Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

VAI TRÒ của LUẬT sư đồi với sự PHÁT TRIỂN KINH tế của đất nước TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.19 KB, 23 trang )

VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT



Nghị định

TT

Thông tư

NQ

Nghị quyết

CP

Chính Phủ

QH

Quốc Hội

TW

Trung Ương

LLS

Luật Luật Sư



UBND

Ủy ban Nhân dân

UNTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội

UBMTTQVN

Ủy ban mặt trận tổ Quốc Việt Nam

1


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

A. LỜI NÓI ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Năm 2006 Việt Nam đã ban hành Luật luật sư (có hiệu lực từ 1/1/200)7. Đây là cơ sở
pháp lý tiếp tục củng cố và phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp có phẩm chất đạo đức,
trình độ chuyên môn đóng góp vào công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã Hội Chủ
Nghĩa, hội nhập quốc tế và đáp ứng yêu cầu về phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Trên cơ
sở đó đội ngũ luật sư của Việt Nam đã hình thành và ngày càng phát triển đông về số lượng,
tính chuyên nghiệp và kinh nghiệm hành nghề cũng ngày được nâng cao.
Trước hết, luật sư là người có đủ tiêu chuẩn luật sư và được Bộ Tư Pháp cấp Chứng chỉ
hành nghề luật sư, luật sư là người “phụ tá công lý” và còn là công cụ giúp pháp luật quản lý
xã hội, đồng thời cũng góp phần vào sự phát triển của đất nước, góp phần làm thay đổi nền
kinh tế nước nhà, nói một cách cụ thể là luật sư đã và đang củng cố, xây dự công bằng trong

xã hội từ đó đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế của nước ta trong thời
điểm hiện nay.
Luật sư không phải để nói với quý khách hàng rằng được làm hay không được làm gì,
luật sư sẽ nói nên làm thế nào để đạt được điều quý khách hàng mong muốn.Việc thuê luật sư
tư vấn ở các nước phát triển là chuyện thường ngày và không thể thiếu đối với một cá nhân lẫn
doanh nghiệp. Kinh tế càng phát triển, sự giao lưu kinh tế giữa các quốc gia ngày càng được
mở rộng, bên cạnh đó các mối quan hệ trong lĩnh vực kinh tế ngày càng phức tạp. Từ đó có thể
thấy vai trò luật sư rất quan trọng trong việc phòng tránh các rủi ro pháp lý và các rủi ro có
liên quan đến hoạt động kinh doanh. Nếu không được dự liệu trước và chuẩn bị các biện pháp
ngăn chặn thì khi các rủi ro pháp lý diễn ra thì hậu quả và thiệt hại đối với các doanh nghiệp là
vấn đề rất khó dự báo trước. Do vậy trong xã hội hiện nay, nền kinh tế thị trường mang tính
hội nhập thì vai trò của luật sư là vô cùng quan trọng và các doanh nghiệp không nên coi nhẹ
việc hợp tác với luật sư để giúp doanh nghiệp phát triển một cách mạnh mẽ và bền vững .
Hiện nay, pháp luật và luật sư có vai trò vô cùng quan trọng, nó là một trong những công
cụ nhất định không thể thiếu của nhà nước để tổ chức và quản lý xã hội, duy trì và bảo vệ trật
tự xã hội, tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Pháp luật và luật sư luôn tác
động và ảnh hưởng rất lớn tới trật tự và sự phát triển của các quan hệ xã hội, xác lập, củng cố
và bảo vệ các quan hệ kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trong lĩnh vực kinh tế, mặc dù ra đời, phát triển và thay đổi cùng với sự phát triển và thay đổi

