Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

Tiểu luận vi phạm hợp đồng theo công ước viên 1980

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.21 KB, 56 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
KHOA LUẬT KINH TẾ

ĐỀ TÀI

VI PHẠM HỢP ĐỒNG
(THEO CÔNG ƯỚC VIÊN 1980)

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 4 năm 2016


MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................................................2
II. HỢP ĐỒNG TRẢ GÓP (INSTALMENT CONTRACT ): ........................................................................12
II.1 Khái niệm instalment contract: ...............................................................................................12
III.2 Các điều kiện được miễn trách theo CISG..............................................................................20
III.3 So sánh các quy định miễn trách với Luật Việt Nam...............................................................22
Joern Rimke, Force majeure and hardship: Application in international trade practice with
specific regard to the CISG and the UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts 25
IV HẬU QUẢ CỦA VIỆC HỦY HỢP ĐỒNG. ..........................................................................................25
V. BẢO QUẢN HÀNG HÓA TRONG CISG.............................................................................................29
VI. CHUYỂN DỊCH RỦI RO (PASSAGE OF RISK)....................................................................................35
VI.2 Hợp đồng bao gồm vận chuyển..............................................................................................36
VI.3 Hợp đồng bán hàng “in transit”..............................................................................................37
VI.4 Hợp đồng không bao gồm vận chuyển...................................................................................39
VI.5 Rủi ro và việc không tuân theo điều kiện về hàng hóa...........................................................39
VI.7.1 Dịch chuyển rủi ro trong pháp luật Việt Nam .................................................................41
VI.7.2 Dịch chuyển rủi ro trong UCC của Hoa Kỳ........................................................................42


VI.7.3 Dịch chuyển rủi ro và học thuyết “chủ sở hữu chịu rủi ro về tài sản của mình”..............43
VI.7.4 CISG và Incoterm.............................................................................................................45
KẾT LUẬN...............................................................................................................................................50


LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế phát triển kéo theo sự phát triển tong lĩnh vực kinh doanh thương
mại, dịch vụ hàng hóa xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, khi sự thỏa thuận tại hợp đồng
không còn đẹp đẽ như lúc ban đầu hoặc do sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, cách
chọn lựa pháp luật, đôi khi là các trường hợp không định liệu được trước.. dẫn đến vi
phạm sau đó là tranh chấp hợp đồng. Hợp đồng thương mại quốc tế khi có sự vi phạm
dẫn đến tranh chấp sẽ là tranh chấp phức tạp và mất rất nhiều thời gian giải quyết,
Trong phạm vi bài được phân công nhóm tìm hiểu về vấn đề “Vi phạm hợp đồng theo
Công ước Viên 1980” (CISG), trong đó có so sánh với các quy định của pháp luật
khác trong dó có quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
Việt Nam chưa là thành viên chính thức của CISG vì vậy các bản dịch vẫn chưa được
xem là chính thức, nên phần phân tích nhóm chỉ nêu những quy định và trích dẫn bằng
bản nguyên gốc của CISG. Bài viết còn nhiều hạn chế vì người viết cũng đang học hỏi
để củng cố và hoàn thiện kiến thức của mình. Rất mong sự hướng dẫn của Giảng viên
và góp ý của các bạn cùng lớp.

1


NỘI DUNG
I.
KHÁI NIỆM
I.1. Anticipatory breach
Trước khi đến với khái niệm về “anticipatory breach”, một tình huống được đưa ra như
sau:

Batman (B), chủ cửa tiệm bán dụng cụ bóng chày và Superman (S), nhà sản xuất gậy
bóng chày ký kết hợp đồng. Theo hợp đồng, B đồng ý mua gậy bóng chày của S với
giá 5000$, S sẽ giao hàng đến cửa hàng của B và nhận thanh toán vào ngày 30/4. Tuy
nhiên, vào ngày 1/4, B điện thoại báo với S rằng sẽ không mua vợt của S nữa. Vậy
hành vi của B có bị xem là vi phạm hợp đồng?
Trong pháp luật về hợp đồng, có một khái niệm được dùng để giải thích cho những
trường hợp như trên, ‘anticipatory breach’, hay còn gọi là vi phạm hợp đồng trước thời
hạn, hay vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ 1. Theo đó,
‘anticipatory breach’ được hiểu là “việc vi phạm một nghĩa vụ trong hợp đồng khi chưa
đến hạn thực hiện nghĩa vụ”2. Cụ thể, một bên trong hợp đồng, bằng hành động hay lời
nói, thể hiện một cách rõ ràng ý định không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, mặc dù
thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó chưa đến.
Do đó, khác với nguyên tắc thông thường của vi phạm hợp đồng, nếu bên có quyền
biết được rằng trước khi đến hạn, bên kia sẽ không thực hiện nghĩa vụ hoặc có căn cứ
nghi ngờ rằng nghĩa vụ sẽ không thể được thực hiện, bên có quyền có thể áp dụng các
quyền như đối với trường hợp vi phạm thực hiện nghĩa vụ thông thường 3 mà không cần
đợi đến khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng.
Để xem một hành vi có phải là ‘anticipatory breach’ hay không, có thể căn cứ vào một
trong các điều kiện sau:
- Một lời từ chối cụ thể và rõ ràng (có thể trực tiếp hoặc gián tiếp) về việc không thực
hiện hợp đồng được đưa ra bởi một bên trong hợp đồng. Việc quyết định xem một
lời từ chối thực hiện hợp đồng có dẫn đến một ‘anticipatory breach’ hay không cần
1

Dương Anh Sơn,2006. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc điều chỉnh bằng pháp luật đối với vi phạm hợp đồng
khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 04/2006.
2
Black’s Law Dictionary
3
Dương Anh Sơn, tlđd.


2


phải xem một người tỉnh táo và minh mẫn ở vị trí của bên bị vi phạm có xem đó là
-

một lời từ chối cụ thể và rõ ràng hay không4; hoặc
Một nghĩa vụ không thể thực hiện được (impossibility to perform);

Bên cạnh đó, Tòa án còn xem xét việc áp dụng những biện pháp cần thiết để ngăn chặn
thiệt hại của bên bị vi phạm trên nguyên tắc thiện chí trong hợp đồng 5 trước khi đưa ra
quyết định.
Học thuyết về ‘anticipatory breach’ xuất hiện đầu tiên và được thừa nhận hệ thống
thông luật bắt nguồn từ một án lệ của Anh trong vụ kiện Hochster v. De la Tour6 năm
1853 có thể được tóm lược như sau: Vào tháng tư năm 1852, De La Tour đồng ý thuê
Hochster là người chuyển phát trong ba tháng kể từ ngày 1/6/1852 cho một chuyến đi
vòng quanh Châu Âu. Ngày 11/5, De La Tour thay đổi ý định, liên hệ với Hochster, từ
chối thực hiện hợp đồng và không chấp nhận bồi thường cho Hochster. Ngày 22/5,
Hochster đưa đơn kiện. Nguyên đơn (Hochster) sau đó đã tìm được công việc mới và
sẽ bắt đầu vào ngày 1/7. Lập luận của Nguyên đơn là, sự từ bỏ của Bị đơn là một hành
vi vi phạm hợp đồng và Nguyên đơn cần phải được bồi thường thiệt hại. Bị đơn (De La
Tour), trong khi đó, lại cho rằng mình không vi phạm hợp đồng cho đến ngày 1/6, và
Nguyên đơn nếu không chấp nhận việc hủy hợp đồng, thì vẫn phải chuẩn bị và sẵn
sàng cho đến khi đến hạn thực hiện hợp đồng. Tòa án không đồng ý với lập luận của Bị
đơn và cho rằng Bị đơn đã đưa ra một xác nhận rõ ràng về việc sẽ không thực hiện hợp
đồng. Do đó, bên bị vi phạm, thay vì phải chờ đến lúc hết hạn thực hiện nghĩa vụ, có
thể ngay lập tức hạn chế thiệt hại xảy ra và khởi kiện yêu cầu bồi thường những thiệt
hại do hành vi vi phạm đó gây ra7.
Quay lại với ví dụ đầu bài, có thể thấy rằng việc B từ chối mua vợt của S trước khi đến

hạn giao vợt theo hợp đồng cũng đã cấu thành một ‘anticipatory breach’. Cụ thể, việc
4

Anticipatory breach of contract and when does it occur [Truy cập ngày 23/3/2016]; Anticipatory Repudiation
[Truy cập ngày 26/3/2016]
5
Breach of contract: Anticipatory Breach (Repudiation) [Truy cập ngày 31/3/2016]
6
(1853) 2 E. & B. 678.
7
Carter, 1984. The Modern Law Review, Volume 47: Issue 4- The Embiricos Principle and the Law of
Anticipatory Breach, pg 423.

