Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

ĐÀO tạo NGHIỆP vụ sư PHẠM THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN tại TRƯỜNG đh THỦ đô hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (545.01 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

ĐÀO TẠO NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM THEO CHUẨN NGHỀ NGHIỆP
GIÁO VIÊNTẠI TRƯỜNG ĐH THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Th.S Lê Hồng Hạnh
Trường ĐH Thủ đô Hà Nội
Tóm tắt: Trên cơ sở lý luận về đào tạo nghiệp vụ sư phạm (NVSP) theo chuẩn
nghề nghiệp giáo viên, đào tạo NVSP tại Trường ĐH Thủ đô Hà Nội tập trung đến:
1)Mục tiêu đào tạo NVSP; 2)Nội dung đào tạo NVSP; 3) Cấu trúc các học phần NVSP
trong chương trình đào tạo giáo viên; 4) Chương trình chi tiết; 5)Thời lượng các học
phần NVSP; 6) Hình thức tổ chức và phương pháp đào tạo NVSP; 7) Đánh giá sinh
viên tốt nghiệp Trường ĐH Thủ đô Hà Nội theo chuẩn nghề nghiệp GV. Bài báo đưa
ra một số đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo NVSP tại Trường ĐH
Thủ đô Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Abstract: On the basis of the theories related to pedagogical training in
accordance with Professional Teaching Standards, pedagogical training at Hanoi
Metropolitan University (HNMU) is focused on the following things: (1) Pedagogical
training objectives; (2) Pedagogical training contents; (3) Structure of the pedagogical
traning modules in teacher training programs, (4) Syllabuses; (5) Amount of time
spared for each of the pedagogical training modules; (6) Pedagogical training
organization forms and methods; (7) Assessment criteria for graduates from Hanoi
Metropolitan in accordance with professional standards. In this article, some
recommenations on the improvement of pedagogical training at Hanoi Metropolitan
University are offered with a view to meeting the demands of the current educational
innovation.
Key word: pedagogic training, Professional Teaching Standards,
1. Đặt vấn đề
Bước vào thế kỷ XXI, bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn vừa


đặt ra những thách thức không nhỏ cho giáo dục Việt Nam. Trên nền tảng sáng tạo
khoa học và phát triển công nghệ mạnh mẽ như hiện nay, xu hướng chung của thế giới
là toàn cầu hóa và tiến tới nền kinh tế tri thức. Trong đó giáo dục đóng vai trò quan
trọng, sự đổi mới và phát triển giáo dục đang diễn ra ở các nước trên thế giới, tạo cơ
hội tốt để giáo dục nước ta nhanh chóng tiếp cận các xu thế mới, nhận thức mới,
những cơ sở lý luận, phương thức tổ chức dạy học, nội dung giảng dạy hiện đại và tiến

170


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

tới vận dụng kinh nghiệm quốc tế để đổi mới và phát triển. Trong quản lí giáo dục hiện
đại, chúng ta cần tiếp cận cách “quản lí theo Chuẩn”. Có thể sử dụng Chuẩn nghề
nghiệp GV để quản lí chất lượng đội ngũ GV là sự đổi mới trong tư duy quản lí giáo
dục, là yêu cầu khách quan trong xu thế phát triển.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đang hoàn thành chương trình đổi mới giáo dục phổ
thông, vì vậy nhiệm vụ của các trường đại học sẽ rất quan trọng trong việc đào tạo đội
ngũ giáo viên để thực hiện chương trình mới. Nghiệp vụ sư phạm là một trong những
nội dung cốt lõi của chương trình đào tạo giáo viên. Mục đích của nội dung này nhằm
hình thành nǎng lực nghề nghiệp cả về lý luận và thực hành[1;4]. Trong suốt quá trình
đào tạo, các nội dung nghiệp vụ sư phạm giúp sinh viên thích ứng dần với hoạt động
của người giáo viên tương lai, được sắp xếp theo một hệ thống lý thuyết và thực hành,
góp phần hình thành năng lực sư phạm nhằm hướng tới mục tiêu: đào tạo đội ngũ giáo
viên có chất lượng cao, đáp ứng thực tiễn giáo dục, phù hợp xu thế hội nhập và phát
triển hiện nay.
Trường đại học địa phương (ĐHĐP) của Việt Nam đào tạo nhân lực cho địa
phương, cho vùng miền để phục vụ cộng đồng, góp phần xây dựng xã hội học tập, xã
hội nghề nghiệp và phát huy sự đồng thuận của xã hội. Theo Vũ Ngọc Hải: trường
ĐHĐP ở Việt Nam có sứ mệnh đào tạo cung cấp nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội và

