Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

CHO VAY DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM – CHI NHÁNH THÀNH PHỐ THANH HÓA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.28 MB, 67 trang )

CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG CHO VAY DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về ngân hàng thƣơng mại và hoạt động cho vay của ngân hàng
thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Thuật ngữ “ngân hàng” đã có từ rất lâu và hoạt động ngân hàng được chứng
minh là gắn bó cùng với sự hình thành đời sống kinh tế xã hội loài người. Từ thế kỷ 18
trở lại đây, đặc biệt là trong thời đại ngày nay, ngân hàng được xem như là “mạch
máu” của nền kinh tế, hoạt động ngân hàng thể hiện sức mạnh và tiềm lực của nền
kinh tế.
Ở Việt Nam, theo Khoản 2 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: “Ngân
hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân
hàng. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân
hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã. Ngân hàng thương
mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc một
số các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài
khoản”.
“Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt
động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân
hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân”.
Như vậy, ngân hàng thương mại (NHTM) là một doanh nghiệp đặc biệt kinh
doanh tiền tệ - tín dụng, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cho vay và cung
ứng các dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Những hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
Huy động vốn
Hoạt động huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của NHTM. Hoạt động này mang lại nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện các hoạt
động khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng.
-



Huy động từ tiền gửi:

Huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là hình thức huy động vốn cổ điển và mang
tính đặc thù của NHTM. Đây là nguồn vốn quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn
vốn NHTM. Do nhu cầu gửi tiền của khách hàng rất đa dạng nên để thu hút được
1

Thang Long University Library


nhiều khách hàng gửi tiền, các NHTM đã thiết kế và phát triển nhiều loại sản phẩm
tiền gửi khác nhau. Các sản phẩm tiền gửi chính bao gồm:
+ Tiền gửi thanh toán: là hình thức huy động vốn của NHTM bằng cách mở tài
khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng. Số dư của tài khoản này nhằm duy trì khả
năng thanh toán và chi trả của khách hàng ở bất cứ thời điểm nào. Những lúc nhàn rỗi
tạm thời, số dư này trở thành nguồn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, do tài khoản tiền
gửi này là loại tài khoản không kỳ hạn, khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào mà
không cần báo trước cho ngân hàng nên ngân hàng rất khó kế hoạch hóa việc sử dụng
loại tiền gửi này. Chính vì vậy, loại tiền gửi này thường có lãi suất thấp hoặc thậm chí
không có lãi suất.
+ Tiền gửi tiết kiệm: đây là sản phẩm tiền gửi hướng tới đối tượng khách hàng là
các cá nhân có nhu cầu gửi tiền nhàn rỗi vào ngân hàng với mục tiêu an toàn và sinh
lợi. Tiền gửi tiết kiệm gồm 2 loại chính là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi
tiết kiệm có kỳ hạn.
Đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có thể gửi tiền và rút tiền bất
cứ lúc nào trong giờ giao dịch. Tuy nhiên, khách hàng chỉ có thể thực hiện được các
giao dịch ngân quỹ như gửi tiền và rút tiền chứ không thể thực hiện được các giao dịch
thanh toán như đối với tài khoản tiền gửi thanh toán.
Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, các thủ tục mở tài khoản, theo dõi hoạt động

và tính lãi cũng tiến hành tương tự như tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, chỉ khác ở chỗ
khách hàng chỉ được rút tiền gửi theo đúng kỳ hạn đã cam kết. Tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn có lãi suất huy động cao hơn tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
+ Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội: đây là khoản tiền
tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, quá trình hoạt động
của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và được các đơn vị này gửi vào
ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ
cấu nguồn vốn cũng như trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá
trình sản xuất kinh doanh của mình, các doanh nghiệp ít khi có một lượng vốn nhàn rỗi
lớn trong một thời gian dài. Tuy vậy nguồn vốn này vẫn không thể thiếu trong cơ cấu
tạo nên nguồn vốn của một ngân hàng. Cũng như tiền gửi có kỳ hạn nói chung, các
doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế - xã hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng phải có
sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền đó.
-

Huy động từ nguồn vay mượn:
+ Vay trên thị trường vốn:
Thực chất là ngân hàng huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá
2


như: kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi. Trong đó kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi là
loại phiếu nợ ngắn hạn, trái phiếu là phiếu nợ trung và dài hạn. Các loại giấy tờ có giá
đó được NHTM phát hành từng đợt với mục đích và số lượng cụ thể và được Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) chấp thuận. Khả năng vay mượn tùy thuộc vào uy tín của
ngân hàng, lãi suất và trình độ phát triển của thị trường tài chính.
+ Vay từ Ngân hàng Nhà nước:
NHNN có thể cho các NHTM vay vốn ngắn hạn khi cần thiết dưới hình thức tái
cấp vốn như: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu, thương phiếu
và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay có đảm bảo bằng càm cố thương phiếu và

các giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay bổ sung vốn trong thanh toán bù trừ; cho
vay đặc biệt khi NHTM mất khả năng thanh toán có nguy cơ mất an toàn cho hệ thống.
+ Vay từ các tổ chức tín dụng và ngân hàng thương mại khác:
Đây là nguồn các NHTM vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường liên ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu dự trữ chi trả cấp bách.
Sử dụng vốn:
Huy động được vốn nhàn rỗi, NHTM phải cân nhắc để hiệu quả hoá những
nguồn vốn huy động được. Với mục tiêu chủ yếu là an toàn và sinh lời, hoạt động sử
dụng vốn của NHTM tập trung ở ba hoạt động chính: cho vay, dự trữ và đầu tư. Trong
đó hoạt động cho vay là hoạt động sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả
năng tồn tại và hoạt động của NHTM. Thông thường khoảng 60% - 75% thu nhập của
ngân hàng là từ các hoạt động cho vay.
-

Cho vay:
Cho vay là hoạt động chủ yếu của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Nguồn thu từ hoạt

động cho vay thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tuy
nhiên, nó cũng là lĩnh vực có nhiều rủi ro và phức tạp nhất. Rủi ro cho vay có thể do ý
muốn chủ quan của ngân hàng như: xây dựng chiến lược sai, thẩm định hồ sơ không
chính xác, cho vay không tuân theo nguyên tắc,... cũng có thể do nguyên nhân khách
quan như: hoả hoạn, lũ lụt,... Hoạt động cho vay liên quan chặt chẽ với tất cả các lĩnh
vực của nền kinh tế từ tiêu dùng đến sản xuất kinh doanh. Do vậy, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, hoạt động cho vay ngày càng đa dạng nhằm thoả mãn nhu cầu về
vốn cho nền kinh tế, tạo điều kiện tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Các hình thức cho
vay chủ yếu hiện nay là: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn,...
-

Dự trữ:
Dự trữ là hoạt động nhằm duy trì khả năng thanh toán của ngân hàng để đáp ứng


nhu cầu chi trả cho khách hàng. NHTM phải duy trì một bộ phận vốn (bằng tiền mặt)
3

Thang Long University Library


để thực hiện nghiệp vụ dự trữ. Mức dự trữ này cao hay thấp tuỳ thuộc vào quy mô hoạt
động của NHTM, mối quan hệ thanh toán và chuyển khoản, thời vụ của các khoản chi
trả tiền mặt.
Tiền dự trữ bao gồm: dự trữ bắt buộc và dự trữ thặng dư. Chúng được hình thành
bởi các nguồn: tiền mặt tại két của NHTM, tiền gửi tại NHNN, tiền gửi ở các tổ chức
tín dụng.
-

