Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Báo cáo thực tập di sản văn hoá huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.71 KB, 20 trang )

Báo cáo thực tâp
LỜI MỞ ĐẦU
Hoàn cảnh sản sinh và lược trình phát triển nền kiến trúc dân tộc gắn liền với lịch sử
dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Đó là một đoạn đường lịch sử dài mấy ngàn năm
đầy hy sinh gian khổ, đầy khí phách anh hùng; đấu tranh khó khăn ác liệt để chinh phục
thiên nhiên, tồn tại và phát triển giống nòi; chiến đấu anh dũng ngoan cường để bảo vệ
toàn vẹn lãnh thổ, giành độc lập tự do cho đất nước và xây dựng, gìn giữ bản sắc văn hoá,
ông cha ta đã để lại nhiều công trình vô giá, đáng để ngày nay chúng ta tìm hiểu, tự hào
và trân trọng bảo tồn.
Những công trình cổ ngày nay còn lại hầu hết được xây dựng trong thời kỳ phong kiến
(trước thế kỷ XIX). Nền kinh tế phong kiến hoàn toàn dựa vào nông nghiệp và nền kinh tế
tự cung tự cấp. Chính quyền phong kiến phát triển trong điều kiện quyền sở hữu tối cao
về ruộng đất thuộc về nhà vua và hạn chế thương nghiệp mở mang. Sản phẩm thặng dư
của người nông dân và thợ thủ công là để cung cấp cho vua chúa, tầng lớp quý tộc và bộ
máy quan lại, do đó kiến trúc nhà ở dân gian nói chung đều đơn sơ, nhỏ bé. Những cung
điện, lâu đài của vua chúa, dinh thự của các quan viên và một số công trình văn hoá - tôn
giáo tín ngưỡng do huy động, tập trung sức người, vật tư của nhân dân lao động tạo ra có
quy mô và tồn tại lâu dài. Song trải qua những năm tháng của thời gian và thiên nhiên
khắc nghiệt lại thêm chiến tranh giữ nước chống giặc ngoại xâm, các phe phái phong kiến
tranh giành quyền lực, các cuộc khỏi nghĩa nông dân vùng lên chống đối thế lực cầm
quyền khiến cho nội chiến liên miên, nhiều công trình kiến trúc đã bị phá huỷ và hình ảnh
chỉ còn đôi nét sơ lược lưu lại trên sử sách.
DI SẢN VĂN HOÁ HUẾ
Huế ngày nay còn bảo lưu được một khối lượng lớn những di sản vật chất và tinh thần
mang tính văn hoá nghệ thuật truyền thống của Việt Nam. Trong gần 400 năm (15581945), Huế là trung tâm chính tn và văn hoá của Đàng trong, rồi trở thành Kinh đô của cả
đất nước thống nhất. Bao nhiêu tinh hoa của mấy thế kỷ đã hội tụ về miền núi Ngự sông
Hương thơ mộng hữu tình để tạo lên ở đây một vùng văn hoá, rồi đặc tính văn hoá ấy đã
toả ra nhiều địa phương trong nước.
Phía Bắc sông Hương, kinh thành với diện tích hơn 500 ha và chu vi hơn 10 km đã
được xây dựng để bảo vệ cho mọi cơ quan và các sinh hoạt hành chính của triều đình.
Xây dựng suốt 27 năm (1805-1832) với hàng triệu công nhân. Kinh thành Huế là một kỳ




Báo cáo thực tâp
công của của dân tộc. Bên trong kinh thành là Đại Nội, gồm Hoàng Thành và Tử Cấm
Thành, với hơn 100 công trình kiến truc lớn nhỏ, trong đó có hàng chục cung điẹn lộng
lẫy vàng son, dành cho vua cùng các đình thần làm việc và hoàng gia ăn ở.
Phía Nam sông Hương là 7 khu lăng tẩm của các vua từ Gia Long đến Khải Định.
Lăng tẩm các vua nhà Nguyễn là những tinh hoa nghệ thuật mà chủ nhân của nó đã tạo ra
khi còn tại vị, để sau đó trở thành cõi sống vĩnh cửu của mình ở thế giới bên kia. Chính
nhờ vẻ đẹp mỹ miều đầy chất triết lý mà lăng tẩm Huế đã được đánh giá là một thành tựu
rực rỡ nhất trong nền kiến trúc cổ của đất nước ta và được xem là một kỳ quan của thế
giới.
Nằm xen kẽ giữa các khu vực kiến trúc nghệ thuật ấy là đàn Nam Giao (nơi vua tế
trời), Hồ Quyền (chỗ voi cọp đấu nhau), Văn Miếu (với 32 tấm bia tiến sĩ), điện Hòn
Chén (nơi thờ Thánh Mẫu Thiên Y-A-Na), núi Ngự Bình, đồi Vọng Cảnh, núi Bạch Mã,
Cầu Ngói Thanh Toàn và đặc biệt nhất là dòng sông Hương rộng lớn.
Là thủ đô phật giáo của Việt Nam một thời, Huế có hàng chục ngôi chùa nổi tiếng toạ
lạc giữa những thung lũng của vùng gò đồi tĩnh mịch hay trong các thôn làng hẻo lánh.
Huế cũng là thành phố của nhà vườn, với bao nhiêu ngôi nhà cổ nép mình trong những
xóm phường yên ả giữa lòng cố đô.
Các nhà nghiên cứu mỹ thuật sẽ hài lòng khi đến xem khoảng một vạn hiện vật quí bằng
đủ mọi chất liệu đang được trưng bầy và giữ gìn tại bảo tàng mỹ thuật Cung đình Huế do
triều Nguyễn để lại. Đây là một bảo tàng lịch sử và có giá trị ở vùng Đông Nam Á và
từng được hệt kê vào danh sách những Bảo tàng lớn trên thế giới.
Người Huế đã duy trì được nhiều nét đẹp truyền thống trong nếp sống hàng ngày. Đến
Huế, có thể thưởng thức hàng trăm món ăn chay, ăn mặn tùy theo thời tiết của 4 mùa, nấu
nướng bằng phương thức và đặc sản của địa phương, cũng có thể thưởng thức những món
ăn tinh thần cổ truyền qua những buổi trình diễn các điệu múa hát cung đình, những đêm
trăng du thuyền nghe ca Huế trên sông Hương, những cuộc biểu diễn thả diều với cả chục
loại diều khác nhau bay lượn giữa bầu trời lộng gió, những lễ hội dân gian truyền thống

v.v...
Huế gìn giữ thuần phong mỹ tục và các thành tựu văn hoá nghệ thuật của dân tộc. Huế
tiếp thu những tinh hoa của nền văn hoá từ bốn phương, nhưng lại có sức đề kháng với


Báo cáo thực tâp
những gì ngoại nhập có thể làm mình bị tha hoá.
Với phong cách riêng, kiến trúc tinh tế ở đây đã hoà điệu với ngoại cảnh thiên nhiên
xinh xắn để góp phần tạo nên sắc thái nghệ thuật Huế. Người ta bảo nền kiến trúc là kiến
trúc cảnh quan. Cả ba yếu tố thiên nhiên, kiến trúc và con người ở Huế đã hoà quyện với
nhau để Huế trở nên một vùng đất của thơ, nhạc, của tâm hồn.
I. SƠ LƯỢC KIẾN TRÚC HOÀNG THÀNH HUẾ
l. 1. Thành quách và cung điện:
Qua các triều đại trong lịch sử thời quân chủ Việt nam. Triều Nguyễn là triều đại quân
chủ cuối cùng. Nó chấm dứt cách đây hon nửa thể kỷ. Dù đã bị thiên tai, chiến tranh tàn
phá, nhung hệ thống thành quách cung đình và các công trình kiến trúc cung đình khác đã
đuợc xây dựng một cách vững chắc và phong phú, nên phần lớn còn đứng vững đến ngày
nay.
Không kể đàn Nam Giao, Hồ Quyền và những lăng tẩm các vua nhà Nguyễn tách ra
một cụm ở phía Nam sông Huơng, Huế còn bảo lưu khoảng 200 công trình kiến trúc cung
đình lớn nhỏ đã được qui hoạch và xây dựng một cách có bài bản và có hệ thống ở bờ Bắc
dòng sông ấy. Trong qui hoạch mặt bằng của tổng thể kiến trúc, đây là trung tâm sinh
hoạt chính của triều đình, nơi làm việc và ăn ở của vua quan và hoàng gia nhà Nguyễn.
Tất cả cung điện, lâu đài, đền miếu, bộ viện, nha sở và các công ốc ở đó đều được bảo
vệ cẩn mật và phòng thủ chặt chẽ bằng một hệ thống thành quách, đồn bốt và hào luỹ rất
kiên cố. Hệ thống thành quách dùng để phòng vệ ấy bao gồm ba vòng thành ngoài lớn
trong nhỏ là: Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử
Cấm Thành. Ở bên ngoài góc đông bắc của Kinh Thành, còn có thêm một thành phụ chu
vi khoảng 1.000 m là Trấn Bình Đài, còn gọi là đồn mang cá. Hầu hết các công trình kiến
trúc đó đều đã được làm ra trong 3 thập niên đầu thế kỷ XIX dưới thời vua Gia Long

