Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN MỘT THÀNH VIÊN VẬN TẢI THIÊN MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.95 MB, 74 trang )

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP
1.1. Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy
sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội gắn liền với việc tạo lập và sử dụng các
quỹ tiền tệ của doanh nghiệp để phục vụ cho yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội.
Cơ sở hình thành nên tài chính doanh nghiệp chính là các mối quan hệ trong nền
kinh tế. Doanh nghiệp đầu tư vào tư liệu lao động và sức lao động để sản xuất ra hàng
hóa với kì vọng nhận được một khoản lợi ích lớn hơn khoản đầu tư ban đầu. Các mối
quan hệ kinh tế sẽ phát sinh trong vòng chu chuyển này cùng với sự tạo ra và vận động
của các dòng tiền trong doanh nghiệp.
Như vậy, về hình thức: tài chính doanh nghiệp là quỹ tiền tệ trong quá trình tạo lập,
phân phối, sử dụng và vận động gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp. Về nội dung:
tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị gắn liền với việc tạo
lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ phát sinh trong các hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.2. Chức năng và vai trò của tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp có chức năng xác định và tổ chức các nguồn vốn nhằm
đảm bảo nhu cầu sử dụng vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
đưa ra nhu cầu vốn cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh, tạo lập phương án huy
động vốn cụ thể, so sánh và đưa ra phương án chọn lựa nguồn vốn sao cho chí phí là
thấp nhất trong khoảng thời gian hợp lí.
Tài chính doanh nghiệp giúp phân phối thu nhập của doanh nghiệp: đầu tiên là bù
đắp các yếu tố đầu vào đã tiêu hao trong quá trình sản xuất kinh doanh. Phần còn lại để
bù đắp các chí phí không được trừ, chia lãi cho đối tác góp vốn, chi trả cổ tức cho cổ
đông, phân phối lợi nhuận sau thuế vào các quỹ của doanh nghiệp, duy trì hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Tài chính doanh nghiệp có chức năng như một “giám đốc tài chính” trong quá
trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: giúp nhà quản trị kiểm tra,
kiểm soát quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp (thông qua


việc xem xét các chỉ tiêu tài chính).
1.1.3. Khái niệm phân tích tài chính doanh nghiệp
Phân tích tài chính doanh nghiệp là quá trình nghiên cứu nội dung, kết cấu và
mối ảnh hưởng qua lại của các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính để có thể đánh giá tình
hình tài chính của doanh nghiệp; thông qua việc so sánh với các mục tiêu mà doanh
1


nghiệp đã đề ra so với các doanh nghiệp cùng ngành. Từ đó, đưa ra những quyết định
và giải pháp quản lý phù hợp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ kết hợp sử dụng một tổ hợp các khái niệm,
công cụ, phương pháp để thu thập, xử lý thông tin kế toán và các thông tin quản lý
khác,nhằm đánh giá tình hình tài chính, tiềm lực và rủi ro, cũng như hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi tiến hành phân tích tài chính, nhà
quản trị cần xem xét hoạt động tài chính của doanh nghiệp dưới nhiều góc độ khách
quan khác nhau, vừa có những đánh giá toàn diện, khái quát, vừa phải đi sâu xem xét
một cách chi tiết.
1.1.4. Mục đích và ý nghĩa của việc phân tích tài chính doanh nghiệp
Kết quả phân tích tài chính doanh nghiệp được quan tâm và sử dụng bởi rất nhiều
các đối tượng, bao gồm: các nhà quản trị doanh nghiệp và những tổ chức, cá nhân bên
ngoài doanh nghiệp. Các đối tượng khác nhau sẽ xem xét kết quả này trên các góc độ
khác nhau cũng như mục đích sử dụng nó cũng khác nhau.
Mục đích của các nhà quản trị doanh nghiệp là để phát hiện các những vấn đề tài
chính còn tồn tại trong quá trình quản lý từ đó đưa ra các biện pháp cải thiện, khắc
phục cũng như cải tiến quản lý, kiểm soát nội bộ, giúp cho hoạt động tài chính của
doanh nghiệp phát triển ổn định; xác định giá trị kinh tế của doanh nghiệp, phán đoán,
dự báo và đưa ra quyết định tài chính thích hợp. Họ quan tâm đến thu nhập trên đầu tư
và hiệu quả trong công tác quản trị tài sản. Cuối cùng là cung cấp các thông tin nhiều
hơn cho nhà cung cấp,… nhằm đạt được thương lượng hiệu quả với các nguồn bên
ngoài.

Vì vậy, nếu mục tiêu của nhà quản trị là tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp, họ
phải nhận ra khai thác sức mạnh và điều chỉnh các điểm yếu của doanh nghiệp. Phân
tích tài chính liên quan đến việc so sánh hiệu suất của một công ty với hiệu suất của
các công ty khác trong ngành và đánh giá các xu hướng về vị thế tài chính của công ty
theo thời gian. Những nghiên cứu này chính là công cụ giúp các nhà quản trị xác định
khiếm khuyết và từ đó có những hành động đúng và kịp thời nhằm cải thiện hiệu suất
của doanh nghiệp. Phân tích tài chính còn nhằm đánh giá hiệu suất và mức độ rủi ro
của các hoạt động tài chính.
Ngoài ra, đối với những đối tượng ngoài doanh nghiệp, việc phân tích tài chính
của một doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, nhằm đưa ra các quyết định đầu tư, hợp
tác hoặc cho vay đúng đắn, giảm thiểu rủi ro khi tiến hành các hoạt động này.
Đối với các chủ nợ thương mại (nhà cung cấp vốn bằng hàng hóa và dịch vụ), họ
có liên quan trực tiếp với công ty bởi các khoản nợ ngắn hạn. Họ quan tâm đến khả
năng phát sinh ngân quỹ để có thể đáp ứng các khoản nợ của doanh nghiệp. Khả năng
2

Thang Long University Library


thanh toán của doanh nghiệp chính là dấu hiệu quan trọng mà họ quan tâm, tìm hiểu.
Các ngân hàng thương mại cung cấp vốn ngắn hạn cho công ty cũng có mối quan tâm
tương tự.
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm của họ gắn với vốn đầu tư mà họ bỏ trong
công ty. Điều băn khoăn lớn nhất của họ chính là khả năng thu hồi vốn đã bỏ ra, khả
năng sinh lời và rủi ro gắn liền với vốn đầu tư của họ. Vì thế, họ muốn biết thu nhập
hiện tại và thu nhập kỳ vọng, cũng như khả năng ổn định của dòng thu nhập. Họ tập
trung vào khả năng sinh lợi, điều kiện tài chính của công ty khi nó ảnh hưởng đến khả
năng trả cổ tức và khả năng vượt qua nguy cơ phá sản; tìm hiểu sâu về các nguồn lực
của công ty, tình hình sử dụng các nguồn lực và những rủi ro của các nguồn lực đó.
1.2. Quy trình phân tích tài chính doanh nghiệp

1.2.1. Thông tin phân tích
Thông tin được sử dụng trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp được
thu thập từ các nguồn đa dạng khác nhau, trong đó bao gồm hai nguồn thông tin chính
quan trọng là nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp và nguồn thông tin bên ngoài
doanh nghiệp.
Nguồn thông tin bên trong doanh nghiệp gồm có:
Các báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính là những báo cáo được trình bày hết sức tổng quát, phản ánh
một cách tổng hợp nhất về tình hình tài sản, nguồn vốn, tình hình tài chính, các luồng
tiền cũng như kết quả kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính là
phương tiện trình bày thực trạng tài chính của doanh nghiệp hướng tới mọi đối tượng
quan tâm (chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, cơ quan thuế, các cơ quan chức năng,…)
một cách công khai, minh bạch.
Theo chế độ kế toán hiện hành, mọi doanh nghiệp thuộc các ngành, các thành
phần kinh tế đều phải lập và trình bày báo cáo tài chính năm. Báo cáo tài chính có ý
nghĩa quan trọng, cung cấp dữ liệu để nhà phân tích đánh giá tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh, thực trạng tài chính của doanh nghiệp qua các kỳ hoạt động; là căn
cứ đánh giá, giám sát những diễn biến cơ bản đã diễn ra trong quá khứ hoạt động của
tài chính doanh nghiệp, dự báo sơ bộ những nguy cơ hoặc cơ hội tài chính trong tương
lai gần của đơn vị.
Báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản Thuyết minh báo cáo tài chính. Các báo
cáo này được sử dụng như nguồn dữ liệu chính khi phân tích tài chính doanh nghiệp.

