Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Những điểm mới về Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.46 KB, 10 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, gồm hệ thống các quy phạm
pháp luật có hiệu lực pháp lí cao nhất quy định những vấn đề cơ bản và quan
trọng nhất về chủ quyền quốc gia, chế độ chính trị, chính sách kinh tế, văn hoá,
xã hội, tổ chức quyền lực nhà nước, địa vị pháp lí của con người và công dân.
Cũng có thể hiểu một cách đơn giản nhất: Hiến pháp là đạo luật gốc, đạo luật cơ
bản của mỗi quốc gia, mọi Luật và các văn bản pháp lí khác đều không được trái
với tinh thần của Hiến pháp. Về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, Quốc
hội là một chế định quan trọng của Hiến pháp, chế định này được phát triển qua
từng thời kì, qua mỗi bản Hiến pháp và đang dần được hoàn thiện. Để chứng
minh nhận định trên của bản thân, em xin chọn đề tài: “Những điểm mới về
Quốc hội theo Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1980”.
NỘI DUNG
I.

Hoàn cảnh lịch sử dẫn tới sự hình thành Hiến pháp 1980 và Hiến
pháp 2013
1, Hoàn cảnh ra đời hiến pháp 1980

Thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 đã mở ra một
giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Nước ta đã hoàn toàn độc lập, tự do,
thống nhất. Đây là điều kiện thuận lợi để đưa nước ta quá độ đi lên XHCN. Với
hoàn cảnh đất nước không còn bị chia cắt, non sông thu về một mối thì yêu cầu
sửa đổi Hiến pháp là điều tất yếu. Trước tình hình đó, tháng 9/1975 hội nghị lần
thứ XXIV của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã quyết
định triệu tập hội nghị hiệp thương chính trị thống nhất Tổ quốc. Hội nghị đã
quyết định tổ chức tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội trên cả nước. Ngày
25/04/1976 cuộc tổng tuyển cử được tiến hành trong cả nước. Ngày 02/07/1976,


Quốc hội đã thông qua các nghị quyết quan trọng và thành lập Ủy ban dự thảo
Hiến pháp. Sau một thời gian thảo luận và đóng góp ý kiến ngày 18/12/1980
Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp 1980.
2, Hoàn cảnh ra đời hiến pháp 2013
Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã có nhiều thay
đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền
vững đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
2


Triển khai thực hiện quan điểm đổi mới của Đảng, tại Kỳ họp thứ I, Quốc
hội Khóa XIII diễn ra vào tháng 8/2011 đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm
1992 và thành lập Ủy ban soạn thảo Hiến pháp. Qua tổng kết việc thi hành Hiến
pháp và lấy ý kiến sâu rộng trong nhân dân, dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
1992 đã được trình Quốc hội xem xét, thảo luận tại 3 Kỳ họp của Quốc hội (Kỳ
4, Kỳ 5, Kỳ 6), 3 lần trình Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam Khóa XI (Hội nghị Trung ương V, VII, VIII) và rất nhiều lần xin ý
kiến của Bộ chính trị và các cơ quan, tổ chức, các nhà chính trị, các nhà khoa
học có uy tín.
Ngày 28 tháng 11 năm 2013, sau nhiều ngày thảo luận, thống nhất ý kiến,
trong không khí trang nghiêm và thể hiện sự đồng thuận cao, Quốc hội Khóa
XIII, Kỳ họp thứ VI đã thông qua bản Hiến pháp thứ năm của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam – Hiến pháp 2013.
II.