2


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

của kinh tế nhưng pháp luật và luật sư có vai trò to lớn trong việc tổ chức và quản lý kinh tế,
nó là yếu tố điều tiết quá trình sản xuất, trao đổi và phân phối sản phẩm.
Bên cạnh đó, đội ngũ Luật sư và hình thức hành nghề ở nước ta vẫn còn tồn tại một số
hạn chế, khó khăn nhất định. Cần có những kiến nghị, đề xuất, giải pháp để phát triển đội ngũ
Luật sư và các tổ chức hành nghề Luật sư. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay - Việt Nam là

quốc gia đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cần phải bắt tay vào xây dựng đội ngủ
Luật sư “giỏi về chuyên môn - nghiệp vụ, am hiểu luật pháp và tập quán thương mại quốc tế,
thông thạo tiếng Anh, thành thạo về kỹ năng hành nghề luật sư trong thị trường quốc tế; có đủ
khả năng tư vấn các vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận thấy, việc nghiên cứu “vai trò của luật sư đối với việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện
nay” là rất cần thiết vì pháp luật và Luật sư có thể tác động tích cực tới việc phát triển kinh tế
nhưng nó cũng có thể tác động tiêu cực nếu như những quy định của nó không phù hợp, cao
hơn hoặc thấp hơn so với trình độ của nền kinh tế. Chính vì vậy nên em đã chọn đề tài (vai trò
của luật sư đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay ) cho bài tiểu luận của
mình. Kính mong quý thầy cô có ý kiến đóng góp để bài luận được hoàn chỉnh hơn!.
1.2 Phạm vi nghiên cứu
“Vai trò của Luật sư đối với sự phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn hiện nay”
xoay quanh những vấn đề lý luận, nội dung của những quy định pháp luật. Thông qua Luật
Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 và các văn bản có liên quan đến Luật sư và hành
nghề Luật sư tại Việt Nam làm nổi bật vai trò của Luật sư trong xã hội ngày nay.
1.3 Kết cấu chuyên đề
Kết cấu chuyên đề gồm:
Phần A: Lời mở đầu
Phần B: Nội dung cơ bản
Phần C: Kết luận

3


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

B. NỘI DUNG
2. Khái quát chung về nghề luật sư
2.1. Sự hình thành và phát triển của nghề luật sư
2.1.1. Trên thế giới

Nghề luật sư đã xuất hiện ở châu Âu từ thời Hy Lạp và La Mã cổ đại. Vào thế kỷ V
trước Công nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án hình thành và việc xét xử có sự
tham gia của mọi người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của mình
trước Toà hoặc nhờ người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ trước Toà. Việc bào
chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị nhà cầm quyền bắt
giam vô cớ và trừng phạt một cách độc đoán dần phát triển.
Ở La Mã cổ đại, cũng với sự xuất hiện của pháp luật đã xuất hiện những mầm mống của nghề
luật sư. Pháp luật La mã cổ đại mang tính huyền bí, thần thánh và việc áp dụng pháp luật gắn
liền với lễ nghi tôn giáo. Trong phiên toà, có sự tham gia của các nhà chuyên môn, người am
hiểu pháp luật để nhắc lại những quy tắc, quy định tôn giáo để tránh việc viện dẫn sai hoặc vi
phạm thủ tục tố tụng.Trong xã hội dần dần hình thành một nhóm người chuyên sâu, am hiểu
về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xem xét như hoạt động nghề nghiệp. Hoạt
động của các luật sư được chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao.
Nghề luật sư được xem như một nghề vinh quang trong xã hội.
Sau khi Đế quốc La Mã tan rã, châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các triều đại phong
kiến phân quyền cát cứ. Tổ chức Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây dựng dưới
nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế độ phong kiến.
Dưới chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điều kiện khắt khe nhằm
bảo vệ quyền lợi riêng cho một số ít người xuất thân từ giai cấp bóc lột. Từ xuất phát điểm của
những người tự nguyện thực hiện việc bào chữa vì sự thật và công lý, nghề luật sư dưới chế độ
tư bản dần dần trở thành nghề tự do.
2.1.2. Ở Việt nam
Hơn nửa thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với những
thắng lợi vẻ vang của cách mạng, của dân tộc và những bước phát triển của đất nước, đội ngũ
luật sư Việt Nam đã vượt qua khó khăn thử thách để ngày càng khẳng định vai trò, vị trí của
nghề luật sư trong xã hội.
Sự ra đời của Liên đoàn luật sư Việt Nam (12/5/2009) đã đánh dấu một bước phát triển
mới, vững mạnh của đội ngũ luật sư Việt Nam, đáp ứng nguyện vọng của giới luật sư cả nước,

