trứng thụ tinh phát triển thành ấu trùng 20 ngày sẽ xuất hiện
chân bò và có khả năng bám.
Như vậy, nghiên cứu sự xâm nhập của các loài thân mềm sống bám
và đục trên cây ngập mặn đưa ra được chu trình như sau: Khi cá thể bố mẹ
thành thục, trứng và tinh trùng gặp nhau tạo thành giao tử phát triển tự do
trong nước, khoảng 2 – 3 tuần sau bắt đầu hình thành tơ bám sẽ tìm bám
trên vật chủ là cây ngập mặn. Sau khi bám cố định vào vật chủ, chúng sẽ
tiếp tục ở đó để sinh trưởng và phát triển, tiếp tục cho ra các thế hệ sau.
Trong quá trình sống, quá trình bắt mồi, thải độc và các hoạt động của
chúng gây ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của chính vật chủ
mà chúng bám, nhẹ thì gây còi cọc, biến dạng cây thậm chí gây chết cây.
3.3.3.2. Triệu chứng khi cây ngập mặn bị động vật thân mềm sống bám
gây hại
Khi cây bị ĐVTM bám các biểu hiện bằng mắt thường quan sát thấy:
- Thân, rễ, lá của cây xù xì
- Cây chậm phát triển và còi cọc khi thân mềm bám dày đặc
- Chết cây
3.4. Ảnh hưởng của động vật thân mềm gây hại đến cây ngập mặn
Trong 4 loài động vật thân mềm gây hại đã tìm thấy, có 3 loài có
phổ phân bố rộng trên tất cả các điểm nghiên cứu là: Hàu (Saccostrea
cucullata), Điệp (Anomia cytaeum), Quéo (Brachyodontes emarginatus).


15

Vì vậy, 3 loài thân mềm này tiếp tục được lựa chọn trong nghiên cứu mức
độ bám của động vật thân mềm trên cây ngập mặn.
Điều tra trong tự nhiên cho thấy, giai đoạn cây con từ khi trồng đến 3
tháng tuổi là giai đoạn cây dễ bị tổn thương dưới tác động của môi trường
sống và các sinh vật xung quanh. Giai đoạn này cây bị tấn công bởi các

loài ĐVTM sống bám và gây hại. Khi bị ĐVTM gây hại cây ngập mặn sẽ
có biểu hiện còi cọc và chậm phát triển. Điều này làm ảnh hưởng tới năng
suất và hiệu quả trồng cây. Theo quan sát, các loài cây bị ảnh hưởng nhiều
bởi ĐVTM là Sú, Đước, Vẹt, trong đó, cây Sú (Aegiceras corniculatum) là
một loài cây bị ĐVTM bám với mật độ dày đặc nhất. Để làm rõ hơn về
điều này, các thí nghiệm về ảnh hưởng của động vật thân mềm đối với cây
ngập mặn đã được triển khai
3.4.1. Đánh giá mức độ bám của động vật thân mềm gây hại trên cây
ngập mặn
Theo điều tra sơ bộ trên thực địa, Quéo và Hàu là hai loài có tần suất
bắt gặp cao ở cả ba khu vực nghiên cứu Cát Bà, Côn Đảo và Cần Giờ. Hai
loài động vật thân mềm này bám chủ yếu trên thân và rễ cây, chúng tập
trung thành từng đám lớn tạo thành những mảng xù xì trên thân và rễ cây,
ảnh hưởng đến sự hô hấp cây do hoạt động hô hấp của cây rừng ngập mặn
được thực hiện thông qua những lỗ thông khí (những khoảng mở nhỏ trên
thân hoặc rễ). Sự xuất hiện của Hàu và đặc biệt của Quéo sống bám trên
cây bắt gặp tại hầu hết các điểm điều tra về thân mềm gây hại.
Bảng 3.11. Mức độ bám của các loài ĐVTM gây hại đối với cây ngập mặn
(Vân Đồn, tháng 3 -10/2013)
Loài cây
Công thức