3


Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có
và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp dưới hình thức tiền tệ tại một thời điểm
xác định (thời điểm lập báo cáo). Bảng cân đối kế toán được lập vào thời điểm cuối kỳ

kế toán. Số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tổng tài sản và từng
khoản mục chi tiết về tài sản ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp, nguồn vốn và cơ
cấu nguồn vốn hình thành tài sản tại thời điểm lập báo cáo. Bất kỳ một hoạt động tài
chính nào cũng ngay lập tức tác động đến các khoản mục tài sản hay nguồn vốn, làm
thay đổi Bảng cân đối kế toán lập tại thời điểm trước đó. Chính vì vậy, Bảng cân đối
kế toán có thể coi như hình chụp tình hình tài sản và nguồn vốn của một doanh nghiệp
tại một thời điểm xác định để thấy được sự thay đổi của chúng theo thời gian. Căn cứ
vào bảng báo cáo này, người sử dụng có thể nhận xét, đánh giá một cách tổng quát tình
hình tài chính của doanh nghiệp ở các mặt như quy mô tài sản và nguồn vốn, sự thay
đổi về quy mô hoạt động của doanh nghiệp, mức độ tự chủ về tài chính, khả năng
thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp,… Bảng cân đối kế toán được coi là báo
cáo có tầm quan trọng bậc nhất trong hệ thống báo cáo tài chính.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (còn gọi là Báo cáo thu nhập) là báo
cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh
trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp và chi tiết theo từng hoạt động sản xuất kinh
doanh (bán hàng và cung cấp dịch vụ; hoạt động tài chính và hoạt động khác). Báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh giúp phân tích và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch,
dự toán chi phí sản xuất, giá vốn, doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, tình hình chi
phí, thu nhập của hoạt động khác cũng như kết quả của từng hoạt động. Từ đó, giúp
đánh giá xu hướng phát triển doanh nghiệp, có biện pháp khai thác tiềm năng cũng
như hạn chế, khắc phục những tồn tại trong tương lai.
Báo cáo lƣu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc hình
thành và sử dụng lượng tiền trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp, cho biết lưu lượng
dòng tiền ra – vào của doanh nghiệp. Trong tài chính, chúng ta quan tâm đến những
câu hỏi mà báo cáo lưu chuyển tiền tệ có thể trả lời: Công ty có tạo ra đủ tiền mặt để
mua các tài sản cần thiết cho sự tăng trưởng của mình không? Công ty có tạo thêm tiền
để trả nợ khi đến hạn hay đầu tư thêm vào sản phẩm mới?... Đây là những dạng thông
tin rất hữu ích cho nhà quản trị cũng như nhà đầu tư, vì vậy, báo cáo lưu chuyển tiền tệ
là một báo cáo rất quan trọng. Báo cáo này cùng với ngân sách tiền mặt sẽ giúp dự báo
tình hình tiền mặt của công ty.

Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành không thể tách rời
của hệ thống báo cáo tài chính. Thuyết minh báo cáo tài chính là bản giải trình chi tiết
một số chỉ tiêu tổng hợp đã phản ánh trên các báo cáo tài chính khác, đồng thời tuyên
4

Thang Long University Library


bố các chính sách kế toán mà doanh nghiệp đã áp dụng để ghi nhận các nghiệp vụ kinh
tế phát sinh ở doanh nghiệp, giúp người đọc báo cáo có các thông tin bổ sung cần thiết
cho việc đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Ngoài ra, các thông tin khác bên trong doanh nghiệp cũng cần được quan tâm
xem xét như các thông tin về nhân sự trong doanh nghiệp. Thông tin này có ảnh hưởng
trực tiếp đến độ chính xác của các báo cáo tài chính, cũng như tình hình hoạt động của
doanh nghiệp: trình độ của nguồn nhân lực trong doanh nghiệp có đủ để thực hiện tốt
công việc? Các nhà quản trị có khả năng quản lý, điều hành, định hướng giúp doanh
nghiệp vận hành đúng và có hiệu quả hay không?
Bên cạnh các luồng thông tin từ bên trong doanh nghiệp, ta còn cần quan tâm tới
những thông tin bên ngoài vô cùng quan trọng như: các thông tin liên quan đến nền
kinh tế, các thông tin về lãi suất thị trường, thông tin trong ngành cũng như đặc điểm
hoạt động của doanh nghiệp, các thông tin về đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp,…
1.2.2. Các bước phân tích tài chính doanh nghiệp
Sơ đồ 1.1.Quy trình thực hiện phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Lập kế hoạch phân tích
Xác định mục tiêu,
phạm vi và thời
gian tiến hành phân
tích.
Xác định nội dung
phân tích.


Thực hiện phân tích

Hoàn thành công việc
phân tích

Sưu tầm tài liệu và
xử lý số liệu

Lập báo cáo

Tính toán và phân
tích
Tổng hợp và kết
luận

Lựa chọn tài liệu,
thông tin cần thu
thập.
Lựa chọn phương
tiện phân tích.
(Nguồn: Giáo trình Phân tích tài chính doanh nghiệp - Học viện Tài chính)
Quy trình thực hiện phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp được chia làm ba
bước chính:
Bƣớc 1: Lên kế hoạch phân tích tài chính doanh nghiệp.
Trước khi tiến hành việc phân tích, ta cần xác định được rõ ràng mục tiêu khi
thực hiện công việc này, phân tích tài chính của doanh nghiệp nhằm đạt được điều gì

5



để phương hướng phân tích không đi sai lệch, tránh tạo ra các kết quả sai lầm, gây mất
thời gian cũng như công sức, tiền bạc.
Sau khi đã xác định được mục tiêu, ta có thể giới hạn được phạm vi phân tích,
lên thời gian biểu để tiến hành việc phân tích một cách cụ thể, xác định được nội dung
phân tích mong muốn. Từ đó, lựa chọn danh sách các loại tài liệu, các thông tin cần
thu thập cũng như các phương tiện cần đến khi phân tích tài chính doanh nghiệp.
Bƣớc 2: Thực hiện phân tích
Phân tích hoạt động tài chính cần sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý
giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Nguồn thông tin cần có đầy đủ từ những thông tin trong nội bộ cho đến nguồn
thông tin ở bên ngoài doanh nghiệp, các thông tin kế toán, thông tin quản lý, … Trong
đó, các thông tin kế toán là vô cùng quan trọng, chúng được phản ánh tập trung trong
các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trên thực tế, hoạt động phân tích tài chính
doanh nghiệp phần lớn chính là việc phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp.
Tiếp theo, sau khi đã thu thập được các nguồn thông tin cần thiết, ta cần tiến
hành xử lý thông tin. Trong giai đoạn này, nhà phân tích sử dụng thông tin ở các góc
độ nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp và công cụ khác nhau để phục vụ các mục
tiêu phân tích khác nhau đã đặt ra tại bước một của quy trình. Người phân tích cần sắp
xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định, tính toán và so sánh dữ liệu.
Sau khi kết thúc quá trình tính toán và phân tích, ta sẽ tổng hợp lại các kết quả
nhận được và đưa ra kết luận về tình hình tài chính của doanh nghiệp: nhận xét, đánh
giá, giải thích, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được nhằm phục vụ cho
việc lập báo cáo, đề xuất các phương án, quyết định phù hợp.
Bƣớc 3: Lập báo cáo.
Kết thúc quá trình thực hiện việc phân tích tài chính doanh nghiệp, tổng hợp kết
quả thu được, đưa ra nhận xét, đánh giá cũng như diễn giải, thuyết minh về các kết quả
đã nhận được. Chỉ ra điểm mạnh cũng như những hạn chế còn tồn tại trong doanh
nghiệp nhắm đưa ra các giải pháp khắc phục, dự đoán nhu cầu và ra quyết định hoạt
động kinh doanh.

Đối với chủ doanh nghiệp, phân tích tài chính doanh nghiệp nhằm đưa ra các
quyết định quản lý doanh nghiệp, các quyết định liên quan tới mục tiêu tăng trưởng,
tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư và người cho vay, cần đưa
ra các quyết định về tài trợ đầu tư.

6

Thang Long University Library


1.3. Các phƣơng pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.3.1. Phương pháp so sánh
Phương pháp so sánh là phương pháp nhằm nghiên cứu biến động và xác định xu
hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Mức biến động tuyệt đối là kết
quả so sánh trị số của chỉ tiêu giữa hai kỳ liên tiếp: kỳ thực tế với kỳ kế hoạch, kỳ thực
tế với kỳ kinh doanh trước,… Mức biến động tương đối là kết quả so sánh trị số của
chỉ tiêu ở kỳ này với trị số của chỉ tiêu ở kỳ gốc, nhưng đã được điều chỉnh theo một
hệ số của chỉ tiêu có liên quan, mà chỉ tiêu liên quan này sẽ quyết định quy mô của chỉ
tiêu phân tích.
Điều kiện áp dụng phương pháp so sánh: cần tồn tại ít nhất hai đại lượng (chỉ
tiêu). Phải đảm bảo các chỉ tiêu đồng bộ về nội dung kinh tế, thống nhất về phương
pháp tính toán, về thời gian và đơn vị đo lường.
Bước đầu để tiến hành so sánh, ta cần xác định được gốc so sánh. Gốc so sánh
phụ thuộc vào mục đích so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về mặt thời gian và
không gian. Kỳ phân tích được chọn có thể là kỳ thực hiện, có thể là kỳ kế hoạch hoặc
kỳ kinh doanh trước. Giá trị so sánh có thể chọn là số tuyệt đối, số tương đối hoặc số
bình quân.
Nội dung so sánh bao gồm:
So sánh giữa số thực tế của kỳ phân tích với số thực tế của kỳ kinh doanh trước
nhằm xác định xu hướng thay đổi về tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp.