3


B gọi điện và báo cho S về việc không mua vợt thể hiện 1 biểu lộ ý định rõ ràng về
việc sẽ không thực hiện hợp đồng, từ đó khiến cho mục đích của hợp đồng không thực
hiện được, đồng thời gây ra thiệt hại cho S. Vì vậy, S không bị buộc phải tuân theo hợp
đồng hoặc chờ đến 30/4 (ngày đến hạn thực hiện hợp đồng) mà ngay lập tức có quyền
yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại.
Hiện nay, trên thế giới vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh thuyết ‘anticipatory
breach’, có những luồng quan điểm bảo vệ lý thuyết truyền thống, tức vi phạm nghĩa
vụ chỉ có thể được xác định khi hết thời hạn thỏa thuận trong hợp đồng nhưng một bên
không thực hiện nghĩa vụ của mình, tuy nhiên vẫn có những quan điểm bảo vệ cho
thuyết này. Cụ thể, thuyết này mới chỉ được công nhận và áp dụng ở các quốc gia theo
hệ thống luật Anh-Mỹ. Đầu tiên, luật của các quốc gia này còn quy định khá dè dặt và
gói gọn trong trường hợp một bên trong hợp đồng tuyên bố hủy hợp đồng dù chưa đến
hạn thực hiện nghĩa vụ8, nhưng cho đến nay, cùng với sự phát triển về pháp luật hợp
đồng, học thuyết này ngày càng được áp dụng rộng rãi.

Không giống pháp luật Anh – Mỹ, đa số các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục
địa, trong đó có Việt Nam không thừa nhận và do đó không quy định về loại vi phạm
này cũng như hậu quả pháp lý của nó 9. Từ đó dẫn đến việc quyền và lợi ích hợp pháp
của bên có quyền sẽ không được bảo vệ một cách tương xứng và phù hợp. Đặc biệt
trong trường hợp một bên có cơ sở để nghi ngờ rằng bên kia sẽ không thực hiện nghĩa
vụ nhưng không áp dụng các biện pháp hợp lý cần thiết để ngăn chặn tổn thất, thì liệu
Tòa án có viện dẫn đến việc không áp dụng các biện pháp hợp lý nhằm ngăn chặn tổn
thất để cho rằng bên bị thiệt hại vi phạm nguyên tắc thiện chí, trung thực trong thực
hiện hợp đồng hay không10.
Công ước Viên 1980 (“CISG”) dành hơn một điều khoản để quy định về ‘anticipatory
breach’ Trong khi Điều 72 nhằm vào vi phạm trước thời của hợp đồng, cụ thể là vi
phạm hợp đồng diễn ra trước khi bên vi phạm đến hạn thực hiện nghĩa vụ, Điều 71 lại
8

Dương Anh Sơn, tlđd, tr. 52.
Article 1186 of the French Civil Code: “What is due only with a term may not be claimed before the expiry of
the term; but what was paid in advance may not be recovered”.
10
Phạm Thanh Hữu, 2011. Vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ và sự cần thiết điều
chỉnh bằng pháp luật, [Truy cập ngày 27/3/2016].
9

4


có phạm vi rộng lớn hơn khi nó đề cập đến vi phạm trước thời hạn cũng như vi phạm
do không hoàn tất nghĩa vụ11. Các biện pháp khắc phục tại Điều 71 là nhằm giữ hợp
đồng còn nguyên vẹn, trong khi các biện pháp khắc phục tại Điều 72 nhằm hủy hợp
đồng, Điều 73 lại quy định về vi phạm trước thời hạn trong hợp đồng từng phần12.
Theo Điều 71 CISG, trong hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, một bên có thể tạm

hoãn việc thực hiện nghĩa vụ của mình sau khi hợp đồng được ký kết nếu có cơ sở rằng
bên kia sẽ không thực hiện phần lớn nghĩa vụ của họ theo hợp đồng do (i) việc không
thể thực hiện được hợp đồng hay mất khả năng thanh toán; (ii) hành vi của bên kia
trong việc chuẩn bị hay thực hiện hợp đồng. Đồng thời, để bảo vệ quyền lợi của người
bán, CISG cho phép bên bán khi phát hiện những lý do trên đó thể không tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ giao hàng của mình, hoặc ngăn chặn việc bên mua nhận hàng kể cả trong
trường hợp có đầy đủ chứng từ hợp lệ.
Để áp dụng điều khoản này, bên bị vi phạm phải đưa ra một thông báo về việc tạm
hoãn thực hiện nghĩa vụ của mình để bên đó có thời gian đưa ra các cam kết thực hiện
nghĩa vụ của mình. Nếu bên kia đưa ra một cam đoan về việc sẽ thực hiện hợp đồng thì
bên bị vi phạm không được tạm hoãn hợp đồng mà phải tiếp tục hợp đồng theo thỏa
thuận giữa các bên13.
Điều 72 CISG quy định về trường hợp bên bị vi phạm có quyền hủy hợp đồng nếu như
trước ngày đến hạn thực hiện nghĩa vụ, bên bị vi phạm có căn cứ rõ ràng rằng vi phạm
của bên kia sẽ cấu thành vi phạm cơ bản của hợp đồng 14. Đối với trường hợp tại Điều
72 này, bên bị vi phạm không cần phải ra thông báo cho bên kia về về việc hủy hợp
đồng.
11

Điều 71, Điều 71, Điều 73 của CISG. Article 71 of CISG:
“1. A party may suspend the performance of his obligations if, after the conclusion of the contract, it becomes
apparent that the other party will not perform a substantial part of his obligations as a result of:
(a) a serious deficiency in his ability to perform or in his creditworthiness; or
(b) his conduct in preparing to perform or in performing the contract.
2. If the seller has already dispatched the goods before the grounds described in the preceding paragraph
become evident, he may prevent the handing over of the goods to the buyer even though the buyer holds a
document which entitles him to obtain them. The present paragraph relates only to the rights in the goods as
between the buyer and the seller.
…”
12

Điều 73.2, Điều 73.3 CISG
13
ACCA approved, 2015. Study text: Corporate and Business Law. Published by BPP Learning Media Ltd
(London). Pg 90.
14
Guide to Article 71 and 72 [Truy cập ngày 7/4/2016].

