Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống trong quá trình xây dựng ý thức XH mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.86 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề
bức thiết. Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức
xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế
mới, văn hoá mới, con người mới; không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo
hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ thể, họ
còn bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của
cộng đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ,
lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và ngược lại.
Bởi thế, muốn xây dựng xã hội mới, tất yếu phải xây dựng ý thức xã hội mới và
việc xây dựng ý thức xã hội mới trở thành một nhiệm vụ của công cuộc xây
dựng xã hội mới.
Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là toàn bộ quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà
nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng
xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng.
Ngoài hệ tư tưởng, nó còn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và
cả thói quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: “Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền

Tiểu luận Triết học

1




kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới”. Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác
định đó là định hướng có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới
ở nước ta hiện nay.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Kế thừa và phát huy các giá trị truyền
thống trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay” là
một đề tài vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn cấp bách.

Tiểu luận Triết học

2


NỘI DUNG
I - KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG – MỘT
QUÁ TRÌNH TẤT YẾU TRONG VIỆC XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI
MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Sự cần thiết khách quan của việc kế thừa và phát huy các giá trị
truyền thống dân tộc:
Sự phát triển của xã hội, bao giờ cũng do nhiều nguyên nhân thúc đẩy.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã từng tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
về những nguyên nhân này. Câu trả lời về vấn đề này của chủ nghĩa Mác –

Lênin là sự khẳng định vai trò quyết định của nhân tố kinh tế đối với sự phát
triển chung của toàn xã hội. Vì vậy, phương thức sản xuất của một xã hội chính
là cơ sở vật chất cho sự phát triển mọi mặt của xã hội. Đó là xuất phát điểm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết lý phát triển theo quan điểm mácxít. Tuy
nhiên, chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời, cũng phê phán nghiêm khắc đối với
những quan điểm ấu trĩ về kinh tế, coi kinh tế là nguyên nhân duy nhất của phát
triển và từ đó coi thường những nguyên nhân khác – những nguyên nhân phi
kinh tế trong quá trình phát triển của xã hội. Bởi theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, xét đến cùng, kinh tế đúng là nhân tố quyết định sự phát triển xã
hội, nhưng ngoài kinh tế ra còn có biết bao nhân tố khác có vai trò hết sức quan
trọng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội mà nổi bật trong đó
là các yếu tố chính trị, ý thức, tư tưởng.
Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, rõ ràng vấn đề xây dựng ý thức xã hội
mới – xã hội xã hội chủ nghĩa đang là mục tiêu thu hút sự chú ý của toàn Đảng,
toàn dân ta và là một nhiệm vụ lịch sử trọng đại của cả dân tộc cho trước mắt và
lâu dài. Để xây dựng ý thức xã hội mới thì cần phải có nhiều yếu tố, nhưng yếu
tố quan trọng nhất vẫn là xây dựng con người mới – con người xã hội chủ nghĩa.
Con người là nhân tố hàng đầu, nằm ở trung tâm của sự phát triển. Bởi xét đến

Tiểu luận Triết học

3


cùng, để đi lên chủ nghĩa xã hội, ngoài các yếu tố về cơ sở vật, các nguồn lực về
vốn, khoa học, công nghệ... thì yếu tố quan trọng nhất là phải có con người xã
hội chủ nghĩa. Muốn phát huy tối đa nguồn lực con người phục vụ cho sự phát
triển, nhất thiết chúng ta phải làm sống dậy và phát huy sức mạnh của văn hóa
truyền thống - yếu tố đã từng làm nên cội nguồn của sức mạnh dân tộc, giúp dân
tộc ta vượt qua bao thăng trầm của lịch sử. Các văn kiện của Đảng thời kỳ đổi