phát triển kinh tế- xã hội địa phương trên cơ sở tối ưu hóa điều kiện học tập cho sinh
viên và một bộ phận dân cư đa dạng ở địa phương, giúp họ trở thành những người lao
động có hiệu quả thích ứng được với những thách thức mới trong phát triển kinh tế- xã
hội địa phương.
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội - trường đại học đa ngành, là một trong những
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có chất lượng của thành phố Hà Nội; là cơ sở
nghiên cứu khoa học, ứng dụng, chuyển giao công nghệ, cung cấp nguồn nhân lực chủ
yếu cho sự nghiệp giáo dục và các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội của thành phố
Hà Nội.
2. Nội dung
2.1. Đào tạo nghiệp vụ sư phạm
Đào tạo sư phạm là dạy các kỹ năng thực hành, nghề dạy học hay kiến thức liên
quan đến dạy học và giáo dục, để người học lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kĩ
năng một cách có hệ thống để chuẩn bị cho họ thích nghi với cuộc sống và khả năng
đảm nhận được công việc Error! Reference source not found.. Nội dung đào tạo sư
phạm bao gồm lý luận chung về khoa học giáo dục, tâm lý học lứa tuổi, tâm lý học sư

171


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

phạm, giảng dạy và nghệ thuật sư phạm, lý luận giáo dục chuyên ngành và bộ môn,
nhân cách người giáo viên và những kỹ năng, kỹ xảo sư phạm. Kết quả của quá trình
đào tạo sư phạm sẽ thực sự có hiệu quả chỉ khi quá trình đào tạo sư phạm biến thành
quá trình tự đào tạo một cách tích cực, tự giác điều này đồng nghĩa với việc giáo sinh
sau này để trở thành nhà giáo giỏi cần phải chuyển từ tự ý thức thành hành động chủ
động tích cực tự giác trọng học tập và rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ của bản thân.

Nghiệp vụ sư phạm được hiểu là toàn bộ những kỹ năng nghề nghiệp thiết yếu
mà người giáo viên phải có để thực hiện quá trình dạy học, giáo dục học sinh. Một
cách cụ thể hơn nghiệp vụ sư phạm là đề cập đến các chuyên ngành tâm lý học, giáo
dục học và giáo dục học bộ môn, phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học và tương ứng là các phần thực hành, thực tế,
thực tập sư phạm, những lĩnh vực cơ bản đảm bảo cho người giáo viên có thể đảm
nhiệm chức năng dạy học và giáo dục hiệu quả.
2.2. Chuẩn nghề nghiệp của giáo viên
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên là mức độ và yêu cầu về phẩm chất và năng lực
sư phạm của người giáo viên đáp ứng với từng giai đoạn giáo dục. Năng lực giáo viên
được hình thành và phát triển trong suốt quá trình hành nghề theo chuẩn. Có thể nói
chuẩn nghề nghiệp đã bao hàm chuẩn đào tạo ban đầu, đồng thời bao hàm các mức độ,
yêu cầu ngày càng cao hơn để phát triển năng lực giáo viên ở những năm sau đó.
Chuyển từ xây dựng và quản lí giáo viên theo chuẩn trình độ đào tạo sang xây dựng và
quản lí giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp là cách nhìn mới trong quản lí giáo dục phù
hợp xu hướng quản lí của các nước đang phát triển và hiện đại.
Ở Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta trong những năm gần đây đã ban
hành các bộ Chuẩn nghề nghiệp (CNN) cho giáo viên (GV) tiểu học năm 2007 và
CNN cho GV trung học năm 2009. Nội dung của CNN thực chất là các yêu cầu về
năng lực thực hiện hoạt động nghề nghiệp trong các lĩnh vực cơ bản đối với GV phổ
thông ở một cấp học cụ thể (chưa tính đến quy định về trình độ đào tạo của GV). Mỗi
bộ CNN cho GV của một cấp học có những cấu trúc và cách diễn giải khác nhau
nhưng từng yêu cầu của CNN đều xác định những kiến thức và kỹ năng cần thiết bảo
đảm cho sự thành công của các hoạt động mà người GV phải thực hiện hàng ngày ở cơ
sở giáo dục (trường học, các trung tâm giáo dục). Theo thông tư số 30/2009/TTBGDĐT ban hành quy định CNN GV Trung học Cơ sở, Trung học Phổ thông thì
những năng lực NVSP trong cấu trúc năng lực nghề nghiệp của GV gồm 5 tiêu chuẩn:

172



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

(1) Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục: Có phương pháp thu
thập và xử lí thông tin thường xuyên: về nhu cầu và đặc điểm của học sinh, sử dụng
các thông tin thu được vào dạy học, giáo dục;về điều kiện giáo dục trong nhà trường
và tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của địa phương, sử dụng các thông tin
thu được vào dạy học, giáo dục.
(2) Năng lực xây dựng và thực hiện kế hoạch dạy học: bảo đảm kiến thức môn
học, chương trình môn học, vận dụng các phương pháp dạy họ, sử dụng các phương
tiện dạy học, xây dựng môi trường học tập, quản lí hồ sơ dạy học.
(3) Năng lực xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục: giáo dục qua môn học,
giáo dục qua công tác chủ nhiệm, hoạt động đoàn đội, qua các hoạt động cộng đồng,
vận dụng các nguyên tắc, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục, năng lực kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập và rèn luyện đạo đức HS.
(4) Năng lực hoạt động chính trị xã hội: Phối hợp với gia đình và cộng đồng
trong hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh và góp phần
huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường;Tham gia các hoạt
động chính trị, xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm phát triển nhà trường và cộng
đồng, xây dựng xã hội học tập
(5) Năng lực phát triển nghề nghiệp: Tự đánh giá, tự học và tự rèn luyện về
phẩm chất chính trị, đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu
quả dạy học và giáo dục; Phát hiện và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn
hoạt động nghề nghiệp nhằm đáp ứng những yêu cầu mới trong giáo dục.
Đây là những năng lực cốt lõi, cần thiết của người GV giúp họ thực hiện các
chức năng, vai trò, nhiệm vụ giáo dục, đáp ứng các yêu cầu của nhà trường phổ thông
hiện nay.
CNN là hệ thống các yêu cầu cơ bản về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
và các năng lực nghề nghiệp mà người GV phải đạt được để thực hiện tốt các nhiệm
vụ dạy học và giáo dục đáp ứng mục tiêu của giáo dục phổ thông. CNN GV được xây
dựng trên cơ sở mô hình năng lực của GV, trong đó đưa ra các tiêu chuẩn năng lực và

các tiêu chí đánh giá cho mỗi tiêu chuẩn đó. CNN GV là cơ sở định hướng cho việc
đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá và phát triển đội ngũ GV. Do đó, xây dựng mục tiêu,
chương trình đào tạo và bồi dưỡng GV, xây dựng các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá SV
tốt nghiệp phải hướng theo CNN GV.

173


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Căn cứ CNN GV, chương trình đào tạo GV nói chung và cụ thể là đào tạo NVSP
của các trường có đào tạo sư phạm phải được thiết kế một cách tổng thể các hoạt động
của quá trình đào tạo, trong đó mô tả mục tiêu, các khối kiến thức, năng lực, phẩm chất cụ
thể, các phương pháp, hình thức tổ chức, kế hoạch đào tạo, các tiêu chí để kiểm tra đánh
giá chất lượng đào tạo. Các thành phần đó chỉ ra những phẩm chất năng lực mà quá trình
đào tạo phải đạt được. Đó cũng chính là chuẩn đầu ra (chuẩn tốt nghiệp).
2.3. Đào tạo NVSP cho sinh viên trường Đại học Thủ Đô Hà Nội theo chuẩn
nghề nghiệp của giáo viên
1. Mục tiêu đào tạo NVSP
Mục tiêu đào tạo NVSP của trường Đại học Thủ đô Hà Nội- chuẩn đầu ra mà
nhà trường hướng đến đòi hỏi người giáo viên tương lai đạt được các tiêu chí về phẩm
chất nhân cách và các năng lực của CNN GV đã quy định. Bên cạnh các yêu cầu nắm
chắc kiến thức bộ môn, có kĩ năng, phương pháp dạy học, giáo dục, người GV tương
lai cần phải có kiến thức, kĩ năng và thái độ phù hợp về mặt giao tiếp, tổ chức, hợp tác
với đồng nghiệp, với học sinh, với môi trường, kĩ năng tự trau dồi về chuyên môn,
nghiệp vụ, vị trí việc làm và khả năng học tập nâng cao trình độ sau khi ra trường...gắn
với CNNGV. Nội dung các yêu cầu đối với sinh viên tốt nghiệp là cơ sở cho việc xây
dựng chương trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm trong chương trình đào tạo giáo viên,

kiểm tra, đánh giá sinh viên tốt nghiệp... Đặc biệt các yêu cầu liên quan đến phẩm chất
đạo đức, chính trị, lối sống được đặc biệt nhấn mạnh đối với giáo viên nói chung và
sinh viên tốt nghiệp nói riêng. Tuy nhiên khi đi sâu phân tích thì thấy cách viết về cơ
bản vẫn theo cách tiếp cận nội dung và chưa phản ánh được đầy đủ những yêu cầu của
CNN GV, cũng như những yêu cầu mới của giáo dục phổ thông.
2. Nội dung đào tạo NVSP
Theo chương trình khung đào tạo hiện nay của trường Đại học Thủ Đô Hà Nội
thì nội dung đào tạo NVSP bao gồm các học phần: tâm lý học, giáo dục học và giáo
dục học bộ môn, phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, ứng dụng công nghệ
thông tin trong dạy học, rèn luyện nghiệp vụ thường xuyên, rèn luyện phẩm chất người
giáo viên, rèn luyện năng lực dạy học, rèn luyện năng lực giáo dục của người giáo
viên, và tương ứng là các phần thực hành, thực tế, thực tập sư phạm. Bên cạnh đó còn
có các học phần tự chọn như: Giao tiếp sư phạm, Phương pháp và kĩ thuật dạy học tích
cực, ....... giúp sinh viên có kiến thức và kĩ năng tìm hiểu người học và môi trường
giáo dục, lập kế hoạch giáo dục, dạy học, công tác chủ nhiệm lớp, quản lí tổ chức lớp

