Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.51 KB, 33 trang )

PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tính cấp thiết của đề tài
Đối với bất kỳ một quốc nào, dù là nước phát triển hay đang phát triển thì vốn có một
vai trò đặc biệt quan trọng và cần thiết trong quá trình phát triển kinh tế cũng như giải quyết
các vấn đề chính trị, văn hóa và xã hội. Nguồn vốn để phát triển kinh tế có thể được huy động
ở trong nước hoặc từ nước ngoài, tuy nhiên nguồn vốn trong nước thường có hạn, nhất là đối
với những nước đang phát triển như Việt Nam (có tỷ lệ tích luỹ thấp, nhu cầu đầu tư cao nên
cần có một số vốn lớn để phát triển kinh tế).Vì vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng
giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Hơn nữa, trong bối cảnh của nền kinh tế phát triển, tự do hoá thương mại và ngày
càng hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế. Vai trò của vốn đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư
trực tiếp từ nước ngoài để phát triển kinh tế được đánh giá là rất quan trọng. Bất kỳ một quốc
gia nào muốn tăng trưởng và phát triển đều cần một điều kiện không thể thiếu được, đó là
phải thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn cho nền kinh tế. Vấn đề về vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài cho việc phát triển kinh tế - xã hội đều được các quốc gia đặc biệt là các
nước đang phát triển quan tâm. Việt Nam cũng nằm trong quy luật đó. Hay nói cách khác,
Việt Nam muốn thực hiện được các mục tiêu công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH - HĐH)
đất nước thì vấn đề quan trọng hàng đầu là phải huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài sao cho có hiệu quả.
Trong những năm vừa qua, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng công tác thu hút đầu
tư từ nước ngoài. Chính phủ liên tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, trong đó đặc biệt coi trọng việc triển khai chương trình xây dựng
pháp luật.
Kết quả, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã từng bước phục hồi, nhất là từ
năm 2004 đến nay. Tính chung 5 năm, Việt Nam đã thu hút được hơn 18 tỷ USD vốn FDI
đăng ký mới, 13,6 tỷ USD vốn FDI thực hiện, góp phần bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát
triển và nâng cao năng lực sản xuất, xuất khẩu của nền kinh tế. Ước tính, khu vực kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài hiện đóng góp hơn 14% GDP, hơn 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội
và hơn 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (không kể dầu thô). Trong 5 năm qua, khu
1




vực này đóng góp gần 1 tỷ USD/năm vào ngân sách Nhà nước, tạo việc làm cho gần 800.000
lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, vẫn còn nhiều hạn chế: Hiệu quả tổng
thể nguồn vốn FDI chưa cao; tỷ lệ vốn thực hiện thấp so với vốn đăng ký (chiếm 47%), quy
mô dự án FDI nhỏ, nhiều dự án chậm triển khai, giãn tiến độ; mục tiêu thu hút FDI vào lĩnh
vực công nghệ cao, chuyển giao công nghệ chưa đạt được; tạo việc làm chưa tương xứng, đời
sống người lao động làm việc cho doanh nghiệp (DN) FDI chưa cao; hiệu ứng lan tỏa của
khu vực FDI sang các khu vực khác còn hạn chế;
Xuất phát từ thực trạng đó, nhóm chúng tôi xin đề xuất nghiên cứu đề tài “ Thực
trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) ở Việt Nam” .
Mục tiêu nghiên cứu
 Mục tiêu chung: Đánh giá thực trạng đầu tư nguồn vốn FDI ở Việt Nam, từ đó đề ra
những giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI ở Việt Nam.
 Mục tiêu cụ thể:
-

Hệ thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn liên quan đến đầu tư FDI;

-

Đánh giá thực trạng đầu tư FDI ở Việt Nam trong thời gian qua;

- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI vào
Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập số liệu
Bài viết chủ yếu sử dụng phương pháp thu thập số liệu thứ cấp thông qua: Báo; Báo
cáo tổng kết của Tổng cục Thống kê; Các nghiên cứu khoa học đã có, internet…

Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp phân tích thống kê mô tả: Bài viết sử dụng phương pháp thống kê mô tả
thông qua các công cụ: Số tương đối, số tuyệt đối,… nhằm mô tả thực trạng thu hút, sử dụng
nguồn vốn FDI ở Việt Nam trong thời gian qua.


-

Phương pháp phân tích thống kê so sánh: Phương pháp thống kê so sánh được sử

dụng nhằm so sánh các chỉ tiêu về kinh tế của Việt Nam qua các năm; so sánh sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam theo ngành;….


PHẦN II
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI)
Khái niệm
FDI là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Foreign Direct Investmen” và được dịch
sang tiếng Việt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có nhiều khái niệm về FDI như sau:
 Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF):
FDI là một hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài
trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước
chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp.
 Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO):
Đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư)
có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác.
 Theo Luật Đầu tư Việt Nam (2005):

FDI là hình thức đầu tư do đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt
động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt
động đầu tư ở nước ngoài theo quy luật này và các quy định khác có liên quan.
=>Tóm lại: Đầu tư nước ngoài (FDI) có bản chất như đầu tư nói chung, là sự di
chuyển các nguồn lực từ nước này sang nước khác để tiến hành những hoạt động đầu tư
nhằm tìm kiếm lợi ích hữu hình hoặc vô hình. Tuy nhiên, ĐTNN nhấn mạnh vào địa điểm
thực hiện hoạt động này là ở quốc gia khác với quốc gia của nhà đầu tư.
Đặc điểm và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
 Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
-

Mục tiêu: Do chủ thể là tư nhân nên FDI có mục đích ưu tiên hàng đầu là lợi nhuận.