Đước
Vẹt
Các loài khác
(Con/100 cây)
Hàu
74 - 75
40 - 41
46 - 47

10 - 11
Quéo
123 - 124
52 - 53
7 2 - 73
15 - 16
Điệp
9 - 10
3-4
0-1
0
Kết quả phân tích thống kê như sau:
Bảng 3.12. Mức độ bám của Hàu trên cây ngập mặn
Công thức
Giá trị

74,67 ± 25,14 a
Đước
43,67 ± 15,00 a
Vẹt
46,34 ± 16,86 a
Các loại cây khác
10,34 ±03,05 b
CV = 19,26%
Ghi chú: Số liệu được chuyển sang căn bậc hai trước khi xử lý thống kê. Kí tự giống
nhau trong cùng 1 cột không có sự khác biệt thống kê. Trắc nghiệm phân hạng ở mức
0,01


16


Bảng 3.13. Mức độ bám của Quéo trên cây ngập mặn
Công thức
Giá trị

123,67 ± 22,30 a
Đước
52,67 ± 30,30 ab
Vẹt
15,34 ± 16,25 b
Các loại cây khác
19,00± 08,54 b
CV = 28,40%
Ghi chú: Số liệu được chuyển sang căn bậc hai trước khi xử lý thống kê. Kí tự giống
nhau trong cùng 1 cột không có sự khác biệt thống kê. Trắc nghiệm phân hạng ở mức
0,01

Bảng 3.14. Mức độ bám của Điệp trên cây ngập mặn
Công thức
Giá trị

9,67 ± 8,32 a
Đước
3,67 ± 0,60 ab
Vẹt
0,67± 0,60 bc
Các loại cây khác
0,00 ±0,00 c
CV = 53,30%
Ghi chú: Số liệu được chuyển sang căn bậc hai trước khi xử lý thống kê. Kí tự giống

nhau trong cùng 1 cột không có sự khác biệt thống kê. Trắc nghiệm phân hạng ở mức
0,01

Các bảng kết quả (3.11 – 3.14) cho thấy, bám mạnh mẽ nhất là
Quéo trên tất cả các công thức (cây Sú, Đước Vẹt và các loài khác) và đạt
số lượng cá thể bám cao nhất trên cây Sú. Điệp là loài có số lượng cá thể
sống bám thấp nhất trên tất cả các loài cây ngập mặn được điều tra. Đối
với cây ngập mặn, Sú là cây bị cả ba loài Hàu, Quéo, Điệp sống bám cao
nhất. Khi phân tích thống kê chỉ ra, mức độ bám của Hàu không có sự sai
khác giữa các loài Sú, Vẹt và Đước nhưng có sự sai khác giữa mức độ bám
của trên 3 loài cây này với các loài cây khác. Mức độ bám của Quéo trên
cây Sú không có sự sai khác rõ rệt đối với cây Đước nhưng có sự sai khác
rõ rệt so với mức độ bám trên cây Sú và các loài cây khác. Mức độ bám
của Điệp không có sự sai khác giữa Sú và Đước, Vẹt và Đước, Vẹt và các
loại cây khác nhưng có sự sai khác rõ rệt giữa mức độ bám giữa Sú và Vẹt,
Sú và các loại cây khác, Đước và các loại cây khác. Như vậy, có thể thấy
rằng Sú, Vẹt, Đước là những kí chủ chủ yếu của động vật thân mềm sống
bám gây hại, trong đó Sú là kí chủ ưa thích nhất của cả ba loài động vật
thân mềm gây hại này.
3.4.2. Đánh giá ảnh hưởng của động vật thân mềm đến phát triển chiều
cao cây ngập mặn
Có nhiều yếu tố tác động đến sự phát triển chiều cao cây rừng ngập
mặn như: Nhiệt độ, ánh sáng, độ muối, chế độ thủy triều,…ĐVTM cũng là
một yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển chiều cao cây thông qua việc
ĐVTM bám trên cây bịt kín các lỗ khí trên cành, lá cây, làm ảnh hưởng
đến quá trình trao đổi khí và thải muối của cây. Sú là loài cây bị ảnh
hưởng nhiều nhất bởi ĐVTM. Vì vậy, sử dụng cây Sú làm đối tượng
nghiên cứu cho ra kết quả rõ ràng hơn về ảnh hưởng của ĐVTM tới phát