174


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

học. Tuy nhiên nội dung NVSP vẫn chưa thể hiện được sự gắn kết chặt chẽ với thực
tiễn giáo dục phổ thông.
Các nội dung nghiệp vụ sư phạm nhằm mục đích giúp sinh viên thích ứng dần
với hoạt động của người giáo viên tương lai, được sắp xếp theo một hệ thống lý thuyết
và thực hành . Một trong những nội dung cơ bản để nhằm phát triển nghiệp vụ nói
riêng và nhân cách người giáo viên nói chung chính là thực tập sư phạm.
Nội dung thực tập sư phạm của trường yêu cầu khi sinh viên đi TTSP bao gồm:
(i)Tìm hiểu về thực tế nhà trường, địa phương, học sinh, giáo viên và các hoạt động
trong nhà trường và làm những bài tập nghiên cứu khoa học về tâm lí- giáo dục, thực

tập làm công tác chủ nhiệm lớp và tìm hiểu công tác giảng dạy, dự giờ mẫu, nghiên
cứu chương trình, tài liệu sách giáo khoa... (ii)Thực tập giảng dạy dưới sự giúp đỡ của
GV hướng dẫn
(iii)Thực tập giáo dục hay thực tập công tác chủ nhiệm với sự hướng dẫn của
GV hướng dẫn (lập kế hoạch chủ nhiệm, thực hiện hoạt động giáo dục, tổ chức hoạt
động giáo dục ngoài giờ lên lớp.)
Nội dung TTSP của trường được chia thành 02 nội dung khá rõ ràng với những
tiêu chí đánh giá rất cụ thể trong thực tập giáo dục và thực tập giảng dạy. Tuy nhiên,
một số khoa vẫn chưa xác định rõ nội dung TTSP cho từng đợt. Chẳng hạn có khoa
vẫn nhầm lẫn cho rằng đượt TTSP lần 1 dành cho năm thứ hai sinh viên cần thực hiện
giảng dạy tốt các môn dạy khi xuống phổ thông.
3. Cấu trúc các học phần NVSP trong chương trình đào tạo giáo viên
Dựa vào quy định khung chương trình đào tạo giáo viên của Bộ giáo dục và đào
tạo, mỗi cơ sở đào tạo giáo viên đều xây dựng các chương trình đào tạo chi tiết cho các
ngành đào tạo của trường mình dựa trên chương trình đào tạo khung của Bộ Giáo dục
và đào tạo. Trong chương trình đào tạo giáo viên theo học chế tín chỉ của trường Đại
học Thủ Đô Hà Nội với tổng số từ 130 - 140 tín chỉ. Trong cấu trúc chương trình học
phần liên quan đến nghiệp vụ sư phạm được chia làm 2 phần: Phần chung đào tạo cho
toàn bộ sinh viên của các ngành học sư phạm trong toàn trường và phần riêng đặc thù
cho từng chuyên ngành. Cấu trúc các học phần chung và chuyên ngành được sắp xếp
khá hợp lý không có sự trùng lặp chẳng hạn đối với chuyên ngành sư phạm tin thì
không có học phần tin học 2 tín chỉ môn chung.
Các học phần: tâm lý học, giáo dục học, và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường
xuyên được sắp xếp vào năm thứ nhất và đầu năm thứ hai giúp cho sinh viên khi đi thực