Một số điểm giống nhau giữa Quốc hội trong Hiến pháp 1980 và

Hiến pháp 2013

Cả hai bản Hiến pháp đều ghi nhận tại điều đầu tiên tại Chương “Quốc
hội”: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Với vị trí
này, Quốc hội tiếp nhận quyền lực trực tiếp từ nhân dân với tư cách là cơ quan
đại diện cao nhất của nhân dân. Quốc hội thực hiện quyền lực đó thông qua chức
năng của mình và thông qua bộ máy nhà nước do mình kiến tạo nên một cách
trực tiếp hay gián tiếp. Cũng với vị trí này, về mặt nhà nước, Quốc hội đứng ở vị
trí cao nhất trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không
có cơ quan nhà nước nào đứng ở vị trí ngang bằng hoặc cao hơn Quốc hội.
Quốc hội được cử tri cả nước bầu, thành lập theo các nguyên tắc: phổ
thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Hình thức hoạt động chủ yếu của Quốc hội là kì họp quốc hội. Quốc hội
họp thường kỳ mỗi năm hai lần.
Nhiệm kì Quốc hội là năm năm. Quốc hội làm việc theo chế độ hội nghị
và quyết định theo đa số.
Không chỉ hai bản Hiến pháp 1980 và 2013, các bản Hiến pháp của nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam đều quy định chức năng của Quốc hội trên những
phương diện:
- Thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp.
- Quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quốc hội quyết định
những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế-xã hội,
3


quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
- Thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước

nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp và pháp luật được thi
hành triệt để và thống nhất, bộ máy nhà nước hoạt động đồng bộ, có hiệu
lực và hiệu quả.
Cơ cấu tổ chức của Quốc hội gồm các đại biểu Quốc hội, Chủ tịch Quốc
hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Hội đồng của Quốc hội, các Uỷ ban của
Quốc hội. Uỷ ban thường trực của Quốc hội trong hai bản Hiến pháp có điểm
khác biệt.
III.

Một số điểm mới của Hiến pháp 2013 so với Hiến pháp 1980 về
chế định Quốc hội

Hiến pháp 1980, chế định Quốc hội được ghi nhận trong Chương VI, gồm
16 điều, từ điều 82 đến điều 97.
Hiến pháp 2013, chế định Quốc hội được ghi nhận trong Chương V, gồm
17 điều, từ điều 69 đến điều 85.
1. Chức năng của Quốc hội trong Bộ máy nhà nước.
1.1.

Điểm mới về chức năng lập hiến, lập pháp

Hiến pháp năm 2013 (Điều 69, đoạn 2) quy định về chức năng lập hiến,
lập pháp của Quốc hội như sau: “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập
pháp”. Trong khi đó, Hiến pháp năm 1980 quy định: “Quốc hội là cơ quan duy
nhất có quyền lập hiến và lập pháp” (Điều 82, đoạn 2).
Như vậy, về hình thức, sự khác biệt giữa hai Điều khoản chỉ nằm ở chữ
“duy nhất”. Tuy nhiên, tác động của sự khác biệt này không chỉ ở mức khiêm
tốn như vậy. Đối với quyền lập hiến, sự khác biệt giữa hai bản Hiến pháp là
không có nhiều do tính duy nhất của Hiến pháp nên dù quy định như thế nào thì
Quốc hội cũng là cơ quan duy nhất làm Hiến pháp. Đối với quyền lập pháp, theo

quy định của Hiến pháp năm 1980 thì chỉ có Quốc hội mới có quyền này. Tuy
nhiên, trên thực tế thì không phải chỉ có Quốc hội và một mình Quốc hội cũng
không có đủ khả năng tự mình xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh. Chính
vì vậy, Hiến pháp năm 2013 đã không còn dùng từ “duy nhất” để chỉ chức năng
lập pháp của Quốc hội. Quy định này cũng mở đường cho việc Quốc hội có thể
ủy quyền cho Chính phủ cùng tham gia công tác lập pháp. Điều này cũng đã
được thể hiện trong quy định về quyền ban hành văn bản pháp luật của Chính
phủ tại Điều 100, Hiến pháp năm 2013, theo đó “Chính phủ, Thủ tướng Chính
4


phủ, Bộ Trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó
và xử lý các văn bản trái pháp luật theo quy định của luật”.
1.2.
nước