Đánh giá mức độ tăng trưởng hay đi xuống trong hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
So sánh giữa số thực tế của kỳ phân tích với kỳ kế hoạch nhằm xác định mức
phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch của doanh nghiệp.
So sánh các chỉ tiêu trong doanh nghiệp với số liệu các chỉ tiêu trung bình ngành,
với các doanh nghiệp khác (đặc biệt là đối thủ cạnh tranh trực tiếp) nhắm đánh giá tình
hình tài chính thực tế và xác định vị trí hiện tại của công ty trên thị trường.
Các hình thức so sánh
So sánh bằng số tuyệt đối để thấy sự biến động về số tuyệt đối của chỉ tiêu phân
tích.
So sánh bằng số tương đối để thấy tốc độ hay tỷ lệ tăng hay giảm bao nhiêu %
của chỉ tiêu phân tích. Nghiên cứu các chỉ tiêu trong mối quan hệ với các chỉ tiêu khác,
nhằm đánh giá các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp.

7


So sánh theo chiều ngang: là so sánh mỗi chỉ tiêu theo thời gian hoặc theo không
gian khác nhau có tính chất tương đồng. Từ đó đưa ra nhận xét về sự biến đổi về quy
mô của chỉ tiêu đó.
So sánh theo chiều dọc: là so sánh bằng số tương đối từng bộ phận với tổng thể,
hoặc so sánh bộ phận này với bộ phận khác thuộc tổng thể để đánh giá cơ cấu, quan hệ
tỷ lệ của các phần tử trong tổng thể có từ hai phần tử hợp thành trở lên.
1.3.2. Phương pháp tỷ số
Phương pháp tỷ số là phương pháp được áp dụng phổ biến trong phân tích tài
chính doanh nghiệp, được dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các tỷ lệ đại lượng tài chính
trong các mối quan hệ tài chính. Nguyên tắc thực hiện: yêu cầu xác định được các
ngưỡng định mức để có thể nhận xét, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, dựa
trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với các tỷ lệ tham chiếu.
Đây là phương pháp mang tính thực tế cao với các điều kiện áp dụng và bổ sung

ngày càng hoàn thiện. Nguồn thông tin tài chính và kế toán được cải tiến và cung cấp
đầy đủ hơn cũng như được công khai minh bạch là cơ sở hình thành nguồn tham chiếu
đáng tin cậy nhằm đánh giá các các tỷ lệ của doanh nghiệp hay một nhóm các doanh
nghiệp. Việc áp dụng công nghệ thông tin trong doanh nghiệp cho phép lưu trữ các tổ
hợp dữ liệu và thực hiện nhiệm vụ tính toán hàng loạt và chính xác hơn.
1.3.3. Phương pháp Dupont
Vào năm 1919, Công ty Dupont bắt đầu sử dụng một cách tiếp cận đặc biệt trong
phân tích thông số để đánh giá hiệu quả của công ty. Phương pháp Dupont là kỹ thuật
dùng để phân tích khả năng sinh lời của một doanh nghiệp nhờ tích hợp nhiều các yếu
tố của báo cáo kết quả kinh doanh với bảng cân đối kế toán. Nói cách khác, phân tích
Dupont chính là phân tích thành phần của số đo lợi nhuận thành các tỷ số cấu thành,
cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính.
Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường dùng phương pháp này để
phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài chính. Thông qua việc tìm hiểu nguyên nhân
tăng giảm, cũng như mối liên hệ đồng biến,nghịch biến giữa các chỉ tiêu và chỉ tiêu
thành phần, ta có thể phát hiện ra những nhân tố cụ thể ảnh hưởng tới sự biến động của
chỉ tiêu cần phân tích theo trình tự nhất định.
Phương pháp Dupont giúp nhà quản trị có được cái nhìn tổng quan về toàn bộ
các vấn đề cơ bản của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các quyết định đúng đắn. Theo
phương pháp Dupount, ta có thể khai triển các chỉ tiêu về khả năng sinh lời thành các
yếu tố thành phần khác nhau, có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời để từ đó, đánh giá
được sâu hơn nhiều khía cạnh xoay quanh sự thay đổi của các chỉ tiêu này.
8

Thang Long University Library


Xem xét phương pháp phân tích tài chính Dupont, trước hết chúng ta xem xét
mối quan hệ tương tác giữa tỷ suất sinh lời trên trên doanh thu (ROS – Return on
Sales) với hiệu suất sử dụng tổng tài sản (hay còn gọi là vòng quay của tổng tài sản):

Tỷ suất sinh lời của Tài sản =

Lợi nhuận sau thuế
Tổng Tài sản

=

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần

*

Doanh thu thuần
Tổng tài sản

= Tỷ suất sinh lời trên doanh thu * Hiệu suất sử dụng Tổng tài sản
Sau khi phân tích ta thấy, tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA – Return on Assets)
phụ thuộc vào hai yếu tố là Lợi nhuận sau thuế trên một đồng doanh thu (ROS) và một
đồng tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu (Hiệu suất sử dụng tổng tài sản). Phân
tích chỉ tiêu ROA sẽ cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi
lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, nhà quản trị có thể đưa ra các giải pháp
nhằm tăng tiêu thụ và tiết kiệm chi phí.
Tiếp theo, ta có thể tiến hành xem xét Tỷ lệ sinh lời trên Vốn chủ sở hữu (ROE –
Return on Equity). Chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng bởi các mối quan hệ như sau:
Tỷ suất sinh lời trên Vốn chủ sở hữu =
=

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuẩn


*

Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu

Tổng tài sản
Doanh thu thuần
*
Tổng Tài sản
Vốn chủ sở hữu

= ROS * Hiệu suất sử dụng Tổng tài sản *
Trong đó, tỷ số

Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu

Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu

có thể được biểu diễn như sau: Tổng tài sản / Vốn

chủ sở hữu = Tổng tài sản / (Tổng tài sản – Nợ phải trả). Thực hiện rút gọn, chia cả tử
1
1
và mẫu cho Tổng tài sản, ta có tỷ số :
Nợ phải trả = 1-Hệ số nợ trên tổng tài sản
1Tổng Tài sản

Như vậy, ta có được quan hệ đồng biến giữa Tỷ suất sinh lời trên Vốn chủ sở hữu

(ROE) và Hệ số nợ trên tổng tài sản. Khi hệ số nợ trên tổng tài sản tăng lên, 1- Hệ số
nợ trên tổng tài sản giảm đi, dẫn đến sự tăng lên của chỉ tiêu ROE (giả sử các tỷ số
khác đều không đổi). Do vậy, khi tỷ lệ nợ cao sẽ khuyến khích một hệ quả về lợi
nhuận: Nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ thì lợi nhuận sẽ càng cao , ngược lại,
nếu doanh nghiệp thua lỗ thì thua lỗ sẽ càng nặng nề.
1.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Do những hạn chế của các báo cáo tài chính và của các công cụ phân tích nên khi
phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, các con số tỷ lệ, tỷ suất và các chỉ số

9


nhận được đều phải so sánh với các doanh nghiệp khác cùng ngành hoặc so sánh với
chỉ tiêu trung bình ngành.
1.4.1. Phân tích tình hình Tài sản – Nguồn vốn thông qua Bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng đối với việc đánh giá khái quát tình
hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển
vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu được phản ánh dưới hình thái
giá trị bằng tiền nên nó cho phép tổng hợp và đánh giá toàn bộ tài sản.
Bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần là phần Tài sản và phần Nguồn
vốn. Phần Tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản của doanh nghiệp. Các
chỉ tiêu phản ánh trong phần Tài sản được sắp xếp theo nội dung kinh tế của các loại
tài sản này, được trình bày theo trình tự tính thanh khoản của tài sản giảm dần. Các chỉ
tiêu phản ánh trong phần Nguồn vốn được sắp xếp theo từng nguồn hình thành tài sản
của doanh nghiệp, được trình bày theo trình tự tính cấp thiết phải thanh toán hay nghĩa
vụ pháp lý với từng loại nguồn vốn giảm dần.
Tổng tài sản luôn luôn bằng Tổng nguồn vốn. Thông qua đẳng thức này của bảng
cân đối kế toán, ta có thể xem xét tình hình tài chính của doanh nghiệp như sau:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
Tài sản ngắn hạn + Tài sản dài hạn = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu

1.4.1.1. Tình hình Tài sản
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải có tài
sản. Tài sản là toàn bộ của cải vật chất vô hình hoặc hữu hình gắn với lợi ích kinh tế
trong tương lai của doanh nghiệp, thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát lâu dài của
doanh nghiệp. Tài sản của doanh nghiệp được biểu hiện dưới nhiều loại hình thái vật
chất như: tiền mặt, tiền gửi, nhà xưởng, máy móc, hàng hóa, bản quyền, bằng sáng
chế, các loại giấy tờ có giá,… Nhằm đánh giá sự biến động của tài sản và sự hợp lý
của cơ cấu vốn đối với hoạt động của doanh nghiệp, ta sẽ tiến hành phân tích cơ cấu và
sự biến động trong tình hình tài sản của doanh nghiệp.
Để phân tích tình hình tài sản của doanh nghiệp, ta cần xem xét sự biến động của
tổng tài sản cũng như từng loại tài sản thông qua việc so sánh số dư đầu kỳ và cuối kỳ
theo số tương đối và số tuyệt đối; đánh giá đến sự tác động của từng loại tài sản đến
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển của tài sản, tài sản trong doanh nghiệp được
chia làm hai loại chính là tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Một đồng vốn kinh doanh
bỏ ra, việc doanh nghiệp dành ra bao nhiêu để hình thành tài sản ngắn hạn, còn lại bao

