Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

CHUONG III: ÐỘ CO DÃN CẦU, CUNG VÀ LÝ THUYẾT HÀNH VI NGƯỜI TIÊU DÙNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.77 KB, 12 trang )

CHƯƠNG III:
ÐỘ CO DÃN CẦU, CUNG
VÀ LÝ THUYẾT HÀNH VI NGƯỜI TIÊU DÙNG

2. Lý thuyết hành vi người tiêu dùng
2.1. Khái quát chung về lý thuyết hành vi người tiêu dùng
Ở phần này ta xem xét kỹ hơn các đường cầu bằng cách xây dựng một mô
hình về sự lựa chọn của người tiêu dùng trên thị trường. Mô hình này có 4 yếu tố
thể hiện bối cảnh của người tiêu dùng ở thị trường:
1 Thu nhập của người tiêu dùng (các yếu tố khác liên quan thu nhập không
đổi)
2 Giá cả hàng hoá trên thị trường người tiêu dùng có thể chấp nhận
3 Thị trường vận động tuân theo quy luật cầu
4 Sở thích người tiêu dùng có sự sắp xếp theo thứ tự từ mức nhiều đến ít
5 Quyết định (lựa chọn) tiêu dùng tối ưu với mục tiêu đạt lợi ích tối đa.
Mỗi quyết định tiêu dùng đều đi kèm theo các lợi ích và các chi phí. Lợi ích
là tác dụng có ích cho họ trong tiêu dùng hàng hoá đó. Còn chi phí là những chi phí
cơ hội (opportunity) phải có, đó là các phương án chi cho tiêu dùng hàng hoá đã
chọn thì bỏ qua cơ hội (phải hy sinh) tiêu dùng các sản phẩm thoả mãn mong ước
khác, khi đã quyết định tiêu dùng hàng hoá đã chọn với cùng số tiền đó.
Qua mô hình nêu trên cho phép chúng ta dự đoán người tiêu dùng sẽ phản
ứng như thế nào đối với những thay đổi của các điều kiện ở thị trường. Như vậy,
người tiêu dùng lựa chọn tiêu dùng tối ưu có nghiên cứu lý thuyết riêng là lý thuyết
về lợi ích. Do đó, để tiêu dùng đạt được mục tiêu tối đa hoá lợi ích phụ thuộc vào
nhiều yếu tố ràng buộc khác nhau, do đó cần phải giải quyết thoả đáng các vấn đề
chủ yếu nêu trên.
2.2. Một số khái niệm
a. Lợi ích (hay sự thoả dụng) là sự hài lòng, sự như ý muốn của người tiêu dùng
hàng hoá, dịch vụ mang lại (Utility - U)
b. Tổng lợi ích (hay độ thoả dụng) là toàn bộ lợi ích hay là tổng thể sự hài lòng do
toàn bộ sự tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ mang lại (Total Utility - TU).


c. Lợi ích cận biên (lợi ích biên tế) phản ánh mức độ hài lòng hay lợi ích tăng thêm
hoặc giảm đi do tiêu dùng thêm hay bớt đi một đơn vị sản phẩm hàng hoá dịch vụ
mang lại (Marginal Utility - MU).


Từ khái niệm này ta có cách tính lợi ích cận biên, khi tiêu dùng loại hàng X
nào đó, đạt được tổng lợi ích. Nếu ta biết các mức tổng lợi ích TUi ứng với các
mức tiêu dùng với từng mức tiêu dùng hàng Xi. Hoặc biết hàm TU phụ thuộc mức
tiêu dùng hàng hoá có biến số X.
MU =

∆TU TU n − TU n −1
=
∆X
X n − X n −1

MU =

hoặc

dTU
= (TU )' x
dX

Ví dụ: Một thanh niên uống bia vào buổi trưa mùa hè với số lượng cốc bia
tăng dần, khi đó anh ta có tổng lợi ích và lợi ích cận biên sau khi uống thể hiện qua
bảng:
Mức uống (số cốc)

1


2

3

4

5

6

Tổng lợi ích (TU)

10

17

20

20

16

11

Lợi ích cận biên (MU)