Đầu tư:
Hoạt động đầu tư chủ yếu của NHTM là đầu tư chứng khoán. NHTM thực hiện

hoạt động đầu tư vào chứng khoán nhằm mục đích kiếm lợi nhuận, nâng cao khả năng
thanh khoản, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh nhằm phân tán rủi ro. Trong việc
đầu tư vào chứng khoán, NHTM chủ yếu mua các trái phiếu kho bạc, các trái phiếu có
tính thanh khoản cao. Đây là những công cụ chính của thị trường tiền tệ tài chính. Việc
mua và dự trữ các loại trái phiếu này một mặt tạo ra thu nhập cho ngân hàng, mặt khác
chúng là những công cụ tài chính dễ lưu động hoá, vì vậy khi cần tiền ngân hàng có
thể bán hoặc chiết khấu ở ngân hàng khác hoặc ở NHNN.
Hoạt động khác:
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn
thì NHTM cũng thực hiện các dịch vụ khác cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này
khá đa dạng, tùy thuộc vào mức độ phát triển của ngân hàng. Khi thực hiện các hoạt
động này, ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay chủ nợ mà đứng ở vị trí trung

gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ mà khách hàng cần. Hoạt động này
gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này từ tài khoản này
đến tài khoản khác ở cùng một ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư
vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá dịch
vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động...
1.1.3. Vai trò của ngân hàng thương mại đối với hoạt động của nền kinh tế
Ngân hàng thƣơng mại góp phần nâng cao hiệu quả và phát triển sản xuất
kinh doanh.
Để thực hiện và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải
có lượng vốn lớn nhằm tăng cường và đổi mới thiết bị công nghệ, áp dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật tiên tiến. Trong điều kiện vốn của các doanh nghiệp không đủ thì
các NHTM là một trong những kênh cung ứng vốn đầy đủ và kịp thời nhất cho các
doanh nghiệp để thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh. Từ đó có điều kiện phát triển
sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế - xã hội.
4


Đồng thời, thông qua việc cung ứng vốn và các dịch vụ ngân hàng một cách
nhanh chóng, thuận lợi góp phần thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển vốn, tiết kiệm
chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với mọi thành phần kinh tế - xã hội.
Ngân hàng thƣơng mại góp phần thực hiện chƣơng trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế hợp lý theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa cần rất nhiều vốn. Trong khi ngân hàng thương mại – một trong những trung gian
tài chính lớn của nền kinh tế có thể cung ứng vốn đáp ứng cao nhất cho sự chuyển dịch
cơ cấu đó. Từ đó góp phần hữu hiệu vào việc chuyển dịch cơ cấu hợp lý giữa các
vùng, miền, ngành, lĩnh vực và thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
Ngân hàng thƣơng mại vừa là nơi tạo môi trƣờng vừa là nơi thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia.

Chính sách tiền tệ quốc gia do ngân hàng trung ương chủ trì xây dựng và điều
hành thông qua việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất, tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở…NHTM chính là “môi trường” để ngân hàng
trung ương sử dụng thực thi các công cụ này. NHTM phải chấp hành những quy định
của ngân hàng trung ương về các công cụ chính sách tiền tệ, là cầu nối chuyển tiếp các
tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế - xã hội.
Thông qua việc thực thi các công cụ chính sách tiền tệ của NHTM, ngân hàng
trung ương có thể cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế hoặc rút bớt tiền từ lưu thông về.
Đồng thời có những biện pháp thích hợp để thực thi chính sách tiền tệ hiệu quả nhất.
Ngân hàng thƣơng mại là cầu nối giữa kinh tế quốc gia và kinh tế quốc tế. Hội
nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế tất yếu. Quan hệ giữa các nước trên mọi lĩnh vực
đang ngày càng phát triển, nhất là trong quan hệ kinh tế. NHTM với tiềm lực về vốn, với
các dịch vụ ngân hàng hiện đại, đa dạng đang là cầu nối hỗ trợ có hiệu quả và nâng cao
sức cạnh tranh cho mọi thành phần kinh tế của quốc gia với thị trường quốc tế, tạo cho các
cá nhân, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội thực hiện các hợp đồng kinh tế, các
dịch vụ với đối tác nước ngoài một cách nhanh chóng thuận tiện và an toàn.
1.2. Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo Điều 4 Luật doanh nghiệp năm 2014: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên
riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp
luật nhằm mục đích kinh doanh”.
Hiện nay có rất nhiều tiêu chí để phân loại doanh nghiệp. Căn cứ vào tính chất sở
hữu tài sản doanh nghiệp được phân thành các loại: doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp tư nhân, công ty, hợp tác xã. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế
5

Thang Long University Library


doanh nghiệp được phân thành: doanh nghiệp nông nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp,

doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp hoạt động dịch vụ. Căn cứ vào quy mô doanh
nghiệp được phân thành: doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như vậy,
DNNVV là doanh nghiệp được phân loại dựa trên tiêu chí quy mô doanh nghiệp.
Hiện nay, trên thế giới, khái niệm DNNVV không có một chuẩn mực cụ thể. Ở
mỗi quốc gia có những tiêu chuẩn, tiêu chí khác nhau để định nghĩa DNNVV. Tùy vào
điều kiện và tình hình kinh tế mà mỗi nước sẽ quy định riêng về DNNVV. Các tiêu chí
được sử dụng nhiều nhất để phân loại DNNVV là: số lao động, vốn đầu tư, tổng giá trị
tài sản, doanh thu, tỷ lệ vốn góp…
Tại Việt Nam, DNNVV được phân loại theo tiêu chí phổ biến nhất là số lao động
thường xuyên và vốn sản xuất, được quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số
56/2009/NĐ - CP ban hành ngày 30/06/2009 của Chính phủ: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa
là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba
cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng
tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động
bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”. Cụ thể được thể hiện ở bảng 1.1.
Như vậy, DNNVV là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo luật doanh nghiệp hiện hành, có vốn đăng ký không quá 100 tỷ đồng hoặc số lao
động trung bình hàng năm không quá 300 người.
Bảng 1.1. Phân loại doanh nghiệp dựa trên số lao động và nguồn vốn

Quy mô
Khu vực

Doanh
nghiệp
siêu nhỏ

Doanh nghiệp nhỏ

Doanh nghiệp vừa


Số lao
động

Tổng
nguồn vốn

Số lao động

Tổng
nguồn vốn

Số lao
động

I. Nông, lâm
nghiệp và thủy
sản

10 người
trở
xuống

20 tỷ đồng
trở xuống

từ trên 10
người đến
200 người


từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng

từ trên 200
người đến
300 người

II. Công
nghiệp và xây
dựng

10 người
trở
xuống

20 tỷ đồng
trở xuống

từ trên 10
người đến
200 người

từ trên 20 tỷ
đồng đến
100 tỷ đồng

từ trên 200
người đến
300 người


III. Thương
mại và dịch vụ

10 người
trở
xuống

10 tỷ đồng
trở xuống

từ trên 10
người đến
50 người

từ trên 10 tỷ
đồng đến 50
tỷ đồng

từ trên 50
người đến
100 người

(Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP)
6


1.2.2. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa
Quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa nên có tính năng động, linh hoạt
Quy mô nhỏ và vừa giúp các DNNVV có tính năng động, nhanh chóng thích