10

Thang Long University Library


nhiêu để đầu tư cho tài sản dài hạn sẽ được phản ánh thông qua tỷ trọng tài sản ngắn
hạn và tỷ trọng tài sản dài hạn.
Tỷ trọng tài sản ngắn hạn =
Tỷ trọng tài sản dài hạn =

Tổng tài sản ngắn hạn
Tổng tài sản


Tổng tài sản dài hạn

Tổng tài sản

* 100%

*100% = 1- Tỷ trọng tài sản ngắn hạn

Tỷ trọng tài sản dài hạn trên tổng tài sản của doanh nghiệp sẽ tăng lên nếu doanh
nghiệp đầu tư thêm tài sản cố định hoặc các khoản đầu tư dài hạn khác, đây là nhân tố phản
ánh mức độ ổn định lâu dài của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần đánh giá xem việc gia
tăng này có phù hợp với năng lực và trình độ kinh tế của doanh nghiệp hay không.
Tài sản ngắn hạn
Tài sản ngắn hạn là các loại tài sản có thời gian sử dụng, luân chuyển hoặc thu
hồi ngắn (dưới một năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh). Trong đó, theo tính thanh khoản,
tài sản ngắn hạn thường được phân loại thành:
Tiền và các khoản tương đương tiền: phản ánh toàn bộ số tiền hiện có của doanh
nghiệp tại thời điểm báo cáo. Trong đó, tiền bao gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và
tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không
quá 3 tháng), có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một lượng tiền xác định và không
có nhiều rủi ro khi chuyển đổi, được sử dụng cho mục đích đáp ứng các cam kết chi
tiền ngắn hạn hơn là cho mục đích đầu tư hay các mục đích khác; ví dụ như: kỳ phiếu
ngân hàng, tín phiếu kho bạc,…
Các khoản phải thu: là một loại tài sản của doanh nghiệp được tính dựa trên các
khoản nợ, các giao dịch chưa thanh toán hoặc các nghĩa vụ tiền tệ mà khách hàng hay
đối tượng nợ chưa thanh toán cho công ty và sẽ đáo hạn trong thời gian ngắn (nhỏ hơn
1 năm). Cũng có thể hiểu, khoản phải thu là tài sản của doanh nghiệp đang bị các tổ
chức khác giữ lại. Các khoản phải thu được ghi nhận là tài sản của doanh nghiệp,
chúng phản ánh các khoản tiền sẽ được thanh toán trong tương lai. Các khoản phải thu
của doanh nghiệp bao gồm: các khoản phải thu – thương mại, khoản trả trước cho

người bán và các khoản phải thu khác.
Các khoản phải thu thương mại xuất phát từ việc cung cấp phát hàng hóa – dịch
vụ của công ty cho khách hàng trong kỳ kinh doanh bình thường. Khoản trả trước cho
người bán là những khoản tiền doanh nghiệp thanh toán trước cho nhà cung cấp để
mua hàng hóa, dịch vụ nhưng chưa thực sự nhận được hàng hóa hay dịch vụ chưa
được hoàn thành, các nghĩa vụ này sẽ được người bán thực hiện trong tương lai.
Hàng tồn kho là một bộ phận của tài sản ngắn hạn, được dự trữ cho sản xuất, lưu
thông hoặc đang trong quá trình sản xuất, chế tạo tại doanh nghiệp. Hàng tồn kho bao
11


gồm: hàng hóa mua để bán: hàng mua đang đi đường, hàng gửi bán hoặc hàng gửi gia
công; thành phẩm tồn kho và thành phẩm gửi bán; sản phẩm dở dang; nguyên vật liệu;
công cụ dụng cụ; …
Các tài sản ngắn hạn khác như các khoản tạm ứng cho nhân viên, các khoản ký
quỹ, ký cược ngắn hạn (nhỏ hơn 1 năm), chi phí trả trước, thuế giá trị gia tăng được
khấu trừ, các khoản phải thu khác từ Ngân sách Nhà nước, …
Tài sản dài hạn
Tài sản dài hạn là các tài sản có giá trị lớn (trên 30 triệu đồng), thời gian sử dụng,
thu hồi trên 1 năm hoặc 1 chu kỳ kinh doanh. Nếu một tài sản có thời gian sử dụng dài
hạn nhưng giá trị nhỏ hơn 30 triệu đồng, sẽ được xem là tài sản ngắn hạn, thuộc mục
công cụ, dụng cụ. Tài sản dài hạn bao gồm:
Các khoản phải thu dài hạn là một loại tài sản của doanh nghiệp được tính dựa
trên các khoản nợ, các giao dịch chưa thanh toán hoặc các nghĩa vụ tiền tệ mà khách
hàng hay đối tượng nợ chưa thanh toán cho công ty và sẽ đáo hạn trong thời gian dài
(lớn hơn 1 năm).
Tài sản cố định: là tư liệu sản xuất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, có giá trị lớn và thường được dùng trong nhiều chi kỳ sản xuất. Tài sản
cố định của doanh nghiệp được phân làm ba loại: tài sản cố định hữu hình, tài sản cố
định vô hình và tài sản thuê tài chính.

Tài sản cố định hữu hình là những tư liệu có hình thái vật chất, tham gia vào
nhiều chu kỳ kinh doanh mà vẫn giữ được hình thái ban đầu, chịu hao mòn theo thời
gian như: nhà xưởng, văn phòng, máy móc, thiết bị,…
Tài sản cố định vô hình không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã
được đầu tư, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh như: quyền sử dụng đất, quyền
phát hành, bằng phát minh, sáng chế, bản quyền,…
Tài sản cố định thuê tài chính tuy không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp
nhưng doanh nghiệp có quyền kiểm soát lâu dài, gắn chặt với lợi ích và rủi ro của
doanh nghiệp, khi thời hạn cho thuê kết thúc, doanh nghiệp có quyền chọn mua lại tài
sản hoặc không.
Đầu tư tài chính dài hạn: là những khoản đầu tư không phục vụ mục đích sản
xuất kinh doanh do đầu tư ngoài doanh nghiệp với mục tiêu sinh lời, thời hạn lớn hơn
1 năm như đầu tư vào công ty con, công ty liên doanh liên kết, mua chứng khoán dài
hạn, ký quỹ ký cược trên 1 năm,…

12

Thang Long University Library


1.4.1.2. Tình hình Nguồn vốn
Để tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, doanh nghiệp cũng cần
phải có vốn. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về toàn bộ tài sản
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu sinh lời.
Ở đây, ta cần phân biệt giữa tiền và vốn: thông thường có tiền sẽ làm nên vốn,
nhưng tiền chưa hẳn là vốn. Để được gọi là vốn, tiền phải có những đặc điểm sau: tiền
phải đại diện cho một lượng hàng hóa nhất định (được đảm bảo bằng một lượng tài sản
nhất định). Tiền phải được tích tụ và tập trung một lượng nhất định, đủ để được vận
động nhằm mục tiêu sinh lời.
Nguồn vốn của một doanh nghiệp là nguồn hình thành nên tài sản của doanh

nghiệp đó. Để đánh giá khái quát khả năng tự tài trợ, mức độ tự chủ về mặt tài chính
của doanh nghiệp, ta cần tiến hành phân tích cơ cấu và sự biến động của nguồn vốn.
Căn cứ vào mối quan hệ sở hữu về vốn, nguồn vốn trong doanh nghiệp được
phân thành Nguồn vốn chủ sở hữu và Nợ phải trả. Hệ số nợ và hệ số vốn chủ sở hữu là
hai tỷ số quan trọng phản ánh cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, cho biết một đồng
vốn kinh doanh của doanh nghiệp, có bao nhiêu là vốn chủ sở hữu, có bao nhiêu là vốn
vay huy động từ bên ngoài. Hệ số vốn chủ sở hữu càng lớn thì doanh nghiệp càng tự
chủ, có nguồn vốn tự có dồi dào, không hoặc ít chịu sức ép của các khoản nợ vay. Mặt
khác, doanh nghiệp cũng mong muốn có hệ số nợ cao để tận dụng được một nguồn
vốn lớn trong ngắn hạn mà không phải trả lãi, các công ty sử dụng nó như một công cụ
để gia tăng lợi nhuận.
Hệ số nợ =