5


Bộ luật Thương mại thống nhất Hoa Kỳ (“UCC”) và bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp
đồng thương mại quốc tế cũng đều đưa nguyên tắc này vào quy định của mình. Tương
tự CISG, UCC cũng quy định rằng nếu một bên có cơ sở để cho rằng bên kia sẽ vi
phạm việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thì bên đó có quyền yêu cầu về việc bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ bằng văn bản đến bên bị vi phạm 15. Ngoài ra, bộ luật này bổ
sung một khoảng thời gian để bên kia khắc phục việc vi phạm, cụ thể nếu trong thời
hạn 30 ngày sau khi nhận được yêu cầu có cơ sở của một bên trong hợp đồng mà bên
kia không đưa ra bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, bên đó có quyền hủy hợp đồng
trước thời hạn và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Cùng theo đó, tại bộ nguyên tắc
UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế có quy định tương tự tại Điều 7.3.3 và
7.3.4.: Một bên có căn cứ để hủy hợp đồng nếu, trước thời hạn, rõ ràng sẽ có việc
không thực hiện nghĩa vụ cơ bản từ phía bên kia.
Ở Việt Nam, tuy không được thừa nhận, Bộ luật dân sự 2005 vẫn có quy định tương tự
trong trường hợp một bên có khả năng không thực hiện đúng hợp đồng. Điều 415 Bộ
luật
Dân sự quy định khi một bên phát hiện nguy cơ nghĩa vụ theo hợp đồng không thực
hiện đúng hạn do bên kia có tài sản bị giảm sút nghiêm trọng, bên đó có quyền hoãn
thực hiện hợp đồng16. Tuy nhiên nhận thấy những quy định của Bộ luật dân sự chỉ
dừng lại ở việc đưa ra quy định nhưng vẫn chưa giải quyết được bản chất của vấn đề,
và hầu như không được áp dụng trên thực tế bởi luật không đưa ra bất kỳ điều kiện hay

cơ sở nào để một bên có thể cho rằng bên kia có thể không thực hiện đúng hạn, và căn
15

Article 2-609 of the UCC:
“1. A contract for sale imposes an obligation on each party that the other's expectation of receiving due
performance will not be impaired. When reasonable grounds for insecurity arise with respect to the performance
of either party the other may in writing demand adequate assurance of due performance and until he receives
such assurance may if commercially reasonable suspend any performance for which he has not already received
the agreed return.
2. Between merchants the reasonableness of grounds for insecurity and the adequacy of any assurance offered
shall be determined according to commercial standards.
3. Acceptance of any improper delivery or payment does not prejudice the aggrieved party's right to demand
adequate assurance of future performance.
4. After receipt of a justified demand failure to provide within a reasonable time not exceeding thirty days such
assurance of due performance as is adequate under the circumstances of the particular case is a repudiation of
the contract”.
16
Khoản 1 Điều 415 Bộ luật Dân sự 2005:“Bên phải thực hiện nghĩa vụ trước có quyền hoãn thực hiện nghĩa vụ,
nếu tài sản của bên kia đã bị giảm sút nghiêm trọng đến mức không thể thực hiện được nghĩa vụ như đã cam kết
cho đến khi bên kia có khả năng thực hiện được nghĩa vụ hoặc có người bảo lãnh”.

6


cứ để cho rằng việc giảm sút tài sản của bên đó sẽ khiến anh ta không thực hiện được
nghĩa vụ theo hợp đồng.
Việc đưa ra học thuyết về ‘anticipatory breach’ là nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của
bên bị vi phạm khi cho phép họ có thể áp dụng các quyền của mình kể cả khi chưa có
thiệt hại thục tế xảy ra. Tuy vậy, vi phạm hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện
nghĩa vụ không phải là căn cứ cho phép bên có quyền áp dụng chế tài hủy ngay hợp

đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại, mà nó chỉ mới là điều kiện cần chứ chưa là điều
kiện đủ để cho phép bên có quyền thực hiện quyền nói trên.
Hầu hết các quan điểm đều cho rằng để có thể áp dụng quyền hủy hợp đồng của bên có
quyền, bên cạnh việc thông báo cho bên có quyền, thì nguy cơ vi phạm hợp đồng của
bên vi phạm phải có cơ sở xác đáng, không những thế mà còn phải là nguy cơ vi phạm
nghĩa vụ cơ bản theo hợp đồng. Từ đó có thể thấy rằng vi phạm hợp đồng khi chưa đến
thời hạn thực hiện nghĩa vụ có quan hệ mật thiết với vi phạm cơ bản trong hợp đồng.
Do vậy, cần thiết phải tìm hiểu và làm rõ về chế định vi phạm cơ bản trong hợp đồng –
fundamental breach - để có được cái nhìn cụ thể và bao quát về chế định vi phạm hợp
đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ nói riêng cũng như vi phạm hợp đồng
nói chung.
I.2. Fundamental breach
Fundamental breach, hay vi phạm cơ bản hợp đồng, là một thuật ngữ không còn xa lạ
trong giới nghiên cứu luật pháp hay hoạt động trong lĩnh vực pháp luật. Học thuyết về
vi phạm cơ bản của hợp đồng là trung tâm trong lĩnh vực pháp luật thương mại quốc
tế , đây cũng là một vấn đề được xem xét, phân tích khi đề cập đến các vấn đề của luật
thương mại như chấm dứt, thiệt hại, hủy hợp đồng... 17. Khái niệm về vi phạm cơ bản
đóng vai trò trung tâm trong CISG. Đây là điều kiện tiên quyết cho để áp dụng chế tài
hủy hợp đồng trong một số trường hợp nhất định 18, quyền yêu cầu hàng hóa thay thế
nếu hàng hóa được giao không phù hợp với hợp đồng19 cũng như đóng vai trò quan
trọng đối với việc chuyển giao rủi ro.
17

Nwafor, 2013. Comparative Evaluation of the Doctrine of Fundamental Breach under the CISG, UNDROIT
Principles and the English Law, University of Stirling, Scotland - School of Law
18
Điều 49.1(a), Điều 51.2, Điều 64.1(a), Điều 72.1, Điều 73.1, Điều 73.2 CISG.
19
Điều 46.2 CISG


7


Học thuyết ‘fundamental breach’ được biết đến vào khoảng giữa năm 1950 – đầu năm
1960 ở Anh, trong đó đưa ra rằng theo quy định của pháp luật, khi một bên trong hợp
đồng đã cam kết về ‘fundamental breach’ thì bên đó không thể dựa vào một điều khoản
loại trừ để không chịu trách nhiệm đối với vi phạm20.
Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng được quy định tại Điều 25 của CISG, theo đó một
sự vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là vi phạm cơ bản nếu sự vi phạm đó làm cho
bên kia bị thiệt hại mà bên đó, trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có
quyền mà họ mong chờ từ hợp đồng, trừ phi bên vi phạm không tiên liệu được hậu qủa
đó và một người có lý trí minh mẫn cũng sẽ không tiên liệu được nếu họ cũng ở vào
hoàn cảnh tương tự 21.
CISG không đưa ra một định nghĩa cụ thể về vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, thay
vào đó, CISG đưa ra các thuật ngữ khái quát để xác định vi phạm cơ bản như “thiệt
hại”, “chừng mục đáng kể” và “có thể tiên liệu được” để từ đó đưa ra một “nguyên tắc
diễn giải chung”22.
Tuy vậy, căn cứ theo CISG thì để xem xét một vi phạm có là vi phạm cơ bản hay
không, cần dựa trên những yếu tố chính như sau:
(i)
Có sự vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng, hay tập quán thương mại được các bên
(ii)

áp dụng, hoặc theo Công ước;
Vi phạm đó dẫn đến hậu quả làm cho bên bị vi phạm bị thiệt hại từ đó không
đạt được điều họ mong đợi từ hợp đồng. Trong đó, CISG cho rằng thiệt hại đáng
kể là những thiệt hại làm cho bên bị vi phạm mất đi cái mà họ chờ đợi (mong
muốn có được) từ hợp đồng. Tuy nhiên, CISG lại không giải thích rõ cái mà bên
bị vi phạm, có thể là bên mua hoặc bên bán, chờ đợi là gì? Đa số các quan điểm
đều nhận định “thiệt hại” về cơ bản nên được hiểu là mục đích bên bị vi phạm


20

Atkin. Sydney Law Review: Case Law – Fundametal Breach and the Nature of Exclusion Clause (Photo
Production Ltd. v. Securior Transport Ltd.
Link pdf. [Truy cập ngày 2/4/2016]
21
Nguyên bản tiếng Anh: Article 25 “A breach of contract committed by one of the parties is fundamental if it
results in such detriment to the other party as substantially to deprive him of what. he is entitled to expect under
the contract, unless the party in breach did not foresee and a reasonable person of the same kind in the same
circumstances would not have foreseen such a result”.
22
Robert Koch, 1998. The Concept of Fundamental Breach of Contract under the United Nations Convention on
Contracts for the International Sale of Goods (CISG)": Pace Review of the Convention on Contracts for the
International Sale of Goods (CISG). Kluwer Law International (1999), pg. 185 Leonardo Graff, 2003. Case Law
on the Concept of ‘Fundamental Breach’ in the Vienna Sales Convention. International Business Law Journal
(2003) No. 3, pg 338.