175


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

tập sư phạm (TTSP) có sự vận dụng kiến thức vào thực tiễn khá phù hợp và thuận lợi.
Thực tập sư phạm là phần thực hành cho nội dung đào tạo giáo viên của các trường sư
phạm, Thực tập sư phạm được xem là có ý nghĩa đặc biệt nhất trong đào tạo kĩ năng
nghề nghiệp, thời lượng TTSP của trường đại học Thủ đô Hà Nội là 9 tín chỉ được trải
đều trong các năm đào tạo: 02 tuần cho năm thứ hai, 04 tuần cho năm thứ ba và 08 tuần
cho năm thứ tư. Có thể thấy rằng thực tập sư phạm đã thể hiện sự liên hệ giữa lý luận và
thực hành hướng đến sự gắn kết với thực tiễn trong đào tạo nghề.
Phần chung của đào tạo NVSP dành cho toàn bộ sinh viên các ngành học sư
phạm của trường, nội dung bao gồm các học phần giúp sinh viên có các kiến thức cơ
sở để hình thành và phát triển các năng lực cơ bản của giáo viên: Năng lực hiểu đối
tượng giáo dục và môi trường giáo dục; Năng lực giải quyết các tình huống sư phạm,
Năng lực lập kế hoạch và tổ chức thực hiện các hoạt động dạy học và giáo dục, năng
lực tự học nghiên cứu, năng lực kiểm tra đánh giá và rèn luyện phẩm chất người giáo
viên, năng lực phát triển cộng đồng và phần riêng đặc trưng dành cho từng chuyên
ngành. Đây là sự thay đổi phù hợp, khoa học tạo được sự thống nhất, logic khá tốt
trong toàn trường trong đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên và hướng đến hình
thành phát triển năng lực đáp ứng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mà Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành.
4. Chương trình chi tiết
Chương trình đào tạo GV cụ thể đào tạo nghiệp vụ sư phạm trong trường Đại
học Thủ đô Hà nội có những ưu điểm như: “i) được xây dựng theo hướng tiếp cận
mục tiêu phát triển năng lực; ii) có các học phần lựa chọn, học phần tích hợp, đáp ứng
yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, thái độ, năng lực cần đạt theo mục tiêu và chuẩn đầu ra
của chương trình; iii) chặt chẽ, có tính liên kết và cấu trúc hợp lý nhằm trang bị năng
lực cần có của người GV; iv) Đảm bảo tính hệ thống v) Đảm bảo tính cân đối, có tỷ
lệ hợp lý giữa đại cương và chuyên nghiệp; vi) đảm bảo tính cân đối có tỷ lệ hợp lý
giữa chuyên môn và NVSP; vii) có tỷ lệ hợp lý giữa cơ sở ngành và chuyên ngành;
viii) có tỷ lệ hợp lý giữa lý thuyết, thực hành và tự học, tự nghiên cứu; ix) nội

dung trong chương trình đào tạo được lựa chọn thực sự là cốt lõi và cần thiết cho
người GV tương lai; x) nội dung chương trình đào tạo gắn với nội dung giáo dục phổ
thông, gắn kết kiến thức chuyên ngành với nội dung dạy học ở phổ thông; xi) Nội
dung chương trình đào tạo có tham khảo các chương trình đào tạo cùng lĩnh vực ở
trong nước và quốc tế; xii) nội dung chương trình đào tạo của khoa được rà soát định

176


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

kì để bổ sung và điều chỉnh cho cập nhật và phù hợp với yêu cầu thực tiễn theo hướng
tăng cường các kĩ năng” .
Tuy nhiên, chương chình chi tiết các học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm vẫn
chưa làm rõ được mối quan hệ giữa chương trình đại học với kiến thức, năng lực cần
đáp ứng yêu cầu giáo dục phổ thông cụ thể các môn học chỉ có sự phân chia lý thuyết,
thảo luận, hoặc thực hành, bài tập chưa thấy có sự thực hành tại trường phổ thông.
Thêm nữa, chương trình đào tạo chưa chú trọng đến sự phát triển năng lực cơ
bản của SV với tư cách là người học tập và sau nữa là đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp
trong tương lai cụ thể: năng lực tự học, tự nghiên cứu; sự hình thành khả năng xây
dựng, phát triển chương trình đối với SV; năng lực dạy học tích hợp và phân hóa
trong giảng dạy.
Một điều dễ nhận thấy trong chương trình đào tạo đó là: Sinh viên chưa được
trang bị một cách hợp lí các kỹ năng về giáo dục toàn diện, nhất là về kỹ năng nghề
nghiệp, về tham vấn học đường, về các tổ chức hoạt động trải nghiệm….
Các học phần về phương pháp dạy học bộ môn tuy đã cố gắng trang bị cho
SV nắm vững hệ thống các phương pháp dạy học và cập nhật những vấn đề đổi mới về
phương pháp giảng dạy ở phổ thông, song vẫn còn khoảng cách giữa lí thuyết và thực
tiễn, giữa đào tạo ở trường sư phạm với thực tế giảng dạy ở nhà trường. Nhiều SV khi
thực tập sư phạm rất ngỡ ngàng, lúng túng trước những yêu cầu của GV hướng dẫn