nghi trước những biến động của thị trường và những thay đổi của nền kinh tế. Điều
này cũng giúp các DNNVV có khả năng tiếp cận và đáp ứng những nhu cầu nhỏ lẻ
mang tính khu vực tốt hơn các doanh nghiệp lớn.
Do vốn đầu tư nhỏ, vốn thiết bị công nghệ không lớn, các DNNVV dễ dàng đổi
mới thiết bị, công nghệ và đối tượng kinh doanh để nâng cao chất lưọng, hạ giá thành
sản phẩm. Giá thành được coi là một trong những ưu thế lớn nhất của các DNNVV.
Với những mức giá linh hoạt khác nhau, các DNNVV có thể đưa ra các sản phẩm đáp
ứng nhu cầu và phù hợp với túi tiền của mọi khách hàng. Ngoài ra, DNNVV có thể dễ
dàng chuyển hướng kinh doanh kịp thời khi gặp những điều kiện bất lợi trong kinh
doanh và nền kinh tế có những biến động bất thường.
Hệ thống tổ chức và quản lý ở các DNNVV gọn nhẹ, linh hoạt, tiết kiệm
đƣợc chi phí
Về mặt quản lý, việc ra các quyết định kinh doanh của các DNNVV không cần
thông qua nhiều cấp, phòng ban nên khi gặp khó khăn mọi người đều có thể nhanh
chóng giải quyết. Với cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, số lượng nhân viên tương đối ít sẽ đảm
bảo sự thống nhất trong các quyết sách từ lãnh đạo cho đến nhân viên. Từ đó, quá trình
triển khai và thực hiện các kế hoạch kinh doanh cũng sẽ dễ dàng hơn. Việc tổ chức sản
xuất cũng như bộ máy quản lý, kiểm tra, giám sát trong DNNVV tương đối gọn,
không có quá nhiều khâu trung gian. Đặc điểm này tiết kiệm chi phí quản lý cho doanh
nghiệp và làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
Chất lƣợng lao động và trình độ quản lý hạn chế
Lao động trong các DNNVV chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo bài
bản. Đội ngũ quản lý của DNNVV có trình độ và khả năng quản trị kinh doanh yếu so
với yêu cầu. Đa số các chủ DNNVV, ngay cả những người có trình độ học vấn từ cao
đẳng và đại học trở lên thì cũng ít người được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị
doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê, có tới 55,63% số chủ doanh nghiệp có trình độ
học vấn từ trung cấp trở xuống, trong đó 43,3% chủ doanh nghiệp có trình độ học vấn
từ sơ cấp và phổ thông các cấp. Về lực lượng lao động, có tới 75% lực lượng lao động
trong các DNNVV chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Hầu hết các DNNVV
không có khả năng thu hút nguồn lao động có chất lượng cao bởi không đáp ứng được

môi trường, điều kiện làm việc, mức lương thưởng như các doanh nghiệp lớn.

7

Thang Long University Library


Khả năng tiếp cận và xử lý thông tin trên thị trƣờng còn kém
Do quy mô nhỏ, hoạt động trong phạm vi hẹp nên khả năng tiếp cận và xử lý
thông tin của DNNVV là hạn chế, gây trở ngại cho quá trình phân tích và đưa ra dự
đoán chiến lược kinh doanh cụ thể cho doanh nghiệp. Đa số các DNNVV hiện nay
thiếu thông tin và vẫn bị lép vế trong các mối quan hệ (với nhà nước, thị trường, ngân
hàng, với các trung tâm khoa học và trung tâm đào tạo….). Trong thời đại hiện nay,
vấn đề thông tin là một yếu tố quan trọng đối với sự thành công và thất bại của doanh
nghiệp. Việc tiếp cận và ứng dụng Internet vào hoạt động kinh doanh của các DNNVV
hạn chế hơn các công ty lớn do họ không đủ khả năng chuyên môn cũng như chi phí.
Khả năng cạnh tranh chƣa cao
Năng lực về thị trường của các DNNVV còn yếu, thị trường tiêu thụ sản phẩm
nhỏ bé, không có chiến lược kinh doanh dài hạn và ổn định cũng như kế hoặch chi tiết
dài hạn về phát triển thị trường là những yếu tố khiến khả năng cạnh tranh của
DNNVV còn thấp.
Khả năng tiếp cận nguồn vốn thấp
Vấn đề quan trọng hiện nay của các DNNVV là thiếu vốn sản xuất và quy mô
vốn bình quân của một doanh nghiệp là quá nhỏ. Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ các
DNNVV vay vốn tín dụng nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này gặp nhiều trở ngại. Do
tài sản đảm bảo của các DNNVV có giá trị thế chấp nhỏ, không có khả năng bảo lãnh
tín dụng. Hiện chỉ có khoảng hơn 30% DNNVV có khả năng tiếp cận và được vay vốn
thường xuyên, còn lại phần lớn rất khó hoặc không thể tiếp cận tín dụng ngân hàng.
Phần lớn các DNNVV còn gặp các trở ngại như: trở ngại do thủ tục vay (hồ sơ
vay vốn phức tạp, không đủ thủ tục vay vốn đơn giản cho các doanh nghiệp nhỏ và

vừa); trở ngại yêu cầu thế chấp (thiếu tài sản có giá trị cao để thế chấp, ngân hàng
không đa dạng hóa tài sản thế chấp như hàng trong kho, các khoản thu…); tỷ lệ lãi
suất chưa phù hợp; các điều kiện vay vốn hiện nay chưa phù hợp với doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Như vậy đối với các DNNVV thì vấn đề lớn nhất chính là vấn đề thiếu vốn. Giải
quyết được vấn đề này đồng nghĩa với việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực
cạnh tranh cho các doanh nghiệp này.
1.2.3. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với nền kinh tế
DNNVV góp phần làm tăng tổng thu nhập quốc nội, giải quyết việc làm và
góp phần làm ổn định xã hội.
Do các DNNVV phân bố rộng khắp trên cả nước nên thu hút lực lượng lao động
từ nông thôn đến thành thị. Hiện nay, cả nước có khoảng trên 500 nghìn DNNVV,
chiếm 97,5% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động. Hàng năm, các DNNVV đóng góp
8


khoảng 40% GDP và thu hút 51% lực lượng lao động của cả nước. Các DNNVV chủ
yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, lao động chân tay, sản xuất thủ công nên cần rất
nhiều lao động. Khi có việc làm, đời sống của người lao động ngày càng được cải
thiện, các tệ nạn xã hội sẽ có chiều hướng giảm, góp phần ổn định xã hội phát triển.
DNNVV cung cấp ngày càng lớn và đa dạng sản phẩm phục vụ cho đời sống
và xuất khẩu.
DNNVV là bộ phận doanh nghiệp năng động, hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực,
nhạy cảm với sự biến động của thị trường. Những lĩnh vực hoạt động chính của các
DNVN là ngành nghề thủ công truyền thống, mỹ nghệ, giầy da, may mặc, sản xuất gia
công chế biến, đại lý khai thác những sản phẩm cho xuất khẩu. Đây là một yếu tố đặc
biệt nổi bật của các DNVN.
DNNVV góp phần lớn vào sự phát triển kinh tế địa phƣơng, khai thác tiềm
năng thế mạnh của vùng.
Chỉ có các DNNVV hoạt động trên khắp các vùng miền địa phương mới có điều

kiện hiểu rõ về tiềm năng cũng như thế mạnh riêng có của từng vùng. Cùng với các
lĩnh vực hoạt động chính vốn có cộng với sự năng động của chính mình thì các
DNNVV có những điều kiện và cơ sở để phát huy những thế mạnh của vùng. Ngoài ra,
các DNNVV còn có điều kiện khai thác triệt để nguồn nguyên nhiên liệu trong vùng,
tránh tình trạng lãng phí cho xã hội. Do sự phân bố của các DNNVV là rộng khắp trên
cả nước nên có thể khai thác nguồn nguyên liệu riêng lẻ, trong khi đó các doanh
nghiệp lớn thì chỉ thường tập trung khai thác nguồn nguyên liệu, hạn chế về khu vực
địa lý nên khó tiếp cận với nguồn nguyên liệu. Trên thực tế, nhiều DNNVV lại trở
thành đầu mối thu gom nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp lớn hoặc thực hiện một
số công đoạn khác như chế biến, đóng gói…các công đoạn dịch vụ khác cho doanh
nghiệp lớn.
Thêm vào đó, các DNNVV cũng góp phần khôi phục, duy trì và phát triển các
ngành nghề thủ công truyền thống bởi mô hình DNNVV phù hợp với điều kiện sản
xuất kinh doanh của làng nghề thủ công.
DNNVV góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá,
thúc đẩy đô thị hoá.
Hiện nay, các DNNVV ngày càng phát triển ở các ngành dịch vụ, công nghiệp,
giảm bớt tỷ trọng nông nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Một bộ phận lớn lao
động trong ngành nông nghiệp đã được thu hút và chuyển sang làm các ngành công
nghiệp, dịch vụ cho các DNNVV ngay tại các địa phương chứ không cần phải chuyển
lên các khu vực thành thị, gây áp lực về các vấn đề xã hội lên khu vực đô thị.
9