-

Về vốn góp: Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một tỉ lệ vốn tối thiểu trong

vốn pháp định hoặc vốn điều lệ tùy theo quy định của luật pháp từng nước để giành quyền
kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát doanh nghiệp nhận đầu tư. Luật các nước thường quy định
không giống nhau về vấn đề này.
-

Tỷ lệ phân chia lợi nhuận: Tỉ lệ đóng góp của các bên trong vốn điều lệ hoặc vốn

pháp định sẽ quy định quyền và nghĩa vụ mỗi bên, đồng thời lợi nhuận và rủi ro cũng được
phân chia dựa theo tỉ lệ này. Thu nhập mà chủ đầu tư thu được phụ thuộc vào kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp mà họ bỏ vốn đầu tư, nó mang tính chất thu nhập kinh doanh chứ
không phải lợi tức.
- Về quyền kiểm soát: Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh

và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Nhà đầu tư nước ngoài được quyền tự lựa chọn lĩnh vực đầu
tư, hình thức đầu tư, quy mô đầu tư cũng như công nghệ cho mình. Vì thế hình thức này
mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không có
gánh nặng về nợ nần cho nền kinh tế nước nhận đầu tư.
FDI thường kèm theo chuyển giao công nghệ cho các nước tiếp nhận đầu tư.Thông
qua hoạt động FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi
kinh ngiệm quản lý.
 Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
 Với các nước đi đầu tư:
-

Thông qua FDI, các nước đi đầu tư vận dụng được các lợi thế về chi phí

sản xuất thấp của các nước được đầu tư để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí vận chuyển,
nâng cao hiệu quả vốn đầu tư.
-

Cho phép công ty kéo dài chu kì sống của các sản phẩm được sản xuất ra.

-

Giúp các công ty chính quốc tạo dựng thị trường cung cấp nguyên nhiên vật

liệu dồi dào, ổn định với giá rẻ.
-

Cho phép chủ đầu tư bành trướng về mặt kinh tế, tăng khả năng ảnh hưởng của mình
trên thị trường thế giới

 Với các nước nhận đầu tư ( Các nước sở tại):



-

FDI giải quyết tình trạng thiếu vốn cho phát triển kinh tế, xã hội.

-

Chuyển giao công nghệ từ nước đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư.

-

FDI làm cho hoạt động đầu tư nước ngoài vào trong nước ngày càng phát triển,

thúc đẩy tính năng động và khả năng cạnh tranh trogn nước, tạo khả năng khai thác tiềm năng
của đất nước.
-

Không đẩy các nước tiếp nhận vào tình trạng nợ nần,không chịu những

ràng buộc về kinh tế, chính trị, xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó thì còn có những khó khăn riêng:
-

Với các nước đi đầu tư thi nếu môi trường đầu tư bất ổn về kinh tế, chính trị thì

nhà đầu tư đễ bị mất vốn. Còn đối với các nước sở tại thì nếu không quy hoạch sử dụng vốn
cho hiệu quả thì dễ dẫn đến tình trạng tài chuyên bị khai thác cạn kiệt và ô nhiễm môi trường.
Các hình thức đầu tư nguồn vốn FDI
Theo Luật đầu tư 2005 của Việt Nam, có các hình thức FDI tại Việt Nam như sau

( Điều 21):
- Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100% vốn của
nhà đầu tư nước ngoài.
- Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài.
-

Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT.

-

Đầu tư phát triển kinh doanh.

-

Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.

-

Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.

-

Các hình thức đầu tư trực tiếp khác

Kinh nghiệm thu hút nguồn vốn FDI ở một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam


Trung Quốc

Trung Quốc được coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút vốn FDI cho quá
trình CNH-HĐH. Từ thập kỷ 80, Trung Quốc đã xuất hiện trong danh sách 10 nước đang
phát triển (ĐPT) đứng đầu thế giới về thu hút FDI. Đặc biệt, trong những năm gần đây với
lượng FDI tiếp nhận trung bình mỗi năm khoảng gần 50 tỷ USD, Trung Quốc đã trở thành
nước thu hút FDI nhiều nhất Châu Á và là một trong 5 nước thu hút được nhiều FDI nhất thế
giới. Doanh nghiệp FDI bình quân mỗi năm đóng góp khoảng 30% GDP của Trung Quốc;
thuế thu nhập doanh nghiệp của doanh nghiệp FDI chiếm hơn 20% tổng thu loại thuế này; tạo
khoảng 72.000 việc làm/năm; đóng vai trò quan trọng trong lôi kéo xuất khẩu, thúc đẩy ngoại
thương.
Trong thời kỳ đầu cải cách mở cửa, Trung Quốc thành lập 4 đặc khu kinh tế, mở cửa
14 thành phố ven biển, đẩy mạnh thu hút vốn và kỹ thuật của nước ngoài với những ưu đãi về
thuế, đất đai, lao động... Trong giai đoạn này, FDI vào Trung Quốc chủ yếu đầu tư vào các
ngành gia công, chế tạo, sử dụng nhiều lao động. Từ năm 1995, FDI của Trung Quốc tập
trung vào nhóm ngành công nghiệp, xây dựng (chiếm khoảng 70%), trong đó ngành chế tạo
chiếm tỷ trọng lớn…
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào cuối năm 2001, chính sách
thu hút FDI của Trung Quốc có sự điều chỉnh phù hợp với các quy định của WTO với việc
từng bước mở cửa thu hút đầu tư FDI vào các ngành dịch vụ, bất động sản, tiền tệ…
Trong giai đoạn 2010 - 2020, Trung Quốc nêu rõ quan điểm thu hút FDI vào các
ngành kỹ thuật cao, kinh nghiệm quản lý, nhân lực chất lượng cao. Trung Quốc cũng tiến
hành sửa đổi bổ sung "Danh mục hướng dẫn ngành nghề đầu tư nước ngoài", đồng thời cho
phép chính quyền địa phương được phê chuẩn dự án đầu tư từ 100 triệu USD lên 300 triệu
USD.
Thái Lan và Malaysia: Đầu tư theo hướng chọn lọc
FDI luôn được coi là một trong những nhân tố kích thích quan trọng đối với nền kinh
tế Thái Lan. Chính phủ Thái Lan đã xây dựng một chính sách ưu đãi để cho dòng vốn này
phát huy được lợi thế.
Ngay từ giai đoạn 1959 - 1971, Thái Lan đã thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế
thay thế hàng nhập khẩu. Quốc gia này đã có chủ trương giảm dần đầu tư từ Chính phủ,



