Tải bản đầy đủ (.doc) (159 trang)

Luận án thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế xã hội hành lang quốc lộ 12 a tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 159 trang )

i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN

PHAN MẠNH HÙNG

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI HÀNH LANG QUỐC LỘ 12 A QUẢNG BÌNH

Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 62.31.01.05

TIẾN SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

1. PGS. TS BÙI TẤT THẮNG
2. TS. NGUYỄN BÁ ÂN

HÀ NỘI - 2016


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Toàn cầu hóa và nhất thể hóa kinh tế đã và đang trở thành xu thế tất yếu,


không thể đảo ngược của sự phát triển kinh tế thế giới trong thời đại hiện nay. Đặc
trưng chủ yếu của quá trình này là hình thành các mô hình hợp tác kinh tế khu vực
và trên phạm vi toàn cầu với sự hình thành các khu mậu dịch tự do quy mô khác
nhau, đan xen nhau. Các khu vực mậu dịch tự do tác động đến thương mại toàn cầu
và khu vực, khai thác triệt để những thế mạnh của mỗi quốc gia, mỗi địa phương,
tăng cường hợp tác, thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển. Tại Châu Á đã xuất hiện
nhiều mô hình hợp tác khu vực, trong đó có khu vực Tiểu vùng sông Mêkông mở
rộng (GMS) gồm các nước ASEAN (Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Myanma và tỉnh Vân Nam của CHND Trung Hoa). Từ đó tạo điều kiện kết nối các
trung tâm phát triển của các nước và địa phương khác nhau trong khu vực, hình
thành các hành lang kinh tế (HLKT), các mối quan hệ kinh tế khu vực như một tất
yếu khách quan theo xu thế phát triển chung về hợp tác kinh tế quốc tế.
Các HLKT giờ đây không chỉ hình thành trong nội bộ một vùng, một quốc
gia mà đã mở rộng trên phạm vi liên quốc gia và quốc tế. Đối với các quốc gia có
chung đường biên giới, chung không gian địa lý kinh tế thì sự hình thành, phát triển
các tuyến HLKT luôn là khách quan, nhằm tận dụng những lợi thế chung của toàn
vùng, đáp ứng nhu cầu phát triển vượt ra ngoài biên giới của mỗi địa phương, mỗi
quốc gia. Trong điều kiện đó, việc nâng cao khả năng cạnh tranh mỗi địa phương,
mỗi quốc gia là một nhu cầu cần thiết. Việc xác định và khai thác những cụm ngành
có lợi thế là giải pháp hữu hiệu nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.
Trong giai đoạn gần đây, cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế - xã
hội chung, việc mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống giao thông khu vực miền
Trung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện hình thành, phát triển các
vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) trên địa bàn tỉnh với hệ thống đô thị, các khu kinh
tế (KKT), khu công nghiệp (KCN) để tạo thành những hạt nhân lan tỏa thúc đẩy
phát triển kinh tế của các khu vực xung quanh. Tập trung phát triển mạnh công
nghiệp, dịch vụ được xem là khâu bứt phá để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo


2


hướng hiện đại. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp phụ trợ, phát triển kinh tế biển và
hình thành rõ nét những sản phẩm công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn có khả năng cạnh
tranh. Phát triển kinh tế kết hợp với phát triển xã hội. Phát huy nhân tố con người,
yếu tố quyết định đến nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn
để thu hút đầu tư. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng,
an ninh, trật tự an toàn xã hội.
Một trong những khâu đột phá đó là tập trung phát triển kinh tế - xã hội theo
tuyến hành lang quốc lộ 12 A Quảng Bình với trục giao thông chính là quốc lộ 12A
(HLQL 12 A Quảng Bình), nhằm mục tiêu gắn kết tỉnh với khu vực GMS, khai thác
triệt để những điều kiện và cơ hội phát triển thuận lợi do HLKT này mang lại.
HLKT Đông -Tây Quảng Bình được hình thành dựa trên trục quốc lộ 12A và các
huyện mà nó đi qua là Minh Hoá, Tuyên Hoá và Quảng Trạch. Phía Tây HLKT là
cửa khẩu quốc tế Cha Lo và phía Đông là KKT Hòn La gắn với cảng biển Hòn La
và cảng biển Vũng Áng tỉnh Hà Tĩnh; có liên hệ chặt chẽ với hành lang đường Hồ
Chí Minh qua tỉnh. Phát triển HLKT Đông- Tây Quảng Bình sẽ tạo điều kiện vừa
phát triển kinh tế theo hướng mở, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn tỉnh,
đặc biệt là đối với hai huyện miền núi Tuyên Hoá và Minh Hoá, tạo ra quan hệ hỗ
trợ, bổ sung phát triển giữa kinh tế miền núi và kinh tế ven biển ở phía Bắc tỉnh
Quảng Bình.
HLQL 12 A Quảng Bình không chỉ đem lại lợi ích kinh tế mà còn lợi ích
chính trị và xã hội. Trong giai đoạn hiện nay sự phát triển của HLQL 12 A Quảng
Bình góp phần tăng cường, mở rộng và nâng cao hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế,
thương mại trong vùng, lãnh thổ có tuyến hành lang đi qua; sử dụng có hiệu quả
hơn những tiềm năng sẵn có trong tuyến và bổ khuyết những hạn chế trong phát
triển kinh tế của từng địa phương trong tuyến một cách hiệu quả, nhằm tối đa hóa
lợi ích, giảm thiểu những yếu kém và bất cập, góp phần tạo ra ổn định chính trị và
an ninh trong toàn tuyến.
Trong thời gian qua các tuyến HLKT mà xương sống là các tuyến trục giao
thông huyết mạch giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội của cả nước

nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng. Thông qua việc thông thương, vận chuyển,
trao đổi thương mại, dịch vụ giữa các vùng đã góp phần tích cực trong sự phát triển


3

kinh tế xã hội trong thời kỳ hiện nay.
Tuy nhiên, việc tổ chức, phát triển các tuyến HLKT này chưa hợp lý, do vậy
hiệu quả đem lại chưa cao, nảy sinh sự lãng phí, bất cập trong quản lý, đặc biệt là
trong phát triển hệ thống các đô thị, các cụm, điểm công nghiệp, sự kết nối trên
tuyến trục hành lang chưa đồng bộ. Do đó, trong quá trình phát triển rất cần có các
giải pháp tích cực, hiệu quả, đồng bộ hơn nữa nhằm thúc đẩy sự hình thành và phát
triển bền vững các tuyến HLKT nói chung và tuyến HLQL 12 A nói riêng.
Ngày 6-1-2012, tại TP Ðồng Hới (Quảng Bình) đã diễn ra hội nghị cấp cao
lần thứ 15 các tỉnh thuộc ba nước Việt Nam - Lào - Thái Lan sử dụng đường 8 và
đường 12 để bàn giải pháp mở rộng không gian và lĩnh vực hợp tác giữa các địa
phương. Các tỉnh kiến nghị Chính phủ ba nước đưa đường 8 và đường 12 vào hiệp
định khung để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách và hàng hóa giữa các
nước GMS, với mục tiêu đạt được lợi thế hơn so với các khu vực hợp tác Đông Tây theo các tuyến đường khác, tạo thuận lợi cho người dân, phương tiện và hàng
hóa của ba nước qua lại. Các tỉnh cũng thống nhất xây dựng các trung tâm văn hóa
chung, xây dựng các điểm dừng chân, hoàn chỉnh đường quốc lộ 12A.
Với lợi thế về cung đường và nhất là sau khi cầu Hữu Nghị 3 được khánh
thành, đường xuyên Á đi qua cửa khẩu Cha Lo theo tuyến quốc lộ 12A là trục giao
thông chính phục vụ việc vận tải hàng hóa, tham quan du lịch của doanh nghiệp và
người dân ba nước Việt Nam, Lào, Thái Lan và đầu kia là Myanmar. Ðây là cơ hội
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình.
Sự phát triển HLKT quốc lộ Quảng Bình tạo mối liên hệ, đầu mối truyền tải
kinh tế và mở rộng thị trường hàng hóa giữa khu vực miền núi và vùng ven biển
tiến tới tạo sự hài hòa, cân bằng hợp lý về phát triển kinh tế và trao đổi hàng hóa
vốn có sự chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ này. Đồng thời tạo ra mối chuyển tải,