Thang Long University Library


1.3. Hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.3.1. Khái niệm cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo Khoản 16 Điều 4 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010: “Cho vay là một
hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền

để sử dụng vào mục đích nhất định trong thời gian nhất định theo sự thoả thuận với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi”.
Như vậy, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa là hình thức ngân hàng cấp vốn cho
các DNNVV trên cơ sở các doanh nghiệp này đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về điều kiện
vay vốn của ngân hàng. Điều kiện vay vốn đối với các DNNVV bao gồm:
- Doanh nghiệp có năng lực pháp luật dân sự.
- Doanh nghiệp có mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Doanh nghiệp có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cho phép.
- Doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định về đảm bảo tiền vay theo đúng quy định
của pháp luật.
- Doanh nghiệp có dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi và hiệu quả.
Vay vốn là nhu cầu tự nguyện của doanh nghiệp và là cơ hội để ngân hàng cho
vay và thu lợi nhuận từ hoạt động này. Hoạt động cho vay đối với DNNVV phải tuân
thủ theo những nguyên tắc nhất định đó là:
- Sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng:
Về phía ngân hàng, trước khi cho vay cần tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của
doanh nghiệp, đồng thời trong quá trình cho vay phải kiểm tra xem doanh nghiệp có sử
dụng vốn vay đúng như mục đích đã cam kết hay không. Điều này để tránh tình trạng
doanh nghiệp sử dụng vốn vay không đúng mục đích dẫn đến thất thoát và lãng phí
vốn vay, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ. Về phía doanh nghiệp, việc sử dụng vốn
vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp
doanh nghiệp đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng từ đó nâng cao uy tín của
doanh nghiệp đối với ngân hàng.
- Hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng:
Hoàn trả nợ gốc và lãi vay là một nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động
cho vay. Đại đa số nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng để cho vay là vốn huy động từ
khách hàng gửi tiền. Do đó, sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định, khách
hàng vay vốn phải hoàn trả lại cho ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách
hàng gửi tiền. Hơn nữa bản chất của quan hệ cho vay là quan hệ chuyển nhượng
tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được

hoàn trả cả gốc và lãi.
10


1.3.2. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp nhỏ
và vừa
Hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói
riêng rất đa dạng với các tiêu chí phân loại khác nhau. Để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn
hạn và nhu cầu vốn trung và dài hạn của DNNVV, NHTM có các hình thức cho vay
ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn tương ứng. Dưới đây là một số hình thức cho
vay ngắn hạn và cho vay trung và dài hạn phổ biến của các NHTM:
Cho vay ngắn hạn
- Cho vay từng lần:
Đây là hình thức cho vay khá phổ biến của NHTM đối với các khách hàng không
có nhu cầu vốn thường xuyên.
Đối với hình thức này doanh nghiệp phải tiến hành đầy đủ các thủ tục cần thiết
và ký kết hợp đồng tín dụng mỗi lần vay vốn. Khi có nhu cầu, doanh nghiệp đến ngân
hàng xin vay một khoản tiền cho mục đích sử dụng của doanh nghiệp như: thanh toán
tiền hàng, nguyên vật liệu, chi phí sản xuất kinh doanh…
Số tiền cho vay của ngân hàng được xác định dựa trên nhu cầu vay vốn của
doanh nghiệp, tài sản đảm bảo và khả năng hoàn trả của doanh nghiệp cũng như khả
năng nguồn vốn của ngân hàng. Thời hạn cho vay và kỳ hạn trả nợ được xác định tùy
thuộc vào đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo từng kỳ hạn trong
hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay,
ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và hiệu quả sử dụng vốn vay, nếu thấy dấu hiệu vi
phạm hợp đồng ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng:
Là hình thức cho vay mà ngân hàng và doanh nghiệp xác định và thỏa thuận một
hạn mức tín dụng được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định. Hạn mức tín
dụng là mức nợ tối đa được duy trì trong một khoảng thời gian nhất định mà ngân

hàng và doanh nghiệp đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Hình thức cho vay theo hạn mức tín dụng thường được áp dụng đối với các doanh
nghiệp có nhu cầu vay vốn – trả nợ thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào
quá trình sản xuất kinh doanh và có uy tín với ngân hàng. Hạn mức tín dụng được xác
định trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh và nhu cầu vốn vay của doanh nghiệp.
Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay và trả nhiều lần song dư nợ không
được vượt quá hạn mức tín dụng. Mỗi lần vay, doanh nghiệp chỉ cần trình bày phương
án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ cần thiết. Sau khi kiểm tra tính hợp pháp và hợp
lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ chi tiền cho khách hàng.
11

Thang Long University Library


Với hình thức cho vay này, ngân hàng không xác định trước kỳ hạn trả nợ và thời
hạn tín dụng. Khi doanh nghiệp có thu nhập ngân hàng sẽ thu nợ do đó tạo chủ động
quản lý ngân quỹ cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành
các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay mà
chỉ có thể phát hiện vấn đề khi doanh nghiệp nộp báo cáo tài chính hay dư nợ lâu
không giảm sút.
- Cho vay luân chuyển:
Là nghiệp vụ cho vay dựa vào sự luân chuyển hàng hóa. Khi doanh nghiệp mua
hàng có thể sẽ gặp phải tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời, do đó doanh nghiệp có thể
yêu cầu ngân hàng cho vay và ngân hàng sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán được hàng.
Đầu thời kì kinh doanh, doanh nghiệp muốn vay vốn cần làm đơn xin vay luân
chuyển. Doanh nghiệp và ngân hàng sẽ thỏa thuận về hạn mức tín dụng, phương thức
giải ngân, trả nợ, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín
dụng có thể được thỏa thuận trong một hay vài năm. Đây là thời hạn để ngân hàng
xem xét lại mối quan hệ với doanh nghiệp và quyết định sẽ cho vay nữa hay không tùy
thuộc vào mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như tình hình tài chính của

doanh nghiệp.
Việc cho vay dựa vào sự luân chuyển của hàng hóa nên đòi hỏi cả ngân hàng và
doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch luân chuyển hàng hóa, phân tích được
luồng tiền ra vào của doanh nghiệp. Khi có nhu cầu vay vốn, doanh nghiệp gửi đến
ngân hàng các chứng từ hóa đơn chứng minh việc mua bán hàng hóa và số tiền cần
vay. Sau đó ngân hàng sẽ xem xét cho vay hay không và trả tiền cho người bán, theo
hình thức này thu nhập bán hàng là nguồn chi trả cho ngân hàng. Hình thức cho vay
này thường được áp dụng đối với những doanh nghiệp trong ngành thương nghiệp
hoặc doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ
thường xuyên với ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ dựa trên khối lượng
hàng hóa và chất lượng quan hệ nợ nần của doanh nghiệp.
- Cho vay thấu chi:
Là nghiệp vụ ngân hàng cho DNNVV vay qua đó ngân hàng cho phép doanh
nghiệp được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định của chu kỳ kinh doanh. Khách hàng có thể đi vay và trả nợ nhiều lần trong kỳ.
Hình thức cho vay này phần lớn không có đảm bảo bằng tài sản và thường được áp
dụng với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu ngân ngắn. Nghiệp
vụ này đơn giản và doanh nghiệp có thể kiểm soát từng lần vay.
Cho vay trung và dài hạn
- Cho vay theo dự án đầu tư:
12


Đây là hình thức cho vay qua đó ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục
vụ đời sống.
Về phương pháp cho vay, vay theo dự án đầu tư tương tự như vay từng lần. Ngân
hàng và doanh nghiệp thỏa thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của
dự án. Việc trả nợ được tiến hành theo định kỳ một cách đều đặn, lãi vay thường được
tính theo dư nợ đầu kỳ và trả cùng với nợ gốc.