mới đã nhiều lần khẳng định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, “Cần khai thác và sử dụng
nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó có nguồn lực con người là quý báu nhất, có
vai trò quyết định”.
Muốn đáp ứng được yêu cầu của thời đại mới, con người Việt Nam hiện
nay trước hết cần đến các tri thức và năng lực mới. Đó là tinh thần năng động,
sáng tạo dựa trên bản chất khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; là những thành tựu mới của khoa học, công nghệ hiện đại,
là lòng yêu nước thiết tha của thời kỳ mới xây dựng đất nước; là ý chí vươn lên
vì tương lai của bản thân và tiền đồ phát triển của dân tộc... Rõ ràng là, không có
các tri thức và năng lực đã nêu trên thì không thể thực hiện thắng lợi sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
không thể hình thành ý thức xã hội mới.
Nhưng các yếu tố trên đều liên quan đến truyền thống, đều có sự tác động
qua lại với truyền thống, bởi con người dù hiện đại, cũng đều từ truyền thống đi
lên, bản thân họ có nhiều sợi dây hữu hình và vô hình ràng buộc với truyền
thống. Như vậy, trong xã hội hiện nay, cả hiện đại và truyền thống đều tạo nên
động lực, trong đó tư liệu hiện đại là điều kiện cơ bản quy định nội dung và tính
chất của việc hình thành ý thức xã hội mới, còn tư liệu truyền thống là một trong
những cơ sở quy định bước đi và tốc độ của chính quá trình đó. Chúng ta có thể
tiến nhanh hoặc chậm, thuận lợi hoặc trắc trở, một phần không nhỏ là tùy thuộc
vào sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại để tạo nên hợp lực cho sự hình
Tiểu luận Triết học

4


thành ý thức xã hội mới. Bởi vậy, có nhà nghiên cứu đặt vấn đề “đến hiện đại từ
truyền thống” là hoàn toàn có cơ sở và đã được thực tiễn lịch sử kiểm nghiệm.
Bởi hiện đại nào cũng có trong nó những giá trị ưu tú, đặc sắc của truyền thống

được kết tinh thành các giá trị văn hóa và được thử thách qua thời gian.
Lịch sử là có tính liên tục, giai đoạn sau đón nhận những tư liệu (vật chất
và tinh thần) do giai đoạn trước tạo ra, cải tạo chúng và phát triển lên. Kinh
nghiệm của các nước Á Đông, cho thấy việc phát huy truyền thống tích cực của
quá khứ, nhất là truyền thống văn hóa trong xã hội hiện đại không chỉ là một khả
năng, một thực tế mà còn là một nhân tố quan trọng làm nên kỳ tích phát triển
được cả thế giới ngưỡng mộ. Truyền thống tác động nhiều đến hiện đại, đương
nhiên là cả mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực. Nó có thể kìm hãm, níu áo, cũng có
thể phát huy, thúc đẩy sự phát triển của hiện tại. Điều cần chú ý là, sự tác động
tiêu cực của những thói quen xấu, những hủ tục lạc hậu thường là tự phát và chi
phối hành vi con người một cách vô thức; còn sự tác động tích cực của truyền
thống chỉ thực sự có ý nghĩa to lớn khi nó được thẩm định và phát huy một cách
chủ động và tự giác. Truyền thống cũng là một động lực, nhưng không phải là
tồn tại song song với các động lực do yếu tố hiện đại đưa lại. Vấn đề là tư liệu
truyền thống phải hòa nhập với tư liệu hiện đại để cùng với tư liệu hiện đại đến
với con người và làm cơ sở tạo nên con người vừa truyền thống vừa hiện đại.
Hai mặt này phải thống nhất biện chứng với nhau trên cơ sở đáp ứng nhu cầu
phát triển của hiện đại.
Đi vào đổi mới để phát triển, để chấn hưng dân tộc Việt Nam trong thế kỷ
XXI, để mở cửa và hội nhập quốc tế, nhất định chúng ta phải quảng bá những di
sản văn hóa, những tinh hoa tư tưởng Việt Nam trong giao lưu, tiếp xúc và đối
thoại với các nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới. Điều đó không chỉ có ý
nghĩa thuần túy về văn hóa mà còn có ý nghĩa to lớn về nhiều mặt kinh tế, xã
hội. Việc một số nước như Hàn Quốc, ...thực hiện chiến lược xuất khẩu sản