khuyến khích đầu tư tư nhân. Theo đó, năm 1959, Thái Lan đã thành lập Bộ Đầu tư và đến
năm 1960 đã ban hành Đạo luật Đầu tư.
Giai đoạn 1972 - 1996, Bộ Đầu tư Thái Lan đã ban hành chính sách thu hút các
chuyên gia, lao động chất lượng cao từ bên ngoài với những ưu đãi về đất, việc làm để thực
hiện Chiến lược phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu. Từ năm 2005, chính sách thu hút
FDI của Thái Lan có sự biến chuyển theo hướng đầu tư chọn lọc với chính sách ưu tiên nhà
đầu tư trong nước, hỗ trợ phát triển các loại hình dịch vụ phi sản xuất và các loại hình dịch vụ
tài chính. Thống kê cho thấy, FDI vào Thái Lan đầu tư nhiều nhất là lĩnh vực công nghiệp,
sau đó là thương mại, bất động sản, xây dựng…
Đối với Malaysia, những năm 50 - 60 của thế kỷ trước, Malaysia khuyến khích thu
hút FDI đầu tư vào những ngành xuất khẩu bằng việc giảm thuế thu nhập tới 3 năm cho các
doanh nghiệp đầu tư vào những ngành được lựa chọn. Từ những năm 90 đến nay, Malaysia
khuyến khích thu hút FDI vào những ngành sử dụng công nghệ cao, ít phát thải bằng việc
phân loại rất rõ những ngành ưu đãi đầu tư.
Singapore: Nhiều chính sách hấp dẫn nhà đầu tư
Trong khi nhiều nước ASEAN có thế mạnh về tài nguyên và con người… nhưng vẫn
luẩn quẩn trong vòng thu nhập trung bình, thì Singapore lại có những bước phát triển thần kỳ,
dù khi mới trở thành một nhà nước tự chủ năm 1959, nước này có xuất phát điểm thấp, với
nguồn tài nguyên gần như ở con số 0. Năm 2012, Theo Cục Thống kê Singapore, GDP bình
quân đầu người của nước này đạt 65.048 Đô la Singapore. Có được điều này một phần quan
trọng là nhờ vào nguồn vốn FDI quy mô lớn, liên tục chảy vào quốc đảo ngay cả trong những
năm gần đây kinh tế thế giới rơi vào khủng hoảng.
Mặc dù khủng hoảng kinh tế tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2008, nhưng nguồn
vốn FDI vào Singapore vẫn tăng lên (từ 24 tỷ USD năm 2009 lên 63,99 tỷ USD năm 2011).
Mặc dù, năm 2012, nguồn vốn FDI tuy có sụt giảm so với năm 2011, song con số 56,7 tỷ
USD vẫn khá cao và đứng đầu khối ASEAN. Điều gì đã giúp Singapore thực hiện hiệu quả
chính sách thu hút FDI và khiến nhiều doanh nghiệp lựa chọn đây là điểm đến hấp dẫn để họ
đầu tư, kinh doanh thu lợi nhuận? Nhìn lại những chính sách mà Singapore đã thực hiện để
thu hút FDI, có thể rút ra một số bí quyết sau:



Thứ nhất, Singapore đã xác định rõ việc thu hút nguồn vốn FDI tập trung vào ba lĩnh
vực cần ưu tiên là: ngành sản xuất mới, xây dựng và xuất khẩu. Bên cạnh đó, tùy từng điều
kiện cụ thể của mỗi thời kỳ, Singapore chủ trương thu hút FDI vào các ngành thích hợp. Ban
đầu, do cơ sở kinh tế ở điểm xuất phát thấp, Singapore chủ trương sử dụng FDI vào các
ngành tạo ra sản phẩm xuất khẩu, như: dệt may, lắp ráp các thiết bị điện và phương tiện giao
thông… Cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp điện tử và một số công nghệ
tiên tiến khác, hướng sử dụng nguồn vốn đầu tư tập trung vào những ngành, như: sản xuất
máy vi tính, điện tử, hàng bán dân dụng, công nghiệp lọc dầu và kỹ thuật khai thác mỏ…
Để khai thác ưu thế về vị trí địa lý, cũng như khắc phục sự thiếu hụt về tài nguyên
thiên nhiên, phù hợp với trình độ phát triển cao của nền kinh tế, thu hút FDI còn hướng vào
việc tạo ra một hệ thống các ngành dịch vụ thúc đẩy đầu tư quốc tế.
Thứ hai, Chính phủ Singapore đã tạo nên một môi trường kinh doanh ổn định, hấp
dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ đã công khai khẳng định, không quốc hữu hoá
các doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, Singapore cũng rất chú trọng xây dựng kết cấu
hạ tầng, phục vụ cho hoạt động sản xuất. Thủ tục cấp giấy phép đơn giản, thuận tiện, có
những dự án xin cấp giấy phép rồi đi vào sản xuất chỉ trong vòng vài tháng, có những dự án
chỉ trong vòng 49 ngày đã có thể đi vào sản xuất. Hiện tượng này được gọi là “kỳ tích 49
ngày” ở Singapore.
Đặc biệt, Singapore đã xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn thiện, nghiêm minh,
công bằng và hiệu quả. Tệ nạn tham nhũng được xét xử rất nghiêm, tất cả các doanh nghiệp
không kể trong nước, ngoài nước đều được đối xử như nhau, mọi người đều làm việc, tuân
thủ theo pháp luật. Bên cạnh đó, Nhà nước trả lương rất cao cho viên chức. Hàng tháng họ
phải trích lại một phần lương coi như là một khoản tiền tiết kiệm khi về hưu, nếu trong quá
trình công tác mà phạm tội tham ô thì sẽ bị cắt khoản tích lũy này và cách chức. Họ không
những mất số tiền do mình tích cóp nhiều năm, mà có thể phải chịu hình phạt tù. Nhiều người
gọi đây là quỹ dưỡng liêm cho quan chức.
Thứ ba, Chính phủ Singapore đã ban hành những chính sách khuyến khích các nhà tư
bản nước ngoài bỏ vốn vào đầu tư. Singapore áp dụng chính sách ưu đãi rất đặc biệt, đó là:

Khi kinh doanh có lợi nhuận, nhà đầu tư nước ngoài được tự do chuyển lợi nhuận về nước;
Nhà đầu tư có quyền cư trú nhập cảnh (đặc quyền về nhập cảnh và nhập quốc tịch); Nhà đầu