8


theo đuổi với các hợp đồng đã thất bại và, do đó, dẫn đến những lợi ích mà bên
bị vi phạm kỳ vọng có được từ việc thực hiện hợp đồng bị mất đi 23. “Thiệt hại” ditriment không đồng nghĩa với tổn thất hay mất mát xảy ra trên thực tế, cũng
không nhất thiết phải có sự bất lợi về mặt vật chất. Mà một thiệt hại có thể được
mô tả như là một vi phạm cơ bản chỉ nếu bên bị vi phạm không có một lợi ích
nào nữa từ việc thực hiện hợp đồng.
Trên thực tế, việc xác định mức độ thiệt hại là đáng kể hay không đáng kể sẽ do
tòa án (hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp) quyết định căn cứ
vào từng trường hợp, từng vụ tranh chấp cụ thể. Chẳng hạn, phải căn cứ vào giá
trị kinh tế của hợp đồng, sự tổn hại về mặt tiền bạc do hành vi vi phạm hợp

đồng hoặc mức độ mà hành vi vi phạm hợp đồng gây cản trở đến các hoạt động
khác của bên bị vi phạm24. Việc xác định điều bên bị vi phạm mong đợi từ hợp
đồng được đánh giá tùy thuộc vào từng loại hợp đồng cụ thể và các rủi ro được
các bên dự liệu và được thỏa thuận trong hợp đồng, hay theo tập quán thương
(iii)

mại, hoặc trong các điều khoản của Công ước.
Bên vi phạm thấy trước hậu quả của hành vi đó, hoặc trong trường hợp bên vi
phạm không lường trước được kết quả đó, vi phạm đó vẫn là vi phạm cơ bản khi
một người lý trí minh mẫn sẽ thấy trước kết quả như vậy, bởi vì trong trường
hợp đó, vi phạm sẽ tước đoạt của bên kia hầu hết hoặc tất cả các lợi ích họ có
thể có được từ hợp đồng25. Mặt khác, một hành vi vi phạm hợp đồng dẫn đến
thiệt hại cho bên bị vi phạm sẽ không bị coi là vi phạm cơ bản hợp đồng nếu bên
vi phạm “không thể nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm đó”. Chính
xác hơn, khả năng nhìn thấy trước hậu quả của hành vi vi phạm hợp đồng là yếu
tố cần thiết để xác định hành vi vi phạm đó có phải là một sự vi phạm cơ bản
hợp đồng hay không.

23

Will, 1987. Commentary on the International Sales Law: The 1980 Vienna Sale Convention. Milan, pg. 205;
Chengwei Liu, tldđd.
24
Commentary on the Draft Convention on Contracts for the International Sale of Goods prepared by the
Secretariat, Document A/CONF.97/5, art. 25 (antecedent to art. 23), United Nations Conference on Contracts for
the International Sale of Goods, Official Records, New York, 1981 (A/CONF 97/19)
25
Chengwei Liu, 2005. The concept of Fundamental breach: Perspective from the CISG, UNIDROIT Principles
and PECL and case law, 2nd edition. [truy cập ngày 3/4/2016].


9


Khả năng tiên liệu trước được những thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây
ra sẽ phụ thuộc vào kiến thức của bên vi phạm về những sự kiện xoay quanh
giao dịch như kinh nghiệm, hay khả năng, tổ chức của bên vi phạm 26. Tính tiên
liệu trước của hợp đồng là một trong những yếu tố cần phải xem xét, bởi CISG
cho rằng một bên trong hợp đồng, khi biết về những hậu quả có thể xảy ra nếu
hợp đồng bị vi phạm, nếu như anh ta không chắc chắn về việc sẽ thực hiện đúng
nghĩa vụ theo hợp đồng, nhưng không chấm dứt hợp đồng và cũng không cố
gắng hết sức để ngăn chặn việc vi phạm hợp đồng này ảnh hưởng đến yếu tố
thiện chí, trung thực trong hợp đồng và cần phải được xác định. Do đó, tính cơ
bản, chủ yếu của vi phạm không chỉ nằm ở hậu quả mà còn nằm ở việc khả năng
tiên liệu của một bên. Vấn đề nằm ở việc liệu bên vi phạm thấy trước hậu quả
của hành vi là hợp lý không ? hay có điều gì gây cản trở việc thấy trước hậu quả
của bên vi phạm không? Lý thuyết tương tự cũng được áp dụng khi xác định
mức độ thiệt hại theo Điều 74 CISG cũng như trong Điều 79 của CISG.
Dù không được đề cập trực tiếp trong CISG, nhưng trong lịch sử lập pháp và đa số ý
kiến các học giả thì nghĩa vụ chứng minh ban đầu sẽ thuộc về bên bị vi phạm 27. Theo
đó, bên bị vi phạm phải chứng minh rằng anh ta phải chịu một thiệt hại mà thiệt hại đó
đã tước đi đáng kể những gì anh ta có quyền hy vọng theo hợp đồng. Trường hợp có
thiệt hại đã tước đi đáng kể những gì một bên mong đợi từ hợp đồng được cấu thành,
nghĩa vụ chứng minh chuyển sang bên vi phạm, cụ thể bên vi phạm phải chứng minh
rằng anh ta đã không lường trước được tác động có hại của hành vi vi phạm của mình
và rằng một người bình thường cùng điều kiện trong các trường hợp tương tự cũng
không lường trước.
Tương tự Điều 25 CISG, Điều 7.3.1(2) của Nguyên tắc UNIDROIT 28 quy định:
26

Chengwei liu, tlđd.

Hossam El-Saghir, 2000. Fundamental breach: Remarks on the manner in which the Principles of European
Contract Law may be used to interpret or supplement Article 25 CISG. Pg. 216
28
Nguyên bản tiếng Anh: Article 7.3.1(2):
“(2) In determining whether a failure to perform an obligation amounts to a fundamental non-performance
regard shall be had, in particular, to whether
(a) the non-performance substantially deprives the aggrieved party of what it was entitled to expect under the
contract unless the other party did not foresee and could not reasonably have foreseen such result;
(b) strict compliance with the obligation which has not been performed is of essence under the contract;
(c) the non-performance is intentional or reckless;
27

10


“2. Để xác định yếu tố cấu thành việc không thực hiện chủ yếu, đặc biệt căn cứ vào
những tình tiết sau đây:
a) Việc không thực hiện làm mất đi chủ yếu những gì người có quyền được mong đợi
từ
hợp đồng, trừ trường hợp bên có nghĩa vụ đã không dự tính trước hoặc đã không thể
dự tính trước một cách hợp lý hậu quả này;
b) Việc thực hiện nghiêm ngặt nghĩa vụ là bản chất của hợp đồng;
c) Việc không thực hiện là cố ý hoặc không tính đến hậu quả;
d) Việc không thực hiện khiến cho bên có quyền tin rằng không thể tin cậy vào việc
thực hiện hợp đồng trong tương lai;
e) Trong trường hợp hủy hợp đồng, bên có nghĩa vụ có thể sẽ phải chịu những tổn thất
quá mức do sự chuẩn bị hoặc việc thực hiện hợp đồng”.
Có thể thấy rằng CISG và UNIDROIT có sự tương đồng khi đưa ra những yếu tố chính
cấu thành nên một vi phạm cơ bản, đó là “thiệt hại đáng kể” và “khả năng nhìn thấy
trước”.