giao lưu kinh tế và mở rộng thị trường quốc tế đối ứng qua xuất nhập khẩu giữa
KKT cửa khẩu với trung tâm phát triển mới Hòn La. HLKT phát triển sẽ kéo theo
việc nâng cấp các thị xã, thị trấn, thị tứ, hình thành các điểm dân cư tập trung mới,
tạo môi trường kinh tế vi mô thuận lợi kích thích những khu vực chậm phát triển
phát triển, tạo mối quan hệ hỗ trợ, liên kết phát triển giữa các vùng phát triển với
kém phát triển dọc tuyến hành lang. Năng suất lao động tăng lên kéo theo tăng thu


4

nhập và nâng cao mức sống. HLKTQL 12 A Quảng Bình phát triển cũng sẽ kéo
theo những lĩnh vực khác phát triển như văn hóa, thể dục thể thao tạo sự giao lưu
giữa các vùng trong khu vực, từng bước nâng cao dân trí xóa bỏ sự khác biệt giữa
vùng núi và vùng biển, giữa khu vực đô thị và nông thôn.
Sự hình thành và phát triển kinh tế - xã hội HLKTQL 12 A Quảng Bình sẽ là
cơ sở để hành lang này khai thác những điều kiện và cơ hội phát triển do HLKT
Đông – Tây GMS mang lại, đồng thời đảm bảo vai trò hành lang giao lưu và hữu
nghị, hợp tác cùng phát triển giữa các địa phương của các nước dọc tuyến hành
lang, trước mắt là giữa tỉnh Khăm Muộn của Lào và Quảng Bình của Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Thực trạng và
giải pháp phát triển kinh tế - xã hội hành lang quốc lộ 12 A Quảng Bình” để
làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Kinh tế phát triển tại Viện Chiến lược phát
triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục tiêu tổng quát
Xác lập cơ sở khoa học cho việc luận chứng phát triển một HLKT trong điều
kiện hội nhập đầy đủ với các nước và các địa phương lân cận trong khu vực, đặc
biệt là trong điều kiện cả nước đang chuyển đổi sang một mô hình phát triển mới
cao hơn. Từ đó, luận án cung cấp thêm các căn cứ cho công tác quy hoạch và đề
xuất những giải pháp phát triển kinh tế - xã hội cho các địa phương trong những

năm tới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Về lý luận: Làm rõ những cơ sở khoa học của việc hình thành một HLKT,
cơ hội khai thác những điều kiện phát triển của các địa phương dọc tuyến hành lang.
- Về thực tiễn: Vận dụng những lý luận đã nghiên cứu để phân tích, đánh giá
những điều kiện phát triển của các địa phương dọc hành lang, khả năng đóng góp
của tuyến HLKTQL 12 A Quảng Bình đối với tỉnh Quảng Bình và cuối cùng đưa ra
những giải pháp để phát triển kinh tế hành lang trong giai đoạn phát triển tới.
3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cách tiếp cận
Luận án tiếp cận vấn đề từ nghiên cứu lý thuyết phát triển kinh tế chung đến


5

thực tế phát triển của một địa bàn. Từ đó xác định sự gắn kết giữa thực tế phát triển
của một HLKT với những căn cứ có tính chất khoa học của sự phát triển đó. Từ
nhìn nhận kinh tế mỗi địa phương là một hệ thống con trong một hệ thống lớn hơn;
HLKT QL12 A Quảng Bình trong HLKT Đông Tây các nước GMS; kinh tế Quảng
Bình trong nền kinh tế cả nước và khu vực GMS nói chung.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận án, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ
biến sau:
- Phương pháp phân tích hệ thống: đây là phương pháp, theo đó HLKT QL12
A Quảng Bình được nghiên cứu với tư cách là một hệ thống hình thành từ nhiều yếu
tố có quan hệ tương tác qua lại lẫn nhau. Đồng thời HLKT QL12 A Quảng Bình là
một hệ thống con của những hệ thống lớn hơn.v.v.. Sự phát triển của HLKT Đông –
Tây sẽ tác động đến quá trình phát triển của nền kinh tế Quảng Bình, vùng kinh tế
Bắc Trung Bộ, đặc biệt là toàn tuyến HLKT Đông –Tây của các nước GMS và
ngược lại.

- Phương pháp phân tích dữ liệu, số liệu: đây là phương pháp được sử dụng
để phân tích, lượng hóa các hoạt động kinh tế, xã hội, đánh giá hiệu quả và xu thế
phát triển của các hoạt động kinh tế và xã hội;
- Phương pháp nghiên cứu thực địa được sử dụng để đánh giá tính thực tế
của những thuận lợi, khó khăn về điều kiện tự nhiên, các yếu tố đầu vào về các điều
kiện tự nhiên và xã hội đối với các hoạt động kinh tế và xã hội. Đồng thời cũng
nhằm đánh giá những tác động ngược lại của các hoạt động kinh tế đối với môi
trường tự nhiên và xã hội xung quanh.
- Phương pháp dự báo: nhằm phân tích và dự báo xu thế của các chỉ tiêu
kinh tế cơ bản, các hoạt động kinh tế liên quan đến HLKT QL12 A Quảng Bình.
- Phương pháp chuyên gia được sử dụng nhằm bổ sung thông tin, trong quá
trình nghiên cứu, xây dựng luận án nhằm tham khảo, kiểm định mức độ tin cậy của
các nhận định, kết luận, kiến nghị của tác giả.
- Phương pháp so sánh: để so sánh các kết quả hoạt động kinh tế ở các thời
kỳ khác nhau, hoặc các không gian hay địa phương khác nhau nhằm dự báo hay đưa
ra những kết luận cần thiết.


6

- Phương pháp sơ đồ, biểu đồ, đồ thị: để thể hiện các ý tưởng trong phân tích
và minh họa các hiện tượng.
- Phương pháp SWOT: nhằm phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, những
cơ hội và thách thức từ đó đua ra phương hướng tận dụng điểm mạnh, cơ hội, khắc
phục những điểm yếu, thách thức để phát triển.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng đã sử dụng nhiều phương
pháp khác như hồi quy tương quan, quy nạp.v.v..Để hạn chế những khiếm khuyết
của mỗi phương pháp tác giả đã sử dụng phương pháp tổng hợp, đảm bảo độ tin cậy
cần thiết trong thực hiện nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là hướng tới tổ chức hợp lý HLKT QL12
A Quảng Bình, một bộ phận cấu thành của tuyến HLKT Đông – Tây khu vực
GMS, nhằm đảm bảo một môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, thu hút các nhà
đầu tư khai thác những thế mạnh và cơ hội phát triển của khu vực. Từ đây tạo động
lực phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình nói chung.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Mặc dù nghiên cứu tập trung vào tuyến trục HLKT
QL12 A Quảng Bình song mục tiêu hướng tới xem xét vai trò động lực của hành
lang này; tác động kéo đẩy của nó đối với toàn bộ nền kinh tế Quảng Bình và các
vùng lân cận thuộc Bắc Trung bộ. Vì vậy, về lãnh thổ giới hạn ở các huyện dọc
quốc lộ 12A nhưng về tác động kinh tế và xã hội thì đối với toàn bộ tỉnh Quảng
Bình và các địa bàn lân cận.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu từ khi hình thành HLKT Đông Tây của
khu vực GMS gắn với kỳ quy hoạch phát triển kinh tế xã hội các huyện dọc tuyến
HLKT QL12 A Quảng Bình.
- Phạm vi về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu cơ sở khoa học, điều
kiện hình thành sự liên kết giữa hành lang và các cụm ngành, định hướng và giải
pháp phát triển của hệ thống liên kết này.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Về lý luận: Luận án tập trung làm sáng tỏ vai trò động lực của HLKT trên