- Cho vay có đảm bảo:
Đây là hình thức cho vay trong đó doanh nghiệp phải có có tài sản thế chấp, cầm
cố của bên thứ ba mới được ngân hàng chấp thuận cho vay. Loại hình cho vay này sẽ
hạn chế bớt rủi ro cho ngân hàng đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm trả nợ của
doanh nghiệp. Đối với DNNVV đây là hình thức vay vốn tương đối dễ áp dụng và trên
thực tế được các DNNVV sử dụng thường xuyên. Tuy nhiên, một trong những khó
khăn của DNNVV là phải chứng minh được quyền sở hữu đối với những tài sản đem
cầm cố, thế chấp.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng:
Ở hình thức cho vay này, NHTM cam kết đảm bảo cho DNNVV vay vốn trong
phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự án. Ngân hàng và doanh nghiệp
thỏa thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức
tín dụng dự phòng. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng được áp dụng trong
trường hợp DNNVV cần chủ động về vốn cho việc thực hiện các dự án đầu tư trong
tương lai.
1.3.3. Vai trò của hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh
nghiệp nhỏ và vừa
Đảm bảo cho hoạt động của các DNNVV đƣợc liên tục
Nền kinh tế thị trường đầy cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp luôn cần phải cải
tiến kỹ thuật thay đổi mẫu mã mặt hàng, đổi mới công nghệ máy móc thiết bị để tồn tại
đứng vững và phát triền. Trên thực tế, các doanh nghiệp không thể đảm bảo đủ 100%
vốn cho như cầu sản xuất kinh doanh. Vốn vay từ ngân hàng tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến phương
thức kinh doanh từ đó tạo điều kiện cho quá trình hoạt động kinh doanh được liên tục.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNVV
Khi sử dụng nguồn vốn của ngân hàng, các DNNVV phải tôn trọng hợp đồng
cho vay, phải đảm bảo hoàn trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn và phải tôn trọng các điều
khoản của hợp đồng dù doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hay không. Do đó đòi hỏi các
13


Thang Long University Library


doanh nghiệp muốn vay vốn của ngân hàng phải có phương án sản xuất kinh doanh
khả thi. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp không chỉ cần thu hồi
đủ vốn mà còn phải tìm cách sử dụng vốn có hiệu quả để tăng vòng quay vốn, đảm
bảo tỷ suất lợi nhuận phải lớn hơn lãi suất ngân hàng thì mới trả được nợ và kinh
doanh có lãi. Trong quá trình cho vay ngân hàng thực hiện kiểm soát trước, trong và
sau khi giải ngân buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và hiệu quả.
Góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ƣu cho DNNVV
Hiện nay, để thực hiện các quyết định đầu tư, doanh nghiệp có thể sử dụng vốn
từ hai nguồn chính là: vốn tự có và vốn đi vay. Đối với các DNNVV do hạn chế về
vốn nên việc sử dụng vốn tự có để sản xuất là khó khăn vì vốn hạn hẹp và nếu sử dụng
thì giá vốn sẽ cao và sản phẩm khó được thị trường chấp nhận. Do đó, doanh nghiệp
phải có một cơ cấu vốn tối ưu, kết cấu hợp lí, nhất là nguồn vốn tự có và vốn vay
nhằm tối đa hóa lợi nhuận tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất.
Tập trung vốn sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của DNNVV
Đối với các DNNVV, do một số hạn chế nhất định nên việc chiếm lĩnh ưu thế
cạnh tranh trước các doanh nghiệp lớn trong nước và nước ngoài là một vấn đề khó
khăn. Xu hướng hiện nay của các doanh nghiệp này là tăng cường liên doanh, liên kết
tập trung vốn đầu tư và mở rộng sản xuất, trang bị trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để
tăng khả năng cạnh tranh. Tuy nhiên để có một lượng vốn đủ lớn đầu tư cho sự phát
triển khi vốn tự có hạn hẹp, khả năng tích lũy thấp thì phải mất nhiều năm mới thực
hiện được, khi đó cơ hội đầu tư phát triển không còn nữa. Để có thể nắm bắt cơ hội,
các DNNVV có thể tìm đến vốn vay ngân hàng để tập trung vốn sản xuất, mở rộng
quy mô từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.4. Chất lƣợng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng thƣơng mại
1.4.1. Khái niệm chất lượng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
Chất lượng cho vay được hiểu là sự thỏa mãn nhu cầu của khách hàng (người vay
tiền); sự phù hợp của khoản vay với sự phát triển kinh tế, xã hội; đảm bảo sự tồn tại

phát triển của ngân hàng. Chất lượng cho vay là một khái niệm vừa cụ thể: thể hiện
qua chỉ tiêu lợi nhuận, nợ quá hạn, rủi ro cho vay, doanh thu từ hoạt động cho vay, tỷ
lệ dự phòng rủi ro...vừa mang tính trừu tượng: thể hiện ở việc thu hút khách hàng, khả
năng cạnh tranh, thời gian phục vụ, số lượng sản phẩm cung cấp... Chất lượng cho vay
thể hiện trên nhiều khía cạnh:
- Đối với NHTM: chất lượng cho vay thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn cho vay
phải phù hợp với khả năng thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính
cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi.
14


- Đối với DNNVV: chất lượng cho vay được thể hiện ở sự hợp lý của lãi suất, kỳ hạn
cho vay của khoản vay đối với kế hoạch, mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Thêm vào đó là thủ tục vay đơn giản, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc cho
vay.
- Đối với nền kinh tế: chất lượng cho vay được đánh giá qua mức phục vụ sản xuất và
lưu thông hàng hóa, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác các khả năng tiềm
tàng của nền kinh tế, thúc đấy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng cho vay.
Chất lượng cho vay được xác định qua nhiều yếu tố: thu hút được nhiều khách
hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện, mức độ an toàn vốn tín dụng, chi phí về tổng thể
lãi suất, chi phí nghiệp vụ…
Chất lượng cho vay được hình thành và bảo đảm từ hai phía là ngân hàng và
khách hàng. Bởi vậy, chất lượng hoạt động của ngân hàng không những phụ thuộc vào
bản thân của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào chất lượng hoạt động của doanh nghiệp.
Chất lượng cho vay chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố chủ quan (khả năng quản lý,
trình độ cán bộ...) và khách quan (sự thay đổi của môi trường bên ngoài). Khuynh
hướng phát triển của nền kinh tế, sự thay đổi của giá cả thị trường cũng như môi
trường pháp lý đều ảnh hưởng tới chất lượng cho vay.
1.4.2. Sự cần thiết của nâng cao chất lượng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa

1.4.2.1. Đối với nền kinh tế
Hiện nay, mức độ đóng góp của DNNVV vào nền kinh tế ngày càng lớn: không
chỉ tăng trưởng về mặt số lượng, các DNNVV đang trở thành bộ phận quan trọng có
đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Đây là bộ phận có vai trò quan trọng trong quá trình
sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc
đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế. Phát triển DNNVV đang
là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất chú trọng, được coi là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta.Việc nâng cao chất
lượng cho vay DNNVV sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này tiếp cận nguồn vốn
hiệu quả hơn để phát triển mạnh mẽ hơn nữa, góp phần phát triển nền kinh tế.
1.4.2.2. Đối với ngân hàng thương mại
Trong tổng thể các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, hoạt động cho vay luôn
giữ vai trò quan trọng, tạo ra phần lớn lợi nhuận cho ngân hàng. Đảm bảo chất lượng
cho vay đem đến lợi ích cho các NHTM, cụ thể là:
- Việc nâng cao chất lượng cho vay sẽ góp phần đảm bảo và làm gia tăng lợi nhuận
cho ngân hàng, bởi cho vay là nghiệp vụ mang lại doanh thu chủ yếu cho ngân hàng.
15

Thang Long University Library


- Nâng cao chất lượng cho vay đồng nghĩa với việc ngân hàng có khả năng thu hồi nợ
đầy đủ và đúng hạn. Nhờ đó, ngân hàng có điều kiện mở rộng khả năng cung cấp tín
dụng cũng như các dịch vụ ngân hàng khác do tạo được thêm nguồn vốn từ việc tăng
vòng quay vốn tín dụng.
- Nâng cao chất lượng cho vay sẽ giúp cho ngân hàng thu hút được nhiều khách hàng
hơn bằng các hình thức và chất lượng của sản phẩm, qua đó tạo ra một hình ảnh tốt về
biểu tượng và uy tín của ngân hàng, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên
thị trường.
Các kết quả thu được từ việc nâng cao chất lượng cho vay kể trên sẽ góp phần cải

thiện tình hình tài chính của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong quá trình
cạnh tranh. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng cho vay là một tất yếu khách quan vì sự
tồn tại và phát triển lâu dài của bản thân các NHTM.
1.4.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.4.3.1. Chỉ tiêu định tính
Các chỉ tiêu định tính là các chỉ tiêu không lượng hóa được vì vậy khó có thể đưa
ra các tiêu chuẩn cụ thể cho các chỉ tiêu định tính. Một số chỉ tiêu định tính thường
dùng để đánh giá chất lượng cho vay là:
Uy tín của ngân hàng
Môi trường kinh doanh ngân hàng là một môi trường đầy tính cạnh tranh, các sản
phẩm dịch vụ kinh doanh ngân hàng hầu như không có nhiều sự khác biệt vì vậy uy tín
của ngân hàng là rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ngân
hàng có uy tín sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đặc biệt là các khách hàng có chất
lượng đồng thời tìm kiếm được nhiều khách hàng có tiềm năng tốt. Từ đó làm tăng khả
năng huy động vốn, khả năng cho vay và hạn chế được rủi ro cho vay của ngân hàng.
Việc tuân thủ các quy chế, quy định cho vay của ngân hàng
Hoạt động cho vay của các ngân hàng phải tuân thủ các quy định luật pháp của
Nhà nước như: luật các tổ chức tín dụng, luật ngân hàng nhà nước…Khi tiến hành hoạt
động cho vay phải đảm bảo tuân thủ các quy trình, nguyên tắc cho vay vì nó giúp
phòng ngừa rủi ro, giúp đánh giá chính xác chất lượng cho vay.
Quy trình cho vay
Quy trình cho vay là tổng hợp các nguyên tắc, quy định của ngân hàng trong việc
cho vay. Trong đó chỉ rõ cách làm, trình tự các bước từ khi chuẩn bị hồ sơ đề nghị cho
vay đến khi chấm dứt quan hệ cho vay.
Quy trình cho vay khoa học, hợp lý sẽ giúp quá trình cho vay hiệu quả hơn và
giảm bớt được thời gian cũng như chi phí. Việc thực hiện tốt các nội dung, quy định
16


trong từng bước cùng với việc phân tích tín dụng hiệu quả sẽ giúp ngân hàng tránh

được rủi ro, chất lượng cho vay sẽ được đảm bảo. Thông qua kiểm soát thực hiện quy
trình cho vay, ngân hàng có thể kiểm soát được những rủi ro khi cho vay.
Năng lực phục vụ của nhân viên ngân hàng
Sự thành công trong hoạt động cho vay phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình
độ và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng (CBTD) vì họ là những người thường
xuyên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. CBTD có tinh thần, tác phong phục vụ tốt sẽ
tạo được thiện cảm và gây ấn tượng tốt cho khách hàng. CBTD có năng lực chuyên
môn cao sẽ đưa ra những kết quả thẩm định đúng đắn, giảm thiểu rủi ro cho vay của
ngân hàng đồng thời tư vấn, hỗ trợ khách hàng hoàn thiện thủ tục, hồ sơ vay vốn
nhanh chóng và đảm bảo đúng quy định.
Khả năng trả nợ của doanh nghiệp
Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cho vay, để quyết định bỏ vốn đầu tư vào
một dự án nào đó, ngân hàng sẽ phải tiến hành đánh giá khả năng trả được gốc và lãi
của doanh nghiệp được cho vay. Hoạt động cho vay luôn mang tính rủi ro cao bởi khả
năng trả nợ của doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV luôn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố khác nhau mà ngân hàng cũng như doanh nghiệp không thể lường trước được. Việc
không trả được nợ của doanh nghiệp sẽ kéo theo hậu quả nghiêm trọng cho ngân hàng.
Ngân hàng đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán thậm chí có thể dẫn đến phá
sản. Vì vậy trước khi quyết định cho vay, ngân hàng phải tiến hành thẩm định thật kỹ
doanh nghiệp để đánh giá đúng khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp, từ đó mới
đưa ra quyết định có nên cho vay đối với doanh nghiệp đó hay không.
Hiệu quả xã hội của khoản vay
Hoạt động cho vay không nên chỉ hướng tới mục tiêu lợi nhuận mà còn phải đảm
bảo hiệu quả xã hội. Có nghĩa là hoạt động cho vay phải góp phần thúc đấy hoạt động
sản xuất kinh doanh, giải quyết việc làm cho người lao động,…gián tiếp đóng góp vào
sự phát triển của kinh tế - xã hội. NHTM cần cân bằng mối quan hệ giữa tăng trưởng
tín dụng và ổn định kinh tế xã hội. Tuy nhiên, đây là một chỉ tiêu khó có thể đánh giá
chính xác.
1.4.3.2. Chỉ tiêu định lượng
Số lƣợng khách hàng vay vốn

Chỉ tiêu này phản ánh số lượng khách hàng có hợp đồng vay với ngân hàng qua
các thời kỳ, cho thấy khả năng thu hút khách hàng cũng như khả năng cạnh tranh của
ngân hàng trên thị trường trong thời gian nhất định.

17

Thang Long University Library


Chỉ tiêu dƣ nợ cho vay
Tỷ trọng dư nợ cho vay
DNNVV

Dư nợ cho vay DNNVV
=

Tổng dư nợ cho vay

x 100%

Chỉ tiêu này phản ánh dư nợ cho vay của DNNVV chiếm bao nhiêu phần trăm
trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng. Tỷ trọng dư nợ cho vay đối với DNNVV cao
cho thấy ngân hàng chú trọng phát triển hoạt động cho vay DNNVV. Chỉ tiêu này chịu
tác động của chính sách cho vay của ngân hàng trong từng thời kỳ cụ thể.
Chỉ tiêu tốc độ tăng trƣởng cho vay
Tốc độ tăng trưởng cho vay

Dư nợ cho vay DNNVV năm sau
=


Dư nợ cho vay DNNVV năm trước

x 100%

Chỉ tiêu này phản ánh mức tăng trưởng hoạt động cho vay đối với DNNVV của
ngân hàng. Dư nợ cho vay năm sau cao hay thấp hơn năm trước cho thấy quy mô cho
vay DNNVV của ngân hàng tăng hay giảm.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn đối với
DNNVV