(1802-1819) và vua Minh Mạng(1820-1840).
Kinh thành được xây dựng theo kiểu Vauban (tên một kỹ sư công binh người Pháp
sống vào thế kỷ XVII), diện tích rộng đến 520 ha, chu vi hơn 10.000
m, chiều cao 6,60 m, chiều dày 21 m (giữa đắp bằng đất, hai mặt tường trong và ngoài ốp
bằng gạch). Thành có trổ 10 cửa để ra vào, dựa theo phương hướng để đặt tên, ví dụ: cửa
Đông Nam, thường gọi là cửa Thượng Tứ; cửa Chánh Đông, thường gọi là cửa Đông Ba;
cửa Tây Bắc thưòng gọi là cửa An Hoà, cửa Tây Nam gọi là cửa Hữu...


Báo cáo thực tâp
Dựa vào các nguyên tắc địa lý phong thuỷ của Đông Phương và thuyết âm dương ngũ
hành của Dịch học, các nhà kiến trúc đầu thế kỷ XIX đã cho hệ thống thành quách và
cung điện ấy quay mặt về hướng Nam. Họ đã dùng núi Ngự Bình cao 104 m (cách bờ
nam sông Hương 3 km) làm tiền án và hai hòn đảo nhỏ mang tên Cồn Hến và Dã Viên
trên sông Hương làm “Tả Thanh Long, Hữu Bạch Hổ” chầu vào trước mặt Kinh thành.
Gần chân thành có đào một hệ thống hào chạy quanh bốn mặt thành và ngoài hào
khoảng 200 m còn đào một hệ thống sông sâu và rộng hơn gọi là Hộ Thành Hà. Hai hệ
thống đường thuỷ này tạo thành hai chướng ngại vật dùng để tăng cường thêm cho công
việc bảo vệ Thành nội.
Trên các mặt thành đều có xây các pháo đài, giác bảo, pháo nhân, tường bắn, vọng
lâu...để canh gác, phòng thủ. Ở giữa mặt tiền Kinh thành là Kỳ Đài cao lớn uy nghi.
Bên trong Kinh thành có hàng chục công thự của triều đình như Lục Bộ, viện cơ mật,
viện Đô sát, viện bảo tàng, trường Quốc Tử Giám, Quốc sử Quán, Lầu Tàng Thơ, phủ
Tôn Nhơn.. .Ngoài ra còn có hồ Tịnh Tâm, sông Ngự Hà để vua đi chơi bằng thuyền
rồng.
Được kết hợp các nguyên tắc kiến trúc Đông Phương lẫn Phương Tây và vận dụng
vào điều kiện địa lý tại chổ để xây dựng một cách thích hợp và tự nhiên, kinh thành Huế
là các thành vĩ đại và kiên cố nhất so với các Kinh đô khác trong lịch sử Việt Nam. Xây
dựng trong 27 năm (1805-1832) với hàng triệu nhân công huy động từ nhiều địa phương
trên cả nước, Kinh thành Huế là một tác phẩm kiến trúc nghệ thuật độc đáo, một kỳ công

của dân tộc.
Nằm trong lòng Kinh Thành là Hoàng Thành và Tử Cấm Thành, gọi chung là Đại Nội.
Đây là trung tâm sinh hoạt chính trị và hành chính quan trọng nhất của triều đình và là noi
ăn chốn ở của nhà vua và gia đình rất đông đảo.
Đại Nội đuợc xây dựng chính thức vào năm 1833. Xung quanh có tất cả 10 chiếc cầu
bắc qua hào. Mỗi mặt thành trổ một cửa để ra vào. Mặt trứơc là cửa Ngọ Môn dành cho
vua đi khi có đoàn ngự đạo theo hầu; mặt sau là cửa Hoà Bình dành cho vua đi chơi; Mặt
trái là cửa Hiển Nhơn dành cho các quan lại và lính tráng phục vụ ra vào làm việc; và mặt
phải là cửa Chuơng Đức dành riêng cho nữ giới trong nội cung.


Báo cáo thực tâp
1.2. Kinh thành:
Trong đợt thi công đầu tiên vào mùa hè năm 1805, khoảng 3 vạn dân và lính đã đuợc
huy động từ các tỉnh miền trung về Huế để ngăn sông, đào hào và đắp lên một cái thành
sơ khỏi bằng đất. Nguời ta ngăn chặn và đắp lấp một số đoạn của hai chi lưu bên tả ngạn
sông Hương là sông Kim Long và sông Bạch Yến, đồng thời lợi dụng một số khúc sông
còn lại để làm các hồ và hai con kênh: một ở trong thành là Ngụ Hà và một ở ngoài thành
là Hộ Thành Hà. Riêng Hộ Thành Hà dài 7 km, rộng 35 m đã được đào bằng tay.
Đến năm 1818, các quan Hoàng Công Lý, Trương Phúc Đặng, Nguyễn Đức s đứng ra
trông coi khoảng 8 vạn dân và lính gọi từ các địa phương về để xây gạch ốp vào hai mặt
tiền và mặt hữu của kinh thành. Còn mặt tả và mặt hậu thì được xây gạch ốp năm 1822.
Trong hai năm 1831 và 1832, vua Minh Mạng cho xây thêm tường bắn trồng lên trên mặt
ngoài của vòng thành. Sau đó kinh thành còn được tu bổ vào các năm 1838, 1842, 1848
và 1884.
Mười cửa thành được xây dựng vào năm 1809, nhưng các vọng lầu trên cửa thì đến
những năm 1824, 1829 và 1831 mới thực hiện .
Một số bộ phận quan hệ mật thiết và gắn liền với bản thân vòng thành ấy là Trần Bình
Đài (xây năm 1805), Kỳ Đài (1807), Quan Tượng Đài (1836). Còn có hàng chục công
trình kiến trúc khác của các cơ quan liên hệ mật thiết với sinh hoạt của triều đình cũng đã

được xây dựng bên trong và bvên ngoài Kinh
Thành, như Lục Bộ (1827), Quốc Sử Quán (1821), Lầu Tàng Thơ giữa hồ Học Hải
(1825), Quốc Tử Giám (1821, 1908), viện bảo tàng (1923), Tôn Nhơn Phủ (1832), Cơ
Mật Viện, tức Tam Toà (1899), Phu Văn Lầu (1819), Nghênh Lương Đình, Thương Bạc
Viện (1875)...
Công cuộc xây dựng kinh thành Huế và các bộ phận phụ thuộc của nó đã tốn rất nhiều
thời gian, công sức và vật liệu.
Kinh thành Huế có hình gần như vuông, chu vi hơn 11 Km. Thân thành dầy 21 m, cao
6,6 m. Diện tích mặt bằng 5,2 Km2, chưa kể phần đất dùng để thiết lập hệ thống phòng
ngự ở ngoại vi kinh thành.
Về vị trí, phương hướng của kinh thành, các nhà kiến trúc Việt Nam thời Gia Long đã
áp dụng các nguyên tắc âm dương ngũ hành của Dịch Học, kinh thành quay mặt về hướng
nam. Nghệ thuật kiến trúc Việt Nam biểu lộ rõ nét nhất là ở những vọng lâu bên trên các