7

cơ sở nghiên cứu quan hệ của HLKT với các cụm ngành trong điểm thuộc các địa
phương dọc tuyến hành lang; tác động lan tỏa đối với toàn bộ nền kinh tế Quảng
Bình.
- Về thực tiễn: Luận án phân tích đánh giá toàn diện và khách quan các điều
kiện hình thành và phát triển HLKT QL12 A Quảng Bình, quan hệ ngược-xuôi giữa

tuyến quốc lộ 12A với các cụm ngành các địa phương dọc quốc lộ, từ đó hình thành
nên HLKT.
Luận án đề xuất định hướng phát triển đối với HLKT, các cụm ngành trọng
điểm của các huyện dọc hành lang; kiến nghị những giải pháp cơ bản phát triển
những cụm ngành này làm cơ sở phát huy vai trò động lực của HLKT QL12 A
Quảng Bình;
Cung cấp những luận cứu khoa học để các địa phương dọc hành lang liên
kết, phát huy lợi thế của mình tạo thành động lực phát triển chung của tỉnh.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gồm có các chương sau:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến HLKT
Chương 2: Cơ sở lý luận, thực tiễn về HLKT và sự phát triển của HLKT.
Chương 3: Thực trạng hình thành HLKT QL12 A Quảng Bình giai đoạn 20012013
Chương 4: Quan điểm, định hướng và giải pháp tiếp tục phát triển HLKT
QL12 A Quảng Bình giai đoạn tới.


8

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
HÀNH LANG KINH TẾ
1.1 Các công trình nước ngoài
Xem xét lịch sử phát triển kinh tế, từ giai đoạn tích lũy nguyên thủy đã có vai
trò của các HLKT. Các HLKT hình thành và phát triển một cách tự nhiên, theo yêu
cầu khách quan của quá trình phát triển. Một tuyến giao thống được xây dựng nhằm
khai thác một lợi thế nào đó của địa phương, vô hình chung đã trở thành lợi thế để
các địa bàn có tuyến giao thông đi qua khai thác những thế mạnh điều kiện tự nhiên
của mình. Nhờ đó kinh tế các địa phương dọc tuyến giao thông dần phát triển và đi
lên. Đến lượt mình nó trở thành những điều kiện yếu tố, điều kiện cầu hay các

ngành nghề phụ trợ hoặc liên quan cho các địa phương lân cận phát triển. Quá trình
phát triển lan tỏa này đã biến HLKT thành động lực phát triển cho cả vùng hay một
quốc gia.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hình thức tổ chức HLKT xuất hiện đầu tiên ở
Châu Âu và Bắc Mỹ những nơi có trình độ phát triển công nghiệp (khai thác mỏ, công
nghiệp) và giao thông hàng đầu thế giới . Ở Bắc Mỹ, ý tưởng cải cách của Tổng thống
Hoa Kỳ Abraham Lincoln khi cho xây dựng tuyến đường sắt xuyên nước Mỹ từ những
năm 1861-1876. Tuyến đường sắt xuyên lục địa Châu Mỹ ngoài cho phép kết nối bờ biển
phía Đông và phía Tây nước Mỹ, rút ngắn thời gian đi xuyên quốc gia, mà còn nhờ nó
người ta đã có thể khai phá được miền Tây hoang dã của nước Mỹ, góp phần to lớn vào
phát triển các trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa ở các địa phương đường sắt đi qua
[46].
Ở nước Nga, những năm cuối của thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tuyến đường
sắt xuyên Xibêri cũng đã được xây dựng nối vùng phía Tây với vùng Đông nước
Nga, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội các địa phương rộng lớn dọc
tuyến đường sắt, giúp nước Nga tiến ra Thái Bình Dương một cách nhanh chóng.
Hiện tại, trên tuyến đường này đã có 87 thành phố và hàng ngàn chi nhánh đường
sắt và đường bộ từ đây đi các địa phương và các nước trong khu vực châu Á như
Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên và các nước khác, trong đó có Việt Nam [45].


9

Nhiều ví dụ khác về sự hình thành các HLKT theo cách thức tương tự cũng
đã được nhiều học giả chỉ ra như “con đường tơ lụa” nối Trung Quốc với các nước
Nam Á, Trung Đông và Bắc Phi. Con đường giao lưu hàng hóa giữa các vùng này
đã tạo điều kiện cho kinh tế các địa phương “con đường tơ lụa” đi qua phát triển.
Các tài liệu nghiên cứu về HLKT đều có liên quan tới tổ chức không gian
kinh tế, nhằm đạt hiệu quả phát triển cao nhất đối với các địa bàn hành lang đi qua.
Có thể liệt kê một số nhận thức về HLKT và các công trình nghiên cứu liên quan

như sau:
- Một số viện nghiện cứu như Viện nghiên cứu phát triển vùng và tổ chức
lãnh thổ (Institute for Regional Development and Structural Planning (IRS) Erkner);
Viện sinh thái và phát triển vùng Leibniz) (Leibniz Institute of Ecological and
Regional Development (IOER) Dreden-Cộng hoà liên bang Đức [55]; Học giả Prf
Brian Mariian thuộc viện Quy hoạch phát triển và quy hoạch giao thông
(Intergrated Development Planning (IDP) & Intergrated Transport Planning (ITP)
khi nghiên cứu tổ hình thức chức lãnh thổ này, thường dùng khái niệm "Hành lang
phát triển" (Development Corridor), "Trục phát triển kinh tế" (Economic
Development Axis) [48]. Theo đó hành lang phát triển, trục phát triển kinh tế được
xem là một khu vực lãnh thổ nhất định dọc theo một tuyến trục giao thông nối các
hạt nhân với nhau. Sự liên kết giữa các trung tâm (hạt nhân) tạo nên động lực thúc
đẩy kinh tế theo chiều lan tỏa từ trung tâm hạt nhân ra các khu vực liền kề. Các
tuyến trục giao thông liên kết các trung tâm kinh tế có thể là trục giao thông đường
bộ, đường biển,…Các trung tâm hạt nhân chính trên các hành lang này phải được
phát triển đến một mức độ nhất định, sau đó thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy sự phát
triển của các trung tâm khác trên toàn bộ tuyến. Trên HLKT các tuyến trục giao
thông cho phép các phương tiện vận tải hoạt động thuận tiện đến các điểm đầu, cuối
và bên trong hành lang; các HLKT có vai trò đặc biệt quan trọng để liên kết toàn
khu vực và thúc đẩy phát triển kinh tế dọc theo hành lang này.
- Theo học giả Dr Campbell M.M, Meades EE thuộc khoa Đô thị và quy
hoạch vùng (Departerment of Regional Planning, University of Free State (Nam
Phi) [49] khái niệm "Trục phát triển kinh tế" là một tuyến trục đáp ứng các điều
kiện sau:


10

Hai đầu mối giao thông phải được liên kết của một trục giao thông;
Các trung tâm phụ thuộc lẫn nhau;

Sự tương tác đòi hỏi phải có tiềm năng để phát triển hơn nữa;
Trục phải tăng trưởng về kinh tế và nội lực.
Như vậy, thông qua nhận định trên của các học giả có thể nhận thấy để hình
thành HLKT nhất thiết cần phải có các tuyến trục giao thông, các hạt nhân trung
tâm và một vùng lãnh thổ đủ rộng dọc tuyến.
- Trong nghiên cứu lý luận chung về phát triển ở Nam Phi, tác giả Brian
Marrian Freeman, Ziv (2001) [48] đã xác định HLKT là một lãnh thổ nhất định dọc
theo một trục giao thông nhất định nối các hạt nhân với nhau. Sự liên kết giữa các
hạt nhân (trung tâm) với nhau tạo nên động lực thúc đẩy kinh tế phát triển theo
chiều lan tỏa từ trung tâm hạt nhân ra các khu vực liền kề. Không gian của HLKT
được xác định là khu vực rộng khoảng 2 km về mỗi bên của tuyến trục giao thông
chính. Tuyến trục này phát triển kết nối các mạng lưới giao thông trong toàn bộ khu
vực. Hoạt động của hành lang tạo điều kiện phát triển kinh tế, nâng cao dân trí và
mức sống của dân cư trong khu vực và vùng phụ cận. HLKT kết nối các đô thị, các
điểm dân cư dọc một trục giao thông chính, tạo điều kiện kết nối những lợi thế về
lao động, nguyên liệu các vùng phụ cận. Như vậy, công trình nghiên cứu này đã chỉ
ra những yếu tố cần và đủ để hình thành và phát triển HLKT. Tuy nhiên, việc giới
hạn hành lang chỉ 2 km cách trục giao thông chính là quá hẹp, chỉ đủ cho các cơ sở
sản xuất kinh doanh gắn liền với trục giao thông. Ở mức độ nào đó nên mở rộng
dọc theo các hệ thống giao thông dọc theo trục giao thông chính;
- Trong Nghiên cứu trường hợp Venezuela của J. Freidmann (1966) [52] tác
giả đã đưa ra quan niệm cơ bản về HLKT. Theo ông HLKT là một khu vực hẹp dọc
theo tuyến đường quan trọng kết nối 2 cửa “vào-ra” của tuyến. HLKT là dải đất liên
tục rộng khoảng 100 km, trục trung tâm là một tuyến đường giao thông chính là
đường quốc lộ, đường sắt và hệ thống các dạng cơ sở hạ tầng khác như đường điện,
ống dẫn nhiên liệu, cáp quang, ống dẫn nước.v.v.. Tuy nhiên, các vấn đề lý thuyết
do Freidmann đưa ra trước hết mới chỉ ở mức khái quát về quan niệm và một số
điều kiện hình thành của HLKT, chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể vai trò và đặc điểm
của việc tổ chức phát triển HLKT.



11

- Nghiên cứu quan niệm và phân loại về trục phát triển, Geyer H.S. (1988)
[53] đã đề cập đến khái niệm trục phát triển – một khái niệm tương đương với
HLKT theo cách hiểu hiện nay. Theo Geyer điều kiện tiên quyết để hình thành trục
phát triển là dựa trên một tuyến giao thông có sẵn, và có các điểm nút “vào-ra”- các
trung tâm kinh tế của tuyến trục, tạo nên các lực hút cho sự phát triển của toàn
tuyến. Các trung tâm kinh tế trên toàn tuyến trục trải qua 3 giai đoạn phát triển sơ
khai, tập trung-phát triển, bão hòa và suy thoái. Tuy nhiên sự bão hòa và suy thoái ở
đây mới chỉ nói đến mức độ liên kết của trung tâm này với sự phát triển của HLKT
mà không đề cập đến giai đoạn “sáng tạo” của trung tâm phát triển, sự lan tỏa của
nó vượt ra ngoài phạm vi của HLKT, đặc biệt trong điều kiện khu vực hóa và toàn
cầu hóa;
- Trong nghiên cứu về Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và sự
phát triển HLKT khu vực này (2011) [47] , tác giả Andy Sze đã phân tích, so sánh
một số chỉ tiêu trước và sau thời điểm NAFTA có hiệu lực từ đơn giản hóa các thủ
tục hành chính đến xuất khẩu, đầu tư trực tiếp sang các nước thành viên đến khối
lượng vận chuyển đặc biệt là đường bộ dọc theo các hành lang đều tăng lên đáng
kể; Tác giả phân chia sự phát triển hành lang thành các giai đoạn. Giai đoạn đầu
phát triển hành lang vận tải: Tập trung vào phát triển hệ thống giao thông, tư nhân
hóa, cổ phần hóa các tuyến đường đã tồn tại; giai đoạn 2 phát triển hành lang
thương mại và logistics: Loại bỏ các hàng rào thuế quan, đặc biệt là tạo thuận lợi
cho các chuyến tìm hiểu của các doanh nghiệp, trao đổi kinh doanh, tăng cường khả
năng thông quan, phát triển các trung tâm, các điểm hậu cần; và giai đoạn 3 là phát
triển HLKT: Với việc phát triển các đầu mối giao thông, các thành phố, thị trấn dọc
theo hành lang mà đã hình thành nên các chuỗi giá trị địa phương và liên kết những
chuỗi giá trị này với các chuỗi giá trị ngoài vùng và quốc tế; các cấp chính quyền
làm việc với khu vực tư nhân khuyến khích, xúc tiến đầu tư; tìm cách khai thác
những thế mạnh của mỗi địa phương.

Chính quyền từ cấp trung ương đến tỉnh và các huyện làm việc với các doanh
nghiệp tư nhân tạo dựng nên những liên minh phát triển hành lang (các tổ chức).
Qua quá trình phát triển người ta nhận thấy rằng nhờ NAFTA các HLKT Mexico đã
tiến gần hơn tới trình độ phát triển của 2 đối tác Mỹ và Canada. Từ đây tác giả rút ra
một loạt các bài học, đặc biệt là bài học về khuyến khích phát triển các cụm ngành


12

theo các chuỗi giá trị ở mỗi địa phương, liên kết với các chuỗi giá trị cấp lớn hơn và
quốc tế; phát triển một cách đồng bộ các thành phố, thị trấn, thị tứ dọc theo các
tuyến hành lang.
- Cũng về tác động của việc thành lập khu thương mại tự do NAFTA, giáo sư
Mary L, Walshok trường Đại học Tổng hợp California, San Diego năm 2009 [57]
đã công bố công trình nghiên cứu “ Hành lang và cụm ngành: cơ hội phát triển kinh
tế dựa trên công nghệ ở vùng San Diego-Baja California. Nhờ sự phát triển HLKT
này mà hai bên biên giới có thể khai thác các tiềm năng của nhau, hình thành những
cụm ngành có giá trị gia tăng cao, thúc đẩy kinh tế 2 bên biên giới phát triển, đặc
biệt là công nghệ sinh học và các ngành công nghệ cao khác; các cụm ngành hình
thành xuyên biên giới khu vực này bao gồm phần mềm, dịch vụ và hàng thể thao,
sản xuất xe có động cơ, công nghệ sinh học và dược, dịch vụ y tế sinh học, hàng
không vũ trụ và quốc phòng thu hút tới 49-50 nghìn lao động từ phía Mexico.
Trong bài báo “Phát triển các hành lang vùng trong hợp tác vùng" [64] tác
giả Pradeep Srivastava đã đưa ra các loại quy mô hành lang xác định trên cơ sở mức
độ ảnh hưởng của dự án cần thiết trong xây dựng hành lang. Có những dự án có tác
dụng xuyên biên giới, có những dự án lại không. Đó là hành lang quốc gia và hành
lang vùng. Một tuyến đường hay cao tốc nối 2 điểm với nhau là hành lang hẹp còn
hành lang rộng là bao gồm cả phần diện tích 2 bên. Sự di chuyển giữa các điểm
trong hành lang rộng có thể không sử dụng đến tuyến đường trục.
Khi xây dựng những chương trình phát triển của mình, đặc biệt đối với