10

7


3

0

-4

-5

Xem xét quan hệ giữa lợi ích cận biên và tổng lợi ích ta biết: nếu lợi ích cận biên là
số dương (MU > 0) tạo cho TU tăng lên. Khi đó người ta tiếp tục tăng mức tiêu
dùng để tăng TU. Ngược lại. Tại mức tiêu dùng nào đó (Xm) có MU = 0 khi đó
người ta đạt tổng lợi ích cực đại (TUmax). Trong thực tế không phải tiêu dùng mọi
hàng hoá đều dẫn đến lợi ích cận biên âm.
Số liệu biểu diễn ở hình trên, ta có tổng lợi ích tăng với mức gia tăng ngày càng
nhỏ. Chiều cao mỗi bước là thể hiện cho lợi ích biên giảm dần.

U

U
TU

MU

0

1

22


3

4

5

6

0

1

22

Hình 5.3: Tổng lợi ích và lợi ích cận biên

3

4


d. Quy luật lợi ích cận biên giảm dần
Khái niệm tổng lợi ích và lợi ích cận biên giải thích tại sao ta lại mua một số
hàng hoá hay tiếp tục mua thêm một đơn vị hàng hoá hoặc không tiếp tục mua
thêm mà dừng lại mức tiêu dùng vào một thời điểm nào đó.
Trong thực tế, khi ta tiêu dùng nhiều đơn vị hơn một loại hàng hoá nào đó
thì tổng lợi ích sẽ tăng lên tức là ta có sự hài lòng, thích thú hơn, sự thoả mãn nhu
cầu ở mức cao hơn. Nhưng tiếp tục tăng số đơn vị hàng hoá ngày càng nhiều hơn
thì lợi ích sẽ tăng với nhịp độ càng chậm. Sự tăng chậm này là do lợi ích cận biên
giảm đi khi tiêu dùng thêm hàng hoá đó. Kết quả này là do sự thích thú hài lòng

giảm đi khi tiêu dùng thêm mặt hàng đó.
Quy luật này có thể phát biểu như sau: Lợi ích cận biên của một mặt hàng
hoá có xu hướng giảm đi khi lượng mặt hàng đó được tiêu dùng nhiều hơn trong
một thời kỳ nhất định. Ðây là quy luật trừu tượng và thực tế ta không đo được lợi
ích tổng lợi ích và lợi ích cận biên. Quy luật này thích hợp với thời kỳ ngắn để xem
xét thị hiếu tiêu dùng từ đó quyết định trong lượng cầu. Tuy nhiên, ta thiết lập các
tình huống cụ thể có giả định sát với thực tế để so sánh giữa lợi ích tăng thêm với
chi phí trả thêm khi mua thêm hàng hoá để làm cơ sở xác định mức tiêu dùng tối
ưu.
e. Lợi ích cận biên và đường cầu
Lợi ích là một khái niệm trừu tượng dùng trong kinh tế học để chỉ cảm giác
thích thú chủ quan, tính hữu ích hoặc sự thoả mãn do tiêu dùng hàng hoá mà có.
Không thể đo lợi ích và lợi ích cận biên bằng các đơn vị vật lý như đơn vị điện tử,
trọng lượng hay chiều dài. Tuy nhiên khái niệm lợi ích là một công cụ rất hữu ích
của các nhà kinh tế dùng để giải thích nhiều hiện tượng kinh tế cũng như hành vi
người tiêu dùng. Bây giờ chúng ta sẽ vận dụng khái niệm lợi ích, lợi ích cận biên
và quy luật lợi ích cận biên giảm dần để giải thích vì sao đường cầu lại dốc xuống
dưới về phía phải. Chúng ta thấy có mối quan hệ qua lại giữa lợi ích cận biên và
giá cả. Lợi ích cận biên của việc tiêu dùng hàng hoá càng lớn thì người tiêu dùng
sẵn sàng trả giá cao hơn cho nó và khi lợi ích cận biên giảm thì sự sẵn sàng chi trả
cũng giảm đi. Như vậy có thể dùng giá để đo lợi ích cận biên của việc tiêu dùng
một loại hàng hoá.
Nếu so sánh đường cầu và đường lợi ích cận biên ta thấy giữa chúng có sự
tương đồng. Điều đó có nghĩa là, đằng sau đường cầu chứa đựng lợi ích cận biên
giảm dần của người tiêu dùng hay chính quy luật lợi ích cận biên giảm dần đã làm
cho đường cầu dốc xuống dưới. (MU = D). Nếu các đơn vị tiêu dùng là rời rạc, ta
sẽ có đường cầu gãy khúc nối các điểm cầu. Nếu các đơn vị tiêu dùng là vô cùng
nhỏ cũng có ý nghĩa, hay các đơn vị tiêu dùng là liên tục đường cầu sẽ được thể