*100% = 1 - Hệ số vốn chủ sở hữu

* 100%

Hệ số vốn chủ sở hữu =
Nợ phải trả

Nợ phải trả là những nghĩa vụ tiền tệ mà doanh nghiệp phải thanh toán cho các
bên cung cấp nguồn lực cho doanh nghiệp trong một khoản thời gian nhất định. Đây là
các nghĩa vụ hiện tại, phát sinh từ các giao dịch và sự kiện đã qua mà doanh nghiệp có
trách nhiệm phải thanh toán. Căn cứ vào thời gian thanh toán của các khoản nợ, Nợ
phải trả được trình bày trên Bảng cân đối kế toán dưới hai khoản mục là Nợ ngắn hạn
và Nợ dài hạn.
Nợ ngắn hạn là các nghĩa vụ tiền tệ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong vòng
12 tháng. Nợ ngắn hạn bao gồm: các khoản nợ, vay dưới 12 tháng; các khoản phải trả
thương mại (nợ người bán); thuế và các khoản phải nộp Ngân sách Nhà nước; các
13



khoản lương – thưởng phải trả nhân viên; chi phí phải trả; các khoản phải trả khác; các
khoản nhận ký quỹ, ký cược ngắn hạn và các quỹ khen thưởng, phúc lợi.
Nợ dài hạn là các nghĩa vụ tiền tệ mà doanh nghiệp phải thanh toán trong khoảng
thời gian trên một năm (12 tháng). Các khoản này bao gồm: các khoản nợ trên 12
tháng, vay dài hạn cho đầu tư phát triển, các khoản nhận ký quỹ, ký cược dài hạn, các
quỹ dự phòng dài hạn(quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ dự phòng phải trả),
thuế thu nhập hoãn lại phải trả, phát hành trái phiếu,…
Vốn chủ sở hữu
Chỉ tiêu Vốn chủ sở hữu phản ánh số vốn của các chủ sở hữu, các nhà đầu tư góp
vốn ban đầu và bổ sung thêm trong quá trình hoạt động kinh doanh. Chỉ tiêu này bao
gồm hai mục là phần “Vốn chủ sở hữu” và phần “Nguồn kinh phí và quỹ khác”.
Vốn chủ sở hữu phản ánh toàn bộ vốn thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp và các
quỹ của doanh nghiệp. Bao gồm: vốn đầy tư của chủ sở hữu, lợi nhuận chưa phân
phối, vốn bổ sung từ lợi nhuận sau thuế, nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, cổ phiếu
ngân quỹ (nếu là công ty cổ phần), quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển…
Nguồn kinh phí và quỹ khác phản ánh tổng giá trị kinh phí sự nghiệp được cấp để
chi tiêu cho các hoạt động kinh doanh sau khi đã trừ đi các khoản chi bằng nguồn kinh
phí được cấp; nguồn kinh phí đã hình thành tài sản cố định.
1.4.1.3. Phân tích mối quan hệ cân đối giữa Tài sản – Nguồn vốn
Dựa vào tỷ trọng tài sản và tỷ trọng nguồn vốn của doanh nghiệp, ta có thể thấy
được tình hình tài trợ của doanh nghiệp, doanh nghiệp đã sử dụng nguồn vốn để đầu tư
cho tài sản như thế nào, chính sách quản lý vốn ra sao. Chính sách quản lý vốn của
doanh nghiệp được chia làm ba trường phái: cấp tiến, thận trọng và dung hòa.
Chính sách quản lý vốn theo trường phái dung hòa là khi doanh nghiệp dùng toàn
bộ nguồn vốn ngắn hạn chỉ để đầu tư cho tài sản ngắn hạn và dùng toàn bộ nguồn vốn
dài hạn để đầu tư cho tài sản dài hạn.
Chính sách quản lý nợ theo trường phái cấp tiến là khi doanh nghiệp sử dụng một
phần nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn. Doanh nghiệp sử dụng chính sách này

để tận dụng tối đa nguồn vốn tín dụng thương mại (Phải trả nhà cung cấp), nợ ngắn
hạn thường có mức chi phí tài chính thấp, trong khi tài sản dài hạn có khả năng sinh
lời cao. Tuy nhiên, đi cùng với khả năng sinh lời cao, rủi ro cũng lớn hơn, doanh
nghiệp có thể gặp phải những rủi ro tài chính, đặc biệt là rủi ro mất khả năng thanh
toán sẽ cao.
Chính sách quản lý nợ theo trường phái thận trọng khi doanh nghiệp sử dụng một
phần nguồn vốn dài hạn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Với chính sách này, rủi ro tài
14

Thang Long University Library


chính của doanh nghiệp thấp, chi phí hoạt động thấp nhưng chi phí tài chính cao, khả
năng sinh lời cũng thấp. Chính sách này dẫn đến việc nguồn vốn bị lãng phí.
1.4.2. Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh thông qua Báo cáo kết quả hoạt
động kinh doanh
Thông qua báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, ta có được sự phản ánh
tổng quát tình hình doanh thu – chi phí – lợi nhuận trong kỳ kế toán của doanh nghiệp.
Quá trình đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp qua bảng báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh có thể thông qua việc phân tích các nội dung cơ bản sau:
Phân tích kết quả hoạt động: Lợi nhuận từ tất cả hoạt động của doanh nghiệp
cần được đánh giá khái quát giữa doanh thu, chi phí, kết quả của từng hoạt động. Từ
đó, rút ra nhận xét về tình hình kinh doanh của từng hoạt động dựa trên doanh thu
tương ứng với chi phí bỏ ra của hoạt động đó, so sánh quy mô của từng hoạt động trên
quy mô tổng tất cả các hoạt động của doanh nghiệp.
Phân tích kết quả sản xuất kinh doanh chính: Kết quả hoạt động kinh doanh
phản ánh kết quả hoạt động do chức năng kinh doanh đem lại trong từng thời kỳ hạch
toán của doanh nghiệp, là cơ sở chính để đánh giá, phân tích hiệu quả các mặt, các lĩnh
vực hoạt động, nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nguyên nhân cơ bản tới kết
quả chung của doanh nghiệp.

Từ đó, báo cáo kết quả kinh doanh cho biết hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp có đem lại lợi nhuận hay không – thu nhập thuần (lợi nhuận thực tế) là dương
hay âm. Ngoài ra, nó còn cho biết doanh nghiệp chi tiêu bao nhiêu để sinh lời, từ đó,
có thể xác định được tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả
kinh doanh được xem xét thông qua đẳng thức: Doanh thu – Chi phí = Lợi nhuận.
Những nội dung cơ bản của các chỉ tiêu trên Báo cáo kết quả kinh doanh:
Tổng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: là tổng giá trị của các lợi ích
kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất,
kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu nhưng
không liên quan đến các khoản đóng góp của chủ sở hữu.
Doanh thu thuần từ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ có giá trị bằng
Tổng doanh thu trừ đi các khoản giảm trừ như: chiết khấu thương mại cho khách hàng,
giảm giá hàng bán, giá trị hàng bán bị trả lại, thuế giá trị gia tăng phải nộp theo
phương pháp trực tiếp, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu. Trong đó, chiết khấu
thương mại là khoản doanh nghiệp bán giảm giá niêm yết cho khách hàng mua hàng
số lượng lớn. Giảm giá hàng bán là khoản giảm trừ cho người mua do hàng hóa kém
chất lượng, sai quy cách. Hàng bán bị trả lại là giá trị khối lượng hàng bán đã xác định
là tiêu thụ bị khách trả lại và từ chối thanh toán.
15


Giá vốn hàng bán là những chi phí đầu vào trực tiếp được doanh nghiệp bỏ ra
để tạo ra sản phẩm. Bao gồm: các khoản chi cho nhân công lao động trực tiếp tạo ra
thành phẩm, dịch vụ, chi phí nguyên vật liệu,…
Lợi nhuận gộp từ bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp được xác
định trên cơ sở doanh thu thuần trừ đi giá vốn hàng bán.
Doanh thu tài chính phản ánh các khoản thu lãi cho vay, lãi tiền gửi, lãi đầu tư
trái phiếu, thu nhập về hoạt động đầu tư chứng khoán ngắn hạn, lợi nhuận từ hoạt động
đầu tư vào các công ty con, góp vốn liên doanh, lãi tỷ giá hối đoái, lãi do bán ngoại tệ,
chênh lệch lãi chuyển nhượng vốn, hưởng chiết khấu thanh toán từ nhà cung cấp …

Chi phí tài chính bao gồm chi phí lãi vay, chi phí góp vốn liên doanh, các khoản
lỗ liên quan đến hoạt động đầu tư tài chính, chi phí giao dịch bán chứng khoán, chiết
khấu thanh toán cho khách hàng, …
Chi phí hoạt động là các chi phí phát sinh cần thiết để thực hiện các hoạt động
mà doanh nghiệp cần tiến hành, bao gồm: chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh
nghiệp. Khấu hao cũng được tính trong báo cáo kết quả kinh doanh như một loại chi
phí hoạt động.
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh được xác định bằng lợi nhuận gộp
cộng doanh thu tài chính trừ đi chi phí tài chính, trừ đi chi phí bán hàng và chi phí
quản lý doanh nghiệp.
Kết quả từ các hoạt động khác bao gồm khoản thu nhập khác và khoản chi phí
khác. Thu nhập khác là khoản thu góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu từ hoạt động
ngoài các hoạt động tạo ra doanh thu như: khoản lãi từ thanh lý tài sản cố định, thu
phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng, các khoản thuế được giảm trừ hoặc được hoàn
lại, thu tiền bảo hiểm được bồi thường,… Các khoản chi khác bao gồm các khoản lỗ
khi thanh lý tài sản cố định, tiền phạt do vi phạm hợp đồng, bị phạt thuế hoặc truy thu
thuế, chênh lệch lỗ do đánh giá lại tài sản,…
Lợi nhuận kế toán trƣớc thuế được xác định bằng lợi nhuận thuần từ hoạt động
kinh doanh và kết quả từ các hoạt động khác. Thuế thu nhập doanh nghiệp là số tiền
thuế thu nhập mà doanh nghiệp phải nộp trong kỳ.
Lợi nhuận sau thuế phản ánh lợi nhuận ròng từ hoạt động của doanh nghiệp,
cho biết kết quả kinh doanh cuối cùng. Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp sẽ tạo
điều kiện cho doanh nghiệp tăng trưởng hoặc đưa doanh nghiệp vào tình trạng suy
thoái, do sự đóng góp của lợi nhuận mỗi kỳ vào quy mô vốn của doanh nghiệp cũng
như việc phân chia lợi ích cho các chủ sở hữu.