GMS, ADB đã công bố một loại những báo cáo nghiên cứu về hội nhập kinh tế
vùng liên quan đến xây đựng các HLKT trong khu vực. Trong bài báo: “Thế nào là
phát triển HLKT và nó có thể đạt được gì trong các tiểu vùng của Châu Á” [54] tác
giả Hans-Peter Brunner đã khẳng định tính hiệu quả phát triển của HLKT và liệt kê
những đặc trưng cơ bản của HLKT đó là những đặc trưng về cơ cấu ngành, đặc
trưng về kết nối địa lý; những đặc trưng về khả năng tiếp cận như thời gian, chi phí
đi lại thấp, hậu cần hiệu quả; năng lực sắp xếp quá cảnh; năng lực về thị trường tài
chính và xuất khẩu.v.v…Đặc biệt, trong báo cáo, tác giả đã mô tả sự liên kết kinh tế
của địa phương với tuyến hành lang đi qua và động lực phát triển của hành lang
kinh tế.


13

Nguồn: Hans-Peter Brunner (2013) [54]
Hình 1.1 Sự kết nối giữa hành lang kinh tế và địa phương hành lang đi qua
Từ đây tác giả đã đưa ra một mô hình tăng trưởng đơn giản cho hành lang
kinh tế (hình 1.2)
Sơ đồ 1.2. cho thấy nó được xây dựng trên cơ sở mô hình “kim cương” của
Michael Porter, những yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế,
tạo điều kiện nâng cao năng suất, cuối cùng là tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ này cũng được Edward Feser và Stuart Sweeney phân tích khá
chi tiết trong báo cáo về phân tích cụm ngành vùng của mình [47]. Trong báo cáo,
hai tác giả đã phân tích nhiều về quan hệ giữa cụm ngành và khả năng cạnh tranh,
làm thế nào để sử dụng phân tích cụm ngành vào xây dựng chính sách phát triển.
Như vậy, thông qua những nhận định tóm tắt về các nghiên cứu của các học
giả nêu trên có thể nhận thấy để hình thành HLKT trước hết cần có một tuyến trục
đường giao thông, trục này có thể nối với các hệ thống đường giao thông địa



14

phương để tạo sự kết nối thành mạng lưới, đồng thời tạo thành một vùng lãnh thổ
đủ lớn dọc theo tuyến trục; trên trục có các hạt nhân trung tâm; các vùng có những
cụm ngành trọng điểm để có thể liên kết khai thác, kết nối thành chuỗi giá trị, thông
qua hành lang liên kết thành các chuỗi giá trị quy mô lớn hơn và có thể mang tầm
cỡ quốc tế.

Nguồn: Hans-Peter Brunner (2013) [54]
Hình 1. 2 Hành lang kinh tế và cơ chế tăng trưởng
1.2 Các công trình trong nước
Đối với Việt Nam, ý tưởng xây dựng và phát triển hành lang kinh tế cũng đã
có từ lâu, những năm 90 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, ý tưởng đó cũng chỉ thực sự
rõ nét sau cuộc họp Bộ trưởng các nước Tiểu vùng Mê Kông tại Manila, Philippin,
tháng 9 năm 1998. Từ đó phát triển các hành lang kinh tế luôn được các nước GMS
ưu tiên. Trong 11 chương trình hợp tác ưu tiên của các nước GMS thì có 3 chương


15

trình về phát triển hành lang kinh tế bao gồm i) Hành lang kinh tế Bắc – Nam; (ii)
Hành lang kinh tế Đông – Tây; (iii) Hành lang kinh tế phía Nam. Tại Hội nghị
Thượng đỉnh GMS lần 4, các nhà lãnh đạo GMS đã thông qua Khung chiến lược
Hợp tác mới GMS giai đoạn 2012 – 2022 ưu tiên tập trung vào các lĩnh vực phát
triển các hành lang kinh tế tiểu vùng, tăng cường kết nối giao thông, phát triển năng
lượng bền vững, nâng cao hiệu quả môi trường.
Trên cơ sở đó, với tư cách là nước thành viên, các Bộ ngành Việt Nam đã
tham gia đóng góp tích cực vào những đề án phát triển các hành lang kinh tế. Nhiều
chủ trương, chính sách liên quan đã được xây dựng, thực thi như về hoạt động xuất
nhập khẩu, xuất nhập cảnh; chính sách vận tải hàng quá cảnh; thủ tục kiểm tra hải

quan cửa khẩu; chính sách cư dân vùng biên giới; nhiều khu kinh tế cửa khẩu đã
hình thành và hoạt động hiệu quả trên các tuyến hành lang kinh tế.v.v…
Bên cạnh đó nhiều học giả cũng đã nghiên cứu vấn đề nay, tiêu biểu có một
số học giả sau:
Theo TS. Nguyễn Văn Lịch (2001), "HLKT là một tuyến trục nối liền về mặt
địa lý tự nhiên các vùng lãnh thổ của một hoặc nhiều quốc gia nhằm mục đích liên
kết hỗ trợ lẫn nhau để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các khu vực địa kinh tế nằm trên cùng một dải theo trục giao thông thuận lợi nhất đối với sự lưu
thông hàng hóa và liên kết kinh tế giữa các vùng bên trong, cũng như các vùng cận
kề với hành lang này"[22].
Trong nghiên cứu phát triển thương mại khu vực HLKT Hải Phòng-Lào CaiCôn Minh trong bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc
của Viện Nghiên cứu Thương mại- Bộ Công Thương (2004) [43], các tác giả đã dự
báo những tác động của việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung
Quốc tới việc phát triển thương mại của HLKT và đề xuất những giải pháp thúc đẩy
phát triển thương mại trên HLKT. Do nghiên cứu chỉ tập trung vào lĩnh vực thương
mại nên những tác động của việc thành lập khu vực mậu dịch tự do đối với phát
triển HLKT cũng chỉ hạn hẹp ở mức xác định khả năng giảm chi phí lưu thông hàng
hóa nội địa và xuất khẩu; thúc đẩy trao đổi hàng hóa, giao lưu kinh tế giữa các vùng
của HLKT với các địa bàn khác ở Trung Quốc. Do đó, nghiên cứu chưa xác định