hiện bằng đường liền. Ðường cầu thị trường là tổng cộng theo chiều ngang của các
đường cầu cá nhân ở từng mức giá của nó trên thị trường.
g, Thặng dư người tiêu dùng
Thặng dư người tiêu dùng khi tiêu dùng một đơn vị hàng hoá nào đó (CS) là
khái niệm phản ánh sự chệnh lệch giữa lợi ích cận biên của người tiêu dùng (MU)
với chi phí thực tế đã trả (MC) cho đơn vị hàng hoá đó.
Ví dụ trên, giá cốc bia là 3 nghìn đồng. Giả định một đơn vị lợi ích có giá trị
bằng một nghìn đồng. Khi đó anh ta có thặng dư khi uống cốc bia thứ nhất là 10 - 3
= 7 , uống cốc thứ 2 có thặng dư là 7 - 3 = 4, cốc bia thứ 3 anh ta có thặng dự là 3 3 = 0. Toàn bộ 3 cốc bia anh ta có tổng thặng dư là CS = 7 + 4 + 0 = 11. Do đó,
thặng dư người tiêu dùng được biểu diễn ở phần diện tích tam giác tạo bởi phía
dưới đường cầu PD (hay MU) và phía trên đường nằm ngang MC = P. Nghĩa là,
phần diện tích biểu diễn tổng chi phí tạo bởi hình chữ nhật nằm dưới đường MC
(MC = P = 3 nghìn đồng/cốc).
Toàn thị trường, đường cầu toàn thị trường là tổng hợp các đường cầu của
các cá nhân, từ đây cho ta xác định tổng thặng dư của những người tiêu dùng hàng
hóa đó, với cách hiểu tương tự như trên.
2.3. Quy tắc lựa chọn tiêu dùng tối ưu
Mô hình lựa chọn của người tiêu dùng dựa vào lý thuyết về lợi ích và quy
luật cầu. Vì vậy quy tắc lựa chọn tiêu dùng tối ưu phải xem xét đến quan hệ giữa
lợi ích và giá của hàng hoá đó.
a. Trường hợp đặc biệt hàng hoá tiêu dùng không phải trả tiền (miễn phí)

Người tiêu dùng xác định mức tiêu dùng tối ưu khi không mất tiền người ta
chỉ xác định khi sử dụng số lượng hàng hoá để đạt tổng lợi ích tối đa TUmax theo
quy tắc:
Mức hàng hoá tiêu dùng tối ưu Q* thoả mãn điều kiện: lợi ích cận biên MU
= 0. Trong thực tế, người ta có thể chỉ cần có lợi ích dương, với điều kiện MU > 0,
bởi vì chi tiêu cho hàng hóa bằng không, tức là MC = 0. Người tiêu dùng muốn
tăng lợi ích sẽ tiếp tục tăng mức tiêu dùng hàng hoá, đến khi MU = 0 tại đó đạt
tổng lợi ích cực đại.

b. Tiêu dùng phải trả tiền ( một loại hàng hoá)

Giả sử trên thị trường, các yếu tố khác không đổi, người tiêu dùng có một
lượng thu nhập (hoặc ngân sách) nhất định dùng để chi tiêu cho một hàng hoá nào
đó (ví dụ hàng A có mức tiêu dùng là Q) có mức giá cả nhất định là P, tiêu dùng
đem lại lợi ích được tính bằng giá trị thoả dụng là TU.