Tại Việt Nam, vi phạm cơ bản hợp đồng cũng được đề cập trong Luật Thương mại
2005. Trong đó Khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005, vi phạm cơ bản hợp
đồng là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho
bên kia không đạt được mục đích giao kết hợp đồng”. Vi phạm cơ bản cũng cơ sở để áp
dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng hoặc đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy
bỏ hợp đồng29. Tuy nhiên, tính đến nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn, giải thích rõ
khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng. Dẫn đến những câu hỏi phát sinh từ vi phạm cơ
bản như thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra đến mức nào thì được coi là vi
phạm cơ bản hợp đồng? Mục đích của các bên khi giao kết hợp đồng là gì? vẫn chưa
có lời giải thích cụ thể30.
Nội hàm khái niệm “vi phạm cơ bản hợp đồng” theo quy định của Công ước Viên,
UNIDROIT hay Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 là rất rộng. Tuy nhiên, nhìn
(d) the non-performance gives the aggrieved party reason to believe that it cannot rely on the other party's future
performance;
(e) the non-performing party will suffer disproportionate loss as a result of the preparation or performance if the
contract is terminated”.
29
Điều 308, 310 và 312 Luật Thương mại 2005
30
Võ Sỹ Mạnh. Bàn về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên 1980.
/>%C6%A1-b%E1%BA%A3n-h%E1%BB%A3p-d%E1%BB%93ng-theo-cong-%C6%B0%E1%BB%9Bc-vien1980/ [Truy cập ngày 3/4/2016].

11


chung việc quy định khái quát như trên để nhằm bảo vệ quyền lợi của bên bị vi phạm
tùy vào từng trường hợp cụ thể. Đặc biệt, khi vắng mặt các điều khoản trong hợp đồng,
cơ chế khắc phục hậu quả của CISG, cụ thể là để duy trì hiệu lực của hợp đồng và hạn
chế việc hủy hợp đồng trên cơ sở các thiệt hại hoặc biện pháp khắc phục sẽ được áp
dụng.

II. HỢP ĐỒNG TRẢ GÓP (INSTALMENT CONTRACT ):
II.1 Khái niệm instalment contract:
Khái niệm instalment contract theo CISG là việc người mua “trả dần tiền
hàng” cho người bán, instalment contract còn có nghĩa là hợp đồng mà người bán giao
hàng từng phần, từng lô hàng cho người mua.
Instalment contract có thể hiểu là loại hợp đồng mà có quy định điều khoản “Trả
dần - Intralment” được hiểu là người bán giao hàng từng phần, giao hàng dần dần theo
từng lô hàng hoặc người mua có thể trả tiền từng phần, trả theo từng lô hàng theo tiến
độ giao hàng của người bán.
Tuy nhiên về quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua theo nghĩa
instalment là người mua “trả tiền dần dần” CISG ít đề cập đến, CISG đề cập chủ yếu
về quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua theo nghĩa hợp đồng giao hàng từng
phần và thanh toán dần, do phương thức này là phương thức khá phổ biến trong hoạt
động thương mại quốc tế. CISG quy định việc Hợp đồng giao hàng từng phần, từng lô
hàng này tại Điều 73 CISG31.
Theo Luật Thương mại 2005, Bộ Luật dân sự 2005 (kể cả Bộ luật Dân sự 2015,
có hiệu lực từ ngày 01/01/2017) đều không có khái niệm về Hợp đồng trả góp, trả
31

Article 73
(1) In the case of a contract for delivery of goods by instalments, if the failure of one party to perform any of his
obligations in respect of any instalment constitutes a fundamental breach of contract with respect to that
instalment, the other party may declare the contract avoided with respect to that instalment.
(2) If one party's failure to perform any of his obligations in respect of any instalment gives the other party good
grounds to conclude that a fundamental breach of contract will occur with respect to future instalments, he may
declare the contract avoided for the future, provided that he does so within a reasonable time.
(3) A buyer who declares the contract avoided in respect of any delivery may, at the same time, declare it
avoided in respect of deliveries already made or of future deliveries if, by reason of their interdependence, those
deliveries could not be used for the purpose contemplated by the parties at the time of the conclusion of the
contract.


12


chậm, trả dần; Tuy nhiên, căn cứ đặc điểm của việc trả góp, Nhóm đưa ra khái niệm về
Hợp đồng trả góp như sau: “Hợp đồng mua bán tài sản, hàng hóa trả góp là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc mua bán tài sản, hàng hóa; Qua đó bên bán chuyển giao
tài sản, hàng hóa (có bảo lưu quyền sở hữu) cho bên mua; Bên mua trả trước một
phần giá trị tài sản, hàng hóa, phần còn lại trả trong một khoản thời gian theo thỏa
thuận”.
II.2 Vi phạm cơ bản trong instalment contract:
Trường hợp trong hợp đồng thương mại quốc tế có quy định giao hàng từng đợt,
nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình đối với lô hàng, mà vi phạm đó là vi
phạm cơ bản thì bên kia có quyền tuyên bố hủy hợp đồng về phần lô hàng đó 32. Quy
định này dựa trên tinh thần của nguyên tắc thiện chí trong hợp tác thương mại quốc tế,
các bên không vì một lô hàng trong nhiều lô có vi phạm cơ bản mà tuyên bố hủy toàn
bộ Hợp đồng mua bán đó.
Tuy nhiên, nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng thương mại
quốc tế, CISG cũng có quy định bên bị vi phạm hợp đồng có thể hủy toàn bộ hợp đồng
nếu hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm tạo thành một vi phạm nghiêm trọng,
gây thiệt hại cho bên kia trong một chừng mực đáng kể bị mất cái mà họ có quyền chờ
đợi trên cơ sở hợp đồng. Trong trường hợp vì từng phần một của hợp đồng có vi phạm
nhưng vi phạm này có ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích một bên, thì bên bị vi phạm
cũng có thể tuyên bố hủy toàn bộ hợp đồng để trừng phạt bên vi phạm.
Ví dụ: một lô hàng bên bán A giao cho bên mua B nhưng chất lượng không đảm
bảo, nhưng vì giao hàng kém chất lượng này mà bên mua không hoàn thành nghĩa vụ
trong một hợp đồng khác với bên C dẫn đến bên mua C hủy hợp đồng đối với bên B.
Vì không đạt lợi ích, mục đích ban đầu của B nên đây là vi phạm cơ bản vì vậy bên B
tuyên hủy hợp đồng đối với A.
Một ví dụ khác: Hợp đồng là một dây chuyền công nghệ, nhưng chia làm nhiều

lô để bên bán giao hàng cho bên mua, do một lô có vi phạm nên đẫn đến cả dây chuyền
32

Khoản 1 điều 73 CISG

13


không phù hợp với Hợp đồng thì với vi phạm này, bên bị vi phạm có thể tuyên bố hủy
toàn bộ hợp đồng do vì lô hàng vi phạm đã làm ảnh hưởng đến tất cả các lô hàng khác
trong Hợp đồng.
Để xác định một hành vi phạm trong instalment contract có phải là vi phạm cơ
bản hay không cũng khá khó khăn, nó phụ thuộc rất nhiều vào nhận định của tòa án và
chứng cứ chứng minh của các bên. Trong hợp đồng giao hàng từng phần - instalment
contract và theo thông lệ về thương mại quốc tế thì nguyên tắc thiện chí được đặt biệt
coi trọng; Các bên phải đặt mục đích thương mại lên hàng đầu nên thông thường các
bên không nên xác định đó là một vi phạm cơ bản và đưa ra tuyên bố hủy hợp đồng
ngay mà các bên cần cho bên còn lại một khoản thời gian hợp lý để hoàn thành nghĩa
vụ của Hợp đồng. Sau thời gian được gia hạn đó thì bên bị vi phạm mới sử dụng các
biện pháp bảo hộ hợp lý để bảo vệ quyền lợi của mình: Buộc thực hiện hợp đồng (Điều
46, 62 CISG), Bồi thường thiệt hại (Điều 74 CISG), tạm ngừng thực hiện hợp đồng
(điều 71 CISG) và Hủy bỏ hợp đồng (Điều 49, 64); Quyền giảm giá (Điều 50).
II.3 Vi phạm không cơ bản trong instalment contract:
Trường hợp, người bán chỉ giao một phần hàng hóa hoặc nếu chỉ có một phần
hàng hóa đã giao phù hợp với hợp đồng, các lô còn lại hàng hóa không phù hợp với
hợp đồng thì phần còn thiếu hoặc lô hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, người bán
phải giao hàng thay thế trong một thời gian được người mua gia hạn 33. Các biện pháp
bảo hộ hợp lý trước sự vi phạm hợp đồng của người bán được quy định từ điều 46 đến
điều 50 CISG.
Khi người bán giao hàng mà hàng hóa đó không phù hợp với hợp đồng (chất

lượng, số lượng, đóng gói, bao bì, thời hạn giao hàng…) thì người mua cần yêu cầu
người bán phải giao hàng thay thế, đồng thời người mua phải cho người bán một thời
gian hợp lý để tiếp tục thực hiện hợp đồng. Người mua không được thực hiện các biện
33

Article 51 CISG
(1) If the seller delivers only a part of the goods or if only a part of the goods delivered is in conformity with the
contract, articles 46 to 50 apply in respect of the part which is missing or which does not conform.
(2) The buyer may declare the contract avoided in its entirety only if the failure to make delivery completely or in
conformity with the contract amounts to a fundamental breach of the contract.