16

đầy đủ các điều kiện, yếu tố thúc đẩy sự phát triển nói chung của HLKT.
Theo PGS, TS Ngô Doãn Vịnh [7], [8] "HLKT là kết quả một trong tuyến
trục giao thông gắn với sự phân bổ tập trung các hoạt động kinh tế (có sự phối hợp
chặt chẽ dọc tuyến". Nhờ sự phát triển và phân bổ như vậy đã tạo ra các yếu tố
thuận lợi cho sự phát triển toàn tuyến, làm cho các hoạt động kinh tế của tuyến trở
thành đầu tàu lôi kéo sự phát triển chung".
Trong luận văn “Phát triển HLKT quốc lộ 18 trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam” tác giả Vũ Đình Hòa đã đi sâu làm rõ những vấn đề

lý luận về HLKT, tiếp cận nghiên cứu những tiêu chí đánh giá điều kiện hình thành
và phát triển các HLKT; những vấn đề thực tiễn liên quan đến HLKT quốc lộ 18.
Từ đó nêu ra những định hướng và giải pháp phát triển HLKT đường 18, góp phần
thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) đất nước.
Khi tổng quan những nghiên cứu ở nước ngoài về hành lang kinh tế, tác giả
đã rất quan tâm đến vai trò của các cụm ngành trong phát triển hành lang kinh tế
(Hans-Peter Brunner, Mary L, Walshok). Ở Việt Nam những nghiên cứu này còn ít.
Tuy nhiên, về riêng lẻ có những nghiên cứu mà trên cơ sở đó chúng ta có thể
xác định được vai trò của cụm ngành đối với phát triển hành lang kinh tế. PGS, TS.
Nguyễn Đình Tài, Viện nghiên cứu Phát triển kinh tế-xã hội và Quản lý doanh
nghiệp, trong nghiên cứu “Hình thành và phát triển cụm liên kết ngành ở Việt Nam:
Một lựa chọn chính sách” [9] đã nhấn mạnh cụm liên kết ngành (CLKN), (thuật ngữ
tác giả dùng để chỉ cụm ngành) sẽ tạo ra những yếu tố nền tảng nâng cao khả năng
cạnh tranh thông qua một số các thành tố sau:

(1) Việc tham gia vào CLKN sẽ giúp các doanh nghiệp có cơ hội tăng năng suất.
Họ có khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào, thông tin, công nghệ, nguồn nhân lực
và nhà cung cấp dễ dàng hơn, có được các hỗ trợ tốt hơn do mức độ tập trung quy
mô của một lĩnh vực, nhận được sự hỗ trợ tốt hơn từ phía chính phủ và thụ hưởng
các dịch vụ công do hiệu quả tập trung của nhu cầu.

(2) Việc hình thành CLKN sẽ thúc đẩy quá trình sáng tạo và đổi mới. Ngoài việc
thúc ép các doanh nghiệp phải gia tăng năng suất, sức ép cạnh tranh trong cụm


17

buộc họ phải đổi mới liên tục. Sức ép cạnh tranh do các khách hàng muốn có sự
lựa chọn các nhà cung cấp tốt hơn trong cụm cũng làm cho các doanh nghiệp phải
liên tục cải tiến. Mức độ tập trung cao trong một khu vực khiến cho các hoạt động

học hỏi của các doanh nghiệp diễn ra nhanh hơn, càng tạo sức ép cho các thay đổi.
Thêm vào đó, với việc liên kết và trao đổi với các tổ chức nghiên cứu, các trường
đại học trong khu vực, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội hơn để tiếp cận những thành
tựu mới nhất của khoa học và công nghệ.

(3) CLKN có tác động quan trọng đến việc hình thành các doanh nghiệp mới trong
ngành hoặc trong các ngành có liên quan. Sự tập trung cao và sự gia tăng nhu cầu
đầu vào, đầu ra của các doanh nghiệp hiện có luôn tạo ra những cơ hội cho các
doanh nghiệp mới thành lập. Các doanh nghiệp có xu hướng chọn các nhà cung
cấp trong cụm để hạn chế rủi ro cũng như tăng cường khả năng kiểm soát đầu vào.
Mức độ tập trung các doanh nghiệp sẽ dẫn đến sự gia tăng các nhu cầu về dịch vụ,
các sản phẩm trung gian, thông tin,... Đây là cơ hội cho các doanh nghiệp mới
tham gia vào thị trường.
Trong đề án nghiên cứu xây dựng Quy hoạch Tổng thể phát triển kinh tế xã
hội tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 1786/QĐ-TTg, ngày 27/11/2012 (tỉnh láng giềng, có
nhiều đặc điểm giống Quảng Bình), cách tiếp cận từ nghiên cứu các cụm ngành trọng
điểm gắn liền với những tiềm năng thế mạnh của tỉnh đã được công ty tư vấn Tập
đoàn Monitor (Hoa Kỳ) và Công ty Urbis (Hồng Công) sử dụng rất hợp lý. Trong
phần tổng quan về phương pháp luận và phương thức tiếp cận mới đối với công tác
quy hoạch các tác giả đã đề cao vai trò của cụm ngành và cho rằng cụm ngành “là
cách tổ chức hoạt động phát triển kinh tế” trong giai đoạn phát triển hiện nay[21].
Trên cơ sở tìm hiểu những nghiên cứu trong, ngoài nước thời gian qua có thể
thấy HLKT là một hình thức tổ chức lãnh thổ được nghiên cứu lâu nay trên phạm vi
thế giới và Việt Nam, và được đặc biệt quan tâm khi hội nhập kinh tế quốc tế trở
nên sâu rộng, vai trò của năng lực cạnh tranh quốc gia và vùng lãnh thổ trở thành
tiêu chí đánh giá quan trọng đối với quá trình tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia
và vùng lãnh thổ. Những nghiên cứu này đã cung cấp những cách nhìn nhận và giải



18

quyết vấn đề với những cấp độ khác nhau. Tác giả luận án đã tổng quan và kế thừa
có chọn lọc cơ sở khoa học về HLKT để áp dụng phù hợp với điều kiện của Việt
Nam và cụ thể hơn đối với hành lang Quốc lộ 12A tỉnh Quảng Bình.
1.3. Những vấn đề nghiên cứu và cách tiếp cận trong luận án
1.3.1. Những vấn đề nghiên cứu trong luận án
Như đã trình bày ở những phần trước đã có nhiều công trình nghiên cứu trong
và ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án. Nhiều kết quả nghiên cứu
của các công trình đó sẽ được kế thừa trong nghiên cứu các vấn đề của luận án. Tuy
nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu về HLKT dọc quốc lộ 12A trong phạm vi
tỉnh Quảng Bình, nhằm kết hợp giữa thế mạnh các địa phương dọc hành lang của
Quảng Bình với các lợi thế mà HLKT Đông – Tây của GMS đem lại. Đặc biệt là việc
xây dựng hành lang phát triển kinh tế trên cơ sở gắn kết trục giao thông, trục thương
mại, hệ thống kết cấu hạ tầng liên quan với các cụm ngành đặc trưng của những địa
bàn dọc tuyến hành lang, giúp nâng cao khả năng cạnh tranh cho các nền kinh tế địa
phương dọc hành lang, tạo cơ sở vững chắc cho việc nâng cao năng suất lao động xã
hội, tăng thu nhập và thúc đẩy tăng trưởng cho toàn tuyến HLKT Đông –Tây Quảng
Bình, dọc quốc lộ 12A, hội nhập đầy đủ và sâu rộng vào kinh tế khu vực. Vì vậy, đề
tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội hành lang quốc
lộ 12 A Quảng Bình” không trùng lắp với các công trình đã được công bố. Hy vọng
những nội dung của luận án sẽ góp được phần nào vào công tác xây dựng quy hoạch
phát triển kinh tế-xã hội hiện nay ở các địa phương.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên tác giả đã xác định những vấn đề luận
án cần giải quyết như sau:
Luận giải và làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiến về phát triển hành lang
kinh tế trong điều kiện liên kết với tiềm năng phát triển kinh tế các địa phương dọc
tuyến hành lang:
Phân tích làm rõ đặc điểm của hành lang kinh tế trong điều kiện hội nhập
kinh tế, đặc biệt là trong việc thực thi các hiệp định về thương mại tự do;

Làm rõ các điều kiện liên kết kinh tế các địa phương dọc tuyến hành lang với
HLKT (GMS);


