MỤC LỤC
1
MỞ ĐẦU
Pháp luật là một bộ phận quan trọng trong kiến trúc thượng tầng xã hội,
được hình thành trên cơ sở hạ tầng do các quan hệ kinh tế hợp thành. Ra đời, tồn
tại, cùng phát triển với nhà nước, do vậy, nguyên nhân làm phát sinh nhà nước
cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của pháp luật, đó là kết quả của sự
phát triển xã hội do sự tiến bộ không ngừng của lực lượng sản xuất. Do đó, sự ra
đời và tồn tại của pháp luật là một tất yếu khách quan.Ở Việt Nam, khi tiến hành
cách mạng nhân dân ta đã xóa bỏ pháp luật thực dân,phong kiến cùng với việc
xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa việt nam,nhân dân ta đã từng bước xây
dựng hệ thống pháp luật mới phù hợp với tình hình và điều kiện đất nước .Pháp
luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn phát triển và hoàn thiện cùng với sự phát
triển của đất nước ,đặc biệt trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế,xây dựng
nhà nước pháp quyền, pháp luật xã hội chủ nghĩa đã có bước phát triển nhảy vọt
cả về lượng và chất, từng bước đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước. Nhận thấy vị trí và vai trò vô cùng quan trọng của pháp luật
đối với nhà nước,em xin được chọn đề tài số 6 “Các yếu tố ảnh hưởng đến nội
dung của Pháp luật Việt Nam hiện nay” để phân tích, nghiên cứu, đồng thời
cũng làm đánh giá cho quá trình học tập vừa qua.
NỘI DUNG
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ theo mục
tiêu,định hướng cụ thể. Nội dung của pháp luật là tổng hợp tất cả những mặt,
những yếu tố, những quá trình hình thành pháp luật. Nội dung của pháp luật
luôn có sự thay đổi, sự thay đổi chịu ảnh hưởng từ những yếu tố khác nhau,
trong đó ảnh hưởng rõ dệt từ các yếu tố:
2
1.Nhu cầu quản lí kinh tế - xã hội của đất nước
Các quan hệ kinh tế - xã hội là cơ sở để xây dựng pháp luật, nên điều kiện
kinh tế xã hội của đất nước luôn quyết định đến nội dung pháp luật. Các quy
định pháp luật về các hoạt động kinh tế-xã hội trong đất nước luôn xuất phát từ
điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Để thực hiện một cách hiệu quả hoạt
đọng quản lí xã hội, một điều tất yếu là Nhà Nước phải ban hành các quy định
pháp luật phù hợp với nhu cầu quản lí kinh tế xã hội của đất nước. Những vấn đề
cần phải chú trọng trong quá trình xây dựng pháp luật đó là vấn đề xây dựng
đồng bộ các loại thị trường trong xã hội hiện nay nhằm mục đích cuối cùng là
đưa ra các loại quy phạm pháp luật phù hợp với nhu cầu, sự phát triển cũng như
các quy luật khách quan của xã hội đặc biệt là các quy luật phát triển kinh tế - xã
hội.
Ví dụ:
Trước năm 1986 vấn đề bất động sản chưa được biết đến rộng rãi ở nước ta,vì
vậy các quy địnhvề bất động sản chưa xuất hiện.Hiện nay, với chủ trương xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì đây là một trong
những nội dung luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều người. Để đảm bảo
nhu cầu về quản lí xã hội trong thời gian gần đây, hệ thống những quy định của
pháp luật về vấn đề này ngày càng trở nên phong phú và đa dạng, điển hình là
luật kinh doanh bất động sản năm 2006 và hàng loạt văn bản dưới luật hướng
dẫn chi tiết.
Như chúng ta đã biết, quy định của pháp luật không những phải phù hợp với
yêu cầu về chính trị, pháp lí mà còn phải đáp ứng tiêu chuẩn của khoa học. Tiêu
chuẩn khoa học không chỉ thể hiện về mặt kĩ thuật pháp lí phù hợp với điều kiện
cũng như nhu cầu quản lí kinh tế - xã hội của đất nước, pháp luật với kinh tế có
mối quan hệ biện chứng với nhau, kinh tế đóng vai trò quyết định đối với pháp
luật, kinh tế thay đổi thì pháp luật cũng phải thay đổi theo; còn pháp luật cũng có
3
tác động trở lại đối với kinh tế, pháp luật phù hợp với trình độ của nền kinh tế sẽ
thúc đẩy kinh tế phát triển, pháp luật không phù hợp sẽ kìm hãm sự phát triển
của nền kinh tế. Vì vậy, pháp luật muốn phát huy hiệu quả trên thực tế thì cần
phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội hay nói cách khác pháp luật
phải chứa đựng nội dung phù hợp với nhu cầu quản lí kinh tế xã hội cũng như
thực tiễn. Sự không phù hợp của pháp luật sẽ làm cho pháp luật không có tính
khả thi, khó thực hiện trong thực tế.