Báo cáo thực tâp
của thành: mái lợp ngói âm dương, bốn góc uốn hình con phụng, mặt trong của vọng lâu
lại khoét hai bên chữ thọ lớn, làm toàn bộ vọng lâu giống như một cái miếu cổ.
Kinh thành Huế chịu ảnh hưởng của 2 dòng kiến trúc Âu Á.
Về nghệ thuật bố phòng quân sự, kinh thành Huế được xây dựng theo kiểu thành luỹ
của Vauban: Xung quanh xây 24 pháo đài và giác bảo, cùng thành phụ là Trần Bình Đài.
Tất cả các bộ phận đó cùng với vòng đai bảo vệ bên ngoài là Hộ Thành Hà, hào thành
giai, phòng lộ... tạo nên một hệ thống bố phòng rất nghiêm ngặt và vững chắc.
Tính nghệ thuật và kỹ thuật thuộc hai dòng kiến trúc vừa nói đã được phối hợp và vận
dụng một cách khéo léo và thích ứng vào thực địa của miền núi Ngự sông Hương.
Cho nên, trong gần 2 thế kỷ nay, nhiều nhà văn hoá, nhiều nhà chuyên môn về quy
hoạch, kiến trúc quân sự và dân sự trên thế giới cũng như trong nước đã ca ngợi công
trình kiến trúc này.
1.3. Đại Nội (Hoàng Thành và Tử Cấm Thành):
Nhìn chung, trải qua 13 đời vua từ Gia Long đến Bảo Đại (1802 - 1945), tất cả mọi

công trình kiến trúc trong Đại Nội đều đã thêm bớt, cải biến, thay đổi vị trí và tính chất
nghệ thuật một phần nào tuỳ theo sở thích, sở truờng của từng đời vua cũng nhu từng thời
đại. Tuy nhiên, cái cốt cách chính của nó vẫn là của thời Gia Long và Minh Mạng.
Mặt bằng Đại Nội xây theo hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng 600 m. Thành xung
quanh xây bằng gạch có bề dầy lm, chiều cao 4 m. Bên ngoài thành có hệ thống hào, gọi
là Kim Thuỷ Hồ, để bảo vệ thành. Mỗi mặt thành trổ 1 cửa để ra vào. Có 10 cầu đá bắc
qua hào để thông thuong ra ngoài.
Với hon 100 công trình kiến trúc đẹp, mặt bằng Đại Nội chia ra làm nhiều khu vực
khác nhau, giữ các chức năng riêng biệt và quanh mỗi khu vực đều có xây tuờng để ngăn
cách nhau. Các khu vực chính là:
1. Từ cửa Ngọ Môn đến điện Thái Hoà: đây là noi cử hành các cuộc đại lễ của triều
đình nhu: lễ đăng quang, lễ vạn thọ (sinh nhật vua), lễ nguyên đán, lễ duyệt binh.. .và lế
đại triều mỗi tháng hai lần.
2. Triệu Miếu, Thái Miếu, Hung Miếu, Thế Miếu và điện Phụng Tiên là những khu
vực dành riêng để thờ các vua chúa nhà Nguyễn. Tại đây, ngoài 5 toà miếu điện chính,
còn có khoảng 30 công trình kiến trúc phụ thuộc.
3. Cung Diện Thọ và cung Truờng Sanh, mỗi cung có một toà điện chính ở giữa và


Báo cáo thực tâp
hon 10 toà nhà phụ ở chung quanh. Đây là noi dành riêng cho Hoàng Thái Hậu (mẹ vua)
và Thái Hoàng Thái Hậu (bà nội vua) ăn ở.
4. Phủ nội vụ: Đây là các kho tàng trữ đồ quý, các xuỏng thủ công mỹ nghệ chế tạo
đồ vàng, bạc, ngọc ngà, gấm vóc.. .cho triều đình và hoàng gia sử dụng.
5. Vuờn Co Hạ và điện Khâm Văn: noi học tập và choi đùa của các hoàng tử và
Hoàng nữ khi chua xuất phủ.
6. Tử Cấm Thành: là khu vực quan trọng nhất so với các khu vực kia, Tử Cấm Thành
có mặt bằng hình vuông, mỗi cạnh trên duới 300 m. Vòng tuòng thành xung quanh xây
bằng gạch cao 3,50 m, ngăn cách noi sinh hoạt của nhà vua và Hoàng gia với bên ngoài.
Trong Tử Cấm Thành có gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ bao gồm nhiều cung điện

huy hoàng tráng lệ lộng lẫy vàng son. Chung quanh thành trổ 7 cửa đẻ ra vào, mà cửa
chính mặt thành phía truớc là Đại Cung Môn chỉ dành riêng cho vua đi. Vừa buớc vào
khỏi cửa này là đối diện ngay với điện Cầm Chánh là noi vua làm việc hàng ngày. Hai
bên sân điện là Tả Vu, Hữu Vu và Đông Các. Hai bên điện nay là điện Văn Minh và điện
Võ Hiển quay mặt về cùng một huớng nhu nó. Cách một tấm bình phong dài là điện Càn
Thanh, noi vua ở. Cách một cái san nữa là cung Khôn Thái, noi ở của Hoàng Quí Phi
(Hoàng Hậu), rồi đến lầu Kiến Trung xây thời Khải Định. Hai bên dãy cung điện ấy còn
có điện Quang Minh, điện Trinh Minh, điện Duỡng Tâm, Tĩnh Quang Đuờng (chỗ nấu ăn
cho vua), Thái Bình Lâu (noi vua đọc sách), gắn liền với Thiệu Phuong Viên là vuờn Ngự
Uyển với những hồ ao, đình tạ, cầu cống.. .và đối xứng bên kia là Lục Viện, thế giới của
Phi tần cung nữ, hoạn quan, noi đã diễn ra bao nhiêu chuyện thâm cung bí sử duới thời 13
vua nhà Nguyễn.
Chú thích mặt bằng tổng thể kiến trúc Thành Nội:
1. Ngọ Môn.
2. Cửu vị Thần công
3. Hồ Thái Dịch

4. Cầu Trung Đạo

5. Cửa Hiển Nhon

6. Cửa Chuông Đức

7. Cửa Hòa Bình

8. Sân Đại Triều

9. Điện Thái Hòa

10. Triệu Miếu


11. Thái Miếu
13. Thế Miếu

12. Hung Miếu
14. Cửu Đỉnh

15. Hiển Lâm Các

16. Điện Phụng Tiên


Báo cáo thực tâp
17. Cung Điện Thọ

18. Cung Truờng Sanh

19. Phủ Nội Vụ

20. Vuờn Hạ Co

21. Đại Cung Môn

22. Vạc Đồng

24. Tả, Hữu Vu 26. Điện Khôn Thái 28. Ngự Tiền Văn Phòng 30. Vuờn Ngự Uyển 32.
Luc Viên
23. Điện Cần Chánh 25. Điện Càn Thành 27. Lầu Kiến Trung 29. Thái Bình Lâu 31.
Duyệt Thị Đuờng
1.4. Ngọ Môn:

Ngọ Môn là cổng chính cũng là bộ mặt của Hoàng Thành. Mặc dù đã trải qua hơn một
thế kỷ ruỡi với bao cơn bão táp của thiên nhiên và chiến tranh tàn phá, nhung nhờ có kỹ
thuật xây dựng khéo léo và vững chắc, Ngọ Môn vẫn đứng vững với thời gian để trở
thành một trong những công trình kiến trúc cổ tiêu biểu nhất.
Ngọ Môn chia ra làm hai hệ thống:
- Hệ thống nền đài: Cao gần 5 m, nền đài xây trên một mặt bằng hình chữ u vuông
góc, đáy dài 57,77 m và cánh 27,06 m. Vật liệu chính là gạch vồ, đá thanh và đồng thau.
Ở phần giữa của nền đài trổ ra ba lối đi song song nhau: Ngọ Môn (dành cho vua đi), Tả
Giáp Môn và Hữu Giáp Môn (dành cho các quan văn võ theo hầu trong đoàn Ngự đạo), ở
trong lòng mỗi cánh chữ u là một lối đi đuờng hầm chạy xuyên suốt từ trong ra ngoài, rồi
bẻ thẳng góc vào phía đuờng Dũng đạo. Hai lối đi lối đi này đuợc gọi là Tả Dịch Môn và
Hữu Dịch Môn (dành cho lính tráng và voi ngựa theo hầu), ở phần trên của 5 lối đi đều
xây cuốn thành vòm cao, nhung riêng ở hai đầu 3 lối đi giữa thì các nhà kiến trúc thời
Minh Mạng lại thiết kế những hệ thống xà ngang và xà dọc bằng đồng thau với tiết diện
15 cm X 12 cm để gia cố cho sức chịu lực từ lầu Ngũ Phụng nằm trên đài. Nơi nào chịu
đựng trọng luợng càng lớn thì số lượng xà ngang càng nhiều và khoảng cách giữa chúng
càng được thu hẹp lại. Để giữ vẻ thẩm mỹ, họ đã bọc thêm một lốp đồng lá dát mỏng ở
ngoài mặt các hệ thống xà đồng này. Họ đã tỏ ra rất thành thạo trong việc tính toán tải
trọng, sức bền vật liệu, sử dụng thích hợp các phương thức, các loại vật liệu xây dựng.
Từ mặt đất, chúng ta lên trên nền đài bằng hai hệ thống bậc cấp xây bằng đá thanh ở
hai bên, nằm lộ thiên nhưng rất kín đáo. Quanh trên nền đài là hệ thống nữ tường (tường
hoa, lan can) được trang trí bằng nhiều kiểu gạch hoa đúc rỗng tráng men ngũ sắc.
- Hệ thống lầu Ngũ Phụng: có hai tầng, dưới lớn trên nhỏ. Bộ sườn làm bằng gỗ lim.


Báo cáo thực tâp
Lầu gồm chín bộ mái lợp ngói ống tráng men vàng và xanh lá cây, gọi là ngói hoàng lưu
ly và ngói thanh lưu ly. Lầu dựng ở nền cao 1,13 m xây trên đài. Lầu gồm 100 cây cột,
trong đó 48 cây cột ăn suốt cả hai tầng. Mái tầng đon giản, nối liền nhau chạy quanh một
vòng khắp tất cả các phía để che mưa che nắng cho các dãy hành lang của tầng. Ở tầng

trên mái lầu chia làm 9 bộ khác nhau, trong đó, bộ mái ở giữa cao hon 8 bộ mái ở hai bên.
Quanh các phía tầng dưới đều để trống, chỉ trừ tòa nhà chính giữa là có hệ thống cửa
gưong ở mặt trước, dựng đố bản ở hai bên và mặt sau chỗ thiết Ngự tọa để vua ngồi dự lễ.
Tầng trên, mặt trước nhà giữa dựng cửa lá sách, chung quanh nong ván, trổ nhiều cửa sổ
với những dạng khác nhau: hình tròn, hình quạt, hình cái khánh...
1.5. Điện Thái Hòa:
Điện Thái Hòa là công trình kiến trúc quan trọng nhất, xét về nhiều mặt: chức năng, vị
trí, ý nghĩa lịch sử, giá trị văn hóa nghệ thuật...Chức năng một công trình kiến trúc quyết
định vị trí của nó trên đồ án qui hoạch mặt bằng tổng thể. Vào đầu thế kỷ XIX, khi quy
hoạch mặt bằng hệ thống kiến trúc cung đình kinh đô Huế, các nhà kiến trúc đưong thời
đã định vị cho điện Thái Hòa ở vào trung tâm của nó, là noi đặt ngai vàng. Dưới chế độ
quân chủ, ngai vàng là biểu tượng thiêng liêng, là khái niệm cao cả nhất trong thiên hạ.
Điện Thái Hòa được xây dựng năm 1805 và mang nét phong cách độc đáo của địa
phưong. Nhà trước và nhà sau của điện nằm trên cùng một mặt nền, nối lại với nhau bằng
một hệ thống vì kèo, đỡ một hệ thống trần được uốn cong lên như hình mai cua, gọi
chung là trần vỏ cua. Bên trên trần này không có mái, mà chỉ có một cái máng xối rất lớn
bằng đồng dùng để húng nước mưa từ mái sau nhà trước và mái trước nhà sau đổ xuống,
hệ thống trần ở đây được gọi là trần thừa lưu. Hệ thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn
giản, làm theo kiểu “vì kèo cánh ác”, hệ thống vì kèo nóc nhà trước thuộc loại vì kèo
“chồng rường giả thủ” được cấu trúc tinh xảo. Ở đây có sự kết hợp hài hòa giữa kết cấu
kiến trúc và trang trí mỹ thuật, vừa có công năng chịu lực (nâng đỡ bộ mái), vừa có tác
dụng thẩm mỹ rất cao. Đó là đặc tính tốt đẹp của hệ thống con-xơn ở một số cung điện
của Huế.
Toàn bộ các hệ thống kèo, rường cột, xuyên trến ở đây đều liên kết với nhau một cách
chặt chẽ bằng hệ thống mộng chắc chắn, làm tòa nhà trở nên vững vàng.
Mái điện lợp ngói lưu ly, chia làm ba tầng chồng mí lên nhau theo thứ tự từ cao xuống
thấp, gọi là mái “chồng diêm”. Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm chạy quang bốn mặt


Báo cáo thực tâp

của tòa nhà. Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc để trang trí hình vẽ và
thơ văn trên những miếng đồng tráng men nhiều mầu theo lối nhất thi nhất họa. Bộ mái
được chia như thế để tránh đi sự nặng nề của tòa nhà quá lớn, để tôn cao ngôi điện. Để tạo
ra cảm giác chiều cao cho tòa nhà là những hàng cột hiên đắp bằng gạch và vôi vữa với
đường kính thu nhỏ được cắm chân xuống mặt sân. Mặt nền điện cao 95 cm.
Nội thất điện rộng, mặt bằng dài 40 m, rộng 30 m. Nhà trước và nhà sau đều 7 gian 2
chái. Nóc nhà trước cao 8,30 m và nóc nhà sau cao 10,25 m so với mặt nền. Trần vỏ cua
hạ thấp xuống còn 5 m như một giới hạn ngăn cách phần ngoài và phần trong của nội thất,
tạo ra vẻ thâm nghiêm ở chính diện, tại đó có thiết trí ngai vàng đặt trên ba tầng bệ. Phía
bên trên ngai treo bửu tán bằng pháp lam ngũ sắc trang trí hình cửu long, chung quanh
còn rủ các lớp diềm bằng gỗ chạm lộng hình 9 con rồng thếp vàng chói lọi. Nhà sau có
đóng trần gỗ sơn vàng che kín toàn bộ dàn mái ở bên trên, nhà trước thì để lộ tất cả bộ
tuồng gỗ được soi chỉ, chạm khắc và sơn thiếp rất đẹp. Ở mỗi lòng căn đều treo đèn bảo
cái bằng thủy tinh và đèn lồng mầu sắc rực rỡ.
Những dãy đố bản dựng lên ở sau lung ngai vàng và ở phần tiếp giáp hai chái, tạo ra
hệ thống hành lang chạy quanh cả 3 mặt của ngôi điện. Bên trên cấ dãy đố bản ấy cũng
nhu khắp các mặt của hệ thống liên ba đều trang trí thơ văn và hình ảnh cách điệu trạm trổ
theo lối nhất thi nhất họa. Tám muơi cột gỗ lim khá lớn ở nội thất đuợc vẽ hình rồng
doanh, vờn cùng mây cụm trên sóng nuớc gọi là long vân thủy ba, với màu sắc vàng son.
Xét về mặt bằng không gian ngoại cảnh, các hệ thống sân vuờn để trống rộng hàng
chục ha ở chung quanh ngôi điện làm tăng thêm vẻ bề thế, dáng đuờng bệ và tính hoành
tráng của công trình kiến trúc.
1.6 Đặc điểm hệ thống hoàng thành:
1.6.1.