Điểm mới về chức năng giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà

Hiến pháp năm 1980 quy định về chức năng giám sát tối cao của Quốc
hội như sau: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt
động của Nhà nước” (Điều 82, đoạn 4). Trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Quốc hội […] giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước” (Điều
69, đoạn 2).
So với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 2013 không quy định Quốc
hội giám sát “tối cao” đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Sự khác nhau
nằm ở phạm vi của quyền giám sát tối cao. Theo Hiến pháp năm 1980, Quốc hội
có quyền giám sát toàn bộ hoạt động của Nhà nước, tức là bất cứ hoạt động nào
của các cơ quan nhà nước từ Trung ương tới địa phương, kể cả ở cấp cơ sở. Còn
ở Hiến pháp năm 2013, phạm vi đó được giới hạn trong hoạt động của các cơ

quan nhà nước ở cấp cao nhất, những cơ quan do Quốc hội thành lập, phê chuẩn
và chịu sự giám sát của Quốc hội, ví dụ Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm
toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia. Các cơ quan này được đề cập trong
các quy định cụ thể của Hiến pháp về nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều
70). Phạm vi giám sát đó phù hợp với tính chất tối cao của chức năng giám sát
của Quốc hội. Sự điều chỉnh, bổ sung này trong Hiến pháp năm 2013 cũng phù
hợp với thực tiễn, bởi trong suốt quá trình lịch sử, hầu như phạm vi hoạt động
giám sát của Quốc hội chưa bao giờ được thực hiện đối với các cơ quan nhà
nước từ cấp tỉnh trở xuống.
1.3.

Điểm mới về chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước

Hiến pháp năm 1980 quy định: “Quốc hội quyết định những chính sách
cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh
của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân”. Theo đó, các lĩnh vực
mà Quốc hội có thể thực hiện quyền quyết định những vấn đề quan trọng được
liệt kê khá nhiều, tuy nhiên vẫn không bao quát được một số thẩm quyền quan
trọng do Quốc hội thực hiện vốn vẫn được coi là lĩnh vực quan trọng của nhà
nước, ví dụ như bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức vụ cao nhất trong bộ máy
nhà nước hay thông qua ngân sách nhà nước hàng năm .v.v.
5


Như trích dẫn trên đây, trong Hiến pháp năm 2013, chức năng này đã
được quy định ngắn gọn hơn, không theo phương pháp liệt kê và do đó có tính
bao quát cao hơn. Giờ đây Quốc hội có thể quyết định bất kỳ vấn đề gì được coi

là quan trọng của đất nước. Những vấn đề quan trọng đó, tất nhiên, không phải
do Quốc hội quyết định một cách tùy tiện mà phải được trình lên Quốc hội theo
các thủ tục do pháp luật quy định. Hiến pháp năm 2013 quy định Quốc hội
“quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước” (Điều 69) sẽ là cơ sở Hiến
định để sau này Luật cụ thể hóa phù hợp với vai trò của Quốc hội trong từng
thời kỳ.
Như vậy, tổng thể thì Hiến pháp năm 2013 quy định về chức năng của
Quốc hội theo cách ngắn gọn, súc tích hơn so với Hiến pháp năm 1980 và những
điểm mới thể hiện việc đổi mới hoạt động của Quốc hội, đặc biệt là trong việc
thực hiện chức năng lập pháp và chức năng giám sát tối cao của cơ quan này.
1.4. Điểm mới về một số chức năng khác của Quốc hội
Tại Điều 83 Hiến pháp 1980 có qui định: “Quốc hội có thể định cho mình
những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết”. Có thể thấy, với quy
định này tại Hiến pháp 1980, Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam có
quyền hạn rất lớn, ngoài những điều đã quy định trong Hiến pháp, Luật; Quốc
hội còn có thêm những quyền ngoài Hiến pháp, “khi xét thấy cần thiết”. Điều
này là một lí do để nhiều nhà nghiên cứu pháp luật khẳng định trong năm bản
Hiến pháp Việt Nam thì Hiến pháp năm 1980 là bản Hiến pháp mang tính dân
chủ nhất (cơ quan dân cử được tập trung quyền lực lớn trong tay). Tuy nhiên,
điều khoản này không quy định rõ ràng “khi xét thấy cần thiết” là khi nào và
cũng rất hiếm khi Quốc hội sử dụng quyền này; vì thế đến Hiến pháp 1992, quy
định này đã bị gạch bỏ và Hiến pháp 2013 kế thừa Hiến pháp 1992 về nội dung
này.
Hiến pháp 2013 ghi nhận Quốc hội có quyền mới so với Hiến pháp 1980:
“Bỏ phiếu tín nhiệm với người giữ chức vụ do mình bầu hoặc phê chuẩn”
(Khoản 8, Điều 70) ví dụ: Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà
nước, Hội đồng bầu cử quốc gia, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang
Bộ. Điểm này yêu cầu các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn phải thực hiện
tốt nhiệm vụ được giao phó.