Từ các điều kiện trên, nếu người tiêu dùng tăng thêm một đơn vị hàng hoá A
đó, người ta sẽ nhận thêm một lượng lợi ích là MU (lợi ích cận biên). Tổng lợi ích
sẽ tăng khi lợi ích cận biên MU > 0. Ðồng thời, người ta phải trả thêm một lượng
chi phí (chi phí tăng thêm) cho tiêu dùng thêm đơn vị hàng hoá A được gọi là chi
phí cận biên MC. Trên thị trường giá một đơn vị hàng hoá là P, có nghĩa là MC =
P. Người tiêu dùng sẽ quyết định mức tiêu dùng hợp lý khi có sự so sánh giữa lợi
ích tăng thêm và chi phí tăng thêm khi tiêu dùng thêm một đơn vị hàng hoá A đó.
Nếu người tiêu dùng ở lượng đơn vị hàng hoá nào đó (Q) tại đó có MU >
MC thì họ sẽ quyết định tiếp tục tăng mức tiêu dùng để tăng tổng lợi ích (tăng
thặng dư) của họ. Ngược lại, nếu MU < MC, thì sẽ quyết định giảm mức tiêu dùng
để tăng tổng lợi ích (tăng dộ thoả dụng) cho họ. Tại điểm tiêu dùng có MU = MC
thì người tiêu dùng không nên tăng và cùng không nên giảm mức tiêu dùng hàng A
này.
Do vậy, quy tắc xác định mức tiêu dùng tối ưu ở Q* để đạt tổng lợi ích tối
đa (tính đến chi phí bỏ ra) của người tiêu dùng hàng hoá A là điểm có thoả mãn
điều kiện:
Q* tại MU = MC = P
Với ví dụ ở trên, theo quy tắc này, người thanh niên sẽ quyết định số cốc bia
để đạt lợi ích tối đa là Q* thoả mãn điều kiện này tại điểm với Q* = 3 (cốc).
c. Tiêu dùng phải trả tiền ( hai loại hàng hoá)

Trên thực tế, người tiêu dùng thường muốn thoả mãn nhiều nhu cầu khác

nhau trong tiêu dùng về các loại hàng hoá (như vừa xem phim vừa uống bia), trong
điều kiện họ có một khoản thu nhập (hay ngân sách nhất định) để chi tiêu cho nó,
cần đạt một độ thoả dụng (lợi ích) nhất định trong khi các điều kiện khác không
đổi.
Chẳng hạn người tiêu dùng có một ngân sách là M để tiêu dùng hai hàng hoá
A và B, hai hàng hoá này có giá là PA và PB , người tiêu dùng đạt được tổng lợi ích
(độ thoả dụng) là TU đã xác định, tương ứng tiêu dùng từng hàng hoá có MU A và
MUB .
Khi các điều kiện khác không đổi, người tiêu dùng cần lựa chọn mức tiêu
dùng tối ưu A* và B* để đạt tổng lợi ích lớn nhất (TU ma x) với điều kiện ràng buộc
ngân sách M.
Chúng ta biết rằng người tiêu dùng có ràng buộc ngân sách với phương trình
ngân sách M = PA*A + PB*B, nếu người ta tăng một đồng cho tiêu dùng hàng A thì
phải giảm đi một đồng cho tiêu dùng hàng B.
Khi người ta tiêu dùng thêm một đơn vị hàng A thì có lợi ích cận biên là
MUA , và tương tự có MUB. Do đó, người ta tăng thêm chi tiêu một đồng cho tiêu


dùng hàng A thì người ta nhận thêm một lượng lợi ích (độ thoả dụng biên) của một
đồng hàng A có giá trị là MUA/PA. Tương tự, độ thoả dụng biên của một đồng hàng
B là MUB /PB
Người tiêu dùng sẽ có quyết định khi có tình hưống cụ thể:
Nếu MUA/PA > MUB /PB thì người tiêu dùng sẽ tăng chi tiêu để tiêu dùng
thêm hàng A và giảm chi tiêu tương ứng cho tiêu dùng hàng B để tăng lợi ích.
Nếu MUA/PA < MUB /PB , thì quyết định của người ta sẽ ngược lại.
Quyết định tăng chi tiêu hàng A và giảm chi tiêu hàng B, hay ngược lại
trong điều kiện M không đổi. Từ phân tích này ta có thể viết :
MU A
MU B
+ (−