19

Nghiên cứu vai trò động lực của HLKT đối với kinh tế địa phương thông
quan nghiên cứu liên kết các cụm ngành địa phương với HLKT.
Phân tích và đánh giá các điều kiện phát triển, xác định quan điểm, định
hướng phát triển và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế-xã hội HLKT tuyến
quốc lộ 12A.
1.3.2. Cách tiếp cận nghiên cứu của luận án
Hành lang kinh tế quốc lộ 12A Quảng Bình là phần cuối của hành lang Đông
Tây các nước Tiểu vùng Mê Kông mở rộng kéo dài từ miền Trung Myanma qua
Thái Lan, Lào và cuối cùng là khu vực ven biển Miền Trung Việt Nam. Mục đích
của nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội hành lang quốc lộ 12A Quảng Bình là tìm
ra phương hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ, thực hiện phát triển kinh tế -xã hội
hiệu quả, bền vững nhất đối với hành lang trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu
rộng trong khu vực và với bên ngoài. Vì vậy, tác giả đề xuất cách tiếp cận nghiên
cứu bao gồm các bước với những nội dung chủ yếu sau:
1) Thống nhất nhận định về các điều kiện phát triển hành lang kinh tế, vai trò
động lực của các cụm ngành trọng điểm đối với sự phát triển của hành lang
kinh tế.
Mục đích của bước này là, căn cứ vào những cơ sở lý luận và thực tiễn diễn
ra trên thế giới và ở Việt Nam về phát triển HLKT làm rõ các điều kiện hình thành
của một HLKT; làm rõ vai trò của các cụm ngành trọng điểm trong việc kết hợp
khai thác lợi thế do hành lang mang lại với phát huy những lợi thế so sánh của các
địa phương dọc tuyến hành lang, nâng cao khả năng cạnh tranh của các địa phương
này, đặc biệt là những các doanh nghiệp hoạt động trong những lĩnh vực lợi thế của
địa phương. Cuối cùng là nâng cao năng suất nền sản xuất xã hội, đẩy mạnh tăng

trưởng kinh tế khu vực hành lang đi qua.
Những nội dung này được thể hiện trong chương II của luận án.
2) Phân tích, đánh giá các điều kiện, các yếu tố bên trong và bên ngoài đối với
sự phát triển kinh tế-xã hội tuyến hành lang quốc lộ 12A Quảng bình.
Mục đích của bước này là xác định những yếu tố tác động lên hiện trạng và
tương lai phát triển kinh tế- xã hội của tuyến hành lang quốc lộ 12A Quảng Bình.
Trước hết là các điều kiện về tự nhiên và xã hội, tài nguyên thiên nhiên, hệ thống


20

kết cấu hạ tầng. Đặc biệt là hệ thống kết cấu hạ tầng liên quan của tuyến hành lang
Đông Tây GMS và các dịch vụ liên quan như thương mại, du lịch,
logistics.v.v..Thực trạng và tương lai phát triển các địa bàn và vùng ảnh hưởng
(toàn tỉnh Quảng Bình, vùng Bắc Trung bộ và cả nước nói chung đối với những khu
vực liên quan).
Nội dung của bước 2 được trình bày ở chương III.
3) Xác định hệ thống quan điểm, định hướng và phương án phát triển kinh tế
-xã hội HLKT Quốc lộ 12A tỉnh Quảng Bình, làm căn cứ chi tiết hóa các chỉ
tiêu phát triển kinh tế, xã hội theo ngành, lĩnh vực.
Trên cơ sở những kết luận rút ra từ các bước 1 và 2 xây dựng hệ thống các
quan điểm nhằm giới hạn một lộ trình phát triển đúng đắn, hợp lý, xác định những
định hướng phát triển cần thiết cho các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn;
chính từ đây ngoài các mục tiêu xã hội như giáo dục, y tế, các chỉ tiêu về phát triển
bền vững , nhằm hướng tới những mục tiêu chung của cả nước nói chung và của
tỉnh Quảng Bình nói riêng về những lĩnh vực này, hướng tới một mặt bằng chung về
mức sống dân cư, thì những cụm ngành trọng điểm, phản ánh những lợi thế cạnh
tranh của từng huyện dọc hành lang sẽ được quan tâm đặc biệt. Những cụm ngành
trọng điểm phát triển trên những lợi thế của địa phương và những điều kiện thuận
lợi do HLKT Đông –Tây GMS mang lại sẽ là động lực tăng trưởng kinh tế cho khu

vực hành lang (sự khác biệt giữa ngành và cụm ngành xem ở chương I).
Bước này được thể hiện ở chương IV
4) Đề xuất các biện pháp thực hiện các mục tiêu và định hướng phát triển đề ra
ở bước trước về phát triển kinh tế -xã hội HLKT Quốc lộ 12A tỉnh Quảng
Bình.
Mục đích của bước này là nhằm đưa ra các giải pháp nhằm tổ chức, xây dựng
không gian kinh tế-xã hội HLKT Quốc lộ 12A tỉnh Quảng Bình sao cho đồng bộ,
phát triển ổn định, bền vững, tào thế cạnh tranh vững trãi cho các địa phương và các
doanh nghiệp trên địa bàn. Dự kiến đề xuất các nhóm giải pháp về cơ chế, chính
sách, thu hút nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát
triển, liên kết vùng hợp tác với bên ngoài, về bảo vệ môi trường, phát triển bền


21

vững và phòng chống thiên tai. Bước 4 được thể hiện ở chương IV.
Như vậy có thể khái quát quy trình nghiên cứu phát triển kinh tế - xã hội
HLKTQL 12A tỉnh Quảng Bình, hay khung lý thuyết cho nghiên cứu như sau:

Hình 1. 3 Khung lý thuyết nghiên cứu
* Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận án tập trung tổng quan lại những nghiên cứu trên thế giới
và Việt Nam về việc hình thành và phát triển HLKT và những vấn đề liên quan, đặc
biệt làm rõ cách tổ chức lãnh thổ và vai trò của HLKT trong những điều kiện hội
nhập kinh tế và giai đoạn phát triển mới của cả nước nói chung và Quảng Bình nói
riêng. Từ đó xác định cách tiếp cận đối với việc tổ chức HLKT QL12 A Quảng
Bình. Có thể liệt kê một số nhận định và đề xuất từ chương 1 của luận án như sau:
HLKT là một hiện tượng kinh tế khách quan, đã tồn tại và đã được nghiên
cứu từ lâu trên thế giới. Tuy tên gọi, phạm vi, cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau
song đều thống nhất về quan niệm và sự cần thiết phát triển HLKT trong tổ chức

kinh tế-xã hội của một lãnh thổ, một quốc gia hay một vùng. Cụ thể, HLKT phải
gắn liền với một tuyến trục giao thông nào đó, kết nối các trung tâm kinh tế với vai
trò là các cực phát triển có khả năng “kéo”, “đẩy”, lan tỏa phát triển, tạo sự phát
triển “bổ sung” giữa các địa bàn dọc hành lang và cuối cùng là thúc đẩy tăng trưởng