Tiểu luận Triết học

5



phẩm văn hóa trước, sản phẩm hàng hóa theo sau, không thể không gợi mở cho
chúng ta nhiều bài học bổ ích trong quá trình phát triển.
Tất nhiên, mở cửa và hội nhập thì cả “gió độc” và “chân lý” sẽ cùng vào.
Để đứng vững trong cạnh tranh và hội nhập, để “hòa nhập mà không hòa tan”,
“đổi mới mà không đổi màu” thì ngoài việc giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trong quá trình phát triển, chúng ta phải “làm cho văn hóa thấm sâu vào
từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện giá trị mới của con người
Việt Nam, kế thừa các giá trị truyền thống của dân tộc và tiếp thu văn hóa của
loài người, tăng sức đề kháng chống văn hóa đồi trụy, độc hại. Nâng cao tính
văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân
dân”.
1.2. Một số quan điểm có tính phương pháp luận trong việc kế thừa
phát huy truyền thống.
Hiện nay, nước ta đang ta tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy maạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập nền kinh tế thế giới. Có thể nói xu hướng
toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu mà các quốc gia trên thế giới đều phải chấp
nhận và tranh thủ những yếu tố tích cực, loại bỏ những yếu tố tiêu cực để bước
nhanh trên con đường phát triển. Toàn cầu hóa có những mặt tích cực cơ bản là
tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu, hội nhập văn hóa, tiếp thu có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa thế giới, thúc đẩy và hình thành nền kinh tế tri thức, góp phần
hình thành lối sống văn minh, hiện đại. Nhưng bên cạnh đó, toàn cầu hóa cũng
có những tác động tiêu cực là tạo nguy cơ lệ thuộc về kinh tế, văn hóa, chính trị
dẫn đến các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo; các giá trị văn hóa truyền thống bị
phôi phai, biến dạng; đạo dức truyền thống bị xói mòn, lối sống thực dụng, vị
kỷ, lai căng. Trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay, vấn đề kế thừa và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống được đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết đối với
mọi quốc gia. Bởi lẽ, văn hóa truyền thống là nền tảng, không có văn hóa truyền
thống sẽ không có sự phát triển. Giá trị văn hóa truyền thống là những giá trị
Tiểu luận Triết học


6


thuộc về tư tưởng, lối sống, chuẩn mực đạo đức được cộng đồng thừa nhận và
bảo tồn, gìn giữ từ đời này sang đời khác… Không dựa trên nền tảng của giá trị
văn hóa truyền thống thì không thể tiếp thu có hiệu quả những thành tựu hiện
đại và càng không thể có sự phát triển lâu bền để hình thành ý thức xã hội mới.
Từ khi Đảng ta lãnh đạo và khởi xướng công cuộc đổi mới, đất nước ta đã
có những bước phát triển to lớn, vượt bậc. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị
trường đã tác động trực tiếp đến các giá trị văn hóa truyền thống, làm biến đổi
và gây sức ép không nhỏ trong việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đó.
Đại hội Đảng lần thứ X đã nhận định “Lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục có
nhiều vấn đề bức xúc chậm được giải quyết”. Đó là việc xây dựng nềp sống văn
hóa chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức,
lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ.
Một số tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn có hiệu quả. Đáng chú ý là hiện
tượng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên có chức quyền, “tệ sùng bái nước ngoài, coi thường giá trị văn hóa dân tộc,
chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ đang gây hại đến thuần phong mỹ
tục của dân tộc”.
Việc kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong bối cảnh
toàn cầu hóa ở nước ta vừa có tính cấp bách, trước mắt, vừa mang tính chiến
lược, lâu dài nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, dậm
đà bản sắc dân tộc, góp phần xây dựng nhân cách con người Việt Nam phù hợp
với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, để văn hóa thực sự là nền tảng, là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Dựa vào tiêu chí xác định giá trị văn hóa, câc giá trị văn hóa truyền thống
cơ bản của dân tộc ta bao gồm: chủ nghĩa yêu nước, lòng thương yêu, quý trọng
con người, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng; lòng dũng cảm, bất khuất, đức
tính cần, kiệm, khiêm tốn, giản dị, trung thực, thủy chung, lạc quan…