tư nào có số vốn ký thác tại Singapore từ 250.000 Đô la Singapore trở lên và có dự án đầu tư
thì gia đình họ được hưởng quyền công dân Singapore.
 Bài học kinh nghiệm về thu hút vốn FDI cho Việt Nam
Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính
sách liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Đặc biệt, chính sách thu hút và ưu đãi đầu tư phải
được xây dựng theo hướng thuận lợi và có tính cạnh tranh hơn so với các nước trong khu
vực, nhất là môi trường đầu tư phải ổn định, có tính tiên lượng và minh bạch.
Hai là, công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, tạo điều kiện thuận lợi cho
các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận thông tin về quy hoạch để xây dựng kế hoạch đầu tư.
Ba là, đẩy mạnh thu hút đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; lựa chọn các dự
án tiềm năng hấp dẫn, có tính khả thi cao theo các lĩnh vực ưu tiên để đưa vào danh mục dự
án đối tác công - tư (PPP).
Bốn là, tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ theo hướng tập trung vào một số
ngành, sản phẩm trọng điểm.
Năm là, bên cạnh việc xúc tiến thu hút vốn FDI mới, cần tăng cường hỗ trợ, ưu đãi tài
chính cho các nhà đầu tư đang hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam.
Sáu là, tăng cường và có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng
yêu cầu của doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy định của pháp luật để tăng cường quản lý theo
hướng tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nước ngoài tại Việt Nam có trình độ chuyên môn
kỹ thuật cao, cũng cần tính đến các trường hợp đặc thù và đảm bảo quản lý hiệu quả.
Thực trạng đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam
Khái quát chung về đầu tư FDI ở Việt Nam trong thời gian qua
Quy mô đầu tư FDI ở Việt Nam
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài năm 1987( sửa đổi bổ sung năm 2005) có hiệu lực,
Việt Nam đã đạt được kết quả khả quan trong thu hút nguồn vốn FDI. Luật này đã bổ sung và
chi tiết hoá các lĩnh vực cần khuyến khích kêu gọi đầu tư cho phù hợp với hoàn cảnh mới.

Thống kê cho thấy nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam tăng từ 20,7 tỷ USD trong
giai đoạn 1991 - 2000 lên gần 70 tỷ USD trong những năm 2001 - 2011, nhưng tỷ trọng so
với tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại giảm từ hơn 24,3% xuống còn 22,75% trong cùng giai


đoạn. Từ năm 2000 đến năm 2013 đã có khoảng 13842 dự án FDI được cấp phép đăng kí đầu
tư tại Việt Nam,với tổng số vốn đăng kí 205 631,9 triệu USD. Trong đó số vốn được thực
hiện là 76 126,9triệu USD, chiếm 37,02% tổng số vốn đăng kí.
Trong giai đoạn 2000 – 2013, quy mô bình quân một dự án cũng có xu hướng tăng.
Trong những năm 2001 – 2005, quy mô bình quân một dự án còn dưới 10 triệu USD, thì giai
đoạn sau đó đã tăng lên được trên 12 triệu USD/dự án.
Bảng 2.1. Vốn đầu tư FDI vào Việt Nam giai đoạn 2000 - 2013

Năm

Số dự
án

Vốn đăng kí
(triệu USD)

Tổng số vốn thực
hiện

Quy mô bình
quân 1 dự án

(triệu USD)

(triệu USD)


2000

391

2 838,9

2 413,5

16,06

2001

555

3 142,8

2 450,5

5,66

2002

808

2 998,8

2 591,0

3,71


2003

791

3 191,2

2 650,0

4,03

2004

811

4 574,9

2 852,5

5,61

2005

970

6 839,8

3 308,8

7,05


2006

987

12 004,0

4 100,1

12,16

2007

1544

21 347,8

8 030,0

13,8

2008

1171

71 700,0

11 500,0

61,22


2009

839

23 100,0

10 000,0

27,53

2010

1240

19 764,0

11 000,0

15,94

2011

1191

15 618,0

11 000,0

13,11


2012

1287

16 348,0

10 460,0

12,70

2013

1257

21 600,0

11 500,0

17,18

Tổng số

13842

205 631,9

76 126,9

14,86


Trích nguồn: Tổng cục thống kê


Với các số liệu trên ta có thể nhận thấy rằng kết quả thu hút FDI vào Việt Nam giai
đoạn 2000 – 2013 đã thể hiện một phần xu hướng tăng giảm đầu tư toàn cầu, cả mức vốn
đăng ký và mức vốn thực hiện đều đạt điểm cao nhất là vào năm 2008, sau đó giảm dần đến
năm 2013. Nguyên nhân của lượng vốn FDI vào Việt Nam giảm là do ảnh hưởng bởi tình
hình chung của kinh tế - tài chính thế giới như vụ khủng bố 11/9/2001 tại Mỹ,cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới năm 2008…Ngoài ra, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sự sụt giảm của
lượng vốn FDI vào Việt Nam như hiện nay là do sự vắng bóng của các dự án lớn nên khiến
cho vốn đăng ký giảm nhanh như vậy.
Cơ cấu đầu tư FDI vào Việt Nam theo đối tác đầu tư
Sau hơn 20 năm thu hút vốn FDI từ các nước, hiện nay Việt Nam nhận được nguồn
vốn FDI của hơn 90 quốc gia trên thế giới.
Bảng 2.2: 10 nước đầu tư FDI lớn nhất vào Việt Nam (Lũy kế tính đến
31/12/2012)
STT

Quốc gia

Số dự án

Vốn đăng ký(triệu USD)

Tỷ lệ %

1

Nhật Bản


1849

28699,6

17,170

2

Đài Loan

2234

27129,1

16,231

3

Xin – ga – po

1119

24875,3

14,882

4

Hàn Quốc


3197

24816,0

14,847

5

Quần đảo Vigin (Anh)

510

15386,4

9,205

6

Quần đảo hành chính Hồng
Kong (TQ)

705

11966,7

7,159

7


Hoa Kỳ

648

10507,2

6,286

8

Malaixia

435

10196,4

6,100

9

Quần đảo Cay Men

54

7506,0

4,491

10


Thái Lan

298

6063,7

3,628

11049

167146,4

100

Tổng số


Trích nguồn: Tổng cục thống kê
Tính đến hết ngày 31/12/2012, Đài Loan là quốc gia có tổng số dự án FDI đầu tư vào
Việt Nam lớn nhất với 2234 dự án với vốn đăng ký 27129,1 triệu USD chiếm 16,231% trong
tổng số vốn đăng ký của 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam . Nhật Bản là quốc gia có số
vốn đăng ký đầu tư lớn nhất với 28699,6 tỷ USD chiếm 17,170%. Theo sau là các nước Xin –
Ga – Po, Hàn Quốc...
Hình 2.1: 10 nước đầu tư FDI lớn nhất vào Việt Nam tính đến 31/12/2012

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài
Theo báo cáo của Cục Đầu tư nước ngoài, tính chung trong năm 2013 tổng vốn đăng
ký cấp mới và tăng thêm là 22,35 tỷ USD, tăng 35,9% so với cùng kỳ năm 2012. Trong 12
tháng của năm 2013 đã có 57 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam. Nhật
Bản dẫn đầu với số tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 5,875 tỷ USD, chiếm

26,3% tổng vốn đầu tư đăng ký tại Việt Nam; Singapore đứng vị trí thứ hai với tổng vốn đầu
tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 4,76 tỷ USD, chiếm 21,3% tổng vốn đầu tư; Hàn Quốc
đứng vị trí thứ 3 với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 4,46 tỷ USD, chiếm
20% tổng vốn đầu tư đăng ký.
Cơ cấu đầu tư FDI vào Việt Nam theo ngành
Phân tích đầu tư FDI vào Việt Nam theo ngành cho thấy, đầu tư FDI đã có mặt hầu
hết tất cả các ngành của nền kinh tế quốc dân, tuy nhiên nó đang có sự dịch chuyển sao cho
phù hợp với công cuộc CNH – HĐH đất nước.