)=0
PA
PB

Như vậy, lựa chọn mức tiêu dùng tối ưu khi tiêu dùng hai loại hàng hoá để
đạt tổng lợi ích (độ thoả dụng) tối đa khi ngân sách M xác định và có P A và PB với
quy tắc:

A*, B* với điều kiện

MU A MU B
=
PA
PB

Ta gọi tỉ lệ thay thế lợi ích cận biên của hai hàng A và B là MRS = MUA/ MUB
Khi đó quy tắc xác định mức tiêu dùng tối ưu trên có thể viết dạng sau:
MRS =

A*, B* với điều kiện

MU A PA
=
MU B PB

Từ quy tắc này, có thể suy ra quy tắc xác định mức tiêu dùng từng loại hàng hoá tối ưu khi
tiêu dùng đồng thời nhiều loại hàng hoá với M đã xác định sau:

A*, B* và ... K* với điều kiện


MU A MU B
MU K
=
... =
PA
PB
PK

Ví dụ: Một người tiêu dùng có số tiền M = 52 nghìn đồng, người ta muốn uống giải khát
(A) và xem video (B) trong một tuần. Giá một cốc nước là PA = 4 nghìn đồng, giá một lần xem
video là PA = 10 nghìn đồng với số liệu như sau:

Lượng tiêu
dùng

Lượng lợi ích theo mức tiêu dùng
Uống giải khát (hàng A)
TU

MU

Video (hàng B)
TU

MU


0

0


-

0

-

1

15

15

10

10

2

23

8

19

9

3

25


2

26

7

4

25

0

31

5

5

22

-3

34

3

Nếu chi toàn bộ số tiền cho uống giải khát 5 cốc thì người ta chưa sử dụng
hết ngân sách, tổng lợi ích chưa cao. Tương tự nếu chi tiêu toàn bộ cho xem video,
khi đó người ta chưa đáp ứng được nhu cầu là vừa xem video và uống giải khát.

Từ bảng số liệu trên, tìm điểm tiêu dùng tối ưu theo quy tắc, ta chọn điểm
tiêu dùng hàng A với mức là 3 cốc, và xem Video với mức là 4 lần xem. Khi đó,
tổng chi tiêu TC = M = 52 (nghìn đồng) và đạt tổng lợi ích TU = 25 + 31 = 56 (đơn
vị lợi ích).
2.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn của người tiêu dùng
a. Sự ràng buộc về ngân sách
Ðể mua được hàng hoá, người tiêu dùng phải đủ hai yếu tố: có thu nhập của
họ và giá cả hàng hoá có thể chấp nhận được, ở đây ta giả thiết tất cả thu nhập
dùng để mua hàng, không có tiết kiệm. Như trên đã nêu, ta có: M = PA*A + PB* B
Sự ràng buộc về ngân sách (mức thu nhập) nó cho biết lượng tối đa mà
người ta có thể mua được một mặt hàng này khi đã mua một lượng nhất định mặt
hàng khác. Tổng ngân sách được phân phối cho hai mặt hàng mà người tiêu dùng,
như thế có nhiều phương án phối hợp được gọi là sự ràng buộc về ngân sách.
Ví dụ: Tổng số ngân sách có 48 nghìn đồng, giá bữa ăn P A = 4 (nghìn dồng)
đồng, giá xem phim PF = 6 (nghìn đồng), có thể lựa chọn các phương án tiêu dùng
như bảng dưới đây.
Ví dụ này có phương trình : M = PA*QA + PF**QF hay : 48 = 4 QA + 6 QF
Hay có thể viết: QF = - PA/PF*QA + M/PF hay F = - 4/6* QA + 8
Nếu biểu diễn ngân sách M trên đồ thị trục tung là số lần xem phim (Q F) và
trục hoành là số bữa ăn (QA), độ dốc đường ngân sách phản ảnh tỉ lệ thay thế mức
tiêu dùng của hai loại hàng hoá đó bằng tỷ giá của nó.
Ðộ dốc đường ngân sách được xác định: (-) ∆QF /∆QA = (-) PA/PF = (-) 4/6