17

triển chiều cao cây. Tốc độ phát triển qua những tháng đầu của cây được
thể hiện trong bảng kết quả 3.15
Bảng 3.15. Ảnh hưởng của động vật thân mềm tới phát triển chiều cao
cây Sú (Aegiceras corniculatum); ( Vân Đồn, 3-9/2013)
Chiều cao
tăng
thêm Sau 1
Sau 2
Sau 3
Sau 4
Sau 5
Sau 6 tháng
(cm)
tháng
tháng
tháng
tháng
tháng
Công
thức
Cây có 1,36±0,1 2,83±0,2 1,81±0,4 1,48±0,4 1,57±0,2
1,06±0,07
ĐVTM
0
0
1
1
9

bám
Cây
không có 1,70±0,1 3,17±0,3 2,39±0,2 2,16±0,1 1,40±0,3 152,00±0,3
ĐVTM
5
9
8
7
7
6
bám
Prob
0,03
0,04
0,09
0,01
0,05
0,07
T- . =
tes T
t tính
-3,74
-3,17
-2,02
-4,85
2,74
-2,203
=
Kết quả phân tích thống kê cho thấy, tốc độ tăng trưởng chiều cao
cây Sú ở từng tháng là không giống nhau. Tháng thứ nhất, thứ 2 và tháng

thứ 4 sau trồng có ghi nhận sự khác nhau có ý nghĩa giữa tốc độ tăng
trưởng chiều cao các cây bị ĐVTM bám và các cây không bị ĐVTM bám.
Tuy sự chênh lệch tốc độ tăng trưởng chiều cao cây chưa rõ ràng trong tất
cả các tháng theo dõi nhưng ảnh hưởng của ĐVTM đối với chất lượng cây
là vấn đề đặt ra cho người trồng rừng.
Mức độ ảnh hưởng của động vật thân mềm chưa thể hiện rõ ở bảng
kết quả đánh giá ảnh hưởng của thân mềm tới phát triển chiều cao cây bởi
có rất nhiều khía cạnh trong nghiên cứu cần được quan tâm như cây có
động vật thân mềm bám nhưng bám ở mức độ nào, mật độ bám có đủ lớn
hay không là một vấn đề đặt ra. Để giải quyết bài toán này, ảnh hưởng của
mật độ ĐVTM sống bám trên cây được đưa vào các nghiên cứu tiếp theo.
3.4.3. Đánh giá tác động của mật độ động vật thân mềm gây hại đến cây
ngập mặn
Theo nghiên cứu về đặc tính sinh học, sinh thái của động vật
thân mềm, chu trình xâm nhập của thân mềm trên cây ngập mặn diễn ra
như sau: Khi cá thể bố mẹ thành thục, trứng và tinh trùng gặp nhau tạo
thành giao tử phát triển tự do trong nước, khoảng 20 ngày sau bắt đầu hình
thành tơ bám sẽ tìm bám trên vật chủ là gỗ, đá và cây ngập mặn. Sau khi
bám cố định vào vật chủ, chúng sẽ tiếp tục ở đó để sinh trưởng và phát
triển, tiếp tục cho ra các thế hệ sau. Trong quá trình sống, quá trình bắt
mồi, thải độc và các hoạt động của chúng gây ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng và phát triển của chính vật chủ mà chúng bám, ở mức độ nhẹ thì
gây còi cọc, ở mức độ nặng thì gây biến dạng cây thậm chí gây chết cây.