Dư nợ quá hạn DNNVV
=

Tổng dư nợ cho vay DNNVV

x 100%

Theo khoản 5 điều 2 thông tư số 22/VBHN – NHNN năm 2014 của Ngân hàng
Nhà nước: “Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã
quá hạn”. Phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, nợ khó đòi hay
nợ có khả năng mất vốn. Ngân hàng có càng nhiều khoản nợ quá hạn thì chất lượng
cho vay càng thấp và ngược lại.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn cho biết các khoản nợ quá hạn cho vay DNNVV chiếm
bao nhiêu phần trăm tổng dư nợ cho vay DNNVV. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn là một
trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng cho vay của ngân hàng. Nó cho
thấy khả năng thu hồi vốn đối với các khoản vay cũng như rủi ro trong hoạt động cho
vay tại ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao chứng tỏ chất lượng cho vay DNNVV
càng kém và ngược lại.
Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu

Dư nợ xấu của DNNVV
Tỷ lệ nợ xấu của DNNVV =

Tổng dư nợ cho vay DNNVV

x 100%

Theo Khoản 1 Điều 6 thông tư số 22/VBHN - NHNN của Ngân hàng Nhà nước
năm 2014 các khoản nợ được phân loại như sau:
18


“Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ trong hạn; các khoản nợ
quá hạn dưới 10 ngày”.
“Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến dưới 30
ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu”.
“Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 30 ngày đến
dưới 90 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 30 ngày
theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ được miễn hoặc giảm
lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng”.
“Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ mất vốn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến
dưới 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 30 ngày
đến dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ đã được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai”.
“Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 180 ngày
trở lên; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên
theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ
lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn”.
Cũng theo thông tư này: “Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5”.

Chỉ tiêu này phản ánh nợ xấu cho vay DNNVV chiếm bao nhiêu phần trăm trong
tổng dư nợ cho vay DNNVV. Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu cho thấy mức độ an toàn trong hoạt
động cho vay DNNVV của ngân hàng. Tỷ lệ này càng thấp chứng tỏ hiệu quả cho vay
của ngân hàng càng cao và ngược lại.
Chỉ tiêu tỷ trọng thu nhập từ hoạt động cho vay
Tỷ trọng thu nhập từ hoạt
động cho vay DNNVV

Thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV
=

x100%
Tổng thu nhập của ngân hàng

Chỉ tiêu này phản ánh phần trăm thu nhập cho vay đối với DNNVV trong tổng
thu nhập của ngân hàng. Hoạt động cho vay là hoạt động cơ bản mang lại thu nhập cho
ngân hàng. Do đó, để đánh giá chất lượng cho vay DNNVV phải xem xét để tỷ trọng
thu nhập của hoạt động cho vay DNNVV trong tổng thu nhập của ngân hàng. Tỷ trọng
thu nhập từ hoạt động cho vay DNNVV càng cao chứng tỏ khả năng sinh lời từ hoạt
động cho vay này càng lớn cho thấy chất lượng cho vay đối với DNNVV càng cao và
ngược lại.

19

Thang Long University Library


Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng đối với DNNVV
Vòng quay vốn tín dụng
DNNVV


Doanh số thu nợ DNNVV
=

Dư nợ DNNVV bình quân

Vòng quay vốn tín dụng phản ánh số vòng chu chuyển vốn tín dụng của ngân
hàng đối với DNNVV. Vòng quay vốn càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng
luân chuyển càng nhanh cho thấy nguồn vốn ngân hàng bỏ ra đã được sử dụng một
cách có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, tạo ra lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Ngược lại, chỉ
tiêu này thấp cho thấy có những bất ổn có thể xảy ra trong quá trình thu hồi vốn. Từ đó
ngân hàng sẽ có những động thái khắc phục tình hình để hạn chế rủi ro xảy ra.
Chỉ tiêu tỷ lệ dự phòng rủi ro đƣợc trích lập
Tỷ lệ dự phòng rủi ro được
trích lập

Dự phòng rủi ro trích lập
=

Dư nợ DNNVV bình quân

x100%

Tỷ lệ dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn
thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện được nghĩa vụ theo cam kết trong
hợp đồng tín dụng. Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng và khả
năng quản lý nợ của ngân hàng. Tỷ lệ này cho biết trong 1 đồng cho vay có bao nhiêu
đồng phải trích lập dự phòng rủi ro. Tỷ lệ cao chứng tỏ chất lượng cho vay chưa tốt,
ngân hàng vẫn phải trích ra một phần lớn để dự phòng rủi ro cho những khoản vay có
nguy cơ mất vốn cao.

Chỉ tiêu tỷ lệ xử lý tài sản đảm bảo
Tỷ lệ xử lý tài
sản đảm bảo
DNNVV

Nợ thu hồi từ xử lý tài sản đảm bảo của DNNVV
=

x100%
Dư nợ quá hạn DNNVV

Tỷ lệ xử lý tài sản đảm bảo cho biết tỷ lệ nợ thu hồi từ xử lý tài sản đảm bảo trên
tổng nợ quá hạn của ngân hàng. Do tài sản đảm bảo chỉ là nguồn thu nợ thứ hai bổ
sung khi khách hàng không có khả năng trả nợ cho ngân hàng nên tỷ lệ xử lý tài sản
đảm bảo càng cao cho thấy ngân hàng có tỷ lệ khách hàng không có khả năng trả nợ
càng lớn, chất lượng cho vay càng thấp và ngược lại. Ngân hàng phải dùng biện pháp
xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ cho thấy chất lượng công tác thẩm định, phân tích
khách hàng, dự án, phương án kinh doanh, công tác kiểm tra giám sát của ngân hàng
đối với khoản nợ vay không tốt, dẫn đến rủi ro cho vay cho ngân hàng.

20


1.4.4. Các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.4.4.1. Nhân tố từ phía ngân hàng
Chính sách cho vay
Chính sách cho vay của một NHTM là hệ thống các biện pháp liên quan đến việc
mở rộng hay thu hẹp cho vay để đạt được mục tiêu đã hoạch định của ngân hàng.
Chính sách cho vay là hướng dẫn chung cho CBTD, tăng cường chuyên môn hóa trong
phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung trong công tác cho vay nhằm hạn chế rủi

ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách cho vay có vai trò quan trọng trong việc
tạo sự thống nhất và sự hiệu quả của hoạt động cho vay nói chung cũng như cho vay
đối với DNNVV nói riêng. Bởi vậy, chính sách cho vay có ảnh hưởng rất lớn đến chất
lượng cho vay của ngân hàng.
Chính sách cho vay bao gồm các quy định của ngân hàng về hạn mức cho vay tối
đa với một khách hàng, kỳ hạn của khoản vay, chính sách lãi suất, nguyên tắc và điều
kiện vay vốn, các hạn mức kiểm soát rủi ro cho vay,… Chính sách cho vay của ngân
hàng thường thay đổi qua từng thời kì, phụ thuộc vào sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng
Trung ương và khả năng, điều kiện của bản thân các ngân hàng.
Các chính sách cho vay đảm bảo cho hoạt động cho vay đi đúng hướng, có ý
nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của hoạt động cho vay nói chung và
hoạt động cho vay đối với DNNVV nói riêng. Chính sách cho vay càng được xây dựng
cụ thể, chi tiết và khoa học càng giúp ngân hàng nâng cao chất lượng cho vay. Một
chính sách cho vay đúng đắn sẽ thu hút được nhiều khách hàng vay vốn và tạo được
những khoản vay có chất lượng cao.
Chất lƣợng đội ngũ cán bộ tín dụng
Con người luôn là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất kỳ
một tổ chức nào, trong đó có ngân hàng. Trong hoạt động cho vay, cán bộ tín dụng là
người tham gia trực tiếp vào tất cả các bước của quy trình cho vay. Muốn nâng cao
hiệu quả kinh doanh, nâng cao chất lượng hoạt động cho vay, ngân hàng cần phải có
một đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, được đào tạo có
hệ thống. Ngoài ra, CBTD phải có tư cách đạo đức bởi nếu CBTD thiếu trách nhiệm
hoặc cố tình vi phạm quy định cho vay sẽ bỏ qua những khách hàng tiềm năng, chấp
nhận cho vay những khách hàng không đủ tiêu chuẩn làm giảm chất lượng cho vay
cũng như uy tín của ngân hàng.
Chất lƣợng thông tin tín dụng
Chất lượng thông tin tín dụng là một nhân tố không kém phần quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Trước khi quyết định cấp tín dụng cho
21