dưới phổ thông (như cách lập kế hoạch dạy học, thiết kế giáo án; trình bày bài giảng,
sử dụng các phương tiện, đồ dùng trực quan, tổ chức các hoạt động DH-GD ngoài giờ
lên lớp…).
5. Thời lượng các học phần NVSP
Khối kiến thức về NVSP của trường Đại học Thủ Đô Hà Nội trong cấu trúc
chương trình có tỷ lệ thời lượng phân bổ chiếm khoảng 24,6% tổng quỹ thời gian học
tập của khóa học trong đó thực tập sư phạm chiếm khoảng 6,9% còn lại là các học
phần liên quan đến chuyên môn sư phạm. Với tỷ lệ thời lượng phân bổ khối kiến thức
về NVSP trong toàn bộ chương trình đào tạo của trường Đại học Thủ Đô Hà Nội
chiếm tỷ lệ khá cao so với các trường đào tạo sư phạm trong cả nước, chẳng hạn, Đại
học Sư phạm Hà Nội chiếm khoảng 19,6% trong toàn bộ chương trình đào tạo; Đại
học Cần Thơ chiếm khoảng 14-17%, tỷ lệ này gần bằng tỷ lệ trung bình về thời lượng
phân bổ khối kiến thức về NVSP trong toàn bộ chương trình đào tạo các nước trên thế
giới (khoảng 30%.) [1]

177


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

Có thể thấy rõ rằng mối quan hệ và tỷ lệ hợp lý giữa khoa học chuyên ngành,
khoa học giáo dục và thực tiễn phổ thông trong nội dung đào tạo của trường đại học
Thủ Đô Hà Nội đã thể hiện theo định hướng năng lực của nghề dạy học.
6. Hình thức tổ chức và phương pháp đào tạo NVSP
Phương pháp rèn luyện NVSP cho sinh viên trường Đại học Thủ Đô Hà Nội
theo hướng lấy việc tự học, tự rèn luyện làm cơ sở, dưới sự hướng dẫn của giáo viên
để định hướng nội dung rèn luyện, cách thức rèn luyện, cách kiểm tra đánh giá và tự
kiểm tra đánh giá có hiệu quả.

Hình thức đào tạo chủ yếu học tập, rèn luyện ở trên lớp, một số khoa chú trọng
đến sự liên hệ với phổ thông trong việc đưa sinh viên xuống trường thực hành từ năm
thứ nhất tuy nhiên chưa thực sự có sự quản lý và thống nhất trong toàn trường và
xuống phổ thông không được thuận lợi do không phải trường phổ thông nào cũng dễ
dàng tiếp nhận sinh viên xuống thực hành liên tục. Hàng năm nhà trường thường yêu
cầu các khoa tổ chức hội thi NVSP để trao đổi và khuyến khích rèn luyện NVSP ; 02
năm một lần nhà trường tổ chức hội thi nghiệp vụ giỏi trong toàn trường để trao đổi
học hỏi lẫn nhau. Mặc dù vậy, để liên hệ chặt chẽ với phổ thông như thường xuyên
mời giáo viên phổ thông về báo cáo hoặc tham gia nhận xét đánh giá các tiết dạy hoặc
tổ chức HĐ GD của SV còn chưa được thực hiện ở các khoa sư phạm trong toàn
trường. Cộng thêm, công tác hướng dẫn TTSP của GV phổ thông cho sinh viên chủ
yếu mới được thưc hiện theo kinh nghiệm của từng cá nhân, hầu như chưa có chương
trình bồi dưỡng cho GV hướng dẫn về nội dung, phương pháp hướng dẫn sinh viên
trong thực tiễn . Đội ngũ GV phổ thông tham gia TTSP chưa được quản lý, tập huấn
và đánh giá để đảm bảo cho việc hướng dẫn TTSP có tính chuyên nghiệp.
Đội ngũ giảng viên dạy NVSP là yếu tố rất quan trọng quyết định cơ bản đến
chất lượng đào tạo giáo viên nói chung và đào tạo nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên
sau này trở thành giáo viên tuy nhiên một số giảng viên trẻ dạy NVSP lại thiếu kinh
nghiệm và hiểu biết thực tiễn giáo dục phổ thông nên sẽ dễ dẫn đến việc giảng dạy lý
thuyết suông , xa rời thực tế. Thêm nữa, sự gắn kết giữa những môn chung làm cơ sở
đào tạo nghiệp vụ sư phạm và môn phương pháp giảng dạy các khoa chưa chặt chẽ:
chưa có những hội thảo hoặc trao đổi thảo luận để thống nhất trong tiến trình rèn
luyện NVSP cho sinh viên.
7. Đánh giá sinh viên tốt nghiệp
Tiêu chí xét điều kiện dự thi tốt nghiệp, xét công nhận tốt nghiệp và đánh giá
loại tốt nghiệp cho sinh viên chủ yếu dựa trên kết quả học tập văn hóa chung được tích