Bố cục mặt bằng của hệ thống kiến trúc hết sức chặt chẽ, cân đối, nhip

nhàng và liên tục. Phần lớn đối xứng nhau từng cặp qua đuờng trục chính của Đại Nội,
gọi là đuờng Dũng đạo, và các công trình kiến trúc đều ở vào những vị trí tiền, hậu, tả,
hữu, thuơng, hạ rất nhất quán. Các nguyên tắc cổ điển đuợc tôn trọng: tả văn, hữu võ, tả

nam, hữu nữ, tả chiêu, hữu mục... các con số trong kinh Dịch học đã đuợc áp dụng tối đa,
nhất là số 9 va số 5, vì nó ứng với mạng thiên tử. Các công trình kiến trúc ở đây biểu hiện
một cách rõ ràng tu tuởng độc tôn quân quyền. Tử Cấm Thành là một tiểu vũ trụ của
hoàng gia, trong đó có đầy đủ mọi tiện nghi sinh hoạt: ăn ở, làm việc, giải trí. Điện Càn


Báo cáo thực tâp
Thanh, nơi nhà vua ăn ngủ, toạ lạc ở trung tâm vũ trụ. Các khu vực kế cận đó giống nhu
những hành tinh quay chung quanh trung tâm quan trọng này.
1.6.2.

Khác với những hệ thống Hoàng cung của các triều đại truớc trong lịch sử

Trung Quốc và Việt Nam chỉ xây một vài miếu thờ các nhà chúa tiền nhiệm bên trong,
Đại Nội Huế có đến 5 ngôi miếu để thờ các “Tiên Vuơng liệt thánh” của triều đại. Điều
này chứng tỏ nhà Nguyễn rất trọng vọng tổ tiên và tôn sùng thế phả.
1.6.3.

Trên mặt mỹ thuật, cung đình Huế có phong cách, đặc điểm riêng trong kết

cấu kiến trúc và trang trí nội ngoại thất cung điện và đền miếu đều làm theo kiểu nhà kép,
gọi là “trùng diêm trùng luơng” :nhà truớc và nhà sau liên kết lại bằng trần thừa lưu uốn
cong mền mại. Hàng cột hiên đứng ngay trên sân để tạo ảo giác bề cao. Mái được chia ra
thành hai hoặc ba mảng tính từ trên xuống để trách sự nặng nề. Bờ nóc, bờ quyết thắng
chứ không có tàu đao uốn cong lên như đình chùa miếu vũ ở Miền Bắc. Các bờ nóc, bờ
quyết, cổ diêm ở bên ngoài và liên ba đố bản ở bên trong đều được trang trí rất phong phú
bằng thơ văn và hình ảnh cổ điển, chạm trổ thật tỷ mỷ, tinh tế, nhất là các hệ thống conxơn. Nói chung cung điện Huế có một “thức” kiến trúc độc đáo, một thần thái đặc biệt
của thời Nguyễn.
Tóm lại: Tổng thể kiến trúc cung đình triều Nguyễn ở Huế, trong đó có hai quần thể
chính là thành quách và cung điện, là một kết hợp nhuần nhuyễn và hài hoà giữa kỹ thuật

và mỹ thuật Đông Phương và Tây Phương, giữa nghệ thuật ảnh hưởng từ bên ngoài và
nghệ thuật mang địa phương tính. Đó là những thành tựu mới lạ và tất nhiên của sự phát
triển liên tục trong dòng mỹ cảm của dân tộc, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, địa lý và
tâm lý tình cảm của con người miền núi Ngự sông Hương. Tổng thể kiến trúc ấy đã tạo ra
một kinh đô, một đô thị cung đình hoàn chỉnh và có giá tn văn hoá cao ngay từ nửa đầu
thế kỷ XIX.
Chính vì những giá trị lịch sử và nghệ thuật trên đây mà ngày nay Huế được xem là
một di sản văn hoá của nhân loại. Tuy nhiên có một vấn đề cấp thiết cần đặt ra là di sản
quí báu âý phải được giữ gìn bảo quản như thế nào để khỏi bi điêu tàn mai môt.
II. LẢNG TẨM HUẾ
Triều Nguyễn (1802 - 1945) có 13 vua, nhưng vì những ly do lịch sử phức tạp, nên
hiện nay ở Huế chỉ có 7 khu lăng tẩm. Đó là các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức, Dục Đức (ở đây còn có hai mộ vua Thành Thái, Duy Tân), Đồng Khánh và Khải


Báo cáo thực tâp
Đinh. Một số lăng do thời gian, thiên nhiên khắc nghiệt và chiến tranh nên đã bị mai một
và hủy hoại. Một số lăng còn gần nhu nguyên vẹn:
2.1. Lăng Minh Mạng:
Lăng là một tổng thể kiến trúc quy mô gồm khoảng 46 công trình lớn nhỏ, nằm trên
một khu đồi núi sông hồ rộng lớn. Lăng đựoc xây dựng từ năm 1840 1843.
Toàn bộ Lăng giống nhu co thể con nguời nằm gối đầu lên một ngọn đồi cao, tứ chi
xuôi duỗi ra phía ngã ba sông gần đó. Khu vực Lăng có chiều sâu từ Đại Hồng Môn đến
tận cùng của La Thành là 700 m. Vòng La Thành tuy cao nhung cũng không hạn chế
đuợc tầm nhìn từ trong Lăng ra đén vùng núi non bên ngoài. Đứng ở cầu Hữu Bật nhìn về
phía Nam, cảnh núi non cây cỏ in bóng xuống đáy hồ Trừng Minh trông nhu bức tranh
thủy mặc.
Bên trong La thành, các công trình kiến trúc đuợc bố trí đối xứng nhau từng cặp qua
trục chính xuyên tâm lăng. Tất cả đuợc xếp đặt theo một trật tự chặt chẽ, có hệ thống,
giống nhu tình trạng xã hội đuong thời, một xã hội đuợc tổ chức theo chính sách trung

uong tập quyền của chế độ quân chủ tôn sung nho học. Bố cục kiến trúc ấy cũng nói lên
cá tính và phong cách vua Minh Mạng. Bửu thành xây theo hình tròn biểu thị vua là mặt
trời, là đấng chí tôn có quyền chi phối toàn bộ xã hội quân chủ.
Phần truớc lăng, mật độ kiến trúc thua, thoáng. Càng vào sâu mật độ kiến trúc càng
dầy. Các nhà kiến trúc thời ấy đã đua ba khu kiến trúc nằm theo chiều dọc trong một trục
duy nhất. Họ cũng đã khôn khéo lợi dụng đuợc thế đất
và các ngọn đồi để nâng chiều cao của các công trình kiến trúc lên, với những chiếc hồ đã
được bàn tay con người tạo ra. Những cánh cửa gỗ ở Hiển Đức Môn, Hoằng Trạch Môn
và ở Minh Lâu khi mở tạo ra những bất ngờ thích thú cho nguời chiêm nguỡng.
Ngoài tính cách đăng đối uy nghiêm đuờng bệ, lăng Minh Mạng còn có những nét
quyến rũ của thiên nhiên đã đuợc chỉnh trang lại để làm bối cảnh cho các công trình kiến
trúc.
2.2. Lăng Tự Đức:
Lăng đuợc xây dựng trong khoảng thời gian 3 năm (1864