Phươn
g

Mức tiêu dùng

Lợi ích tiêu dùng


Lợi ích cận biên

án

Tổng
lợi ích
TU

QA

QF

TUA

TUF

MUA

MUF

1

0

8

0

52


-

4,0

52

2

3

6

18

44

6,0

5,0

62

3

6

4

30


34

4,0

6,0

64

4

9

2

40

22

3,3

11,0

62

5

12

0


49

0

3,0

-

49

Ðường ngân sách có độ dốc mang giá trị âm thể hiện quan hệ đánh đổi giữa
bữa ăn và xem phim tức là phải hy sinh bao nhiêu lần xem phim cho thêm một lần
ăn khi ngân sách đã có và phụ thuộc vào tỷ lệ giá của hai mặt hàng.
Ðường ngân sách cho thấy các phương án kết hợp về hai loại hàng hoá mà
người tiêu dùng có thể mua với ngân sách và giá của nó trên thị trường đã xác
định.
Những điểm nằm ngoài, trên đường cho biết các phương án đã chi tiêu cho
hai loại hàng hoá đó vượt quá ngân sách đã có của người tiêu dùng.
Những điểm nằm trong, dưới đường này cho biết người tiêu dùng chưa chi
tiêu hết nguồn ngân sách đã có, cũng có nghĩa là tiêu dùng chưa đáp ứng tốt nhu
cầu.
Trong nghiên cứu lựa chọn các phương án sử dụng hết ngân sách.
b. Yếu tố sở thích của người tiêu dùng
Người tiêu dùng khi tiêu dùng hai loại hàng hoá, có thể sắp xếp các hàng
hoá khác nhau theo độ thích thú hay độ thoả dụng. Chẳng hạn, độ thoả dụng một
lần xem phim bằng 1,5 lần thoả dụng của một bữa ăn. Như vậy, khi tổng độ thoả
dụng không đổi thì cần phải hy sinh (giảm) độ thoả dụng về hàng này để tăng độ
thoả dụng về hàng hoá khác một mức tương ứng.
Biểu diễn độ thoả dụng hay sở thích của người tiêu dùng bằng các đường

bàng quan (U). Một đường bàng quan cho thấy tất cả các tập hợp các phương án
tiêu dùng đạt cùng độ thỏa dụng. Ðường bàng quan có dạng dốc xuống từ trái sang
phải, dạng như đường đồng mức vì biểu diễn sự thay thế của hai sở thích khi tiêu
dùng hai loại hàng hoá. Tổng độ thoả dụng khác nhau sẽ có các đường bàng quan
(U) khác nhau.


Các đường U1, U2 không thể cắt nhau đối với cùng loại hàng hoá đang xét.
Ðường U2 nằm phía trên, ngoài đường U 1, khi đó bất cứ điểm nào nằm trên U 2 đều
được ưa thích hơn. có độ thỏa dụng cao hơn so với đường U 1. Người tiêu dùng
thích ăn (độ thoả dụng) nhiều hơn thì độ dốc của đường này cao hơn vì phải hy
sinh nhiều lần xem phim để ăn. Ngược lại, trên một đường bàng quan có cùng một
độ thoả dụng, người thích ăn sẽ chọn điểm tiêu dùng phía dưới bên phải và ngược
lại.
Ðộ dốc của đường bàng quan phản ảnh sự thay thế lợi ích cận biên và cũng
bằng tỉ lệ thay thế mức tiêu dùng của hai loại hàng hoá bằng (-) ∆QF /∆QA =
MUA/MUF . Từ đây, cho thấy tỷ lệ thay thế lợi ích cận biên giảm dần khi tiêu dùng
từng loại hàng hoá.
Như vậy, tác động của yếu tố ràng buộc ngân sách và sở thích người tiêu
dùng có mối quan hệ trong quyết định tối ưu trong tiêu dùng hai loại hàng hoá.
Ðường ngân sách mô tả những tập hợp các cách kết hợp có thể mua được hai loại
hàng hoá trong bối cảnh thị trường khi người tiêu dùng có cùng ngân sách (M).
Ðường bàng quan cho thấy độ thoả dụng (mức độ thích thú) của người tiêu dùng
khi các kết hợp hai loại hàng hoá để đạt cùng độ thoả dụng (U).
Người tiêu dùng không thể đạt được những điểm nằm ngoài đường ngân
sách và cũng không chọn những điểm phía dưới của nó. Họ sẽ chọn điểm nào trên
đường ngân sách, ở đó cơ số lượng các hàng hoá mua được đáp ứng được sở thích
của họ.
Vậy người tiêu dùng chọn phương án tiêu dùng tối ưu để đạt độ thoả dụng
tối đa khi có ràng buộc về ngân sách được xác định tại điểm ở đó có độ dốc của