Tiểu luận Triết học

7


Để kế thừa và phát huy giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay, cần bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, kế thừa có tính phê phán, chọn lọc.
Trong truyền thống có những mặt giá trị và phi giá trị. Chính vì vậy, phải
nhận thức rõ và xác định cho đúng những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam
đích thực. Với những nét giá trị truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc, đã
được kiểm nghiệm, đánh giá của lịch sử, thời gian, được cộng đồng thừa nhận
thì cần kế thừa và phát huy. Trái lại, đối với những mặt lạc hậu, lỗi thời, cản trở
sự tiến bộ thì phải khắc phục hoặc kiên quyết loại bỏ. Ví dụ như: tư tưởng tiểu
nông (cục bộ địa phương “phép vua thua lệ làng”, bình quân chủ nghĩa…).
Hai là, kế thừa phải gắn với quá trình xây dựng xã hội mới, nền văn hóa
mới và con người mới.
Các giá trị truyền thống không có nghĩa là bất biến, trái lại, nó liên tục
được bổ sung cho phù hợp với cuộc sống đang diễn ra. Bởi lẽ, trong kế thừa văn
hóa, cái mới bao giờ cũng ra đời dựa trên cái cũ. Cái cũ là tiền đề để cái mới ra
đời và phát triển. Điều này cũng có nghĩa là, nếu không có truyền thống thì sẽ
chẳng có hiện tại và tương lai. Muốn phát triển đất nước theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể không dựa trên nền tảng truyền thống. Bổ
sung những giá trị mới, các yếu tố truyền thống sẽ được phát huy có hiệu quả.
Nền văn hóa mới mà Đảng ta đã xác định là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) đã nêu rõ: Nền văn hóa tiên
tiến bao gồm những đặc trưng: yêu nước và tiến bộ; có nội dung cốt lõi là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; nhằm mục tiêu tất cả vì con người v.v… “Bản
sắc văn hóa dân tộc của văn hóa Việt Nam gồm những giá trị bền vững, những

tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và
giữ nước, Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn
kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân

Tiểu luận Triết học

8


ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao
động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…”.
Ba là, kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống gắn với tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nền văn hóa Việt Nam có bề dày hàng ngàn năm với những thành tựu rực
rỡ của các nền văn hóa bản địa: Đông Sơn, Gò Mun, Hòa Bình, Sa Huỳnh…
Đồng thời, chúng ta đã tiếp thu theo hướng Việt hóa các nền văn hóa phương
Đông du nhập vào Việt Nam như Phật giáo, Lão giáo. Người Việt Nam tiếp thu
một cách uyển chuyển và tinh tế tư tưởng Nho giáo, đó là tư tưởng trọng đạo
đức, trọng tình người, mối quan hệ nhà - làng - nước bảo đảm sự cố kết cá nhân
và cộng đồng đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống người Việt, cho đến tận hôm
nay…
Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu
có chọn lọc cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giao lưu văn
hóa như là một tất yếu khách quan bởi chính nhờ giao lưu hội nhập mà bản sắc
văn hóa dân tộc được bổ sung những yếu tố ngoại lai để làm phong phú bản sắc
của mình. Đồng thời, qua đó, cũng góp phần làm phong phú văn hóa thế giới khi
chính các nền văn hóa ngoại lai cũng tiếp nhận những giá trị tinh hoa văn hóa
Việt Nam.
Bốn là, chống thái độ bảo thủ, đồng thời chống thái độ hư vô.
Bảo tồn truyền thống văn hóa là việc cần làm nhưng không sa vào bảo thủ