14


pháp bảo hộ nào cho đến khi hết thời hạn bổ sung trừ khi người mua đã nhận được
thông báo của người bán nói rằng sẽ không tiếp tục thực hiện hợp đồng trong thời hạn
mà người mua đã bổ sung.
Khi hết thời hạn hợp lý mà người mua bổ sung cho người bán thực hiện hợp
đồng mà người bán vẫn không thực hiện thì người mua có thể xem xét đến các biện
pháp bảo hộ để bảo vệ lợi ích của mình và trừng phạt người bán.
Việc người bán giao hàng từng phần mà hàng hóa theo lô đó không phù hợp
theo thỏa thuận của hợp đồng thì trong một thời gian hợp lý người mua có quyền
thông báo cho người bán để yêu cầu người bán phải giao hàng thay thế nếu sự không
phù hợp đó tạo ra sự vi phạm cơ bản 34. Nếu sau thời gian gia hạn để người bán giao
hàng bổ sung, nhưng người bán không giao hàng khi đó vi phạm đó trở thành vi phạm
cơ bản thì người mua có quyền tuyên bố hủy hợp đồng.
Trong trường hợp, một bên không thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận đối với
bất cứ lô hàng nào cũng có thể cho phép bên kia có lý do để cho rằng sẽ có vi phạm cơ
bản trong tương lai thì bên đó có thể tuyên bố hủy hợp đồng phần có thể vi phạm trong
tương lai đó. Bên tuyên bố hủy hợp đồng trong tương lai phải thực hiện thông báo

trong một thời hạn nhất định.
Ví dụ: Hai bên ký với nhau 01 hợp đồng có 04 lô hàng và thanh toán theo từng
lần giao hàng, các bên không có thỏa thuận cụ thể về sự không phù hợp của hàng hóa.
-

Trường hợp 1: ngay khi bên bán giao hàng lô thứ 1, bên mua đã phát hiện có
sự vi phạm hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, khi đó bên mua cần
thông báo cho bên bán để đàm phán lại về hàng hóa đó, hoặc bên mua cho
bên bán thêm một thời gian hợp lý để kiểm tra và thay thế lô hàng khác.

-

Trường hợp 2: khi bên bán giao hàng lô thứ 3 thì bên mua mới phát hiện có
sự vi phạm hàng hóa không phù hợp với hợp đồng, khi đó cần xem xét lại
nội dung vi phạm này tại lô thứ 3, ở các lô 1, lô 2 bên mua đã chấp nhận có

34

Điều 46 CISG

15


tương đồng hay không. Nếu tương đồng thì bên mua không có quyền từ chối
lô hàng thứ 3 vì trước đó lô 1 và lô 2 đã được người mua chấp nhận.
Qua phân tích thì thực tế điều 73 CISG cơ bản lặp lại nội dung các điều 49.1,
điều 64.135 về quyền tuyên bố hủy hợp đồng khi có vi phạm cơ bản theo điều 25 CISG;
Điều 73 quy định riêng đối với việc tuyên bố hủy hợp đồng theo từng đợt vi phạm cơ
bản hợp đồng. Mục đích của điều 73 CISG là mong muốn các bên xem xét từng phần
của hợp đồng, các bên có thể bổ sung, sửa chữa từng phần nếu có vi phạm xảy ra đối

với hàng hóa nhằm tránh sự thiệt hại to lớn hơn khi xem xét trong toàn bộ hợp đồng.
Do đó khi tham gia ký kết hợp đồng thương mại quốc tế, các bên cần thỏa thuận
rõ về nội dung Hợp đồng có giao hàng từng phần hay không, thế nào là vi phạm cơ bản
trong hợp đồng, việc vi phạm từng lô hàng theo từng phần giao hàng có dẫn đến vi
phạm cơ bản của hợp đồng hay không… Để tránh xảy ra trường hợp khi một bên tuyên
bố hủy toàn bộ hợp đồng khi bên kia chỉ vi phạm một đợt hàng.
Ví dụ về một vụ án36: (Viết lại cho gọn)
Tranh chấp giữa Bên mua là các công ty của Achentina, Bên bán là một công ty của
Nga. Bên mua kiện bên bán đã vi phạm cơ bản hợp đồng vì đã không giao hàng như
cam kết. Bên bán, ngược lại, cho rằng chính bên mua đã vi phạm cơ bản hợp đồng vì
đã chậm thanh toán.

35

Article 49
(1) The buyer may declare the contract avoided:
(a) if the failure by the seller to perform any of his obligations under the contract or this Convention amounts to a
fundamental breach of contract; or
(b) in case of non-delivery, if the seller does not deliver the goods within the additional period of time fixed by
the buyer in accordance with paragraph (1) of article 47 or declares that he will not deliver within the period so
fixed.
Article 64
(1) The seller may declare the contract avoided:
(a) if the failure by the buyer to perform any of his obligations under the contract or this Convention amounts to a
fundamental breach of contract; or
(b) if the buyer does not, within the additional period of time fixed by the seller in accordance with paragraph (1)
of article 63, perform his obligation to pay the price or take delivery of the goods, or if he declares that he will
not do so within the period so fixed.
36
/>

16


Tranh chấp được xét xử tại Hội đồng trọng tài Zurich, phán quyết tuyên ngày
31/05/1996. CISG được áp dụng để giải quyết tranh chấp do Nga và Achentina đều là
các quốc gia thành viên của CISG.
Diễn biến tranh chấp:
Từ năm 1991, bên bán Nga (một tổ chức của Chính phủ) ký kết một số hợp đồng bán
nhôm cho một số người mua có trụ sở kinh doanh ở Achentina (sau đây gọi là Bên
mua). Việc giao hàng được tiến hành đúng thời hạn cho tới khi công ty người bán
chuyển quyền sở hữu cho một công ty tư nhân của Nga. Công ty này ngay lập tức
tuyên bố sẽ không tiếp tục thực hiện việc giao hàng.
Trong quá trình trao đổi thư từ giữa hai bên sau đó, Bên mua lưu ý rằng, họ sẽ phải
chịu những thiệt hại nặng nề nếu như hàng hoá không được giao đúng hạn. Bên bán
đưa ra hoá đơn theo đó ghi rõ số tiền cụ thể đòi bên mua phải thanh toán theo nhiều
chuyến hàng trước đó.
Bên bán cho rằng, việc Bên mua trì hoãn thanh toán tiền hàng những lô hàng trước dẫn
tới vi phạm cơ bản nghĩa vụ của Bên mua theo hợp đồng, do vậy, Bên bán có quyền từ
chối thực hiện hợp đồng.
Bên mua đề nghị đàm phán để giải quyết tranh chấp nhưng Bên bán từ chối. Bên mua
đã kiện Bên bán ra trọng tài đòi bồi thường các khoản thiệt hại phát sinh do bên bán
không giao hàng.
Phân tích và quyết định của trọng tài:
Về việc người bán vi phạm nghĩa vụ giao hàng: Trọng tài phán xét rằng, việc người
bán ngừng giao hàng dẫn tới vi phạm nghĩa vụ của người bán theo điều 30 CISG. Hơn
nữa, người bán lại tuyên bố rõ là từ chối thực hiện nghĩa vụ giao hàng, điều này khiến
cho vi phạm của người bán cấu thành vi phạm cơ bản theo điều 25 CISG và vì vậy, bên
mua được quyền tuyên bố huỷ hợp đồng mà không cần phải gia hạn cho người bán
(theo điều 49.1.a CISG).