đường ngân sách bằng độ dốc của đường bàng quan. Tại điểm có đường ngân sách
tiếp tuyến với đường bàng quan, ở đây có sự đánh đổi của giá cả thị trường về hay
loại hàng hoá bằng sự đánh đổi của độ thoả dụng biên. Một lần nữa, ta chứng minh
bằng hình học đối với tìm điểm có mức tiêu dùng tối ưu như trên đẫ đề cập, khi
tiêu dùng hai loại hàng hoá.
Cùng từ đây cho ta biết đối với người thích ăn thì điểm tiếp tuyến này ở phía
dưới, phía phải của hình vẽ và ngược lại. Người thích ăn hơn có điểm lựa chọn tối
ưu ở vị trí thấp gần trục hoành và về phía phải và ngược lại.
c. Sự điều chỉnh mức tiêu dùng tương ứng với những thay đổi trong thu nhập
Nghiên cứu nền kinh tế không có lạm phát, giá cả các loại hàng hoá không
thay đổi và sở thích không thay đổi, khi có thu nhập thay đổi cũng là có tương ứng
ngân sách thay đổi dùng chi tiêu cho hai loại hàng hoá đó.
- Khi cả hai mặt hàng này (ăn và xem phim) đều là hàng bình thường. Xét
trường hợp khi có thu nhập (ngân sách) tăng lên là có đường ngân sách M 1 dịch


chuyển lên phía phải song song với đường cũ, nhưng đường M 1 mới có sức mua
gia tăng lên. Người tiêu dùng theo quy luật cầu sẽ có đường bàng quan dịch lên
trên và song song với đường bàng quan cũ. Do đó, mức tiêu dùng tối ưu C 1 cao
M1 ứng với tỉ lệ tăng lên của thu nhập.
hơn M
C tương
Tương tự, tư duy
ngược lại, khi thu nhập người tiêu dùng giảm xuống,
A1
đường M1 sẽ Anằm dưới và song song với đường M ban đầu. Ðường bàng quan U
mới dịch xuống và song song với đường bàng quan cũ. Hai hàng hoá ăn và xem
U1
phim là bình thường, mức tiêu dùng tối ưu ở điểm C1 thấp hơn ở điểm C một lượng
tương ứng với tỉ lệ giảm đi của thu nhập.

Hình 6.3. Thu nhập thay đổi khi giá và sở thích không đổi

C1
C

U
F

F1

- Khi một trong hai hàng hoá là hàng thứ cấp, ví dụ bữa ăn là hàng thứ cấp so với
xem phim. Nếu có sự gia tăng thu nhập sẽ làm giảm đi tương đối về cầu hàng thứ cấp
bữa ăn so với cầu xem phim. Như vậy thu nhập tăng thì đường ngân sách dịch chuyển
song song từ AF đến A'F', nhưng đường bàng quan sẽ dốc hơn, khi đó điểm C" sẽ ở điểm
có bữa ăn không tăng hoặc giảm, còn vé xem phim sẽ tăng lên, đó là điểm lựa chọn của
người tiêu dùng khi thu nhập tăng.
Tương tự, thu nhập giảm, có diễn biến ngược lại. Sự giảm thu nhập làm tăng
tương đối về cầu hàng thứ cấp bữa ăn so với cầu xem phim. Khi đó, đường bàng
quan sẽ dốc ít hơn (nằm ngang hơn), khi đó điểm C" sẽ ở điểm có bữa ăn không
giảm, hoặc giảm ít hơn (thậm chí số bữa ăn tăng lên), còn vé xem phim sẽ giảm
hoặc giảm nhiều hơn, đó là điểm lựa chọn của người tiêu dùng khi thu nhập giảm.
d. Ðiều chỉnh tiêu dùng tương ứng với thay đổi về giá cả.
Như trên ta đã biết khi độ co dãn của cầu theo giá càng cao thì người tiêu
dùng càng dễ thay thế hàng hoá khác để có thoả mãn nhu cầu. Khi giá hàng có liên
quan tăng lên làm tăng lượng cầu hàm thay thế, nhưng lại giảm lượng cầu hàng bổ
sung.