Tính đến hết ngày 31/12/2012, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành chiếm
được sự thu hút, quan tâm nhiều nhất của các nhà đầu tư nước ngoài với 8072 dự án chiếm
105938,7 triệu USD. Đứng thứ hai trong tổng số dự án là hoạt động chuyên môn, khoa học và
công nghệ với 1336 dự án, tuy nhiên số vốn đăng ký chỉ có 1101,5 triệu USD. Kinh doanh
bất động sản là ngành đứng thứ 2 có số vốn đăng ký lớn nhất 49760,5 triệu USD.
Bảng 2.3: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được cấp giấy phép tại Việt Nam theo
ngành( Lũy kế tính đến 31/12/2012)
Ngành

Số dự án

Vốn đăng ký(triệu USD)

Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản

493

3263,0

Khai khoáng


78

3182,0

8072

105938,7

Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hoà không khí

87

7488,9

Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác
thải, nước thải

28

1234,2

Xây dựng

936

10052,0

Bán buôn và bán lẻ; sử chữa ô tô, mô tô, xe

máy và xe có động cơ khác

902

2898,3

Vận tải, kho bãi

350

3492,8

Dịch vụ lưu trú và ăn uống

331

10605,8

Thông tin và truyền thông

828

3941,7

Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm

76

1321,7


Hoạt động kinh doanh bất động sản

388

49760,5

Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ

1336

1101,5

Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ

114

193,3

Giáo dục và đào tạo

163

462,9

Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội

82

1222,2


Công nghiệp chế biến, chế tạo


Nghệ thuật, vui chơi và giải trí

137

3629,2

Hoạt động dịch vụ khác

121

732,9

14522

210521,6

Tổng số

Nguồn: Tổng cục thống kê
Tuy nhiên, trong năm 2013 nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18 ngành lĩnh vực,
trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo là lĩnh vực thu hút được nhiều sự quan tâm
của nhà đầu tư nước ngoài với 719 dự án đầu tư đăng ký mới, tổng số vốn cấp mới và tăng
thêm là 17,14 tỷ USD, chiếm 76,7% tổng vốn đầu tư đăng ký. Lĩnh vực sản xuất, phân phối
điện, khí, nước, điều hòa đứng thứ hai với tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là
2,037 tỷ USD, chiếm 9,1% tổng vốn đầu tư đăng ký. Đứng thứ 3 là lĩnh vực kinh doanh bất
động sản với 23 dự án đầu tư mới, tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới và tăng thêm là 951,9
triệu USD.

Cơ cấu đầu tư FDI vào Việt Nam theo vùng kinh tế
Ngày nay, hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước đều có các dự án đầu tư FDI, tuy
nhiên cơ cấu đầu tư theo địa phương, vùng kinh tế còn thiếu tính đồng bộ, do các dự án FDI
chỉ tập trung chủ yếu vào các địa phương nằm trong vùng kinh tế trọng điểm.
Bảng 2.4. Cơ cấu FDI theo vùng lãnh thổ, tính đến hết ngày 31/12/2012
Tổng số vốn đăng ký
Triệu USD

Tỷ lệ (%)

Đồng bằng sông Hồng

4034

48753,7

23,47

Trung du và miền núi phía Bắc

375

4106,5

1,98

Bắc Trung Bộ và Duyên hải
miền Trung

879


44386

21,36

Tây Nguyên

137

811,2

0,39

Đông Nam Bộ

8273

99002,7

47,65

Đồng bằng sông Cửu Long

775

10707,9

5,15

14473


207768

100,00

Cả nước


Dầu khí

49

2753,7
Trích nguồn: Tổng cục thống kê

Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2012 về đầu tư FDI theo vùng, lãnh thổ
thì khu vực Đồng Nam Bộ là vùng thu hút được vốn FDI nhiều nhất với 8.273 dự án; 99002,7
triệu USD chiếm đến 47,65% trong tổng số vốn đăng ký của cả nước ( không tính đến dầu
khí). Vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam Bộ, đứng đầu là Thành Phố Hồ Chí Minh với ưu
thế về điều kiện cơ sở hạ tầng, giao thông, vận tải thu hút được tổng số vốn FDI lớn nhất cả
nước với 4337 dự án với 32403,2 triệu USD đầu tư. Khu vực Tây Nguyen, Trung du và miền
núi phía bắc là 2 vùng kinh tế thu hút được nguồn vốn FDI thấp nhất.
Tuy nhiên, tính riêng trong năm 2013, không kể dầu khí ngoài khơi, các nhà đầu tư
nước ngoài đã đầu tư vào 56 tỉnh thành phố. Thái Nguyên là địa phương thu hút nhiều vốn
ĐTNN nhất với tổng vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm là 3,4 tỷ USD, chiếm 15,2% vốn
đăng ký. Với sự điều chỉnh tăng 2,8 tỷ USD vốn đầu tư của dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn,
Thanh Hóa đứng thứ hai với 2,924 tỷ USD vốn đăng ký mới và tăng thêm chiếm 13,1% tổng
vốn đầu tư. Hải Phòng đứng thứ 3 với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm 2,614 tỷ
USD, chiếm 11,7% vốn đăng ký.
Xét trong 6 Vùng kinh tế của cả nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài dẫn đầu là vùng

Đồng bằng sông Hồng với tổng vốn cấp mới và tăng vốn là 6,73 tỷ USD chiếm 30,1% tổng
vốn đầu tư, đứng thứ hai là vùng Bắc trung bộ và duyên hải miền Trung với tổng vốn cấp mới
và tăng thêm là 6,64 tỷ USD chiếm 28,9% tổng vốn đầu tư cả nước, đứng thứ 3 là vùng Đông
Nam bộ với 4,7 tỷ USD cấp mới và tăng thêm. Tây Nguyên là vùng có ít dự án đầu tư nhất cả
nước, tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm chỉ đạt 6,25 triệu USD.