khi đề cao quá văn hóa dân tộc truyền thống mà coi nhẹ và không chịu tiếp thu
tinh hoa văn hóa thế giới. Tự khép kín là làm trái quy luật phát triển, làm cho
nền văn hóa trở nên nghèo nàn, đơn điệu. Tôn sùng chủ nghĩa dân tộc thái quá
dễ dẫn đến những thái độ cực đoan, sai lầm, bảo thủ và lạc hậu. Điều này sẽ kếo
theo sự kìm hãm, níu kéo, làm chậm sự phát triển. Trong lịch sử, triều đình
phong kiến Việt Nam nhà Nguyễn đã có lúc sai lầm khi “bế quan tỏa cảng”,
đánh mất đi cơ hội phát triển đất nước. Một số quốc gia hiện nay do bị chính

Tiểu luận Triết học

9


sách bao vây cấm vận của Mỹ, hoặc do thể chế chính trị mà gần như đóng cửa
với thế giới bên ngoài thì đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân hết
sức hạn chế.
Sinh thời V.I.Lê-nin đã phê phán gay gắt những quan điểm sai lầm trong
việc kế thừa văn hóa theo chủ nghĩa dân tộc hoặc chủ nghĩa hư vô. V.I.Lê-nin
nhấn mạnh: “Phải tiếp thu toàn bộ nền văn hóa do chủ nghĩa tư bản để lại và
dùng nền văn hóa đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Chủ nghĩa hư vô là một
cực ngược lại của chủ nghĩa dân tộc; phủ nhận văn hóa truyền thống.
Có thể nói, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta đều nhất quán trước sau
như một, khẳng định việc xây dựng và phát huy một nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người
trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội. Để
làm được điều đó, cần có nhiều giải pháp đồng bộ, huy động sự vào cuộc của cả
hệ thống chính trị, các tổ chức, cơ quan, đoàn thể, xã hội cho đến từng gia đình
và cá nhân.
II- NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU TRONG VIỆC XÂY DỰNG Ý

THỨC XÃ HỘI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: “Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền
kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới

Tiểu luận Triết học

10


sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới”.
Đến Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Xã hội xã hội chủ nghĩa
mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với cá nước trên thế giới”.
Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là
định hướng có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta
hiện nay.

Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của đời
sống xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục khẳng
định một số định lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới. Vấn đề này có
thể khái quát lại trên một số điều cơ bản sau:
Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về bản chất, xã hội mới là xã hội dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định:
"I - NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ
Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Tiểu luận Triết học

11


Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân".
Đây là tư tưởng cơ bản khẳng định chủ thể tích cực cũng là đối tượng
phục vụ chính của xã hội mới. Ý thức xã hội mới phản ánh lợi ích của nhân dân
và chính do nhân dân xây dựng. Tinh thần này được thể hiện trong các quan
điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong các chính sách cụ thể của từng
ngành, từng địa phương. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích
của nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng, hoạch
định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng,

tuyên truyền, quảng bá, phát triển ý thức xã hội mới.
Như vậy, có thể nói, sự nghiệp đổi mới không thể thành công nếu thiếu sự
đóng góp của nhân dân; công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, bảo tồn giá trị
truyền thống dân tộc, kế thừa những cái tốt, lọc bỏ những thói hư tật xấu, chống
sự xuyên tạc, bóp méo của các thế lực thù địch, không thể thành công nếu thiếu
sự đóng góp của nhân dân. Mặt khác, phải thấy rằng, việc xây dựng ý thức xã
hội mới cũng không thể thành công nếu thiếu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đội tiên phong của giai cấp cách mạng, cũng là đội tiên phong của toàn dân tộc,
bởi Đảng ta là một tổ chức chính trị bao gồm những cá nhân ưu tú nhất của xã
hội.
Tuy nhiên, để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn
nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu mà trước hết là bản lĩnh chính trị, trình
độ trí tuệ của Đảng.
Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hoá
Tiểu luận Triết học