Khoản 15, Điều 70, Hiến pháp 2013: Quốc hội “Quyết định trưng cầu ý
dân”, Quốc hội có quyền và nhiệm vụ trưng cầu ý dân; Quốc hội là cơ quan đại
diện của dân, đối với những công việc quan trọng của quốc gia, cần thiết phải có
6


sự tham gia góp ý kiến của nhân dân và Quốc hội chính là cơ quan thay mặt Nhà
nước “xin” ý kiến của nhân dân.
Đoạn 3, Điều 84 Hiến pháp 1980: “Trong trường hợp đặc biệt, Quốc hội
có thể quyết định kéo dài nhiệm kỳ của mình và quyết định những biện pháp cần
thiết bảo đảm hoạt động của Quốc hội”. Điểm này phát sinh một số câu hỏi: Tại
sao Quốc hội có quy định kéo dài nhiệm kỳ mà không có quy định rút ngắn?
Kéo dài nhiệm kỳ Quốc hội trong bao lâu? Ai, tổ chức nào yêu cầu Quốc hội
kéo dài nhiệm kỳ? Trình tự thông qua việc kéo dài nhiệm kỳ như thế nào? Để
giải quyết các vấn đề đó, trong Hiến pháp 2013 đã quy định như sau: “Trong
trường hợp đặc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội
biểu quyết tán thành thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kỳ
của mình theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Việc kéo dài nhiệm kỳ
của một khoá Quốc hội không được quá mười hai tháng, trừ trường hợp có
chiến tranh” (Khoản 3, Điều 71, Hiến pháp 2013).
2. Điểm mới về cơ cấu tổ chức của Quốc hội.
 Cơ cấu tổ chức Quốc hội ở Hiến pháp 1980 và 2013 đều có những thiết
chế chung như sau:
Chủ tịch Quốc hội: chủ toạ các phiên họp của Quốc hội, kí chứng thực
Luật, Nghị quyết của Quốc hội , tổ chức việc thực hiện quan hệ đối ngoại của
Quốc hội, lãnh đạo hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam trong Liên
minh Quốc hội thế giới.
Phó Chủ tịch Quốc hội: giúp Chủ tịch Quốc hội làm nhiệm vụ theo sự
phân công của Chủ tịch Quốc hội.
Các Hội đồng Quốc hội: tham mưu cho Quốc hội những vấn đề thuộc

thẩm quyền của Hội đồng.
Các Uỷ ban Quốc hội: Quốc hội mỗi năm chỉ họp định kỳ hai lần nên
không thể nghiên cứu, thảo luận và quyết định tốt các vấn đề nếu không có sự
chuẩn bị kĩ càng. Vì vậy, các Uỷ ban của Quốc hội được lập ra để giúp Quốc hội
thực hiện tốt các nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
 Ngoài ra, Hiến pháp 2013 có những điểm mới so với Hiến pháp 1980 về
chế định Quốc hội là:
Uỷ ban thường trực của Quốc hội:
Trong Hiến pháp 1980, Cơ quan thường trực của Quốc hội là Hội đồng
nhà nước, là một thiết chế riêng, không được quy định trong Chương Quốc hội.
Hội đồng nhà nước đảm nhiệm song song hai chức năng là Cơ quan thường trực
của Quốc hội và Chủ tịch tập thể của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Hội
7


đồng Nhà nước đã bộc lộ những hạn chế làm không phát huy hết khả năng của
mình. Hội đồng Nhà nước ban hành nhiều pháp lệnh về tất cả mọi lĩnh vực,
quyết định một số nhiệm vụ, quyền hạn thuộc thẩm quyền của Quốc hội đã làm
nảy sinh vấn đề liên quan đến yêu cầu tập trung quyền lực, nhất là quyền lập
pháp vào Quốc hội. Điều này lý giải việc cơ quan không thể hoạt động chuyên
trách, ít nhiều có sự tách biệt với Quốc hội, không gắn bó thật sự mật thiết với
Quốc hội (Chủ tịch Hội đồng nhà nước không đồng thời là chủ tịch Quốc hội).
Với những lí do trên, Hiến pháp 1992 và 2013 đã có sự thay đổi về thiết
chế Cơ quan thường trực của Quốc hội.
Theo đó, Hiến pháp 2013 qui định, Cơ quan thường trực của Quốc hội là
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, là cơ quan chuyên trách của Quốc hội. Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn riêng biệt với Quốc hội, được ghi
nhận tại Điều 73, Hiến pháp 2013. Chủ tịch Quốc hội đồng thời là Chủ tịch Uỷ
ban thường vụ Quốc hội.
Các Uỷ ban Quốc hội:

Căn cứ Hiến pháp mới năm 2013, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 đã kế
thừa Luật tổ chức Quốc hội năm 1981; giữ nguyên các Uỷ ban:






Uỷ ban quốc phòng và an ninh;
Uỷ ban văn hoá, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng;
Uỷ ban về các vấn đề xã hội;
Uỷ ban khoa học, công nghệ và môi trường;
Uỷ ban đối ngoại.

Mặt khác, Luật tổ chức Quốc hội năm 2014 phân tách rõ ràng hơn các Uỷ
ban, cụ thể:
Uỷ ban pháp luật (Luật tổ chức Quốc hội 1981) được chia thành Uỷ ban
pháp luật và Uỷ ban Tư pháp (Luật tổ chức Quốc hội 2014);
Uỷ ban kinh tế, kế hoạch và ngân sách (Luật tổ chức Quốc hội 1981)
được chia thành Uỷ ban kinh tế và Uỷ ban tài chính, ngân sách (Luật tổ chức
Quốc hội 2014).
Như vậy, trong Luật tổ chức Quốc hội năm 1981 có bảy Uỷ ban trực
thuộc Quốc hội thì tới Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014 có chín Uỷ ban trực
thuộc Quốc hội. Sự phân chia nhằm mục đích chuyên trách hơn nhiệm vụ, chức
năng của các Uỷ ban của Quốc hội, các Uỷ ban sẽ làm tốt hơn nhiệm vụ của
mình.

8



Tại Hiến pháp 1980, Hội đồng Quốc phòng – an ninh và Hội đồng dân tộc
nằm trong chế định Quốc hội, là thành viên của Quốc hội và tham mưu cho
Quốc hội những vấn đề thuộc thẩm quyền. Đến Hiến pháp 2013, chỉ còn Hội
đồng dân tộc nằm trong chế định Quốc hội; Hội đồng Quốc phòng – an ninh
được ghi nhận tại chương “Chủ tịch nước”.
IV.

Một số góp ý hoàn thiện chế định Quốc hội trong Hiến pháp

Hoàn thiện chế độ bầu cử nhằm nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, tăng
số lượng đại biểu hoạt động chuyên trách một cách hợp lí, đồng thời có chế độ
đãi ngộ xứng đáng với công sức người đại diện của nhân dân.
Hoạt động chất vấn của Quốc hội cần phải cải tiến theo hướng nâng cao chất
lượng và hiệu quả của công tác giám sát.
Nâng cao vị trí, vai trò và chất lượng hoạt động của Hội đồng dân tộc và các
uỷ ban của Quốc hội./.
KẾT LUẬN
Như vậy, chế định Quốc hội trong Hiến pháp 2013 đã có sự kế thừa Hiến
pháp 1980 và cũng có những điểm mới nổi bật đáng kể: cả về nhiệm vụ, quyền
hạn và về cơ cấu tổ chức. Những thay đổi này dần hoàn thiện chế định Quốc hội
Việt Nam nói riêng và Bộ máy nhà nước nói chung. Với vị trí là cơ quan đại
diện của nhân dân thì Quốc hội càng phải được quy định rõ ràng, minh bạch
trong Hiến pháp và những Luật có liên quan./.

9


Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam. Nxb Công an nhân dân, 2015.


2.

PGS. TS. Tô Văn Hòa. Một số điểm mới về vị trí, chức năng của
Quốc hội trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

( />3.
4.
5.
6.
7.

Hiến pháp năm 2013
Hiến pháp năm 1980
Luật tổ chức Quốc hội năm 2014
Luật tổ chức Quốc hội năm 1981
/>m

10



×