22

và phát triển kinh tế - xã hội cho cả tuyến hành lang;
Ở Việt Nam các HLKT đang được hình thành, hầu hết mới ở dạng các trục
giao thông, hành lang thương mại. Vì vậy những nghiên cứu về lĩnh vực này không
nhiều, còn hạn chế. Hầu hết nội dung của những nghiên cứu này mới chỉ đề cập tới
những vấn đề riêng lẻ. Đặc biệt chưa đi sâu nghiên cứu cách tiếp cận tổ chức HLKT
trong điều kiện hội nhập sâu rộng nền kinh tế khu vực, theo hướng khai thác những
lợi thế về nâng cao khả năng cạnh tranh của mỗi địa phương, biến HLKT thành
động lực phát triển đối với khu vực, trong đó có HLKTQL12 A Quảng Bình;
Xuất phát từ những nhận định trên, từ thực tiễn phát triển kinh tế và nhu cầu
tái cơ cấu, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế trong phạm vi cả nước nói chung
và ở Quảng Bình nói riêng luận án sẽ tập trung vào nghiên cứu những vấn đề sau:
(i) luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển HLKT trong điều kiện
mới của Việt Nam hiện nay. Đó là từ năm 2015 Việt Nam sẽ hội nhập sâu rộng vào
kinh tế thế giới và khu vực; hình thành cộng đồng các nước ASEAN, đặc biệt là
hàng loạt các hiệp định thương mại tự do có hiệu lực, sự cạnh tranh không chỉ diễn
ra giữa các doanh nghiệp Việt Nam mà còn với các doanh nghiệp nước ngoài ngay
trên thị trường trong nước; (ii) phân tích các yếu tố hình thành HLKT Đông –Tây
Quảng Bình, bao gồm điều kiện tự nhiên, xuất phát điểm, những lợi thế, những cụm
ngành trọng điểm các địa phương quốc lộ 12A chạy qua; (iii) xác định quan điểm,
định hướng phát triển HLKT QL12 A Quảng Bình theo hướng kết nối các cụm
ngành trọng điểm của các địa phương với các điều kiện do hành lang giao thông,
thương mại quốc lộ 12A tạo ra. Từ đó tạo chức năng động lực của HLKT đối với

kinh tế Quảng Bình nói chung;
Để thực hiện các mục tiêu và nội dung nghiên cứu luận án sẽ sử dụng các
phương pháp nghiên cứu như đã nêu ở phần mở đầu nhằm đảm bảo những yêu cầu
về lôgích và tính khoa học của luận án.


23

Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VỀ HÀNH LANG KINH TẾ
VÀ PHÁT TRIỂN HÀNH LANG KINH TẾ

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Các khái niệm liên quan
2.1.1.1. Khái niệm về hành lang kinh tế
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đưa ra khái niệm HLKT là "Một khu
vực địa lý đặc biệt và ở đó tồn tại cơ chế gắn liền với nhau về sản xuất, buôn bán và
cơ sở hạ tầng; HLKT sẽ bổ sung cho hành lang giao thông chủ yếu, nhờ đó nâng
cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy phát triển và hợp tác kinh tế giữa các nước hoặc khu
vực liền kề nhau" như một sáng kiến thúc đẩy hợp tác kinh tế ở GMS.
HLKT không phải là vấn đề mới, trên thế giới đã có nhiều tổ chức, cá nhân
nghiên cứu khái niệm này, tuy có những quan điểm, khái niệm chưa đồng nhất
nhưng xét về nội hàm là tương đối giống nhau. Sự giống nhau thể hiện qua không
gian lãnh thổ, sự kết nối của tuyến trục giao thông, các hạt nhân liên kết tạo các cực
phát triển với các cửa "vào - ra".
Tham khảo kết quả nghiên cứu của một số học giả thuật ngữ “HLKT”
(Economic corridor) được dùng chủ yếu để chỉ một khu vực rộng lớn trải dài dọc
theo hai bên một trục giao thông huyết mạch (đường bộ, đường sắt, đường thủy) đã
có hoặc chuẩn bị xây dựng. Tuyến đường trục này cho phép giao thông thuận tiện
đến các điểm đầu, cuối và bên trong hành lang phát triển đó, có vai trò đặc biệt quan

trọng để liên kết toàn khu vực và thúc đẩy phát triển kinh tế dọc theo hành lang này.
Việc hình thành “HLKT” dựa trên một cơ sở chung là lợi ích thu được từ sự hợp tác
khu vực dọc theo các tuyến trục giao thông của hành lang. “HLKT” là một hình
thức hợp tác tiểu vùng giữa các nước láng giềng. Mục tiêu chủ yếu của việc hình
thành HLKT là nhằm phát huy lợi thế của một thị trường khu vực rộng hơn, tạo
điều kiện cho các địa phương trong tuyến hành lang, về mọi phương diện mở rộng
được giao lưu kinh tế, thương mại, du lịch, vận tải quá cảnh, trao đổi văn hóa và gìn
giữ an ninh giữa 2 nước láng giềng và tiểu vùng nói chung.
Xác định các chương trình hợp tác giữa các tỉnh, huyện thuộc tuyến hành


24

lang và giữa các nước. Tăng cường hữu nghị và giữ gìn an ninh biên giới.
Khái niệm HLKT gần nghĩa với hành lang phát triển. Tuy nhiên, theo tác giả
khái niệm hành lang phát triển có nghĩa hẹp hơn. Hành lang phát triển có thể là trục
giao thông đường bộ, đường biển, các mạch ống dẫn dầu, mạng viễn thông…và
trong nhiều trường hợp mục tiêu xây dựng hành lang phát triển nhằm phát triển một
ngành nào đó như hành lang dược phẩm, hành lang du lịch… Tuy nhiên trong nhiều
trường hợp hai khái niệm này được sử dụng giống nhau, dùng để chỉ sự phát triển
của một khu vực địa lý nhất định được liên kết bởi một trục (tuyến) giao thông.
Trong đề tài này, hai khái niệm nêu trên được sử dụng như nhau. HLKT là một
tuyến (trục nối liền về mặt địa lý tự nhiên các vùng lãnh thổ của một hoặc nhiều
quốc gia nhằm mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để khai thác có hiệu quả lợi thế so
sánh của các khu vực địa – kinh tế nằm trên cùng một dải theo trục giao thông thuận
lợi nhất đối với sự lưu thông hàng hóa và liên kết kinh tế giữa các vùng bên trong
cũng như các vùng cận kề với hành lang này. Tuyến liên kết này được hình thành
trên cơ sở hệ thống kết cấu hạ tầng đa dạng, có khả năng tạo ra sự phát triển của
nhiều ngành kinh tế, làm thay đổi căn bản diện mạo kinh tế của một vùng nhất định
thuộc một hoặc nhiều quốc gia mà HLKT đi qua và góp phần đáng kể vào tăng

trưởng kinh tế của các quốc gia đó.
HLKT phát triển còn góp phần đẩy mạnh hợp tác và cân đối các chính sách
như hải quan, thuế quan, cũng như ngân hàng-tài chính, tạo điều kiện cho các luồng
hàng hóa, vốn và lao động chu chuyển qua biên giới quốc gia. Để đưa HLKT phát
triển vào thực tế hoạt động, sự hợp tác này không chỉ dừng lại ở tầm quốc gia, mà
còn phát triển theo chiều sâu thành các mối quan hệ chính thức của chính quyền địa
phương.
Phát triển giao lưu kinh tế nhờ các hoạt động thương mại qua biên giới sẽ làm
tăng thêm sự hiểu biết lẫn nhau về văn hóa, từ đó cải thiện an ninh biên giới. Mức
sống và chất lượng cuộc sống của người dân sinh sống trong khu vực HLKT sẽ được
nâng lên, tạo điều kiện cho giáo dục tốt hơn, y tế được cải thiện và củng cố hơn an
toàn xã hội. Ngoài lợi ích mang lại cho khu vực và mỗi quốc gia, hành lang phát triển
còn thúc đẩy mối quan hệ hợp tác giữa các địa phương mà hành lang đi qua.
Từ các phân tích trên đây tác giả rút ra một số điểm cơ bản sau:


×