16

Thang Long University Library



1.4.3. Phân tích tài chính doanh nghiệp thông qua Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Như đã nói, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bộ phận hợp thành hệ thống báo
cáo tài chính của doanh nghiệp, cung cấp thông tin giúp cho người sử dụng đánh giá
các thay đổi trong tài sản thuần, cơ cấu tài chính, khả năng chuyển đổi tài sản thành
tiền, khả năng thanh toán, khả năng tạo ra các luồng tiền trong quá trình hoạt động của
doanh nghiệp. Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ giúp ta thấy được các dòng tiền lưu
chuyển trong doanh nghiệp, lý do tại sao lượng tiền ( cũng như các khoản tương đương
tiền) thay đổi trong kỳ kế toán. Từ đó, đánh giá được khả năng tạo tiền trong tương lai,
khả năng thanh toán các khoản nợ, khả năng mở rộng đầu tư và dự đoán các dòng tiền
trong kỳ tiếp theo của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ không thực hiện
những phép tính như báo cáo thu nhập, nếu công ty không có giao dịch bằng tiền thì
hoạt động giao dịch đó không được phản ánh trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Tuy
nhiên, thu nhập thuần tại mục đầu tiên của báo cáo lưu chuyển tiền tệ bằng với lợi
nhuận của doanh nghiệp ( mục cuối trong báo cáo thu nhập). Thông qua các điều
chỉnh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ diễn giải thu nhập thành cơ sở tiền mặt.
Hoạt động kinh doanh ảnh hưởng đến dòng tiền: các khoản phải thu và hàng tồn
kho thành phẩm tượng trưng cho các hạng mục mà doanh nghiệp đã sản xuất nhưng
chưa được thanh toán. Các chi phí trả trước thể hiện các mục doanh nghiệp đã được
thanh toán nhưng chưa tiêu thụ. Những mục này đều được loại trừ khỏi dòng tiền. Các
khoản phải thu và chi phí cộng dồn thể hiện các mục mà công ty đã nhận hoặc sử dụng
nhưng chưa thanh toán, những muc này được cộng vào dòng tiền.
Hoạt động đầu tư ảnh hưởng đến dòng tiền: Các khoản thu được từ việc bán tài
sản cố định (nhà xưởng, bất động sản, trang thiết bị,…) là những khoản đầu tư được
chuyển từ mục đầu tư thành tiền. Tiền dùng để đầu tư vào công cụ tài chính, nhà
xưởng, bất động sản và trang thiết bị thường được ghi trong mục vốn đầu tư trong báo
cáo lưu chuyển tiền tệ.
Hoạt động tài chính ảnh hưởng đến dòng tiền: doanh nghiệp có thể tăng dòng tiền
sẵn có bằng cách tăng nợ ngắn hạn, vay vốn hay phát hành cổ phiếu,… Tuy nhiên,
việc thanh toán các khoản cổ tức sẽ gây nên sự sụt giảm trong dòng tiền.

Cần phân biệt rõ ràng giữa lợi nhuận và dòng tiền. Tại một thời điểm cụ thể, lợi
nhuận có thể đóng góp tích cực cho dòng tiền, cũng có thể không. Nếu lợi nhuận trong
năm đạt được là nhờ vào việc kinh doanh trong kỳ, mức doanh thu sẽ được ghi nhận là
lợi nhuận trong kỳ tài chính, được cộng thêm vào dòng tiền. Nhưng nếu sản phẩm đã
bán ra chưa được thanh toán cho đến kỳ kế toán tiếp theo, nó sẽ được ghi vào khoản
phải thu và làm giảm dòng tiền.

17


1.4.4. Phân tích tài chính doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính cơ bản
1.4.4.1. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
Khả năng thanh toán là năng lực về mặt tài chính mà doanh nghiệp có được để
đáp ứng nhu cầu thanh toán các khoản nợ. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
giúp đo lường khả năng của doanh nghiệp trong việc sử dụng các tài sản nhanh chuyển
đổi thành tiền để thực hiện các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn. Nên cần so sánh các nghĩa
vụ nợ ngắn hạn với các nguồn lực ngắn hạn đang sẵn sàng cho việc đáp ứng các nghĩa
vụ này. Đồng thời, tiến hành xem xét mối tương quan giữa một bên là tài sản có tính
sinh lời thấp có thể chuyển hóa thành tiền và một bên là các khoản nợ với phí tổn thấp
nhưng người đi vay phải thường xuyên đối phó với việc thanh toán các khoản nợ đến
hạn.
Việc gắn tiền mặt và các tài sản ngắn hạn khác với nghĩa vụ nợ ngắn hạn giúp ta
có được thông số đánh giá khả năng thanh toán. Với các thông số này, người ta có thể
đánh giá khả năng thanh toán và khả năng duy trì hoạt động thanh toán của doanh
nghiệp trong trường hợp có rủi ro xảy ra.
Trước tiên, cần đánh giá chỉ tiêu về khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh
nghiệp:
Khả năng thanh toán ngắn hạn =

Tổng Tài sản ngắn hạn

Tổng Nợ ngắn hạn

Hệ số thanh toán ngắn hạn, còn gọi là hệ số thanh toán hiện hành, đánh giá khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn, là một trong những chỉ tiêu phổ biến và được sử dụng
nhiều nhất để đo lường khả năng thanh toán. Chỉ tiêu này thể hiện mối quan hệ giữa tài
sản ngắn hạn với các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số thanh toán ngắn hạn thể hiện mức độ
đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Vì nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải
thanh toán trong kỳ, doanh nghiệp phải dùng tài sản thực có của mình để thanh toán
bằng cách chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền. Mà trong tổng tài sản của doanh
nghiệp, chỉ có tài sản lưu động là có khả năng chuyển đổi thành tiền trong kỳ, tương
đối nhanh so với các loại tài sản khác.
Thông thường, khả năng thanh toán hiện thời càng cao thì có thể khả năng trả nợ
càng cao, nhưng thông số này chỉ được xem là một công cụ đo lường thô vì nó không
tính đến khả năng chuyển nhượng của từng tài sản trong nhóm tài sản ngắn hạn. Một
công ty có tài sản ngắn hạn chủ yếu gồm tiền mặt, phải thu khách hàng thì khả năng
chuyển nhượng của công ty đó sẽ cao hơn so với công ty duy trì chủ yếu là hàng tồn
kho. Mặt khác, hệ số thanh toán ngắn hạn càng cao thì doanh nghiệp sẽ có một lượng
tài sản ngắn hạn lớn. Điều này phản ánh việc doanh nghiệp sử dụng tài sản không có
hiệu quả vì một bộ phận tài sản ngắn hạn không vận động, không sinh lời. Tính hợp lý
18

Thang Long University Library


của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, chất lượng tài sản, vòng quay
hàng tồn kho và vòng quay khoản phải thu.
Chỉ tiêu thứ hai cần xét đến là chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán nhanh:
Khả năng thanh toán nhanh =

Tổng Tài sản ngắn hạn  Hàng tồn kho

Tổng Nợ ngắn hạn

Trong tài sản ngắn hạn thì hàng tồn kho là những tài sản có tính thanh khoản
thấp, khả năng chuyển đổi thành tiền không cao nên có khả năng thanh toán kém nhất.
Vì vậy, hệ số khả năng thanh toán nhanh là thước đo về khả năng trả nợ không dựa
vào việc bán hàng tồn kho.
Ngoài ra, trong một số trường hợp, hàng tồn kho không thể chuyển nhượng thành
tiền (do khủng hoảng kinh tế, thị trường bão hòa…), doanh nghiệp chỉ có thể cải thiện
khả năng thanh toán dựa vào những tài sản dễ chuyển thành tiền hơn. Tùy theo ngành
mà thông số này là cao hay thấp và người ta sẽ xác định một mức tối thiểu nhằm đảm
bảo giới hạn an toàn cho doanh nghiệp. Thông thường, nếu hệ số này quá nhỏ, doanh
nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Vì vào lúc gấp rút, doanh
nghiệp có thể buộc phải áp dụng các biện pháp bất lợi như thanh lý tài sản với giá rẻ
để trả nợ. Tuy vậy, cũng như hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn, độ lớn của hệ số này
cần cân nhắc phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh và kỳ hạn thanh toán của các
khoản nợ phải thu, phải trả trong kỳ.
Chỉ tiêu thứ ba cần xem xét khi đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp
là hệ số đánh giá khả năng thanh toán tức thời:
Khả năng thanh toán tức thời =

Tiền + Các khoản tương đương tiền
Tổng Nợ ngắn hạn

Hệ số khả năng thanh toán tức thời thể hiện mối quan hệ giữa tài sản có khả năng
thanh toán ngay lập tức hay thanh toán trực tiếp (như tiền mặt, các loại chứng khoán
bán được ngay) với các khoản nợ hiện hành. Hệ số này đánh giá khả năng thanh toán
tức thời, khả năng có thể trả nợ ngay của doanh nghiệp mà hầu như không cần thông
qua bước chuyển đổi nào, giảm thiểu rủi ro thanh toán cho doanh nghiệp. Tuy nhiên,
chỉ tiêu này không phải càng lớn càng tốt, nếu doanh nghiệp dự trữ quá nhiều tiền mặt
sẽ gây lãng phí vốn, khả năng sinh lời của tài sản giảm đi, gây dư thừa không cần thiết.