18

Kết quả theo dõi ảnh hưởng của mật độ ĐVTM sống bám tới cây ngập
mặn được thể hiện tại bảng 3.16
Bảng 3.16. Ảnh hưởng của mật độ thân mềm đến cây ngập mặn

(Vân Đồn, tháng 3 – 10/2013)
Cấp độ

Số lượng
ĐV thân mềm
(con/cây)
0 (Đối chứng)
1-5
6-10
11-15
16-20
>20

Cấp 0

Cấp 1

Cấp 3

Cấp 5

Cấp 7

x
x

x

x
x

x
x
x

Theo kết quả thí nghiệm được trình bày tại bảng kết quả 3.16, mật độ
TB của động vật thân mềm từ 1- 5 cá thể/cây thì các cây con dưới 3 tháng
tuổi không bị ảnh hưởng nhiều đến sinh trưởng phát triển, biểu hiện của
cây không có sự khác biệt so với đối chứng. Khi mật độ thân mềm từ 6-10
cá thể/cây thì cây có hiện tượng chậm phát triển lá non hơn ở đối chứng,
cây phát triển cấp độ 1. Khi mật độ động vật thân mềm từ 6 đến dưới 20 cá
thể/cây, cây phát triển cấp độ 3 và 5. Khi số lượng lên đến 20 cá thể /cây,
cây trở phát triển cấp độ 5 và cấp độ 7, cây còi cọc, không sinh trưởng và
phát triển được, thậm chí gây chết. Thí nghiệm với cả hai loài Hàu và
Quéo trên cây Sú đều cho ra kết quả như nhau. Tuy nhiên, theo khảo sát,
điều tra trong tự nhiên cũng như trong thí nhiệm, sự bắt gặp trên 15 cá thể
Hàu trên cùng một cây rất hiếm khi xảy ra. Điều này được giả thiết do Hàu
có kích thước lớn hơn Quéo, nhu cầu sử dụng thức ăn nhiều hơn nên mức
độ tập hợp thành đám bám trên cây sẽ thấp hơn của Quéo.
3.5. Giải pháp giảm thiểu tác hại của động vật thân mềm đối với cây
ngập mặn
3.5.1. Biện pháp dùng tay
Đây là biện pháp an toàn nhất đối với tự nhiên và các sản vật thủy
sản. Với điều kiện các địa phương dồi dào nhân lực, các khu rừng ngập
mặn được quản lý bởi các đơn vị bộ đội thì biện pháp này sẽ phù hợp, an
toàn và thậm chí cho thêm nguồn thu kinh tế đối với thân mềm thu được
trên các cánh rừng ngập mặn đó. Kết quả áp dụng biện pháp thủ công loại
bỏ động vật thân mềm bám trên cây ngập mặn sau trồng 3 tháng được thể
hiện tại bảng 3.18
Bảng 3.18. Kết quả áp dụng biện pháp thủ công loại bỏ động vật thân
mềm bám trên cây ngập mặn (Vân Đồn, 8-11/2013)



19

Chỉ tiêu
Loài ĐVTM

Số lượng

Khối lượng

(con/ha) Tỷ lệ ( %) (kg/ha)

Hàu (Saccostrea cucullata)

108

11,65

12

Tỷ lệ
(%)
40,54

Quéo (Brachyodontes emarginatus)

754

81,34


14

47,30

Điệp (Anomia cytaeum)

65

7,01

3,6

12,16

Tổng

927

29,6

Số liệu bảng 3.18 cho thấy, sau trồng 3 tháng gỡ bỏ động vật thân
mềm sống bám trên cây được số lượng cá thể của loài Quéo là lớn nhất
(754 con/ha, tương ứng với tỷ lệ 81,34% tổng số cá thể thu gom được),
tiếp đến là Hàu (108 con/ha, tương ứng với tỷ lệ 11,65% tổng số cá thể thu
gom được) thấp nhất là Điệp (65con/ha, tương ứng với tỷ lệ 7,01% tổng số
cá thể thu gom được), đồng thời tổng khối lượng cá thể của loài Quéo cũng
đạt cao nhất (14kg/ha, tương ứng với tỷ lệ 47,30% tổng khối lượng cá thể
thu gom được), Hàu (12kg/ha, tương ứng với tỷ lệ 40,54 % tổng khối
lượng cá thể thu gom được), loài Điệp có tổng khối lượng cá thể thấp nhất