1867). Trong

vòng La Thành rộng khoảng 12 ha, gần 50 công trình kiến trúc lớn nhỏ dàn trải thành
từng cụm trên những thế đất phức tạp cao thấp khác nhau chừng 10 m. Các hệ thống bậc
cấp lát đá thanh, các lối đi quanh co lát gạch Bát Tràng đã nối tất cả các công trình kiến


Báo cáo thực tâp
trúc lại thành một thể thống nhất, tuong quan, gần gũi.
Các nhà kiến trúc đuong thời đã lợi dụng nguồn nuớc tự nhiên của một con suối nhỏ
để nới rộng, đào sâu và uốn nắn các thế đất lại, tạo nên hồ Lưu Khiêm và đắp thành đảo
Tịnh Khiêm.
Qua khỏi Khiêm Cung Môn, cửa tam quan hai tầng dựng trên một thế đất cao, ta bước
vào một hệ thống cung điện gồm vài chục tòa nhà lớn nhỏ và các công trình kiến trúc phụ
thuộc. Tòa ngang dãy dọc noi đây đã được dành cho vua và đoàn cung nữ tùy tùng thỉnh

thoảng lên ở lại vui choi. Riêng Minh Khiêm đường, ngày nay được xem là nhà hát xưa
nhất và mang giá trị cao về nghệ thuật kiến trúc và trang trí. Điện Hòa Khiêm, noi thờ đế
và hậu, hiện còn chứa nhiều đồ ngư dụng và các tác phẩm mỹ thuật đưong thời.
Nhà cửa ở Khiêm Cung đều làm bằng gỗ, tất cả các công trình kiến trúc ở khu vực
lăng mộ bên kia đều xây bằng gạch, đá. Tấm bia lớn nhất Việt Nam cao 5, được bảo vệ
bằng một tòa nhà đồ sộ kiên cố với cột to, vách dày và xây cửa cuốn. Các nhà kiến trúc đã
cho xây Bi đình bằng vật liệu và kiểu thức như vậy là dùng để chống chọi với thời gian và
thể hiện vị thế của nhà vua. Trên ngọn đồi nằm bên kia hồ bán nguyệt Tiểu Khiêm Trì là
Bửu thành xây bằng gạch và chính giữa có ngôi nhà nhỏ xây bằng đá thanh, noi vua yên
nghỉ. Bửu thành đuợc bao phủ bởi một rừng thông. Hệ thống tháo thoát nuớc trong toàn
lăng đuợc thiết kế, xây dựng với trình độ cao và lưu thông rất tốt.
Nhìn chung, mỗi công trình kiến trúc trong lăng Tự Đức đều mang một đường nét
khác nhau về nghệ thuật tạo hình, rất sinh động. Cách phân bố các khu vực và bố cục các
công trình trong từng khu vực đã phá bỏ sự đối xứng cổ điển. Tại đây còn có những lối đi
uốn lượn mền mại theo thế đất tự nhiên và do bàn tay con người tạo dáng. Đường nét kiến
trúc phóng khoáng, hài hòa với thiên nhiên, phù hợp với kiến trúc phong cảnh.
2.3. Lăng Khải Định:
So với 6 khu lăng khác của các nhà vua nhà Nguyễn, lăng Khải Định là lăng sau cùng,
và mặt bằng kiến trúc nhỏ hẹp nhất, là công trình đòi hỏi nhiều nhất về thời gian, công
sức và tiền của. Lăng được xây dựng từ năm 1920 1931.
Dưới thời vua Khải Định (1916

1925), ngoài lăng này, một loạt công

trình kiến trúc khác cũng đã được xây dựng với kiểu cách mới, hợp với sở thích nhà vua:
dùng vật liệu bê tông, trang trí nổi bằng cách ghép mảnh sành sứ và thủy tinh. Đó là cung
An Định (nhà hát Cửu Tư Đài), Lầu Kiến Trung (trong Tử Cấm Thành), cửa Hiển Nhơn,


Báo cáo thực tâp

cửa Chương Đức, cửa Trường An ( ở Hoàng Thành)...Ở lăng Khải Định, một số yếu tố
hiện đại hòa với dòng nghệ thuật kiến trúc cổ truyền của dân tộc.
Thoạt nhìn, lăng như một tòa lâu đài của Châu Âu, được xây bằng bê tông trên một
sườn núi. Các vật liệu truyền thống của bản địa như gỗ, đá, gạch, vôi có số lượng không
đáng kể. Những cánh cửa sắt, gạch ca-rô, ngói ac-đoa, cột thu lôi, hệ thống đèn điện,
những tháp nhọn stoupa là những thứ ngoại. Những con rồng to lớn, tạo nên các thành
bậc thềm của 5 tầng sân càng làm tăng vẻ cứng cỏi và hoành tráng của toàn bộ công trình
kiến trúc hình khối bằng bê tông.
Giá tri nghệ thuật cao nhất của lăng là phần trang trí nội thất cung Thiên Định, công
trình kiến trúc chính.
Về mặt hội họa, ở các mặt tuờng và trần của Tả, Hữu trực phòng, các nghệ nhân đã
dùng mầu xanh sẫm vẽ lên xi măng để giả cẩm thạch. Những bức họa long vân với diện
tích hàng chục mét vuông trên trần 3 phòng giữa của cung có giá trị mỹ thuật cao nhất của
nền hội họa.
Về nghệ thuật ghép mảnh lên tuờng, những bàn tay của các nghệ nhân đã dùng hàng
vạn mẩu sành, sứ, thủy tinh đủ mầu để đắp nổi thành hàng ngàn hình ảnh cung đình và
dân gian sinh động. Mọi hình ảnh đuợc kết cấu bằng những vật liệu cứng, nhờ sự tạo hình
khéo léo, nên trông thanh nhã, muợt mà, long lanh.
Bằng những đuờng cong uốn luợn mền mại của chiếc bửu tán che trên ngự tọa, các
nghệ nhân đã tạo ra đuợc cảm giác nhẹ nhàng, có thể lay động. Ở một số pa-nô thể hiện
cây cối, lá, hoa...Trong một số ô hộc khác, có nhiều thú vật, đồng cỏ...
Với tuợng đồng bia đá, với cung Thiên Đinh giống nhu một viện bảo tàng, với ngoại
cảnh thiên nhiên bao la hùng vĩ, lăng Khải Định là một tác phẩm mỹ thuật tổng hòa của
nhiều dòng văn hóa, điểm giao thoa giữa mỹ thuật kim cổ đông tây. Phản ánh rõ nét
phong cách của vua Khải Định lúc sinh thời, và đánh dấu giai đoạn giao thời giữa hai nền
văn hóa Á - Â u của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ.
2.4. Đặc điểm kiến trúc lăng tẩm Huế:
- Kiến trúc theo nguyên tắc phong thủy. Đó là phần việc chuyên môn của các quan ở
bộ lễ, ở Khâm Thiên Giám và một vài co quan khác. Theo đúng những quy luật liên quan
đến các thực thể địa lý thiên nhiên: sông núi, ao hồ và nhất là “Huyền cung” ở trung tâm



Báo cáo thực tâp
điểm của mặt bằng kiến trúc. Phải hội đủ các nguyên tắc sơn triều thủy tụ, tiền án hậu
trẩm, tả long hữu hổ, huyền thủy minh đường... Tạo nên những ngoại cảnh thiên nhiên
hùng vĩ và tráng lệ.
-

Kiến trúc phong cảnh. Nghệ thuật kiến trúc này đã đạt đến đỉnh cao ở lăng tẩm

Huế. Biểu hiện những biến tấu độc đáo trên một chủ đề thống nhất. Mỗi một lăng vua với
đặc tính riêng của nó là một thành tựu tuyệt mỹ của nền kiến trúc cảnh vật hóa. Thực thể
địa lý gắn liền với kiến trúc lăng, thể hiện vẻ hoành tráng của cả tổng thể rộng hàng trăm,
hàng ngàn ha mà lăng tẩm có ảnh huởng về mặt nghệ thuật.
-