Đồng thời, việc dự trữ quá nhiều tiền mặt cũng không tốt vì dễ gây thất thoát hoặc
thâm hụt do các hành vi chủ quan, …
1.4.4.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng quản lý tài sản
Cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp được xem xét thông qua mối quan hệ
giữa tài sản và nguồn vốn được doanh nghiệp sử dụng trong quá trình hoạt động sản
xuất kinh doanh. Sử dụng nguồn vốn sau khi huy động vào hoạt động đầu tư cho cơ
19


cấu tài sản như thế nào nhằm thu được lợi ích sinh lời cao nhất luôn là câu hỏi được
đặt ra với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Trong suốt chu kỳ kinh doanh, quá trình mở
rộng quy mô, tăng thị trường tiêu thụ nhằm tăng khả năng cạnh tranh là mục tiêu ngắn,
trung và dài hạn của doanh nghiệp. Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cần xây dựng
hệ thống chỉ tiêu tài chính phù hợp với quy mô, đặc điểm và tính chất của từng nhóm
tài sản khác nhau nhằm vận dụng các phương pháp phân tích phù hợp để đưa ra kết
quả chuẩn phục vụ cho quá trình khai thác thông tin trong DN của các đối tượng quan
tâm khác nhau.
Tài sản là một bộ phận quan trọng hình thành nên hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp. Người lao động tác động vào tư liệu lao động, thông qua quá trình
sản xuất tạo ra sản phẩm trao đổi trên thị trường. Khi xem xét hiệu quả sử dụng tài sản,
doanh nghiệp cần quan tâm đến các chỉ tiêu sau:
Hiệu suất sử dụng Tổng tài sản =

Doanh thu thuần
Tổng tài sản

Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (số vòng quay của tài sản) cho biết mỗi đồng tài
sản mà doanh nghiệp đầu tư tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Trong mối quan hệ
này, khi hệ số của vòng quay tài sản càng cao đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sử
dụng tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Tài sản vận động nhanh,

tăng doanh thu, nâng cao lợi nhuậncủa doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu này thấp, số vòng
quay tài sản nhỏ, có thể doanh nghiệp quản lý tài sản chưa hợp lý, chưa khai thác hết
hiệu quả của tài sản, gây lãng phí, cũng tăng chi phí cho doanh nghiệp, dẫn đến giảm
doanh thu cũng như các ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiệu suất sử dụng Tài sản ngắn hạn =

Doanh thu thuần
Tài sản ngắn hạn

Tài sản ngắn hạn là những tài sản có khả năng chuyển hóa thành tiền trong một
chu kỳ sản xuất kinh doanh thường là 1 năm. Tài sản lưu động là bộ phận quan trọng
cấu thành nên tài sản của doanh nghiệp và là nguồn kinh tế có thể tính bằng tiền mà
doanh nghiệp có hoặc doanh nghiệp khống chế.
Tài sản ngắn hạn hay được gọi là tài sản lưu động có thời gian vận động liên tục
và thường xuyên luôn chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình vận động
của tài sản lưu động bắt nguồn từ việc dùng tiền mua sắm vật tư cho quá trình sản
xuất, tiến hành sản xuất, bán sản phẩm với giá trị tăng thêm.
Trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp tài sản lưu động được biểu hiện ở
các trạng thái: Tiền và các chứng khoán khả thị (Cash and maketable sercurities), Các
khoản phải thu (Account receviable), Hàng tồn kho (Inventory), Tài sản lưu động
khác. Nghiên cứu và quản lý việc sử dụng tài sản lưu động góp phần hoàn thiện kế
20

Thang Long University Library


hoạch kinh doanh có hiệu quả, tiết kiệm chi phí, khai thác hết nguồn lực, hạn chế rủi
ro và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản ngắn hạn (số vòng quay của tài sản ngắn hạn)
cho biết thời gian luân chuyển giá trị tài sản ngắn hạn vào doanh thu thuần. Chỉ tiêu

này cho biết một đồng tài sản ngắn hạn tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần sau một
chu kì kinh doanh. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ tài sản của doanh nghiệp đang được sử
dụng có hiệu quả, tài sản vận động nhanh, sức sinh lời cho doanh nghiệp cao. Số vòng
quay tài sản đánh giá năng lực sử dụng tài sản lưu động của doanh nghiệp. Chỉ tiêu có
ý nghĩa quan trọng giúp nhà quản trị so sánh, phân tích và đưa ra quyết định nên đầu
tư mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm khai thác tối đa sản lượng có thể sản xuất hoặc
cung cấp.
Hiệu suất sử dụng Tài sản dài hạn =

Doanh thu thuần
Tài sản dài hạn

Tài sản dài hạn là những tài sản có giá trị lớn (từ 30 triệu đồng trở lên); được sử
dụng, luân chuyển và thu hồi dài (hơn 12 tháng hoặc trong nhiều chu kì kinh doanh.
Trong doanh nghiệp tài sản dài hạn thường chiếm tỉ trọng khá cao trong tổng tài sản.
Đặc điểm của tài sản dài hạn: Thời gian sử dụng lớn hơn 1 năm và tài sản sẽ tham gia
trong nhiều niên độ kinh doanh. Giá trị của tài sản được vận động luân chuyển dần vào
giá trị sản phẩm đầu ra – chi phí khấu hao trong bảng cân đối kế toán. Do đó, giá trị
của tài sản sẽ giảm dần và thường được doanh nghiệp định giá lại sau một thời gian
nhất định.
Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản dài hạn (Sức sản xuất của tài sản dài hạn) cho
biết khi doanh nghiệp đầu tư một đồng tài sản dài hạn vào hoạt động sản xuất kinh
doanh thì có khả năng tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng
cao chứng tỏ hiểu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp cao, tài sản dài hạn được vận
dụng có hiệu quả, khai thác được năng suất theo yêu cầu, doanh thu tăng, lợi nhuận
thay đổi tích cực. Chỉ tiêu này là yếu tố quan trọng thúc đẩy nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh, đánh giá các quyết định đầu tư của doanh nghiệp.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng khoản phải thu
Vòng quay phải thu khách hàng (Hệ số thu nợ) =


Doanh thu thuần
Phải thu khách hàng bình quân

Thông số này cho biết số lần phải thu khách hàng được chuyển thành tiền trong
năm. Số vòng càng lớn thì thời gian chuyển hóa thành tiền mặt càng ngắn. Thông số
này cung cấp nguồn thông tin nội bộ về chất lượng phải thu khách hàng và hiệu quả
của công ty trong hoạt động thu nợ
21


Thời gian thu nợ trung bình =

365
Vòng quay khoản phải thu khách hàng

=

Khoản phải thu * 365
Doanh thu thuần

Thời gian thu nợ trung bình là khoảng thời gian bình quân mà phải thu khách
hàng của doanh nghiệp có thể chuyển thành tiền, tức số ngày bình quân mà doanh số
duy trì dưới hình thức phải thu khách hàng cho đến khi được quy hồi và chuyển thành
tiền.
Nếu kỳ thu tiền dài hơn thời hạn bán tín dụng mà doanh nghiệp hiện đang cung
cấp cho khách hàng thì đó có thể là một dấu hiệu không tốt, cho thấy doanh nghiệp
hiện có một tỷ lệ tương đối nhiều khách hàng tín dụng trả nợ không đúng hạn (bị
chiếm dụng vốn). Mặc dù thời gian thu nợ trung bình cao không tốt nhưng kỳ thu tiền
trung bình quá thấp có thể là biểu hiện của chính sách tín dụng quá chặt chẽ. Lúc này,
phải thu khách hàng có chất lượng cao nhưng doanh số có thể bị giảm mạnh hoặc thấp

hơn mức lẽ ra phải đạt được. Nói chung, phải thu khách hàng có chất lượng tốt chỉ khi
có thể chuyển thành tiền trong một khoảng thời gian hợp lý trong mối quan hệ với
chính sách bán hàng và chính sách quản trị phải thu khách hàng.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng hàng tồn kho
Vòng quay hàng tồn kho =

Giá vốn hàng bán
Giá trị hàng tồn kho bình quân

Thông số vòng quay hàng tồn kho cho biết hàng tồn kho quay bao nhiêu vòng để
chuyển thành phải thu khách hàng thông qua hoạt động bán hàng trong năm. Thông
thường, số vòng càng lớn thì việc quản lý hàng tồn kho càng hiệu quả. Tuy nhiên, đó
cũng có thể là dấu hiệu của việc duy trì quá ít hàng tồn kho, dẫn đến tình trang cạn kiệt
nguồn dự trữ.
Kỳ dự trữ bình quân =

365
Vòng quay hàng tồn kho

=

365 * Giá trị hàng tồn kho bình quân
Giá vôn hàng bán

Thông số này cho biết số ngày dự trữ hàng trong kho. Nếu số ngày dự trữ dài hơn
so với mức bình quân ngành, chứng tỏ hàng tồn kho bị tồn đọng quá nhiều và có nguy
cơ doanh nghiệp phải giảm giá mạnh để giải phóng hàng tồn kho
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng khoản phải trả
Vòng quay phải trả người bán =


Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng , quản lý
Phải trả người bán + Thuế, lương, thưởng

Đôi lúc doanh nghiệp cần thông tin về kỳ hạn trả tiền của chính họ đối với các
nhà cung cấp hoặc kỳ hạn trả tiền của một khách hàng tiềm năng.
Thời gian trả nợ trung bình =