Chính vì lí do trên, nhu cầu quản lí kinh tế - xã hội cũng là một trong những
yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nội dung của pháp luật, một trong những cơ sở
để xây dựng, ban hành pháp luật.
2.Đường lối, chính sách của Đảng
Căn cứ vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của đất nước, Đảng đã
đề ra những đường lối, chính sách của mình.Đường lối chính sách của Đảng định
ra mục tiêu và phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong một
giai đoạn nhất định, định ra những phương pháp cách thức cơ bản để có thể thực
hiện những mục tiêu và phương hướng đó. Những mục tiêu, phương hướng,
phương pháp và cách thức đó sẽ được nhà nước thể chế hóa thành pháp luật và tổ
chức thực hiện trong thực tế. Vì thế đường lối chính sách của Đảng là một trong
những yếu tố có sức ảnh hưởng lớn nhất đến nội dung của pháp luật. Nội dung
các quy định trong tất cả các văn bản quy phạm pháp luật, từ hiến pháp, luật cho
đến các văn bản dưới luật đều phải phù hợp, không được trái với đường lối,
chính sách của Đảng.
Ví dụ:
Trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và nhà nước ta ngày càng chú
trọng đến nâng cao vai trò của công dân trên mọi lĩnh vực phát triển đất nước.
Chính vì thế, Điều 53 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và
4
địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức
trưng cầu ý dân”.
Ở nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất lãnh đạo đất nước
thông qua các nghị quyết, các quyết sách chiến lược của Đảng. Pháp luật được
thể chế hóa từ những nghị quyết của Đảng để lãnh đạo đất nước trong tất cả các
lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội…Những năm qua, nhìn
chung có thể thấy hệ thống pháp luật phản ánh khá trung thành và toàn diện
đường lối chính sách của Đảng. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại một số
quy ết định của pháp luật không hoàn toàn phù hợp với quan điểm, đường lối
chính sách của Đảng qua các nghị quyết chỉ thị gây ra một số hạn chế nhất định.
3. Các tư tưởng, học thuyết pháp lý
Ngoài các yếu tố như chủ trương, chính sách mang tính chất định hướng của
Đảng và nhu cầu quản lý kinh tế - xã hội của đất nước thì các tư tưởng học
thuyết pháp lý cũng là một yếu tố ảnh hưởng khá lớn đến nội dung của pháp luật
của nước ta. Các tư tưởng học thuyết pháp lý chủ yếu cần nói đến là : tư tưởng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,do dân, vì dân, tư tưởng của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…
Các tư tưởng, học thuyết này đóng vai trò quyết định trong việc đảm bảo các
yêu cầu về nội dung đối với các quy định của pháp luật.
- Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước là tư tưởng lớn chi phối các quy
định trong pháp luật của nước ta. Cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã xuất
hiện từ khá lâu ở Việt Nam. => qua các giai đoạn phát triển của lịch sử, tư tưởng
này đã được thể hiện qua hệ thống pháp luật cụ thể là Hiến pháp 1946.
- Hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được thể hiện xuyên suốt trong hệ
thống pháp luật ở nước ta, đặc biệt là tư tưởng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
5
nghĩa của dân, do dân, vì dân.Tính dân chủ cũng ảnh hưởng lớn tới nội dung của
pháp luật nước ta.
- Trong mọi lĩnh vực, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam.