Tu tuởng xuất phát từ nhân sinh quan của thời kỳ lịch sử. Bố cục mặt bằng chia

làm hai phần chính: phần lăng và phần tẩm. Khu vực lăng là khu chôn thi hài nhà vua.
Khu vực tẩm là chỗ xây nhiều miếu, điện, lầu, gác, đình, tạ.. .để nhà vua lúc còn sống
thỉnh thoảng rời Hoàng cung lên đây tiêu khiển.
Tóm lại: Nhờ có chủ đề tu tuởng bắt nguồn từ nhân sinh quan tổng hợp của các dòng
triết học Đông phuơng và nhờ tài năng nghệ thuật tuyệt diệu của các nhà kiền trúc Việt
Nam đuơng thời, lăng tẩm Huế mang phong cách riêng biệt, độc đáo. Mỗi lăng tẩm là một
di tích lịch sử văn hóa, là một thắng cảnh, với lối kiến trúc tạo cảnh, tạo vuờn.
III. MỘT SỐ DI TÍCH VĂN HÓA KHÁC 3.1. Điện Hòn Chén:
Điện Hòn Chén là nơi ngày xua nguời Chàm thờ nữ thần Po Nagar, sau đó nguời Việt
theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà duới danh xung Thánh Mẫu Thiên Y A Na.
Từ năm 1954, Liễu Hạnh Công chúa, tức Vân Huơng Thánh Mẫu (gốc từ miền Bắc),
đuợc đua vào đây thờ. Ở đây còn thờ Phật, Thánh Quan Công và hơn 100 vị thần khác

thuộc hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Vua Đồng Khánh cũng là một trong những
đồ đệ ấy.
Mặt bằng kiến trúc của đền gồm điện thờ chính là Minh Kính Đài nằm ở giữa, mặt
hướng ra sông; bên phải là Nhà Quan Cư, Trinh Cát Viện, Chùa Thánh; bên trái là Dinh
Ngũ Vị Thánh bà, bàn thờ Các Quan, động thờ ông Hạ Ban (tức ông Hổ: con cọp), Am
Ngoại Cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là Am Thủy Phủ. Trên mặt bằng kiến trúc
ấy, còn có một bệ thờ và am nhỏ khác nằm rải rác như: Am Cô Ngọc Lan, Am Trung
Thiên...
Điện thờ chính Minh Kính Đài xây dựng năm 1886 dưới thời vua Đồng Khánh với


Báo cáo thực tâp
mặt bằng 15 X 17 m, nó được chia làm 3 cung:
-

Minh Kính Cao Đài Đệ Nhất Cung: còn gọi là Thượng Cung hay Thượng Điện,

chia làm 2 tầng. Tầng trên thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Thánh Mẫu Vân Hương, vua
Đồng Khánh và một số thần thánh cao đạo khác trong tín ngưỡng; tầng dưới là chỗ tiếp
khách và nơi ở của người thủ từ.
-

Minh Kính Trung Đài Đệ Nhị Cung: còn gọi là Cung Hội Đồng, giữa xây bệ thờ

cao và lớn, cung này thờ nhiều tượng thần thánh khác nhau, là nơi thiết trí đồ thờ dùng để
rước sắc trong dịp lễ lớn: Võng Cung Nghinh Mẫu, Phụng Liễn, Long Đình...
-

Minh Kính Tiểu Đài Đệ Tam Cung: còn gọi là Tiền Điện, nơi có xây một hương án


lớn, hai bên đặt trống chuông, là chỗ cử hành tế lễ.
Trên bờ nóc, bờ quyết của Minh Kính Đài cũng như các công trình kiến trúc khác ở
chung quanh, hình ảnh con phụng được dùng nhiều để trang trí. Con phụng tượng trưng
cho các nữ thần. Nó cũng được dùng để trang trí rất nhiều trên các đồ tự khí.
3.2. Chùa Thiên Mụ:
Ngôi chùa đã có tại chỗ từ trước năm 1555. Sau khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam
(1558), một dạo đến chơi, có gợi hứng tốt đẹp từ ngôi chùa cổ, thấy rõ phong cảnh hữu
tình, nên năm 1601, chúa cho xây lại ngôi chùa một cách chính thức.
Toàn bộ các công trình kiến trúc của chùa đều nằm trên một ngọn đồi có bề mặt hình
chữ nhật 280 X 100 m, chạy theo hướng Bắc - Nam. Chùa lại được bao bọc bởi tường
thành xây bằng đá mang hình dạng một con rùa thò đầu xuống bến để uống nước sông
Hưong.
Vào thời cực thinh, mật độ kiến trúc noiđây thật dày đặc, có đến mấy chục công trình.
Ngay từ bấy giờ các nhà kiến trúc đã chia khuôn viên chùa ra làm hai khu vực, cách biệt
nhau bởi tam quan: khu vực ở trước có mặt bằng như cái đầu rùa, là noi xây dựng những
công trình kiến trúc mang tính kỷ niệm như: bia đá, chuông đồng...; và khu vực ở sau là
thân rùa, dành để xây cất các điện thờ Phật và các nhà Tăng, noi các nhà sư ăn ở để tu
hành, tụng niệm.
-

Phước Duyên Bửu Tháp: Tháp hình bát giác cao 7 tầng (21 m), hình chóp. Trong

tháp có hệ thống bậc thang xây cuốn từ dưới lên trên, chỉ trừ giữa tầng thứ 6 và tầng thứ 7
là phải dùng thang di động bằng gỗ và cái cửa với chìa khóa đặc biệt, vì tầng trên cùng
này xưa có thờ tượng Phật bằng vàng.


Báo cáo thực tâp
-


Đại Hồng Chung: Chuông cao 2,5 m, đường kính 1,4 m, nặng 2.052 Kg, là một tác

phẩm nghệ thuật bằng đồng rất xuất sắc của Việt Nam đầu thế kỷ XVIII. Mặt trên quả
chuông có 8 chữ “Thọ” khắc theo lối chữ triện; ở giữa thân chuông chia làm 4 khoảng,
khắc bài minh của chúa Nguyễn Phúc Chu và chạm nổi những hình ảnh long, vân, nhật,
tinh; ở phần dưới khắc hình bát quái và thủy ba.
-

Bia thời chúa Nguyễn Phúc Chu: là tấm bia đá thanh khá lớn, cao 2,6 m, rộng 1,25

m, dựng trên lưng một con rùa bằng đá cẩm thạch dài 2,2m, rộng 1,6 m, đều được khắc
chạm uyển chuyển, tinh vi.
-

Điện Đại Hùng: là ngôi điện chính trong chùa; một công trình kiến trúc đồ sộ nguy

nga. Trong lần trùng tu năm 1957, ngoại trừ hệ thống rui và đòn tay, còn tất cả cột, kèo,
băng, bệ.. .đều được xây bằng bê tông và phủ bên ngoài một lốp son giả gỗ. Trong điện,
ngoài tượng Phật bằng đồng sáng chói, còn treo khánh đồng khá lớn chạm hình nhật
nguyệt, tinh tú và khắc những dòng chữ cho biết khánh này do quan người Quảng Tri là
Trần Đình Ân thuê đúc năm 1677 để cúng cho chùa, và treo một bức hoành phi bằng gỗ
sơn son thiếp vàng do chúa Nguyễn Phúc Chu ngự đề năm 1714.
- Đình Huơng Nguyện cũ: một trong những công trình kiến trúc bằng gỗ rất đặc biệt
của thời vua Thiệu Trị (1841

1847). Đình đuợc xây truớc mặt tháp

Phuớc Duyên. Do trận bão năm 1904, đình đã bị đổ. Sau đó, nguời ta đã đem nguyên mẫu
ngôi điện này dựng lại tại nền điện Di Lặc xua để thờ Đức Địa Tạng. Đây là một công
trình hình tứ giác độc đáo. Đứng trong nhà nhìn lên, chúng ta thấy hình bát quái đuợc cấu

trúc khéo léo ở nóc chính giữa. Có một số thơ chữ Hán đuợc khảm nổi trên 56 pa-nô
trnang trí ở các hên ba.
IV. ĐẶC ĐIỂM CHUNG NEN KIÊN TRÚC cổ TRUYEN VIỆT NAM
4.1.