là 3,6kg/ha tương ứng với tỷ lệ 12,16% tổng khối lượng cá thể thu gom
được. Tổng số lượng cá thể của động vật thân mềm sau một lần thu gom là
927 cá thể, đạt 29,6kg trong 1ha rừng ngập mặn nghiên cứu. Biện pháp thu
gom động vật thân mềm gây hại trên cây bằng phương pháp thủ công
không làm ô nhiễm môi trường nước, tránh gây hại cho các loài thủy sản
khác trong khu vực, sản phẩm động vật thân mềm thu được có thể dùng
trong chăn nuôi (theo phỏng vấn người dân bản địa tại Vân Đồn tháng 3
năm 2013).
3.5.2. Biện pháp dùng cọc tre
Bảng 3.19. Ảnh hưởng cọc tre đến mức độ bám của động vật thân
mềm trên cây ngập mặn (Vân Đồn, 7 – 11/2014 ).
Thời
gian 1 ngày
5 ngày
10 ngày
15 ngày
20 ngày
30 ngày
CT
Ô đối 00,00±00, 123,66±57, 163,00±51, 180,00±58, 212,34±43, 212,34±43,
chứng
00
7
02
38
61
61
Ô thí
00,00±00, 134,66±40, 152,67±31, 162,67±40, 187,00±23, 187,00±23,
nghiệm

00
41
7
50
30
30
Pro
0,26
0,36
0,275
0,36
0,36
T- b. =
tes T
t tính
-0,75
0,39
0,71
0,39
0,39
=


20

Động vật thân mềm sống bám có cấu tạo tơ bám để bám vào giá
thể, chúng sử dụng giá thể với mục đích bám trong suốt quá trình sống của
mình. Vì vậy, biện pháp bẫy giả được đưa ra nhằm giảm thiểu tỷ lệ bám
của độ ng vật thân mềm trên cây ngập mặn.
Kết qủa thể hiện trong bảng 3.19 cho thấy, không có sự sai khác

nhiều giữa công thức thí nghiệm có sử dụng cọc tre và công thức đối
chứng. Trong thời gian 30 ngày thí nghiệm nhận thấy, sau 1 ngày và 5
ngày sử dụng cọc tre, mật độ trung bình của động vật thân mềm bám trên
cây trong ô thí nghiệm không giảm, thậm chí cao hơn ô đối chứng nhưng
sang đến ngày thứ 10 thì có sự chênh lệch giữa hai công thức thí nghiệm
này. Mật độ trung bình của động vật thân mềm bám trên cây từ ngày thứ
10 đến hết 30 ngày ở công thức thí nghiệm có sử dụng cọc tre thấp hơn ở
công thức đối chứng. Tuy nhiên, không có sự sai khác thống kê ở hai công
thức này.
3.5.3. Biện pháp dùng lá xoan
Trong nuôi trồng thủy sản lá xoan rất thường được dùng để diệt
trùng mỏ neo và một số ngoại ký sinh trùng khác ký sinh trên cá. Theo báo
cáo điều tra về tình hình sử dụng thuốc nam trong nuôi trồng thủy sản của
Viện Nghiên cứu NTTS I năm 2006 cho thấy Lá Xoan và Tỏi là 2 loại thảo
dược được người nuôi Thủy sản trong 3 tỉnh (Thái Nguyên, Tuyên Quang
và Quảng Ninh) dùng nhiều nhất. Lá xoan sau khi thu hái tươi được bó lại
thành bó từ 3-5 kg và được dìm vào nước ao nuôi, khi ngâm lá xoan thôi
chất alkaloid tan ra có tác dụng diệt trùng mỏ neo rất mạnh. Thường một
sào ao bó 3-4 bó lá xoan dìm xuống nước ngập 20-40cm sau 7-10 ngày lá
xoan rời ra ta vớt bỏ cuống lá.
Lá xoan được chọn trong thí nghiệm bởi xoan là loại cây dễ tìm, dễ
trồng và có nhiều trong các địa phương. Lá xoan đã được sử dụng trong
khoa học và trong dân gian từ lâu để diệt trừ nhiều đối tượng gây hại cho
người và động - thực vật. Trong thí nghiệm này, Cây sú (Aegiceras
corniculatum) tiếp tục được lựa chọn làm giá bám để đảm bảo mức độ
đồng nhất và xuyên suốt trong các thí nghiệm. Kết quả được thể hiện tại
bảng 3.20
Bảng 3.20. Ảnh hưởng của lá xoan đến tỷ lệ bám của thân mềm trên
cây ngập mặn (Vân Đồn, 5 – 7/ 2014).
Thời gian 0 tuần