4. Các chuẩn mưc xã hội
4.1 Phong tục tập quán
Ở Việt Nam chúng ta – nơi sinh sống của rất nhiều các dân tộc khác nhau thì
phong tục tập quán là một bộ phận quan trọng trong vốn văn hóa truyền thống,
nó không chỉ ẩn chứa những triết lí sâu xa về triết học, mà còn có ý nghĩa quan
trọng trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Tập quán được xem là “thói quen” hay “theo thói quen mà thành ra vững
chắc”. Tập quán bao hàm những thói quen về sinh hoạt và sản xuất trong đời
sống xã hội. (Ví dụ : tập quán du canh du cư, tập quán trồng lúa nước,….) . Tập
quán có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Tính
bắt buộc của tập quán không cao, thường chỉ là những việc rất đáng làm theo,
những ai không làm theo thì chủ yếu bị dư luận phê phán, dị nghị hoặc tẩy
chay…
Còn phong tục được xem là “thói quen trên xã hội” hay “ đó là một số tập
quán và nếp sống có ý nghĩa ăn sâu vào đời sống”. ( ví dụ : việc thờ cúng tổ tiên,
việc cưới hỏi…). Nhưng phong tục khác tập quán ở chỗ phong tục là những
khuôn mẫu ứng xử có tính chất bắt buộc đối với thành viên vì chúng được coi là
những khuôn mẫu ứng xử cần thiết cho lợi ích công cộng. Phong tục có tính bắt
buộc nghiêm ngặt, những người vi phạm có thể phải chịu những hình thức xử
phạt rất nghiêm khắc. Như vậy phong tục bắt nguồn từ tập quán nhưng có tính
bắt buộc cao hơn, được đảm bảo thực hiện bằng những biện pháp trừng phạt
nghiêm khắc của cộng đồng.
6
Tựu chung lại có thể thấy, phong tục tập quán được hiểu là: “những cách ứng
xử hay những thói quen ứng xử hay những quy tắc xử sự chung được hình thành
một cách tự phát trong một cộng đồng dân cư nhất định, được đảm bảo thực hiện
bằng thói quen, bằng sức thuyết phục của chúng, bằng dư luận xã hội và có thể
bằng cả một số biện pháp cưỡng chế phi Nhà nước”.
Những phong tục tập quán tốt đẹp, phù hợp với đạo đức cũng như ý chí của
Nhà nước được Nhà nước thừa nhận sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến nội
dung của pháp luật. Đặc biệt là đối với Việt Nam chúng ta – một đất nước có
nhiều phong tục tập quán truyền thống và văn hóa khác nhau.
Ví dụ :
Phong tục ăn Tết Nguyên Đán đã đưa đến sự xuất hiện quy định cho phép
người lao động, học sinh, sinh viên,… được nghỉ làm việc, nghỉ học để ăn Tết;
Giỗ tổ Hùng vương đã đưa đến quyết định công nhận ngày 10/3 Âm lịch là ngày
quốc giỗ và cho phép người lao động, công nhân viên chức Nhà nước, học sinh,
sinh viên, được nghỉ làm việc, học tập vào ngày này…
4.2 Đạo đức
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội,bao gồm những quan điểm, quan niệm
và các quy tắc ứng xử tương ứng về chân ,thiện,mỹ,hạnh phúc,danh dự,lòng vị
tha,..của mỗi người cũng như của cả cộng đồng. Nhờ đó con người tự nhận thức,
tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp trước những lợi ích đặt
ra.Những đạo đức tốt đẹp phù hợp ý chí nhà nước sẽ được nhà nước thừa nhận
và là cơ sở để hình thành nên các chuẩn mực pháp luật,có như vậy pháp luật mới
hợp với lòng người,được nhiều người tôn trọng và tự giác thực hiện.Như vậy
đạo đức có những ảnh hưởng nhất định đối với nội dung của pháp luật.
Ví dụ:
“Uống nước nhớ nguồn” là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân ta
từ xưa đến nay vì vậy để tỏ lòng biết ơn sâu sắc với các chiến sĩ đã không tiếc
7
xương máu của mình chiến đấu anh dũng chống giặc ngoại xâm để bảo vệ Tổ
quốc, Nhà nước ta đã quyết định chọn ngày 27-7 là ngày “Thương binh liệt
sĩ”.Trong ngày này,chính quyền các cấp,các đoàn thể mà trọng tâm là hội cựu
chiến binh tổ chức những hoạt động chủ yếu là việc các cá nhân ,tổ chức,nhà
chức trách thăm và tặng quà cho các gia đình thương binh, liệt sĩ, dâng hương tri
ân tại các Nghĩa trang liệt sĩ…
4.3 Tín điều tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh xã hội một cách hư ảo,được
một bộ phận quần chúng tin theo,tôn thờ theo những lễ nghi, lề luật chặt chẽ;nó
còn là một thực thể xã hội được xác định dựa trên các dấu hiệu: có giáo lí, giáo
luật, có hình thức tổ chức quản lý và hình thành cộng đồng tôn giáo, có cơ sở vật
chất nhất định.