Kiến trúc có tính dân tộc và tính địa phương phong phú, có bản sắc

riêng:
Trên cơ sở vị trí địa lý, đặc điểm khí hậu và kinh tế xã hội đất nước ta, nền nghệ thuật
tạo hình kiến trúc cổ Việt Nam được xây dựng trong thời kỳ ông cha ta dựng nước và
những triều đại xã hội phong kiến đã để lại một di sản mang bản sắc dân tộc đặc sắc, góp
phần tạo nên bộ mặt và truyền thống “ngàn năm văn hiến” của đất nước Việt Nam. Đồng
thời bối cảnh cộng đồng nhiều dân tộc, tính địa phương đa dạng và phong phú cũng khiến
cho kiến trúc cổ truyền Việt Nam thật muôn hình muôn vẻ từ trang trí kiến trúc đến tạo


Báo cáo thực tâp
hình nghệ thuật, từ vật liệu xây dựng đến phương thức kết cấu V . . V . . .
4.2.

Phong cách kiến trúc nghệ thuật, tính tinh tế, khoáng đạt thể hiện ý

tưởng và vị thế con người Việt Nam:
Xuất phát từ truyền thống văn hoá và tâm lý dân tộc, kiến trúc cổ có phong cách nghệ
thuật, tinh tế khoáng đạt mang tính chất dân tộc đậm đà, phản ánh đức tính và tâm hồn
con người Việt Nam. Và sản phẩm văn hoá vật chất, đồng thời cũng là một thành tố quan
trọng của văn hoá cổ truyền mà con người đã sáng tạo trong quá trình hoạt động của
mình. Công trình kiến trúc Việt Nam là “mẫu đề” quen thuộc, gắn liền với thiên nhiên,
ruộng đồng, cây tre, vuờn quả, con thuyền, dòng sông và con nguời đất nuớc chúng ta.
Kiến trúc phản ánh đời sống xã hội, phong tục tạp quán, hội hè, lễ ruớc, tôn giáo tín

nguỡng...và là thành quả sáng tạo lao động của tập thể nhân dân lao động. Bố cục tạo hình
kiến trúc cũng không nặng nề, đon điệu, cứng cỏi mà thuờng nhẹ nhàng, thanh nhã, mền
mại, khoáng đạt với các giải pháp : mái cong uốn luợn, hoa văn, hành lang, sân trong...để
cho con nguời đuợc thưởng thức sự độc đáo, hấp đẫn. Còn để tránh nắng, che mua, cải tạo
khí hậu rất phù hợp điều kiện khí hậu nhiệt đới Việt Nam.
4.3.

Vị trí địa hình kết hợp chặt chẽ với cảnh quan thiên nhiên:

Trong kiến trúc cổ Việt Nam : Kinh đô của một triều đại phong kiến hay Chùa chiền
nhà Phật, Lăng mộ của nguời đã chết hay ngôi nhà ở của nguời đang sống...Cha ông ta
đều tìm tòi suy nghĩ lựa chọn vị trí, địa hình để công trình kiến trúc dựng lên mà thỏa mãn
yêu cầu sử dụng của đời sống, lại vừa có giá trị thẩm mỹ cao. Nhiều noi ngày nay đã trở
thành những danh lam thắng cảnh, du lịch đầy sức hấp dẫn.
Ngoài cảnh quan thiên nhiên sẵn có để công trình kiến trúc dựa vào vầ làm đẹp mình
lên, đồng thời lại tô điểm cho bức tranh phong cảnh thêm phần mỹ lệ. Kiến trúc cổ truyền
kết hợp công trình với cây cối, sông nuớc. Làm cho tuong quan giữa kiến trúc và thiên
nhiên càng thêm gắn bó hữu co.
4.4.

Bố cục, tỉ lệ tương xứng - hài hòa:

Tạo hình nghệ thuật trong kiến trúc cổ Việt Nam thường là bố cục cân xứng hài hòa:
trong một quần thể kiến trúc cung điện hay tôn giáo tín ngưỡng thường đăng đối theo một
trục dọc hoặc quy tụ vào một điểm. Hình thức mặt đứng của công trình được tạo dựng
trên nguyên tắc bố cục tạo hình này để gây hiệu quả thẩm mỹ cho công trình.
Vận dụng khéo léo các yếu tố tạo hình thống nhất và biến hóa, cân bằng và Ổn định,


Báo cáo thực tâp

tỷ lệ và tầm thước. Kiến trúc cổ Việt Nam có kích thước tương xứng với tầm vóc người
Việt, giữa kiến trúc và tổng thể, giữa bộ phận này và bộ phận khác.. .mối quan hệ tỷ lệ hết
sức được chú ý để tạo nên giá trị nghệ thuật kiến trúc.
4.5.

Mầu sắc trang trí đẹp mắt và giàu tính dân gian:

Mầu sắc và trang trí tùy loại hình kiến trúc có sự khác biệt, đơn giản hay phức tạp,
nhưng đều mang tính phong phú và đặc sắc. Mầu sắc và các hoa văn trang trí, phù điêu,
điêu khắc tô điểm cho các công trình kiến trúc cung đình, tôn giáo, tín ngưỡng.. .thành
những tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh từ tổng thể đến chi tiết, từ ngoài vào trong.. .thể
hiện không khí trang nghiêm, tráng lệ.
Mầu sắc và trang trí trong kiến trúc cổ truyền Việt Nam do bàn tay tài hoa, đôi mắt
tinh tường của người thợ thủ công đã thừa kế kinh nghiệm cha ông, không ngừng sáng
tạo, do đó giàu tính dân gian, chân thực và đậm đà bản sắc dân tộc. Gửi gắm vào các công
trình ý tứ sâu xa đượm mầu sắc đạo lý truyền thống Đông phương
4.6.

Khai thác và sử dụng vật liệu địa phương là chủ yếu, hệ thống cấu trúc

vững vàng có tính khoa học cao:
Kiến trúc cổ Việt Nam được tạo dựng phần lớn bằng vật liệu trong nước sẵn có do
thiên nhiên ưu đãi, con người khai thác, gia công với tre, gỗ, gạch, ngói...Hệ thống kiến
trúc với khung cột gỗ là chủ yếu và phổ biến, khá phong phú trong sáng tạo cấu kiện chi
tiết và rất vững vàng trước thiên nhiên khắc nghiệt của khí hậu Việt Nam.
Kết cấu bền vững của kiến trúc cổ truyền Việt Nam dựa trên cơ sở tính toán và sử
dụng hợp lý tính năng vật liệu, bố cục hình dạng và kích thước kiến trúc có cơ sở nghệ
thuật và tính khoa học rất cao để lại những công trình có giá tri lớn, tiêu biểu từng thời đại
trong lịch sử.
Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp phát triển nền

văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang có những bước tiến mạnh mẽ và triển vọng.
Chúng ta tìm hiểu quá trình phát triển truyền thống ngàn năm văn hiến nói chung và nghệ
thuật kiến trúc cổ truyền nói riêng, để chúng ta xác định, đánh giá đúng đắn những di sản
quý báu của cha ông, tăng thêm lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc. Với tinh thần “Học
xưa là vì nay, học cũ để làm mới”, vừa trân trọng và bảo tồn những công trình di tích lịch
sử và nghệ thuật kiến trúc ngày xưa còn lưu lại, đáp ứng nhu cầu về thẩm mỹ và văn hóa
của nhân dân làm giàu đẹp kho tàng di sản văn hóa truyền thống dân tộc và góp phần làm


Báo cáo thực tâp
phong phú nền văn hóa nhân loại; chúng ta vừa khai thác, thừa kế những tinh hoa nghệ
thuật cổ xưa để sáng tác, phát triển nền kiến trúc Việt Nam có tính hiên đai và tính dân
tôc.



×