17


Việc người mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán: Để xem xét liệu vi phạm của Bên
mua về nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng giao hàng từng phần có phải là vi phạm cơ
bản hay không, trọng tài đã trích dẫn điều 73.2 CISG. Trọng tài lập luận rằng, không
có chứng cứ chỉ ra việc Bên mua không thể hay không có thiện chí thực hiện nghĩa vụ
thanh toán của mình, vì trên thực tế, Bên mua vẫn có khả năng thanh toán và vẫn muốn
đàm phán với Bên bán về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng. Hơn nữa, Bên bán đã
không gia hạn thêm cho việc thanh toán và vì thế không thể đòi hủy hợp đồng theo
điều 64.1.b CISG. Trọng tài chỉ thêm rằng, việc Bên bán từ chối đàm phán với Bên
mua đi ngược lại với nguyên tắc thiện chí.
Với những lập luận nói trên, trọng tài ra phán quyết người mua được đòi bồi
thường những thiệt hại cho những tổn thất thực tế của họ (bao gồm chi phí lưu kho và
chi phí tài chính phát sinh do việc ngừng giao hàng), theo điều 74 CISG.
Bài học kinh nghiệm:
- Thứ nhất, nếu không vì lý do bất khả kháng, người bán không nên tự động
tuyên bố việc ngừng thực hiện hợp đồng, nếu không, vi phạm của người bán sẽ bị coi
là vi phạm cơ bản và người bán sẽ phải bồi thường những thiệt hại đối với người mua
do việc vi phạm hợp đồng của người bán gây ra.
- Thứ hai, người bán muốn quy kết người mua vi phạm cơ bản hợp đồng thì phải
có những căn cứ xác đáng và bằng chứng chứng minh. Trong trường hợp người mua
chậm thanh toán, đây không được coi là vi phạm cơ bản, người bán không có quyền
ngay lập tức hủy hợp đồng. Người bán phải gia hạn cho người mua một thời hạn hợp lý
để người mua thực hiện nghĩa vụ. Nếu hết thời hạn này mà người mua vẫn không thanh
toán thì người bán có quyền hủy hợp đồng và đòi các thiệt hại phát sinh (theo điều 64
CISG).
- Thứ ba, người bán không nên từ chối việc đàm phán với người mua để giải
quyết các tranh chấp. Điều này thể hiện sự không thiện chí, thiếu hợp tác của người
bán và mâu thuẫn với nguyên tắc thiện chí và trung thực trong thương mại quốc tế.

Đây sẽ là điểm bất lợi cho người bán trong quá trình khiếu nại, kiện tụng.
18


III. MIỄN TRÁCH NHIỆM
III.1 Sự kiện bất khả kháng
Sự kiện bất khả kháng có nguồn gốc từ Luật La Mã, dưới tên “vis major” 37 (sức
mạnh của thiên nhiên ngoài sự kiểm soát của con người) để chỉ đến những sự kiện
không thể lường trước và không thể kháng cự và những sự kiện này sẽ làm bên có
nghĩa vụ được miễn trách nhiệm khi không thực hiện nghĩa vụ. Điều khoản sự kiện bất
khả kháng (force majeure) xuất hiện lần đầu trong hệ thống dân luật qua điều 1148, Bộ
Luật dân sự Pháp1883 38. Là một sự kiện hay sự tác động xảy ra không thể dự đoán
trước, cũng như không thể tránh khỏi hay kiểm soát được. Sự kiện bất khả kháng có
thể là những hiện tượng do thiên nhiên gây ra như: lũ lụt, bão, sóng thần…., hay cũng
có thể là hiện tượng xã hội (do hành vi của con người) như bạo loạn, đình công và
chiến tranh…39.
Bất khả kháng là một điều khoản phổ biến trong các hợp đồng, được các bên sử
dụng để miễn trách nhiệm của một hay các bên khi các tình huống bất thường ngoài
tầm kiểm soát của các bên, dẫn đến không thể thực hiện hoặc không thể thực hiện
đúng, đầy đủ nghĩa vụ. Tuy nhiên, quy định về bất khả kháng không nhằm mục tiêu để
các bên né tránh trách nhiệm đã giao kết, vì vậy việc xác định một sự kiện có phải là
bất khả kháng để được miễn trách sẽ phải xem xét rất nhiều vấn đề, cũng như nếu đã là
một sự kiện bất khả kháng thì việc bên không thực hiện nghĩa vụ được miễn trách phải
đáp ứng các yêu cầu khác.

37

Marel Katsivela, 2007, Contract: Force Majeure Concept or Force Majeure Clauses, Uniform Law Review, Vol
12, Issue 1, pp. 101 -119
38

Điều 1148, Bộ luật Dân sự Pháp 1883
“Người có nghĩa vụ sẽ không phải bồi thường thiệt hại nếu việc không chuyển giao vật hoặc không thực hiện
công việc mà mình phải làm hoặc thực hiện công việc mà mình không được làm, là do sự kiện bất khả kháng
hoặc do sự kiện ngẫu nhiên và không lường trước được.”
39

Black's Law Dictionary – “force majeure: [Law French "a superior force"] (1883) An event or effect that can
be neither anticipated or controlled. The term includes both acts of nature (e.g., floods and hurricanes) and acts of
people (e.g., riots, strikes, and wars).”

19


III.2 Các điều kiện được miễn trách theo CISG
Theo quy định tại Điều 79.1 CISG 40 để một bên sẽ miễn trừ trách nhiệm, giải
phóng bên vi phạm hợp đồng khỏi nghĩa vụ hợp đồng do sự vi phạm cần phải có các
điều kiện sau:
1. Bên vi phạm phải chứng minh được có tồn tại trở ngại: Phải phát sinh sự kiện
gây cản trở cho việc thực hiện nghĩa vụ theo Hợp đồng đã thỏa thuận như đã
được dự kiến trong điều kiện thông thường.
2. Nằm ngoài sự kiểm soát: Trở ngại này phải phát sinh từ phía bên ngoài và bên
không thực hiện nghĩa vụ không thể giải quyết, tác động, thay đổi, kiểm soát
được trở ngại. Nếu như trở ngại xuất phát từ nội bộ từ bên vi phạm sẽ không
được miễn trừ.
3. Bên còn lại không thể dự đoán lúc ký kết hợp đồng; hoặc không thể tránh được

hoặc khắc phục được hậu quả của nó. Khi có sự kiện bất khả kháng việc chứng minh
trở ngại đó là không lường trước được sẽ là một vấn đề khó khăn cho các bên, cho dù
đó là hiện tượng thiên nhiên. Cũng như không có cách hợp lý dự kiến sẽ có thể tránh
được hoặc hậu quả hay khắc phục trở ngại.