178



HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

lũy qua các học phần . Kết quả thực hành, thực tập sư phạm, khóa luận tốt nghiệp hay
điểm học phần các môn học thay thế khóa luận đều được tính là điểm thành phần của
tổng kết quả chung như các học phần thuộc khối kiến thức giáo dục đại cương và kiến
thức giáo dục chuyên nghiệp. Điểm khác biệt giữa SV sư phạm và SV các ngành khác
trong đánh giá tốt nghiệp là hoàn thành các học phần về NVSP: Tâm lý học, Giáo dục
học, phương pháp dạy học, rèn luyện NVSPthường xuyên, thực hành, thực tập sư
phạm. Như vậy, nếu chương trình đào tạo GV nói chung và cụ thể là đào tạo NVSP của
các trường được thiết kế trong đó mô tả mục tiêu, các khối kiến thức, năng lực, phẩm chất
cụ thể, các phương pháp, hình thức tổ chức, kế hoạch đào tạo, các tiêu chí để kiểm tra
đánh giá những phẩm chất năng lực người giáo viên mà quá trình đào tạo phải đạt được
theo CNN GV thì việc đánh giá sinh viên sư phạm tốt nghiệp sẽ có chất lượng cao và
phù hợp thực tiễn.
3. Đề xuất, kiến nghị
3.1. Xây dựng chương trình đào tạo nghiệp vụ sư phạm
- Chương trình nghiệp vụ sư phạm phải luôn cập nhật những vấn đề mới của
chương trình, sách giáo khoa, những phương pháp dạy học hiện đại đang áp dụng và
sẽ áp dụng ở trường phổ thông trong một thời gian gần, những chủ trương mới trong
giáo dục và đào tạo điều này sẽ giúp trường sư phạm đào tạo giáo viên sẽ đào tạo
những sinh viên mới tốt nghiệp sẽ có những phương pháp mới hiện đại hoặc ít nhất bắt
kịp những đổi mới ở phổ thông.
- Chương trình chi tiết nên thể hiện những năng lực cần thiết mà sinh viên cần
để giúp họ tích lũy đáp ứng chuẩn nghề nghiệp trong tương lai, do vậy chương trình
tiết phải làm sao gắn kết chặt chẽ được với phổ thông, cụ thể, trong học phần liên quan
đến NVSP nên có thời gian thực hành tại trường phổ thông. Ví dụ: 60% lý thuyết môn
học tại trường, 25% thảo luận nhóm, 15% thực hành tại trường phổ thông.
3.2. Phương pháp hình thức đào tạo nghiệp vụ sư phạm
- Thường xuyên tổ chức mời giáo viên giỏi phổ thông trình bày báo cáo về kinh
nghiệm làm công tác chủ nhiệm, giáo dục học sinh cá biệt, kinh nghiệm giảng dạy,

kinh nghiệm làm đồ dùng dạy học, kinh nghiệm phấn đấu trở thành giáo viên giỏi.
Hình thức này đã được nhiều trường sư phạm thực hiện. Nhưng tạo dựng một đội ngũ
có tổ chức, có sinh hoạt, có sự bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ và có định mức
kinh phí bồi dưỡng lao động phù hợp.

179


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

- Xây dựng phòng thực hành NVSP chuyên ngành: Trong quá trình học tại
trường sư phạm, không phải lúc nào sinh viên cũng có điều kiện tiếp xúc với trường
thực hành hay các trường phổ thông để rèn luyện tay nghề. Phòng thực hành nghiệp vụ
sư phạm chuyên ngành là nơi sinh viên có thể đến để tự rèn luyện hay giúp nhau rèn
luyện nghiệp vụ sư phạm theo hình thức nhóm. Trong phòng NVSP, ngoài những điều
kiện tối thiểu bảng, bút hoặc phấn, hoặc máy chiếu, màn hình phải cần máy móc
(máy tính, máy chiếu, trang thiết bị nghe nhìn,…); Đồ dùng thí nghiệm, đồ dùng rèn
luyện kỹ năng (đàn, đồ dùng vẽ, thiết bị thí nghiệm,…); máy ảnh ,máy quay ghi băng
hình camera, … hồ sơ, sổ sách, tư liệu, tài liệu tham khảo,bản đồ, sách giáo khoa, sách
giáo viên.
3.3. Xây dựng trường thực hành sư phạm
Trường thực hành trực thuộc trường sư phạm là không gian thực hành gần gũi,
là nơi sinh viên và giảng viên tiếp cận thực tiễn phổ thông, giúp sinh viên định hướng
rõ ràng thực tế những năng lực phẩm chất cần rèn luyện trong quá trình được đào tạo.
Trường thực hành được đầu tư tốt về mọi mặt từ đội ngũ giáo viên đến điều kiện cơ sở
vật chất trang thiết bị, phương tiện kĩ thuật cần thiết để phục vụ dạy- học sẽ đáp ứng
đầy đủ mọi yêu cầu đào tạo và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV. Cần xây dựng cơ
chế phối hợp đào tạo nghiệp vụ sư phạm giữa các khoa của trường sư phạm với trường