12


thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần
của xã hội.
Sự phát triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà còn có đời sống
tinh thần. Đó là hai mặt không thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động
tương hỗ có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau
trong quá trình phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hoá luôn đóng vai trò quyết
định trong quá trình phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn
nữa, từ trong bản chất, văn hoá đã mang tính nhân văn, chứa đựng cái đúng, cái
tốt, cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền lại cho thế hệ sau
thành truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống này
được chuyển tải vào các lĩnh vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tôn

giáo, v.v. tạo thành môi trường văn hoá nuôi dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá
nhân và cả cộng đồng. Trong điều kiện hiện nay, văn hoá còn đóng vai trò quan
trọng trong việc điều tiết nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển bền vững,
hạn chế bớt những mặt trái của kinh tế thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và
phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong
đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng xã
hội mới.
Quan điểm xây dựng và phát triển nền văn tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đã được Đảng ta đề cập đến từ rất sớm, được phản ánh trong Đề cương văn
Việt Nam (năm 1943), trong các văn kiện sau đó của Đảng. Ngay trong Đề
cương văn hoá Việt Nam, Đảng ta đã xác định văn hoá là một trong ba mặt trận:
kinh tế, chính trị, văn hoá và ba mặt trận này có quan hệ biện chứng với nhau,
tạo thành động lực đưa cách mạng tới thành công. Và cũng ở đây, văn hoá được
xác định "gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Như vậy, văn là cốt lõi của ý
thức xã hội và xây dựng nền văn mới là cốt lõi của việc xây dựng ý thức xã hội
mới. Với quan niệm đó, Đảng ta đã xác định ba phương châm xây dựng văn mới
là: dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
Tiểu luận Triết học

13


thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng
ta đã chỉ rõ, xã hội mà chúng ta xây dựng là xã hội có nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Mốc đánh giá sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn của
Đảng thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII Về xây dựng và phát triển
nền văn Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong Văn kiện này, Đảng
ta đã khẳng định: trong quá trình xây dựng nền văn mới, chúng ta không chỉ chú
ý giữ gìn, kế thừa những giá trị và bản sắc văn dân tộc, mà còn phải chú trọng
tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn của nhân loại.

Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với việc tăng cường học tập lý
luận, tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền
tảng và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân.
Bài học đầu tiên từ 5 bài học lớn mà Đảng ta đã rút ra sau 25 năm đổi mới
là: "Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối
và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội...". Đây không phải là mới, bởi tinh thần này đã được Đảng ta và Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ những ngày đầu cách mạng. Năm 1939, khi đưa ra
quan điểm của mình về đường lối, của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ
(1936-1939), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Phải tổ chức học tập có hệ thống chủ
nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn và chính trị cho các đảng viên”. Khi
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi vào giai đoạn quyết định, trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II, Người đã khẳng định: "Học
tập chủ nghĩa, dùi mài tư tưởng, nâng cao lý luận, tổ chức - là những việc cần
thiết của Đảng". Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, trong Diễn văn khai
mạc, một lần nữa, Người khẳng định: "Chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa
Mác - Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng". Vấn đề này tiếp tục
được Đảng ta khẳng định qua các thời kỳ cách mạng. Đặc biệt, trong giai đoạn
Tiểu luận Triết học

14


hiện nay, nó được coi là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.
Bởi lẽ, để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, bên cạnh yêu cầu về năng lực, trình độ chuyên môn, đạo đức cách mạng,
đảng viên còn phải có phẩm chất chính trị tốt, kiên định lập trường độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội... Do vậy, xây dựng ý thức xã hội mới cần tiếp tục tăng