Cơ cấu đầu tư FDI vào Việt Nam theo hình thức đầu tư
Nhà đầu tư 100% vốn nước ngoài là nhà đầu tư lớn nhất cho Việt Nam với 1.325 dự
án cấp mới năm 2013 với tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm lên tới 15.402,97 triệu
USD. Chiếm giữ vị trí số 2 là các doanh nghiệp liên doanh với 202 dự án cấp mới, 4.863 triệu
USD. Trong năm 2013, đầu tư theo hình thức BOT, BT, BTO và công ty cổ phần là rất hạn
chế.


Bảng 2.5: Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư năm 2013

T
T

Hình thức đầu tư

Số lượt
dự án
tăng vốn

Vốn đăng
ký tăng
thêm
(triệu
USD)


Vốn đăng
ký cấp mới
và tăng
thêm (triệu
USD)

10.878,47

528

4.524,50

15.402,97

202

1.540,99

57

3.322,01

4.863,00

2.063,31

Số dự án
cấp mới


Vốn đăng
ký cấp
mới (triệu
USD)

1.325

1

100% vốn nước
ngoài

2

Liên doanh

3

Đầu tư theo BOT,
BT, BTO

3

4

Công ty cổ phần

-

Tổng số


1.530

14.482,77

2.063,31
5

22,95

22,95

590

7.869,46

22.352,23

Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài
Đánh giá chung về đầu tư nước ngoài (FDI) ở Việt Nam trong thời gian qua
Những thành tựu đạt được
Thông qua phân tích thực trạng đầu tư FDI ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy
FDI có những đóng góp tích cực cho nền kinh tế.


FDI góp phần bổ sung nguồn vốn

Nguồn vốn FDI giúp bổ sung nguồn vốn đầu tư cho Việt Nam trong hoàn cảnh nước
ta còn là một nước đang phát triển, có tỷ lệ tích lũy vốn thấp. Theo đó, giai đoạn 1991-2000,
khu vực FDI đã bổ sung 29,67 tỷ USD, chiếm 24,32% tổng vốn cho đầu tư xã hội và giai

đoạn 2001-2011 khu vực FDI bổ sung 69,47 tỷ USD, chiếm 22,75% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội. Tỷ trọng khu vực FDI trong cơ cấu kinh tế giai đoạn 2000-2011 tăng 5,4%.
Trong thời gian qua, hoạt động của khu vực FDI tăng lên cả về số lượng, năm 2013 đã
vượt đáy suy giảm FDI kể từ năm 2009. Đồng thời chất lượng vốn đầu tư cũng cao hơn thông
qua tỷ lệ đầu tư vào các dự án có quy mô lớn với hàm lượng công nghệ cao và vẫn tập trung
đầu tư lĩnh vực công nghệ chế biến, chế tạo. Trong năm 2013, tiến độ giải ngân nhanh và vốn
FDI thực hiện trong năm 2013 với 11,5 tỷ USD lại mức cao nhất vào năm 2008.
 Khu vực FDI thúc đẩy tăng trưởng, tăng thu ngân sách, cân đối vĩ mô


Ước tính, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hiện đóng góp hơn 14% GDP,
hơn 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Hình 2.2. Tốc độ tăng GDP khu vực FDI so với cả nước và tỷ trọng khu vực FDI trong
GDP

Nguồn: Sở kế hoạch đầu tư Hà Nội

Cơ quan quản lý nhận định các doanh nghiệp FDI có tốc độ tăng trưởng cao hơn
nhiều so với mức tăng GDP chung cả nước. Đây cũng là khu vực đóng góp lớn vào xuất khẩu
khi nâng tỷ trọng từ 45,2% (2001) lên tới 64% (2012) tổng giá trị hàng hóa xuất cảng của cả
nước. Các doanh nghiệp cũng góp phần thay đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng giảm
tỷ trọng sản phẩm khai khoáng, mặt hàng sơ cấp, tăng dần tỷ trọng hàng chế tạo và mở rộng
thị trường.
Đóng góp của khu vực FDI vào ngân sách cũng tăng từ 1,8 tỷ USD (1994-2000) lên
14,2 tỷ USD (2001 - 2010). Năm 2012, nộp ngân sách của các doanh nghiệp(không kể dầu
thô) là 3,7 tỷ USD, chiếm gần 12% tổng thu.
 Chuyển biến tích cực về công nghệ
Cùng với mục tiêu thu hút vốn đầu tư, FDI được đánh giá là kênh quan trọng để thu
hút công nghệ từ các nước có nền công nghệ phát triển vào Việt Nam. Điều này, góp phần
quan trọng vào việc đổi mới công nghệ, nâng cao trình độ công nghệ của toàn bộ nền kinh tế

nói chung và của các DN Việt Nam nói riêng.


Thiếu công nghệ cao, rõ ràng nền kinh tế Việt Nam không thể cạnh tranh và không
thể rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước khác, cũng như không thể đạt được mục tiêu
công nghiệp hóa. hiện đại hóa đất nước. Với thực trạng mới chỉ có 5-6% số lượng DN có vốn
FDI sử dụng công nghệ cao, số còn lại chưa là loại tiên tiến, hiện đại, chỉ ở mức trung bình so
với thế thì thu hút FDI năm 2013 đã có bước tiến bộ đáng kể về công nghệ cao.
Khu vực FDI sử dụng công nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến đã có trong
nước và thuộc loại phổ cập trong khu vực. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, một số ngành
đã thực hiện tốt chuyển giao công nghệ như dầu khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế
tạo, ô tô, xe máy và dệt may, giày dép, trong đó viễn thông, dầu khí được đánh giá có hiệu
quả nhất. Theo thống kê, từ năm 1993 đến nay, Việt nam đã có 951 hợp đồng chuyển giao
công nghệ được phê duyệt/ đăng ký, trong đó 605 hợp đồng là của khu vực doanh nghiệp
(DN) FDI, chiếm 63,6% tổng số hợp đồng chuyển giao công nghệ được phê duyệt, đăng ký,

 Tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực
Tạo công ăn việc làm và đào tạo nghề là một trong những đóng góp quan trọng của
khu vục FDI. Hiện nay, khu vực FDI tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3 - 4
triệu lao động gián tiếp, góp phần quan trọng trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho lao
động Việt Nam. Đồng thời, theo nghiên cứu cho thấy lương trung bình của công nhân khu
vực FDI cao hơn đáng kể so với các khu vực khác dao động trong khoảng từ 30% - 50% tùy
theo từng ngành khác nhau. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, khu vực này có tác
động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời, khu vực FDI còn góp phần chuyển giao kinh nghiệm, nâng cao trình độ, chất
lượng quản lý cho lao động Việt Nam
 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa
Tác động của FDI đến cơ cấu kinh tế nước ta được thể hiện thông qua cơ cấu vốn đầu tư.
Qua các năm cơ cấu vốn đầu tư theo ngành có sự chuyển dịch ngày càng phù hợp với xu thế
CNH – HĐH đất nước. Đại bộ phận nguồn vốn FDI hiện nay đầu tư vào ngành công nghiệp

và dịch vụ với 58,4% tổng vốn đầu tư FDI. Tỷ trọng ngành nông nghiệp từ chỗ chiếm 80%
trong năm 1988, đến năm 2011 chỉ còn chiếm 22%, công nghiệp – dịch vụ chiếm 78%.