Tín điều tôn giáo thường bao gồm những lí thuyết về các “đấng thiêng
liêng”, về thế giới, về con người và các quy tắc,quy định về trách nhiệm, quyền,
nghĩa vụ của những người theo tôn giáo đó, những nghi lễ, những cách ứng xử
cần thiết mà mỗi tín đồ cần thực hiện trong đời sống đạo của mình…Những tín
điều này phần lớn thường khẳng định sự siêu phàm, thiêng liêng của các lực
lượng siêu nhiên,không có thật.
Tuy vậy, ngoài những gì thần bí, thiếu khoa học, thì nhiều quy định của giáo
lí cũng có vai trò và những giá trị tích cực nhất định trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội, duy trì trật tự xã hội, giáo dục, cảm hóa con người sống lương
thiện, làm việc thiện, ghét việc ác.Những điều này có tác dụng rất thiết thực với
và hữu hiệu cho cuộc sống hôm nay và chúng hoàn toàn phù hợp với nội dung và
tinh thần của pháp luật hiện hành.Vì vậy trong hoạt động xây dựng pháp luật,
một số tín điều tôn giáo có thể được nhà nước thừa nhận thành pháp luật.Điều đó
thể hiện tín điều tôn giáo có những ảnh hưởng nhất định tới nội dung của pháp
luật,nó là cơ sở để hình thành nên các chuẩn mực pháp luật.
8
Ví dụ:
Trong đạo thiên chúa có quy định về việc kết hôn “ một vợ một chồng” ,quy
định này phù hợp với xã hội hiện nay nên đã được nhà nước thừa nhận và nâng
lên thành luật trong Luật Hôn nhân và Gia đình của Việt Nam hiện nay.
Trên đây là những yếu tố ảnh hưởng đến nội dung của pháp luật Việt nam
hiện nay, đó là những căn cứ, những cơ sở để chủ thể có thẩm quyền có thể dựa
vào đó để ban hành, xây dựng, giải thích, thực hiện cũng như áp dụng pháp luật
vào việc giải quyết các vụ việc pháp lí xảy ra trong thực tế. Những yếu tố này có
ảnh hưởng trực tiếp đến các quy định của pháp luật và vì vậy nó có vai trò rất
quan trọng.
KẾT LUẬN
Như vậy nội dung của pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng của rất nhiều
những tác động khác nhau. Trong đó đường lối chính sách của đảng, nhu cầu
quản lí kinh tế - xã hội của đất nước, các tư tưởng học thuyết pháp lý, các chuẩn
mực xã hội là những nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất. Chính những nhân tố đó đã
làm cho pháp luật Việt Nam ngày càng trở nên tiến bộ và toàn diện hơn. Trên
đây là kết quả nghiên cứu và tìm hiểu về đề bài này của em. Do trình độ hiểu biết
còn hạn chế nên chưa thể đi sâu phân tích một cách toàn diện triệt để vấn đề và
không tránh khỏi những sai xót, em rất mong nhận được những đóng góp quý
báu của thầy cô.
9
PHỤ LỤC 1
Sơ đồ hóa các yếu tố ảnh hưởng tới nội dung của pháp luật Việt Nam hiện
nay.
Nhu cầu quản lí
kinh tế - xã hội
của đất nước
NỘI
DUNG
CỦA
PHÁP
LUẬT
Đường lối, chính
sách của Đảng
Các tư tưởng, học
thuyết pháp lý
Phong tục,
tập quán
Các chuẩn mực xã
hội
Đạo đức
Tín điều tôn
giáo
10
PHỤ LỤC 2
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật – PGS,TS Nguyễn Văn Động –
NXB Giáo dục.
2 .Hướng dẫn môn học Lý luận nhà nước và pháp luật – PGS,TS Nguyễn
Minh Đoan – NXB Tư pháp.
3. Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật – Trường Đại học Luật Hà Nội
2013 – NXB Công an Nhân dân.
4. Nội dung cơ bản của môn học Lý luận nhà nước và pháp luật – Trường Đại
học Luật Hà Nội 2008 – NXB Giao thông vận tải.
5. Khóa luận tốt nghiệp đề tài: “ Nguồn của pháp luật ở Việt Nam hiện nay”,
2011 – Đào Thị Diệu Thương.
6.
11