1 tuần 2 tuần
3 tuần
4 tuần
(% cây (% cây (% cây (% cây (% cây
Ô thí nghiệm
bị
TM bị TM bị TM bị
TM bị TM
bám)
bám)
bám)
bám)
bám)
Đối chứng
0
8
11
15
17
1
0
0
2
5
8
2
0
0
0
9

11
3
0
0
1
6
13
Bảng kết quả cho thấy, trong tuần đầu tiền ở cả 3 lô thí nghiệm có
ngâm lá xoan đều không thấy xuất hiện thân mềm bám trên cây, trong khi


21

đó ô đối chứng đã có sự xuất hiện của động vật thân mềm. Ô thí nghiệm 1,
động vật thân mềm bắt đầu xuất hiện trên cây ở tuần thứ 2, ô thí nghiệm 2,
động vật thân mềm bắt đầu xuất hiện trên cây ở tuần thứ 3, ô thí nghiệm 3,
động vật thân mềm bắt đầu xuất hiện trên cây ở tuần thứ 2. Kết quả cũng
cho thấy tỷ lệ bám của động vật thân mềm trên cây ngập mặn tại các ô thí
nghiệm trong 4 tuần cũng thấp hơn tỷ lệ bám của động vật thân mềm tại ô
đối chứng. Như vậy có thể thấy, lá xoan có ảnh hưởng đến động vật thân
mềm bám trên cây với việc tỷ lệ bám và thời gian bám của động vật thân
mềm ở thức thí nghiệm có sự biến động so với đối chứng.
Tuy biện pháp này có hiệu quả ban đầu nhưng chúng ta nhận thấy
rằng, hầu hết các loài thân mềm hai mảnh vỏ, kể cả thân mềm có hại và
thân mềm không gây hại đều có vòng sinh trưởng trải tương đồng nhau.
Vì vậy, nếu áp dụng biện pháp này thì cả thân mềm gây hại và không gây
hại đều bị ảnh hưởng. Thậm chí, một số loài thủy sản trong hệ sinh thái
này cũng bị ảnh hưởng bởi độc tính của lá xoan, dẫn đến suy giảm nguồn
lợi hệ sinh thái rừng ngập mặn.
3.5.4. Biện pháp hóa học

Ba loại thuốc hóa học được sử dụng trong nghiên cứu này là:
* Deadline Bullets 4%, chứa 4% hoạt chất gây hại do Mỹ sản xuất
* MILAX 100GB của công ty TNHH Hợp Trì, là thuốc dạng viên
bả mồi, có hoạt chất Metaldehyde cao (10%).
* PISANA 700WP của công ty TNHH Hợp Trì, là thuốc trừ ốc
có hoạt chất Niclosamide.
Sau 3 ngày, 7 ngày, 14 ngày sử dụng thuốc hóa học, kết quả thí
nghiệm hiệu lực của một số loại thuốc hóa học đến động vật thân mềm gây
hại trên cây ngập mặn được thể hiện tại bảng 3.21
Bảng 3.21. Hiệu lực của một số loại thuốc hóa học đến động
vật thân mềm gây hại trên cây ngập mặn (Vân Đồn, tháng 5- 7/2014).
Loại thuốc
Tỷ lệ thân mềm Tỷ lệ thân mềm
Tỷ lệ thân
bám sau 3 ngày bám sau 7 ngày mềm bám sau
phun thuốc
phun thuốc
14 ngày phun
(%)
(%)
thuốc
(%)
Deadline Bullets 4%
19,64
39,27
55,64
(CT 1)
MILAX 100GB (CT
14,29
33,85