Với trình độ công nghệ cao hơn mặt bằng chung cả nước. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp
- xây dựng của khu vực FDI đạt bình quân 18%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng toàn ngành.
Đến nay, khu vực FDI đã tạo ra gần 45% giá trị sản xuất công nghiệp, góp phần hình thành
một số ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế như viễn thông, khai thác, chế biến dầu
khí, điện tử, công nghệ thông tin, thép, xi măng,…Ngoài những đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế, khu vực FDI còn góp phần nhất định vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc
áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp.
Ngoài ra, đầu tư FDI cũng góp phần mở rộng hợp tác đầu tư với các nước và thúc đẩy
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Cùng với các nhân tố khác, ĐTNN ( FDI)đã
góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Những tồn tại, hạn chế
Mặc dù những đóng góp của FDI đối với Việt Nam là rất lớn như đã phân tích ở trên
thì bên cạnh đó vẫn còn khá nhiều bất cập khi đề cập đến đầu tư FDI vào Việt Nam.
-

Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Đa số các dự án đầu tư vào Việt Nam thường tập trung vào những nơi có điều kiện cơ

sở hạ tầng tốt. Điển hình như đồng bằng Sông Hồng và Đông Nam Bộ là 2 nơi được các nhà
đầu tư nước ngoài ưu ái hơn cả, chỉ tính riêng 2 vùng này đã chiếm tới 66,27% tổng số FDI
đăng kí với 85,47% tổng số dự án trong khi Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung chỉ thu
hút được 5,8% dự án , chiếm 25,9% tổng số FDI đăng kí. Chính điều này đã làm tăng thêm
khoảng cách giữa các vùng miền về trình độ phát triển kinh tế-xã hội.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà đầu tư nước ngoài
chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả
năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài.

- Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết
kịp thời:
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp
mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn
chung doanh nghiệp FDI thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được
hưởng, không thỏa đáng với nhu cầu của người lao động. Mặt khác, sự khác biệt trong văn


hoá và phong cách làm việc cũng dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và
người lao động, dẫn đến tình trạng đình công, bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp.
-

Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ:
Công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp FDI thường cao hơn mặt bằng công

nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các doanh nghiệp FDI đã lợi dụng sơ hở của pháp luật
Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào
Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các
nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả được ghi trong hóa đơn
thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số doanh nghiệp FDI có
thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua
các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy nhiên,
đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả
Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những
ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua
thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp
đồng chuyển giao công nghệ.
-


Tiến độ giải ngân vốn FDI còn chậm:
Thực tế cho thấy dòng vốn FDI vào nước ta chỉ chú trọng đến số lượng còn chất

lượng thì vẫn chưa cao lắm. Theo kết quả khảo sát mới đây của Viện Nghiên cứu quản lý
kinh tế Trung ương về nguyên nhân làm chậm tiến độ thực hiện vốn đầu tư ở 140 doanh
nghiệp FDI, có 20% doanh nghiệp cho là do phía Việt nam thay đổi chính sách, 17% cho là
khó khăn về giải quyết thủ tục đầu tư, 15% cho là do những thay đổi trong chiến lược kinh
doanh của công ty mẹ và 17% cho là do môi trường đầu tư không thuận lợi như dự đoán ban
đầu.
Hình 2.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2000-2010


Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 4/2011
Tuy nhiên, dù xuất phát từ phía nào đi nữa thì việc giải ngân chậm tiến độ sẽ để lại
hậu quả xấu cho chính quyền địa phương nơi các dự án được quy hoạch. Chẳng hạn thành
phố Vũng Tàu thu hút được 94 dự án đầu tư nước ngoài (FDI), nhưng cũng là địa bàn đang
có nhiều dự án FDI treo nhất. Đến thời điểm tháng 8 năm 2010, vốn FDI thực hiện chỉ mới
đạt 3% tổng vốn đăng ký. Dự án khu du lịch phức hợp Hồ Tràm tại huyện Xuyên Mộc của
chủ đầu tư Canada, vốn đăng ký đầu tư lên đến 4,2 tỷ USD, nhưng đến nay chỉ mới thực hiện
được 70 triệu USD. Nhiều nơi đất được giải toả nhằm phục vụ cho các dự án đầu tư nhưng
sau 2,3 năm cỏ mọc xanh um.
-

Cán cân thanh toán thâm hụt nghiêm trọng
Luồng vốn FDI vào làm tăng tài khoản vốn và cải thiện điều kiện thanh khoản của

Việt Nam và nó chiếm khoảng 50% trong cán cân tài khoản vốn. Doanh nghiệp FDI đầu tư
tập trung chủ yếu vào khu vực công nghiệp chế tạo xuất khẩu nên xuất khẩu và FDI bổ sung
cho nhau (S.Anwar và đồng sự, 2010). Tỷ trọng xuất khẩu của doanh nghiệp FDI là 55%.

Tuy nhiên, đây chỉ là một mặt của vấn đề. Doanh nghiệp FDI làm tăng nhập khẩu thông qua
nhập khẩu phát minh, bí quyết sản xuất nhằm tăng lợi nhuận đồng thời hoạt động chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài làm gia tăng thâm hụt trong tài khoản vãng lai.