Từ các điều kiện để được xem là bên vi phạm có sự kiện bất khả kháng thì người
viết nhận thấy điều kiện tiên quyết trong việc miễn trách là mối quan hệ nhân quả giữa
không thực hiện nghĩa vụ với trở ngại từ các sự kiện bất khả kháng.
4. Nghĩa vụ thông báo: Bên không thực hiện nghĩa vụ phải thông báo trở ngại do
sự kiện bất khả kháng trong một thời hạn hợp lý và bằng cách nào đó người có
nghĩa vụ phải cho người có quyền biết hay đáng lẽ được biết, nếu không cho dù
việc không thực hiện nghĩa vụ đủ cơ sở để được xem là không thực hiện nghĩa
vụ là do sự kiện bất khả kháng thì bên không thực hiện nghĩa vụ phải chịu trách
nhiệm về những thiệt hại.41
40

79. (1) A party is not liable for a failure to perform any of its obligations if he proves that the failure was due
to an impediment beyond his control and that he could not reasonably be expected to have taken the impediment
into account at the time of the conclusion of the contract or to have avoided or overcome it or its
consequences
41

Điều 79.4 The party who fails to perform must give notice to the other party of the impediment and its effect
on his ability to perform. If the notice is not received by the other party within a reasonable time after the party
who fails to perform knew or ought to have known of the impediment, he is liable for damages resulting

20


Như vậy để được miễn trách nhiệm do việc không thực hiện, hoặc không thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ thì cần phải thỏa 4 điều kiện theo điều 79.1 và 79.4 như đã phân
tích.
5. Trường hợp một bên không thực hiện nghĩa vụ do Người thứ 3 gặp bất khả
kháng.
Theo CISG quy định Bên không thực hiện nghĩa vụ và bên thứ 3 của hợp đồng

phải đáp ứng các điều kiện sau:42
+ Bên thứ 3: Độc lập về kinh tế, chức năng, cơ cấu tổ chức, thuộc phạm vi kiểm
soát và trách nhiệm của một bên trong HĐ (như nhà thầu phụ, công ty vận
chuyển..). Đồng thời bên có quyền cũng đã chấp nhận hoặc đã biết đối với việc
thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ của bên thứ 3.
+ Nhà cung cấp hay nhân viên là những đối tượng độc lập hay các cá nhân độc
lập nhưng đây không được xem là bên thứ 3.
Điều 79.2 Làm tăng trách nhiệm của người có nghĩa vụ đối với bên thứ 3:
Bên có nghĩa vụ chỉ được miễn trách nếu thỏa Điều 79.1 nghĩa là bên thứ 3 và
bên có nghĩa vụ phải thỏa mãn các điều kiện miễn trách. Ngoài ra bên thứ 3
cũng sẽ được miễn trách nếu áp dụng các quy định của khoản này đối với họ.43
6. Thời hạn được miễn trách khi thỏa mãn các điều kiện khác chỉ có hiệu lực trong
thời ký tồn tại trở ngại44.
7. CISG qui định nếu bên không thực hiện nghĩa vụ đã được miễn trách thì bên
còn lại vẫn thực hiện được các quyền khác của mình ngoài việc quyền yêu cầu
đòi bồi thường thiệt hại45, ví dụ như: được yêu cầu đòi tiền lãi phát sinh. Các
quyền còn lại bao gồm quyền để giảm giá (Điều 50), quyền bắt buộc thực hiện
(các Điều 46 và 62), quyền hủy hợp đồng (Điều 49 và 64) và quyền thu lãi tách
biệt với thiệt hại (Điều 78 ).

from such non-receipt
42
UNCITRAL Digest of Case Law on the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of
Goods, page 392
43

44

Điều 79.3 CISG “The exemption provided by this article has effect for the period during which the
impediment exists”;.

45

Điều 79.5 CISG”Nothing in this article prevents either party from exercising any right other then to claim
damages under this Convention”

21


Điều 80 CISG qui định bên còn bị vi phạm không thể yêu cầu bên vi phạm bồi
thường thiệt hại do hành động thiếu sót của bên bị phạm. Quy định này sẽ làm giảm
bớt một phần thiệt hại do việc không thực hiện nghĩa vụ, thể hiện quy tắc thiện chí.
III.3 So sánh các quy định miễn trách với Luật Việt Nam
Về định nghĩa Bất khả kháng giống nhau:
CISG được quy định tại điều 79.1 và BLDS 2005:161.1 hay BLDS 2015 là
156.1 cũng không thay đổi, sự kiện bất khả kháng là sự kiện :
(1) không thể thấy trước được,
(2) không thể khắc phục hậu quả ;
(3) vượt quá sự kiểm soát của một bên cho dù bên đó đã áp dụng những biện
pháp cần thiết.
Tuy nhiên định nghĩa trong CISG thì cụ thể hơn về tính ngăn cản, khắc phục
hậu quả và trở ngại không thể lường trước vào lúc ký kết hợp đồng
Về Thông báo
Khi có sự kiện bất khả kháng cà CISG và Luật Việt Nam đều có yêu cầu phải
thông báo trong thời gian hợp lý CISG: Điều 79.4, Luật thương mại 2005: Điều
295.246. Riêng về phần hình hình thức thông báo thì tại Điều 79.4 CISG không đề cập,
nhưng Luật Thương mại 2005 yêu cầu thông báo này phải bằng văn bản 47, tuy luật
thương mại quy định cụ thể về hình thức thông báo để đảm bảo cho việc chứng minh,
tuy nhiên đây cũng có thể là một trở ngại cho bên găp bất khả kháng đối với các hiện
tượng thiên nhiên, khi mà công cụ lao động không thể sử dụng để gửi một thông báo
hợp lý cho bên có quyền.

Về Bên thứ 3 gặp sự kiện bất khả kháng
CISG: bên vi phạm phải chứng minh bên thứ 3 được miễn trách theo cùng tiêu
chuẩn và điều kiện để được áp dụng điều khoản miễn trách.
Luật Việt Nam: chưa đề cập đến bên thứ 3
Bảo vệ bên bị vi phạm
46

Điều 295.2 Luật Thương mại 2005. Khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, bên vi phạm hợp đồng phải
thông báo ngay cho bên kia biết; nếu bên vi phạm không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì
phải bồi thường thiệt hại.
47
Điều 295.1 Luật Thương mại 2005. Bên vi phạm hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về
trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể xảy ra.

22


CISG: không bảo vệ bên vi phạm tránh khỏi việc hủy bỏ hoặc kết thúc hợp đồng
bởi bên bị vi phạm 79.5
Việt Nam: thừa nhận, cho phép thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng
trong thời hạn hợp lý theo Điều 296.1 Luật Thương mại 200548
Về phạm vi miễn trách và các chế tài cụ thể (Mục IV).
III.3 Bất khả kháng và điều khoản khó khăn (Hardship).
Bất khả kháng và các điều kiện áp dụng để được miễn trừ trong hầu hết các qui
định của pháp luật đều có nét tương đồng với CISG, ngay trong Bộ nguyên tắc
UNIDROIT về Hợp đồng thương mại quốc tế 2014 tại điều 7.1.7 cũng quy định các
điều kiện tương tự như CISG. Trong lĩnh vực hợp đồng, quan hệ hợp đồng không phải
là bất biến mà “ngày càng mang tính chất của một quá trình” và “hàm chứa nhiều loại
rủi ro”49. Vì vậy, còn một vấn đề hiện nay cũng được quan tâm đó là điều khoản khó
khăn (Hardship) được xem xét áp dụng mà CISG chưa có điều chỉnh cụ thể.

Điều 79 của CISG là khá chung chung trong việc xác định điều kiện được miễn
trách, các hợp đồng quốc tế hiện nay chi tiết hơn để rõ ràng được sự kiện bất khả kháng
và điều khoản khó khăn (hardship). Ngược lại CISG, các nguyên tắc UNIDROIT lại
dành một mục để quy định về điều khoản hardship.
Hardship – hiểu nôm na là điều khoản quy định cho phép một bên trong hợp
đồng có quyền xin điều chỉnh hợp đồng, khi có những thay đổi về hoàn cảnh và môi
trường kinh tế, tới mức gây ảnh hưởng đặc biệt xấu đến quyền lợi của một bên, làm
mất đi cân bằng kinh tế của hợp đồng, làm cho việc thực hiện hợp đồng trở nên cực kỳ
khó khăn và tốn kém.50.

48

Đ i ề u 2 9 6 . Kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng

1. Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu
các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính
thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu
quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây:
49

Phạm Duy Nghĩa, Điều chỉnh thông tin bất cân xứng và quản lý rủi ro trong pháp luật hợp đồng Việt Nam,
Nghiên cứu lập pháp, số 5 tháng 5/2003 (38-46), tr. 39.

23


×