54,35
2)
PISANA
18,69
43,94
60,1
700WP (CT 3)
Ghi chú: - Các loại thuốc hóa học được sử dụng theo hướng dẫn của nhà sản xuất
- “ CT”: Công thức

Sau 3 ngày phun thuốc hóa học, tỷ lệ xuất hiện của động vật thân
mềm bám trên cây ở công thức 2 là thấp nhất 14,29%, giảm 85,71% so với
đối chứng. Đến ngày thứ 14 sau phun, tỷ lệ động vật thân mềm bám thấp


22

nhất vẫn thuộc về công thức 2 với 54,35%. Hiệu lực của thuốc hóa học đối
với động vật thân mềm ở công thức 3 sau 3 ngày phun thuốc cao hơn công
thức 1 nhưng sau 7 ngày và 14 ngày phun thuốc kết quả cho thấy hiệu lực
của công thức 1 cao hơn công thức 3; công thức 2 cho hiệu lực cao nhất
với tỷ lệ động vật thân mềm xuất hiện thấp nhất trong 3 công thức thí
nghiệm ở tất cả thời điểm theo dõi.
Quan sát thí nghiệm nhận thấy rằng, sau 3 ngày phun thuốc vẫn
thấy sự xuất hiện của động vật thân mềm trên cây. Sau 7 ngày động vật
thân mềm đã có sự tăng trưởng về số lượng. Ba loại thuốc hóa học này đã
được phổ biến sử dụng diệt ốc bươu vàng cho hiệu lực diệt lên đến 100%
ốc trên ruộng (Số liệu của công ty TTHH phân bón Hợp Trì – nhà sản xuất
thuốc). Điều này cho thấy hiệu lực của thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trong
thí nghiệm đối với động vật thân mềm sống bám trên cây sự phát cho hiệu

lực thấp hơn diệt ốc bươu vàng trên đồng ruộng. Bên cạnh đó, sự lan
truyền của các ấu trùng động vật thân mềm từ nơi khác đến cũng là nguyên
nhân sự xuất hiện trở lại của động vật thân mềm bám trên cây. Mặt khác,
hiệu lực của thuốc giảm theo thời gian là do sự phân hủy của thuốc, do
mưa hoặc các nguồn nước xâm nhập khác không còn đủ nồng độ kìm hãm
sự phát triển của các loài động vật thân mềm. Tuy nhiên, qua theo dõi thí
nghiệm cũng nhận thấy, sau phun thuốc, ngoài việc suy giảm số lượng của
các loài thân mềm còn kéo theo sự suy giảm số lượng của các loài thủy sản
thường thấy tại khu vực như tôm, cá,…
3.6. Đề xuất các bước tổng hợp giảm thiểu tác hại của động vật thân mềm
đối với cây ngập mặn.
3.6.1. Các bước tổng hợp giảm thiểu tác hại của động vật thân mềm đối với
rừng trồng
Bước 1: Trồng cây ngập mặn cần xác định loài thực vật trồng phù
hợp với điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng khu vực trồng.
Bước 2 : Chuẩn bị đất, bón phân lót
Bước 3: Trồng cây.
Bước 4 : Sau khi trồng, chế độ chăm sóc phụ thuộc vào mỗi loài cây,
mỗi khu vực khác nhau.
Đối với động vật thân mềm gây hại, cần thực hiện các biện pháp làm
giảm thiểu ảnh hưởng của chúng đối với cây ngập mặn bằng các biện pháp
cắm cọc (bẫy giả), biện pháp thủ công, biện pháp dùng thảo dược và biện
pháp hóa học. Với biện pháp cắm cọc, nên dùng khi bắt đầu trồng cây vì
ngoài tác dụng làm giả giá bám cho động vật thân mềm, cọc tre còn giúp
cây đứng vững trước tác động của gió, dòng chảy và các tác động khác.
Biện pháp thủ công cần thực hiện thường xuyên (nên thực hiện theo chu
kỳ 2-3 tuần/lần) vì đây là biện pháp an toàn cho môi trường nước và sản
phẩm thu được (là các động vật thân mềm) có thể dùng trong chăn nuôi.
Khi mật độ động vật thân mềm bám cao mà biện pháp thủ công
không đạt hiệu quả mong muốn có thể dùng biện pháp thảo dược để hạn