Hình 2.4. Xu hướng và cơ cấu cán cân vãng lai và cán cân vốn trong cán cân
thanh toán

Nguồn: Ước tính của NHNN, IMF và World Bank
Nguyên nhân
-

Hệ thống, pháp luật chính sách liên quan đến đầu tư chưa đồng bộ và thiếu nhất

quán.
Trong 25 năm qua, hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung và đầu tư nước ngoài nói
riêng không ngừng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, các
văn bản pháp luật hiện hành về hoạt động ĐTNN chưa thực sự đồng bộ, rõ ràng, các văn bản
pháp luật còn chồng chéo, tạo ra các cách hiểu khác nhau trong quá trình áp dụng ở các cấp.
-

Chính sách ưu đãi đầu tư chưa đủ sức hấp dẫn.
Tuy các chính sách ưu đãi của ta thường xuyên được rà soát sửa đổi, bổ sung nhưng

còn dàn trải, chưa tập trung đúng mức vào những ngành, lĩnh vực và địa bàn cần thu hút đầu
tư. Ví dụ: chính sách ưu đãi đối với đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ
chưa có sự khác biệt, đủ sức hấp dẫn so với các ngành khác; chính sách ưu đãi vào những địa
bàn cần thu hút đầu tư còn dàn trải giữa các địa bàn khác trong cả nước hoặc có khác thì cũng
chưa nổi trội, chưa có tính đột phá. Bởi lẽ, trong 63 tỉnh/thành phố thì hầu hết tỉnh/thành phố
nào cũng có địa bàn kinh tế xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn.

-

Sự phát triển của cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh

tế cũng như chưa tạo điều kiện tốt để dòng vốn ĐTNN phát huy hiệu quả.
Hệ thống cơ sở hạ tầng của Việt Nam, mặc dù đã được đầu tư nhiều trong những năm
gần đây, nhưng nhìn chung vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư, đặc


biệt là hệ thống cấp điện, nước, đường giao thông, cảng biển, hệ thống cơ sở hạ tầng ngoài
hàng rào khu công nghiệp.
-

Hạn chế về nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực của Việt Nam dồi dào nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp, nguồn

nhân lực có trình độ cao còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu về lao động của các doanh
nghiệp nói chung, trong đó có doanh nghiệp ĐTNN. Đây là hạn chế đã tồn tại từ nhiều năm
trước, nhưng trong thời gian gần đây càng trở nên bức xúc hơn khi thu hút ĐTNN các dự án
sử dụng công nghệ cao, hiện đại. Trong một nghiên cứu mới đây do Cục Đầu tư nước ngoài
phối hợp với Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tiến hành, thì 32% các
nhà đầu tư nước ngoài cho rằng thiếu công nhân lành nghề là nguyên nhân quan trọng nhất
khiến cho họ không sử dụng hết công suất. Vì vậy, lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào với chi
phí thấp của Việt Nam đang giảm dần.
-

Sự phát triển của các ngành công nghiệp hỗ trợ còn hạn chế.
Các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam phát triển chậm, chưa đáp ứng được nhu

cầu về nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của các doanh nghiệp ĐTNN. Do đó, các doanh

nghiệp phải nhập khẩu phần lớn các linh phụ kiện đầu vào, làm tăng chi phí, giảm hiệu quả
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu về việc hình thành chuỗi
giá trị.
-

Chưa thực hiện tốt công tác phân cấp quản lý ĐTNN.
Việc phân cấp cho UBND các địa phương và Ban quản lý KCN – KCX trong quản lý

ĐTNN là chủ trương đúng đắn, tạo thế chủ động và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan
quản lý địa phương trong công tác quản lý hoạt động ĐTNN. Tuy nhiên, việc phân cấp phải
đi kèm với luật pháp chính sách rõ ràng, hệ thống quy hoạch đồng bộ; năng lực của các cơ
quan được phân cấp phải được nâng cao; công tác báo cáo, cung cấp thông tin của địa
phương lên trung ương phải kịp thời; công tác thanh, kiểm tra và xử lý vi phạm phải được
thực hiện triệt để; tăng cường sự phối hợp hàng ngang và hàng dọc giữa các cơ quan quản lý
chung và cơ quan quản lý chuyên ngành, giữa cơ quan quản lý ở Trung ương với cơ quan
quản lý ở địa phương.
Nhưng, trên thực tế, những công tác này chưa được thực hiện tốt trong thời gian qua,
đồng thời có hiện tượng một số địa phương trong quá trình xử lý còn thiên về lợi ích trước


mắt mà chưa tính đến lợi ích lâu dài, vì lợi ích địa phương mà bỏ qua lợi ích tổng thể quốc
gia. Điều này, đã có những ảnh hưởng không tốt đến các cân đối tổng thể của nền kinh tế, ví
dụ, có địa phương cấp phép nhiều dự án thép, xi măng làm mất cân đối nguồn cung cấp điện
và gây ô nhiễm môi trường.
-

Công tác kiểm tra, giám sát về việc thực hiện các quy định về bảo về môi trường của

các doanh nghiệp còn nhiều bất cập.
Thời gian qua, công tác này tuy đã được quan tâm hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được

yêu cầu thực tế. Bên cạnh những doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định về bảo vệ môi
trường vẫn còn nhiều doanh nghiệp, dự án ĐTNN chưa chấp hành tốt các quy định này, dẫn
đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường, sinh thái, ảnh hưởng lâu dài tới đời sống của người
dân và làm xấu hình ảnh của ĐTNN.
-

Công tác xúc tiến đầu tư chưa hiệu quả.
Trong thời gian qua, công tác vận động xúc tiến đầu tư đã có nhiều cải tiến, được tiến

hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài bằng các hình thức đa dạng. Tuy
nhiên, hiệu quả của công tác này chưa cao, hoạt động xúc tiến đầu tư còn giàn trải, phân tán
nguồn lực, chưa tập trung vào các đối tác, lĩnh vực trọng điểm; chưa có sự thống nhất điều
phối để đảm bảo sự tập trung thực hiện đúng mục tiêu thu hút ĐTNN trong từng thời kỳ, từng
địa bàn, từng đối tác.
Việt Nam đã bước sang nhóm các nước thu nhập trung bình thấp, nền kinh tế đang
đứng trước những nhu cầu phát triển mới. Để đạt được mục được những mục tiêu phát triển
mới, Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến
lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020 khẳng định, khu vực FDI là
một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển lâu dài và bình đẳng với các thành phần
kinh tế khác. Theo đó, việc thu hút ĐTNN cần tập trung vào một số lĩnh vực ưu tiên. Đó là,
chọn lọc các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường và tăng cường sự liên kết
giữa các khu vực; các ngành, lĩnh vực tạo ra các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, sản phẩm có
khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, như công nghệ cao, cơ khí, công
nghệ thông tin và truyền thông, dược, công nghiệp sinh học; công nghiệp môi trường và

các



×