Thang Long University Library


DNNVV, ngân hàng phải có được thông tin cần thiết liên quan đến đối tượng khách
hàng để đánh giá khả năng trả nợ của họ. Thông tin tín dụng bao gồm những thông tin
về tình hình pháp lý, tình hình tài chính, tình hình dư nợ, tình hình tài sản đảm bảo tiền
vay và các thông tin khác. Những thông tin này có thể được cung cấp từ nhiều nguốn
như: thông tin lấy sẵn từ hỗ sơ khách hàng, thông tin lấy từ cơ quan quản lý (tổng cục
thống kê, thuế, cơ quan chủ quản, chính quyền địa phương), thông tin qua điều tra,
phỏng vấn và các nguốn khác (Báo cáo tổng kết, truyền hình…). Ngoài ra, ngân hàng
cũng cần quan tâm đến tình hình kinh tế xã hội xu hướng phát triển cạnh tranh của
ngành nghề, những yếu tố có thể thay đối hay ảnh hưởng đến dự án cho vay trong
tương lai.
Nhờ có thông tin tín dụng, ngân hàng có thể đưa ra những quyết định cần thiết và
phù hợp có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý khoản vay. Vì vậy, thông tin
càng nhanh nhạy, đầy đủ, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong
hoạt động kinh doanh càng lớn, chất lượng cho vay càng cao.
1.4.4.2. Nhân tố từ phía doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp
Năng lực tài chính của doanh nghiệp không những ảnh hưởng đến bản thân
doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Doanh nghiệp
muốn vay vốn ngân hàng thì đòi hỏi phải có đủ năng lực tài chính để trả nợ. Mặt khác,
khi vay được vốn của ngân hàng rồi, nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả
sẽ không phát huy được nguồn vốn vay của ngân hàng, đồng thời ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ cho ngân hàng. Do đó, ngân hàng cần đánh giá đúng tình hình tài chính
cũng như khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV để đưa
ra được quyết định cho vay đúng đắn, tránh được rủi ro đồng thời đem lại lợi nhuận
cho ngân hàng.
Trình độ quản lý của các nhà quản trị doanh nghiệp
Do trình độ của nhiều nhà lãnh đạo còn nhiều hạn chế về học vấn kiến thức cũng

như kinh nghiệm thực tế nên nhiều khi họ không dự đoán được các biến động của
thị trường, yếu kém trong khâu marketing sản phẩm… Do sự bảo thủ, không dám đổi
mới làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp kém hiệu quả, dẫn
đến tình trạng ngân hàng không thu hồi được khoản cho vay.
Sự trung thực của doanh nghiệp
Sự trung thực của doanh nghiệp cũng là một trong những nguyên nhân ảnh
hưởng đến chất lượng cho vay của ngân hàng. Nhiều DNNVV mạo hiểm với kỳ vọng
thu được lợi nhuận cao, họ sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để lừa gạt ngân hàng làm cho
22


ngân hàng không xác định được chính xác về mục đích sử dụng vốn của doanh ngiệp,
gây ra rủi ro cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Hoặc có thể do yếu kém về quản trị,
không ít DNNVV lập báo cáo tài chính không minh bạch, cung cấp thông tin không
chính xác, không trung thực cho ngân hàng. Điều này khiến cho ngân hàng khó khăn
trong việc theo dõi tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy hoạt động
cho vay đối với DNNVV có thể gặp rủi ro.
1.4.4.3. Nhân tố từ môi trường kinh tế
Chu kỳ kinh tế
Chu kỳ kinh tế có tác động đến hoạt động của ngân hàng nói chung vàhoạt động
cho vay nói riêng. Khi nền kinh tế đang ở giai đoạn trăng trưởng và ổn định, các doanh
nghiệp có nhu cầu vay vốn lớn đồng thời khả năng trả nợ cao nên các ngân hàng có thể
tăng trưởng cho vay để thu lợi. Ngược lại, khi nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái,
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp bị thu hẹp, làm ăn không hiệu quả. Nhu cầu
vốn giảm và ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi nợ dẫn đến chất lượng cho
vay bị đe dọa, ngân hàng làm ăn thua lỗ.
Nhân tố pháp lý
Nhân tố pháp lý có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng cho vay. Nhân tố pháp
lý bao gồm tính đồng bộ, khoa học của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của
các văn bản dưới luật đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành và thực thi pháp luật.

Thiếu pháp luật cơ chế quản lý của Nhà nước sẽ không có hiệu lực và hiệu quả. Bởi
vậy xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng chính là quá trình hoàn thiện quản
lý nhà nước về kinh tế. Yêu cầu đối với hệ thống pháp luật là: Tính khách quan, tính
quy luật, tính cưỡng chế, và tính hệ thống. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội,
mọi quy phạm pháp luật về kinh tế đi ngược lại lợi ích kinh tế, cản trở, kìm hãm kinh
tế cần phải sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp với quá trình phát triển. Vì vậy, nhân tố
pháp lý có vị trí hết sức quan trọng đến hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng
cho vay nói riêng.
Tình hình kinh tế trong nƣớc và trên thế giới
Một quốc gia có môi trường chính trị - xã hội ổn định và phát triển sẽ tạo điều
kiện thuận lợi và yên tâm cho các nhà đầu tư. Xã hội có ổn định thì nền kinh tế mới
được phát triển, bất cứ một sự biến động nào về chính trị hay xã hội cũng đều gây ra
sự xáo động cho toàn bộ nền kinh tế. Do đó mà sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cũng bị ảnh hưởng, làm tác động đến hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động
cho vay.

23

Thang Long University Library


Xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra sôi động trên thế giới. Vì thế tính hình
kinh tế - chính trị - xã hội ở nước ngoài cũng ảnh hưởng tới đời sống kinh tế - chính
trị - xã hội trong nước từ đó ảnh hưởng tới ngành ngân hàng và chất lượng cho vay
của ngân hàng.
Tóm lại, tuỳ theo sự phát triển, điều kiện kinh tế xã hội và sự hoàn thiện môi
trường pháp lý của từng nước cũng như khả năng quản lý, cơ sở vật chất kỹ thuật và
trình độ cán bộ của từng NHTM mà các nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau tới chất
lượng cho vay. Vấn đề cơ bản đặt ra là cần phải nắm chắc các nhân tố ảnh hưởng tới
chất lượng cho vay và biết vận dụng sáng tạo sự ảnh hưởng của các nhân tố này trong

hoàn cảnh thực tế, từ đó tìm được những biện pháp quản lý có hiệu quả để củng cố
nâng cao chất lượng cho vay, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro, sẽ tạo điều kiện cho sự
thành công của hoạt động cho vay nói riêng cũng như của toàn bộ hoạt động NHTM
nói chung.

24


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Chương 1 của khóa luận đã đề cập đến một số lý luận chung về DNNVV, hoạt
động cho vay DNNVV của NHTM và nâng cao chất lượng cho vay DNNVV của
NHTM. Từ những cơ sở này của khóa luận, ta đi vào tìm hiểu thực tế chất lượng hoạt
động cho vay DNNVV của Agribank chi nhánh thành phố Thanh Hóa.

25

Thang Long University Library


×