chế sự gây hại của động vật thân mềm trên cây ngập mặn. Biện pháp hoá


23

học chỉ áp dụng khi tất cả các biện pháp thủ công, biện pháp bẫy giả và
biện pháp thảo dược không phát huy hiệu quả như mong muốn của người
trồng rừng (hoặc khi động vật thân mềm gây hại bùng phát thành dịch) vì
áp dụng biện pháp hóa học gây ra nguy cơ ô nhiễm môi trường.
3.6.2. Các bước tổng hợp giảm thiểu tác hại của động vật thân mềm đối với
rừng tự nhiên
Bước 1: Quản lý cây ngập mặn
Bước 2: Chăm sóc và bảo vệ cây
Bước 3: Các biện pháp bảo vệ cây
Cây con được sự bảo vệ của cây mẹ và các cây khác nên không cần
cắm cọc mà chỉ áp dụng các biện pháp thủ công, biện pháp thảo dược và
biện pháp hóa học để giảm thiểu tác hại của động vật thân mềm đối với
cây.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận
1. Đã điều tra được 52 loài động vật thân mềm tại 3 khu vực rừng ngập
mặn Cát Bà, Côn Đảo, Cần Giờ. Trong đó, khu vực rừng ngập mặn Cần
Giờ có mức độ đa dạng loài cao nhất, số loài điều tra được là 40 loài thuộc
18 họ (4 loài thuộc lớp chân bụng, 36 loài thuộc lớp hai mảnh vỏ), tiếp đến
là Cát Bà với 27 loài thuộc 16 họ gồm 4 loài thuộc lớp chân bụng và 23
loài thuộc lớp hai mảnh vỏ. Thấp nhất là khu vực rừng ngập mặn Côn Đảo
với số lượng 17 loài thuộc 13 họ, gồm 2 loài thuộc lớp chân bụng và 15
loài thuộc lớp hai mảnh vỏ.
2. Đã xác định được 4 loài động vật thân mềm sống bám và đục trên cây

ngập mặn là Điệp (Anomia cytaeum), Hàu lá (Saccostrea cucullata), Quéo
(Brachyodontes emarginatus) và Hà (Bankia saulii ). Ba loài Điệp
(Anomia cytaeum), Hàu lá (Saccostrea cucullata) và Quéo (Brachyodontes
emarginatus) bắt gặp phân bố ở cả 3 khu vực nghiên cứu là Cát Bà, Côn
Đảo, Cần Giờ, riêng loài Hà (Bankia saulii) chỉ tìm thấy tại khu vực rừng
ngập mặn Cần Giờ.
3. Quéo (Brachyodontes emarginatus) là loài động vật thân mềm có
mật độ bám cao nhất trên cây Sú (Aegiceras corniculatum). Mức độ các
loài động vật thân mềm bám trên cây Sú lần lượt là: mật độ TB của Hàu
(Saccostrea cucullata)75-75 con/100cây; Quéo (Brachyodontes
emarginatus) 123 -124 con/100cây, Điệp (Anomia cytaeum) 9 -10
con/100cây .
4. Cây ngập mặn giai đoạn từ dưới 3 tháng tuổi, khi mật độ động vật
thân mềm sống bám trên cây từ 0-5 con/cây không có biểu hiện rõ rệt về
ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng cây nhưng tới ngưỡng 20con/cây sẽ còi
cọc và gây chết cây.
5. Các biện pháp phòng trừ động vật thân mềm gây hại trên cây ngập
mặn cho kết quả:


×