Phân tích sự lựa chọn của nguời tiêu dùng cho biết, khi giá cả của một hàng
hoá thay đổi, làm đường ngân sách thay đổi. Ví dụ giá bữa ăn tăng lên 2 lần thì

cùng đường ngân sách cũ, có số bữa ăn bằng một nửa của mức ăn, vé xem phim
như cũ, khi đó có đường ngân sách chuyển từ AF sang AF'.
Như vậy đường ngân sách dốc hơn phản ánh sự gia tăng trong giá tương đối
của bữa ăn, tức là để tăng thêm một bữa ăn phải hy sinh một số lần xem phim
nhiều hơn. Ðường ngân sách mới dưới đường ngân sách cũ, sức mua của nguồn
thu nhập bị giảm.
Có thể phân chia sự ảnh hưởng của việc giá cả thành 2 ảnh hưởng riêng là:
H

(1) Sự ảnh hưởng giá tương đối của hai hàng hoá
(2) Sự giảm sức mua của nguồn thu nhập.

A
F

E

H

Hình 7.3. Ảnh hưởng thu nhập và ảnh hưởng
F’ của giá cả
D

C
U1

U2

O


* Xét ảnh hưởng của sự tăng giá tương đối của bữa ăn.
Nếu hai hàng ăn và xem phim là bình thường có thể diễn biến như sau:
Giả thiết có đường ngân sách HH song song AF và tiếp tuyến với đường
bàng quan U2. Ðường HH có độ dốc mới giữa giá vé phim (cũ) và giá bữa ăn mới
(đã tăng lên). Vì HH tiếp tuyến với đường U 2 cũ nên người tiêu dùng đạt điểm D có
mức thoả dụng ban đầu. Như vậy điểm C đến D cho thấy ảnh hưởng của giá tương
đối hai hàng hoá tăng lên tức làm giảm cầu một lượng OC - OD bữa ăn.
Ảnh hưởng của thu nhập từ sự giảm thu nhập thực tế. Xem xét đường ngân
sách mới AF', người tiêu dùng phải chuyển đổi độ thoả dụng từ D sang E.
+ Khi cả hai hàng hóa là hàng bình thường thì sự giảm thu nhập thực tế làm
giảm lượng cầu của hai hàng hóa (điểm F nằm dưới bên trái của điểm D). Thực tế


người tiêu dùng dịch chuyển từ C sang F, nhưng ảnh hưởng của thu nhập làm
lượng cầu về bữa ăn chuyển từ D đến E tương ứng với một lượng OD – OE bữa ăn.
+ Khi hàng hóa là thứ cấp, giá cả tăng tương đối sẽ làm giảm lượng cầu từ C
đến D tức là bằng một lượng OC – OD bữa ăn.
+ Tuy vậy, thu nhập thực tế giảm lại làm tăng cầu từ D đến E, mức tăng này
hơn cả mức giảm cầu do tăng giá tương đối của bữa ăn nên điểm E nằm bên dưới
phía phải của D và C, tức tăng một lượng bằng OF – OD bữa ăn
Phần chênh lệch (tăng) thuần túy của 2 yếu tố là OE – OC bữa ăn là do hàng
ăn là hàng thứ cấp so với xem phim.
Tuy vậy, hàng hóa phổ biến là hàng hóa thông thường nên ảnh hưởng của
thu nhập và giá tăng tương đối thực tế luôn làm giảm lượng cầu.



×