cường hoạt động lý luận, nghiên cứu sâu rộng và có những bổ sung về lý luận để
làm phong phú kho tàng tri thức của chủ nghĩa Mác - Lênin trong tình hình mới.
Thứ tư, xây dựng ý thức xã hội mới cần ý thức sâu sắc sự kết hợp chặt chẽ
giữa “xây” và “chống”.
Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó không
hình thành một cách tự phát trong lòng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận
thức, xây dựng, truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới,
thành động lực tinh thần của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì
vậy, cần xây dựng ý thức xã hội mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong
thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên
định con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con người những tri
thức mới của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc biệt là
những tri thức về khoa học và công nghệ... Đó là yêu cầu tiên quyết trong quá
trình xây dựng xã hội ta hiện nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng
sống, hoài bão, ước mơ, khát vọng cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc xây dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân
dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn
kết dân tộc; nâng cao ý thức phòng chống tham nhũng, lãng phí, trước hết là
trong đội ngũ cán bộ Đảng viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những
biểu hiện cản trở sự nghiệp xây dựng đó. Về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung
khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ,
Tiểu luận Triết học

15


đảng viên với các biểu hiện như: dao động về lý tưởng, mục tiêu và con đường
phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và giá trị truyền thống của

dân tộc; thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ trương của Đảng, từ đó nói và
làm không theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức mất cảnh
giác trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch;
không kịp thời và kiên quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm
sai trái...Tại hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ chín khoá IX, Đảng ta
đã nhấn mạnh: "Thường xuyên chỉ đạo uốn nắn những nhận thức lệch lạc, mơ
hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã
hội và sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa cá
nhân, những biểu hiện cơ hội, thực dụng, bè phái, cục bộ, phê phán bác bỏ các
quan điểm sai trái thù địch, chủ động đối phó với các âm mưu, thủ đoạn của các
thế lực lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc và nhân quyền chống phá cách mạng
nước ta".
Không dừng ở góc độ hệ tư tưởng, trong tâm lý xã hội cũng có những
biểu hiện cần khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở: “Thói quen và
truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến
bộ”.
Hiện nay, chúng ta cần phải khắc phục những biểu hiện tâm lý vốn được
coi là hậu quả của nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp - tâm lý thụ động,
trông chờ, ỷ lại, xin cho, đối phó; khắc phục tâm lý của nền kinh tế tiểu nông,
sản xuất nhỏ lâu dài của lịch sử và hiện vẫn còn tồn tại là tâm lý lạc hậu, kinh
nghiệm chủ nghĩa, tuỳ tiện, đố kỵ, coi thường pháp luật và cả những tâm lý vốn
khá phổ biến ở những nước chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, như tâm lý
trọng nam khinh nữ, tâm lý gia trưởng... Đặc biệt, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý, những tâm lý này còn có nhiều biểu hiện, biến tướng và gây hậu quả
nặng nề, biến họ thành những kẻ cơ hội, cá nhân chủ nghĩa, v.v..

Tiểu luận Triết học

16



Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu quả,
chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá
mới, con người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn
tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý thức xã hội
mới luôn bị chi phối bởi điều kiện sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã
hội mới. Vì vậy, xây dựng ý thức xã hội mới phải bắt đầu từ việc xây dựng đời
sống vật chất của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc trong đời sống tinh thần
ở xã hội ta thời gian qua có nguyên nhân từ những yếu kém trong công tác tư
tưởng, nhưng cũng có nguyên nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong việc
xây dựng nền kinh tế mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức xã hội mới cũng phụ
thuộc rất nhiều vào kết quả xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa
kinh tế, văn hoá và con người luôn có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với
nhau, chi phối và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.
Thứ hai, không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học,
cách mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới.
Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn, kịp thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như
vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây
dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa...
Mặt khác, chúng ta cũng cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những
giá trị truyền thống của dân tộc. Đó không chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị
truyền thống, mà còn tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ
bên ngoài. Quá trình này cần được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ
thể ở nước ta hiện nay. Lòng yêu nước nồng nàn, lòng tự hào dân tộc là những