thực hành để cùng thực hiện. Hiện nay, hầu hết các trường sư phạm địa phương đều có
nhiều loại hình đào tạo giáo viên cho nhiều cấp học, nên cần phải đầu tư xây dựng các
trường thực hành để phục vụ cho nhiều loại hình đào tạo giáo viên cho các cấp học.
3.4. Xây dựng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo nghiệp vụ sư phạm
Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ đào tạo nghiệp vụ sư phạm là điều kiện cần
thiết để quá trình đào tạo NVSP có hiệu quả: Thiết bị dạy học chuyên ngành, thiết bị
công nghệ thông tin, giáo trình, tài liệu tham khảo về nghiệp vụ sư phạm. Việc xây
dựng các phòng thực hành nghiệp vụ sư phạm chuyên ngành của các khoa, trang thiết
bị phục vụ cho đào tạo NVSP cũng đang cần sự đầu tư không nhỏ về kinh phí. Trường
thực hành trực thuộc trường sư phạm và mạng lưới các trường thực hành nằm ngoài
trường sư phạm cũng cần có sự đầu tư kinh phí hợp lí. Không có cơ sở vật chất tốt
không thể có chất lượng nghiệp vụ sư phạm tương ứng.
3.5. Bồi dưỡng công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm
Giảng viên giảng dạy NVSP nên thường xuyên được tham gia các hội thảo
chuyên đề để trao đổi và bổ sung kinh nghiệm trong đào tạo, hơn nữa nên trực tiếp
tham gia với các hoạt động ở phổ thông chẳng hạn bồi dưỡng các chuyên đề về các

180


HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

khoa học cơ bản hoặc công tác chủ nhiệm, tư vấn trong các hội thi như: Giáo viên giỏi
giáo dục công dân, toán , lý.... và giáo viên chủ nhiệm giỏi.
Kinh phí chi bồi dưỡng cho lực lượng tham gia đào tạo về nghiệp vụ sư phạm
chi cho sinh viên, giảng viên trong rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên rất ít,
hầu như không có; chi cho thực tập sư phạm, thực hành sư phạm, rèn luyện nghiệp vụ
sư phạm thường xuyên cũng không nhiều. Công tác tổ chức những hội thi về nghiệp
vụ sư phạm cũng rất khó khăn về kinh phí. Để tạo động lực tích cực và có hiệu quả
trong hoạt đông NVSP cần thiết phải có sự điều chỉnh về kinh phí chi hoạt động

NVSP.
Quy định về chi tiêu cho rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của Bộ Giáo dục và Đào
tạo trong những văn bản hiện hành hiện nay vẫn còn những điều bất hợp lí, nhìn chung
rất thấp, cần điều chỉnh cho hợp lí hơn.
4. Kết luận
Trong quá trình đào tạo giáo viên, chúng ta phải tính đến vấn đề nghiệp vụ sư
phạm ngay từ đầu và phải được lồng ghép, tích hợp trong suốt quá trình đào tạo. Những
yêu cầu về chương trình, nội dung hình thức phương pháp đào tạo và đánh giá kết quả
sinh viên đào tạo tại các trường đại học đa ngành tại địa phương có đào tạo giáo viên
cần được tiến hành một cách đồng bộ để nâng cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ sư
phạm nói riêng và chất lượng đào tạo giáo viên nói chung trong các trường hiện nay.
Dạy học cần được xác định là một nghề định hướng thực hành và phải chuẩn bị
cho giáo viên tương lai những kiến thức chuyên ngành vững chắc, các năng lực NVSP.
Đào tạo NVSP phải dựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa trường đại học nơi đào tạo
giáo viên và trường phổ thông nhằm đào tạo hệ thống kỹ năng NVSP cho sinh viên sư
phạm, gắn chặt lý thuyết và thực hành trong giảng dạy, giúp cho họ khi ra trường thực
hiện tốt chức năng dạy học, giáo dục ở trường phổ thông, đáp ứng chuẩn nghề nghiệp
giáo viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đinh Quang Báo- “Giải pháp đổi mới chương trình đào tạo giáo viên trình độ
đại học theo học chế tín chỉ” Đề tài NCKH cấp Bộ, MS B2011 – 17 – CT03
(2014).
[2]. Ngọc Hà-Chương trình đại học cần bớt trừu tượng. Báo Tuổi trẻ
Online. 01/11/2013 06:55 GMT+7

181


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI

[3]. Đề án đổi mới chương trình đào tạo GV THCS, THPT của trường ĐHSP Hà
Nội. Tháng 3/2015.
[4]. Michel Develay (1998), Một số vấn đề về đào tạo giáo viên, (Nguyễn Kì, Vũ
Văn Tảo, Phan Hữu Chân biên dịch), Nxb Giáo dục.
[5]. Phạm Thị Kim Anh (2015) Chương trình đào tạo giáo viên ở Việt Nam- Một số bất
cập và định hướng phát triển (Báo cáo tại Hội thảo khoa học Quốc tế: “Phát triển
chương trình đào tạo GV-Cơ hội và thách thức”. ĐHSP Thái Nguyên ngày
20.8.2015)

182



×