365
Vòng quay phải trả người bán
22

Thang Long University Library


=

365*(Phải trả người bán + Chi phí quản lý, bán hàng
Giá vốn hàng bán + thuế, lương, thưởng

Thời gian quay vòng tiền = Chu kỳ kinh doanh – Thời gian trả nợ trung bình
= (Kỳ dự trữ bình quân + Thời gian thu nợ trung bình) – Thời gian trả nợ trung bình.
1.4.4.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng cân đối vốn
Tình hình công nợ của doanh nghiệp được thể hiện qua một số chỉ tiêu về hệ số
nợ hay cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Tỷ lệ nợ trên tài sản được gọi là hệ số nợ trên tài
sản, là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp.
Hệ số nợ trên tài sản =

Nợ phải trả
Tổng tài sản


Chỉ tiêu về hệ số nợ cho biết trong một đồng tài sản có bao nhiêu phần được tài
trợ bởi nguồn vốn vay bên ngoài.Từ đó cho thấy mức độ độc lập hay phụ thuộc của
doanh nghiệp đối với chủ nợ. Nếu hệ số này thấp, chứng tỏ doanh nghiệp có nhiều vốn
huy động được, có sự độc lập cao đối với các chủ nợ, không chịu nhiều ràng buộc hoặc
chịu sức ép từ các khoản nợ vay. Tuy nhiên, hệ số này cao cũng đem lại cho doanh
nghiệp những lợi thế như có được một khoản tiết kiệm từ thuế (lợi ích từ lá chắn thuế),
tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, được sử dụng một lượng tài sản lớn mà
không tiêu tốn lượng vốn chủ sở hữu quá lớn. Việc tăng khoản nợ phải trả được các
nhà tài chính sử dụng như một chính sách tài chính để gia tăng lợi nhuận. Như vậy, hệ
số nợ cũng được sử dụng như một đòn bẩy tài chính đối với doanh nghiệp.
Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu =
Hệ số nợ trên vốn chủ sở hữu phản ánh cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu này cho biết, cứ một đồng vốn chủ sở hữu đầu tư thì có bao nhiêu đồng sẽ được tài
trợ bởi nguồn vốn từ vay nợ bên ngoài.
Khả năng thanh toán lãi vay =

Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Lãi vay

(= Số lần thu nhập đạt được trên lãi vay)
Lãi vay phải trả là một khoản chi phí cố định. Nguồn để trả lãi vay là lợi nhuận
trước thuế và lãi vay (EBIT). Việc so sánh giữa nguồn để trả lãi vay với lãi vay phải
trả sẽ cho biết doanh nghiệp sẵn sàng trả lãi ở mức độ nào, khả năng thanh toán chi phí
lãi vay ra sao. Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán lãi vay được dùng để đo lường
mức độ lợi nhuận có được do sử dụng vốn vay để đảm bảo trả lãi vay cho chủ nợ, cho
biết doanh nghiệp có sử dụng tốt số vốn đã đi vay hay không, vốn vay đem lại lợi
nhuận là bao nhiêu, có bù đắp được chi phí lãi vay hay không. Hệ số này càng cao sẽ
phản ánh tình hình sử dụng vốn vay càng có hiệu quả, cũng thể hiện độ an toàn trong
23



việc sử dụng vốn vay cao. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này thấp, chứng tỏ hiệu quả kinh
doanh yếu, khó có khả năng bổ sung thêm vốn vay.
1.4.4.4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời của doanh nghiệp là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận của
doanh nghiệp thu được trên một đơn vị chi phí, yếu tố đầu vào hay cũng có thể là kết
quả sản xuất của doanh nghiệp. Nó cho biết khả năng liên kết của việc quản trị thanh
khoản, tài sản, nợ đối với hoạt động kinh doanh. Từ đó, kết quả của các chỉ tiêu sinh
lời giúp doanh nghiệp có được chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn. Các chỉ tiêu sinh
lời thường được chú trọng phân tích bao gồm:
Tỷ suất sinh lời trên doanh thu (Return on Sales – ROS)
Tỷ suất sinh lời của Doanh thu =

Lợi nhuận sau thuế

Doanh thu thuần

* 100

Chỉ số tỷ suất sinh lời của doanh thu – Return on sales đánh giá số lợi nhuận thực
tế để lại chiếm bao nhiêu phần trong doanh thu thuần. Hay nói cách khác, cứ 100 đồng
doanh thu thuần đem về bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế cho doanh nghiệp khi tiến
hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với doanh nghiệp thì trong bất cứ quyết định
dài hạn nào của doanh nghiệp mục tiêu tạo lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh
luôn là mục đích hàng đầu. Do đó, khi tổng doanh thu tăng đồng nghĩa chi phí tăng và
yêu cầu mức tăng của chi phí không thể cao hơn mức tăng của doanh thu để tạo chênh
lệch thu lợi ích cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao cho thấy doanh nghiệp có
hiệu quả kinh doanh cao và kiểm soát tốt chi phí, khả năng cạnh tranh trên thị trường
mạnh và ngược lại; chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của doanh thu thấp chứng tỏ chi phí của
doanh nghiệp chưa được quản lý tốt và công tác kiểm soát chi phí của doanh nghiệp

còn chưa được tốt.
Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (Return on Assets – ROA)
Tỷ suất sinh lời của Tổng tài sản =

Lợi nhuận sau thuế
Tổng Tài sản bình quân

* 100

Tỷ suất sinh lời của tài sản (còn gọi là sức sinh lời của tài sản – Return on total
assets) cho biết: Trong 100 đồng tài sản được chủ đầu tư đưa vào hoạt động kinh
doanh nhằm sinh lời thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Chỉ số này cao
chứng tỏ sức sinh lời của khoản mục đầu tư vào tài sản cao, nguồn lực từ tài sản được
doanh nghiệp khai thác tốt, hiệu quả kinh doanh càng cao và ngược lại; chỉ số của chỉ
tiêu càng thấp mức sinh lời từ tài sản thấp, hiệu quả kinh tế thấp. Từ kết quả tính toán,
doanh nghiệp có thể tính toán khả năng mở rộng đầu tư thiết bị máy móc, phân
xưởng… tăng quy mô thị trường hay cắt bỏ nhằm thu hồi vốn.
24

Thang Long University Library


Theo phân tích Dupount, ta có thể phân tích chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của tổng tài
sản như sau:
ROA =

Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu

*


Doanh thu
Tổng tài sản

= ROS * Hiệu suất sử dụng tổng tài sản

Phân tích Dupount sẽ cho ta biết rõ được cụ thể bộ phận tài sản, chi phí hay
doanh thu nào có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh lời của một đồng tài sản mà
doanh nghiệp sử dụng. Như đã thấy ở công thức trên, chỉ tiêu sinh lời từ tài sản bị ảnh
hưởng bởi hiệu suất sử dụng tổng tài sản và khả năng sinh lời của doanh thu. Chỉ cần
một trong hai chỉ tiêu này thay đổi cũng sẽ trực tiếp tác động tới ROA của doanh
nghiệp. Hiệu suất sử dụng tài sản càng cao, số vòng quay tài sản càng nhiều cho thấy
sức sinh lời của tài sản tăng, tổng doanh thu cũng tăng lên. Do doanh thu có quan hệ
cùng chiều với tài sản, nên khi doanh thu tăng chứng tỏ tài sản của doanh nghiệp cũng
tăng lên.
Ngoài ra, chỉ tiêu sinh lời của tài sản cũng phụ thuộc vào tỷ suất sinh lời của
doanh thu (ROS). Tỷ suất sinh lời của doanh thu cho biết lợi nhuận chiếm bao nhiêu
phần trong tổng doanh thu mà doanh nghiệp thu được trong quá trình hoạt động kinh
doanh. Chỉ số của tỷ suất sinh lời từ doanh thu càng cao chứng tỏ lợi nhuận thu về cao,
doanh nghiệp kinh doanh có lãi. Tỷ suất sinh lời từ doanh thu được đánh giá là tốt khi
lợi nhuận và doanh thu cùng tăng hoặc doanh thu giảm do doanh nghiệp không còn
đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh không hiệu quả khiên lợi nhuận giảm nhưng giảm ít
hơn doanh thu. Ngoài ra, tỷ suất sinh lời của doanh thu còn được đánh giá có hiệu quả
khi lợi nhuận tăng do doanh nghiệp quản lý và kiểm soát tốt chi phí.
Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (Return on Equity – ROE)
Tỷ suất sinh lời của Vốn chủ sở hữu =

Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân


* 100

Khi phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhằm loại bỏ ảnh hưởng của
thuế thu nhập doanh nghiệp mà doanh nghiệp không kiểm soát được người ta sử dụng
chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu với tử số là lợi nhuận sau thuế.
Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu cho biết trong một chu kỳ sản xuất
kinh doanh mà doanh nghiệp phân tích cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu đưa vào kinh
doanh thì đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu
này càng cao chứng tỏ sức sinh lời của vốn chủ sở hữu cao, đồng thời vốn đầu tư của
chủ sở hữu được quản lý và sử dụng tốt, hiệu quả kinh doanh cao và ngược lại, khi
trọng số của chỉ tiêu thấp chứng tỏ khả năng sinh lời từ vốn chủ sở hữu thấp và hiệu
quả kinh doanh kém. Chỉ tiêu tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu là kết quả quan trọng
25


×