Tiểu luận Triết học


17


giá trị tinh thần truyền thống, song trong điều kiện hiện nay, nó cần được thể
hiện ở tinh thần cần cù, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó để cải tạo cuộc sống,
đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tinh thần đoàn kết dân
tộc phải được thể hiện thành tinh thần đồng thuận trên cơ sở giải quyết hài hoà
lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xoá bỏ mặc cảm về thành phần, giai cấp,
dân tộc, tôn giáo vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo
dục, phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong quá trình
tuyên truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.
Trong công tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng
viên và nhân dân để kịp thời giải đáp. Tăng cường vai trò của báo chí, của các
phương tiện thông tin đại chúng khác trong việc tuyên truyền chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, định hướng dư luận theo chiều hướng tích cực,
đồng thời phê phán những quan điểm sai trái, luận điệu phản động. Trong công
tác giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, cần tiếp tục đổi mới nội dung,
phương pháp và hình thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin
hiệu quả hơn.
Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy
tính chủ động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm
khắc phục những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư
tưởng của các thế lực phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền
thống và hình thành ý thức xã hội mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, đòi
hỏi tính tự giác cao. Vì vậy, thông qua chủ trương, chính sách, Đảng cần phải

khắc phục những biểu hiện của khuynh hướng coi nhẹ vai trò của nhân tố tư

Tiểu luận Triết học

18


tưởng, chính trị, đạo đức. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư
tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí, khắc phục những biểu hiện lệch lạc
trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, nhất là những biểu hiện xa
rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém... Cùng với sự lãnh đạo của
Đảng, cần mở rộng các hình thức dân chủ để nhân dân có thể tham gia vào quá
trình xây dựng ý thức xã hội mới một cách chủ động và trực tiếp.

Tiểu luận Triết học

19


KẾT LUẬN
Sự nghiệp xây dựng ý thức xã hội mới phải là quá trình tự giác, cần sự
đóng góp của tất cả mọi người, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, các chủ thể
lãnh đạo, quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém...”. Thực
tiễn cách mạng ở nước ta đã khẳng định, sau khi có đường lối đúng, nhân tố
quyết định sự thành công hay không thành công của sự nghiệp cách mạng phụ
thuộc vào vai trò, năng lực hoạt động lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực tiễn của
đội ngũ cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Trong hệ thống
cán bộ của nước ta, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở giữ một vị trí quan trọng.

Đội ngũ này chính là cầu nối giữa chính quyền với nhân dân. Họ là những người
hàng ngày trực tiếp gắn bó, làm việc với dân, có điều kiện gần gủi, thấu hiểu
dân, đồng thời trực tiếp chỉ đạo triển khai mọi đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước ở bước cuối cùng, đối mặt và ra quyết định giải quyết những vấn
đề cụ thể nảy sinh trong hoạt động thực tiễn. Cũng từ trong hoạt động của họ mà
nhiều vấn đề nảy sinh đã được tổng kết, khái quát thành lý luận, thành những
chủ trương, đường lối có tính chất bước ngoặt trong quá trình phát triển của đất
nước, đặc biệt là trong việc định hướng xây dựng ý thức xã hội mới.
Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức
xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế
mới, văn hoá mới, con người mới; không ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo
hướng khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên
truyền, giáo dục ý thức xã hội mới.

Tiểu luận Triết học

20


Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ thể, họ
còn bị chi phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của
cộng đồng, tức là bị chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ,
lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và ngược lại.
Bởi thế, muốn xây dựng xã hội mới, tất yếu phải xây dựng ý thức xã hội mới và
việc xây dựng ý thức xã hội mới trở thành một nhiệm vụ của công cuộc xây
dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhândân ta đã lựa
chọn.


Tiểu luận Triết học

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1993.
2. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ chín, khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ chín, khoá IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
7. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hoá,
Hà Nội.
8. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.5. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
9. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.3, tr 139.
10. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.6, tr 167.
11. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.10, tr 201.
12. Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.9, tr. 287.
13. V.I.Lê-nin Toàn tập. Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1997.

Tiểu luận Triết học


22


MỤC LỤC

Tiểu luận Triết học

23



×