4



VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

tạo bước ngoặt quan trọng trong việc đổi mới về tổ chức, hoạt động luật sư, khẳng định vị trí,
vai trò của luật sư trong điều kiện đẩy mạnh cải cách tư pháp, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế của đất nướcỞ Việt Nam,
hoạt động luật sư đã có từ trước Cách mạng tháng 8/1945. Sau khi Cách mạng tháng Tám
thành công, bộ máy tư pháp được tổ chức lại. Chỉ hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về
tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh này đã quy định việc duy trì tổ chức luật sư trong đó đã có
sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật của chế độ cũ về luật sư nhưng không trái với
nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà năm 1946 (Điều 67) đã khẳng định quyền tự bào chữa hoặc mượn luật sư bào
chữa là quyền quan trọng của bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân. Mặc dù
trong điều kiện mới lập nước, Việt Nam vừa trải qua cuộc kháng chiến vô cùng khó khăn, gian
khổ, nhưng sự coi trọng việc bảo đảm quyền bào chữa trước Toà án của bị cáo đã được ghi
trong Hiến pháp và được cụ thể và mở rộng hơn chủ thể tham gia bào chữa được ghi nhận tại
Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị cáo có thể nhờ một công dân
không phải là luật sư bênh vực cho mình. Để cụ thể hóa Sắc lệnh này Bộ Tư pháp đã ban hành
Nghị định số 01/NĐ-VY ngày 12/01/1950 quy định về bào chữa viên để phù hợp với điều kiện
Việt Nam khi đó, thể hiện mục tiêu của nhà nước dân chủ cộng hòa là xây dựng một nền tư
pháp công bằng, dân chủ của chế độ mới. Thực hiện quy định của pháp luật về bào chữa viên,
trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, đội ngũ bào chữa viên đã được hình thành và ngày càng phát triển. Bên cạnh các
luật sư đã tham gia kháng chiến, còn có nhiều luật sư, luật gia đã làm việc trong bộ máy chế độ
cũ cũng hăng hái gia nhập đội ngũ bào chữa viên của chế độ mới.Trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ CNXH ở miền Bắc, Hiến pháp năm 1959 ra đời tiếp tục khẳng định quan điểm của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân. Sau khi thống nhất đất nước Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm

1980 ngoài việc khẳng định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập
tổ chức luật sư để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.Thực hiện quy định của Hiến pháp, ngày 31/10/1983 Bộ Tư
pháp ban hành Thông tư số 691/QLTPK về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể tiêu
chuẩn, điều kiện làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thành lập một Đoàn bào chữa viên để tập hợp các luật sư đã được công nhận trước đây và các
5


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

bào chữa viên, đến cuối năm 1987 trên cả nước đã có 30 Đoàn bào chữa viên với gần 400
thành viên. Riêng Đoàn luật sư TP.Hà Nội thành lập năm 1984 và có 16 luật sư thành viên.
Năm 1986, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI đã tác động sâu rộng đến mọi mặt đời
sống xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng
mở rộng dân chủ trong tố tụng, tăng cường bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Trong bối
cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư đầu tiên được ban hành ngày 18/12/1987. Đây là văn bản
pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát
triển nghề luật sư ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh tổ chức luật sư quy định tiêu
chuẩn để được công nhận là luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật
sư. Pháp lệnh cũng qui định về việc tổ chức các đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương. Chỉ sau gần 10 năm, ở hầu hết ở các tỉnh, thành phố đã thành lập được đoàn luật
sư, với đội ngũ luật sư lên tới hàng nghìn người. Hoạt động nghề nghiệp luật sư cũng đã có
bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tham gia tố tụng, các luật sư đã từng bước mở rộng hoạt
động nghề nghiệp sang lĩnh vực tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.Trong
công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước đã đề ra những chủ trương, biện pháp cải cách
mạnh mẽ về tổ chức, hoạt động của các hệ thống chính trị, trong đó có việc đổi mới tổ chức
hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền và thúc đẩy quá trình hội nhập của đất nước. Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban

hành. Nội dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật
sư theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai
trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội
nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam. Với nội dung tiến bộ, phù hợp với yêu cầu khách
quan, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã nhanh chóng đi vào cuộc sống. Chỉ sau 5 năm thi hành
Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, đã thành lập
trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công ty luật hợp danh. Trong tham
gia tố tụng, nhiều luật sư đã dần khẳng định trình độ chuyên môn, bản lĩnh nghề nghiệp khi
tham gia tranh tụng tại các phiên tòa. Hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư cũng đã có bước
phát triển đáng kể, đặc biệt là tư vấn cho khách hàng trong các lĩnh vực đầu tư, kinh doanh,
thương mại ngày càng nhiều và ngày càng nâng cao về chất lượng dịch vụ. Có thể nói Pháp
lệnh luật sư năm 2001 đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế - quốc tế ở Việt Nam. Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại quốc tế (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng
6


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

đặt ra những thách thức mới to lớn cho Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong đó có nhiệm vụ
quan trọng là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng với cơ chế
vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. Trong các
năm 2005, 2006, 2007, Việt Nam đã ban hành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế
các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày
29/6/2006 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2007 thay thế Pháp lệnh luật sư năm 2001.Luật
Luật sư được ban hành đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh
quá trình xây dựng đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với nghề
luật sư ở các nước tiên tiến trên thế giới. Đặc biệt Luật Luật sư đã quy định hoàn chỉnh hệ
thống các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư từ Trung ương tới các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. Có thể nói, Luật Luật sư là mốc son đánh dấu một bước phát triển và hoàn

thiện của Hệ thống pháp luật ở Việt Nam, và qua đó mở ra nhiều triển vọng, vị thế mới cho
nghề luật sư ở Việt Nam.
2.2. Khái niệm luật sư
Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện
hành nghề theo quy định của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân,
cơ quan, tổ chức”. Tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư năm 2006 như
sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm
chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập
sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư”.
Lưu ý rằng, người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật luật sư muốn được hành
nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
Như vậy, Luật sư là người hành nghề liên quan đến lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn,
điều kiện hành nghề của pháp luật của mỗi quốc gia. Luật sư thực hiện dịch vụ pháp lý theo
yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (gọi chung là khách hàng); cung cấp các dịch vụ pháp lý
như tư vấn pháp luật, soạn thảo văn bản, tổ chức đàm phán, thương lượng về các vấn đề pháp
luật, đại diện cho thân chủ hoặc bảo vệ quyền và lợi ích của thân chủ trước Tòa án trong quá
trình tố tụng.
2.3.
Vai trò của luật sư đối với việc phát triển kinh tế nói chung
2.3.1 Tư vấn thường xuyên cho các nhà đầu & doanh nghiệp
Việc ký kết hợp đồng tư vấn dài kỳ cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp có nhu cầu.
Luật sư tư vấn phải là người vững vàng về chuyên môn và có kinh nghiệm thực tiễn đặc biệt là
kinh nghiệm trên thương trường và phương thức giải quyết công việc, tình huống, cơ chế làm
7


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

việc linh hoạt và chuyên nghiệp giúp nhà đầu tư và doanh nghiệp kiểm soát và yên tâm về việc
đầu tư và kinh doanh của mình.

2.3.2 Hỗ trợ, tư vấn khởi tạo doanh nghiệp
Khi khởi nghiệp kinh doanh, nhà đầu tư và doanh nghiệp mới không tránh khỏi khó
khăn, vướng mắc vì ”Vạn sự khởi đầu nan”. Do vậy có luật sư hỗ trợ, tư vấn là rất cần thiết và
quan trọng giúp nhà đầu tư và doanh nghiệp bảo toàn đồng vốn, loại trừ rủi ro pháp lý. Hoạt
động này cung cấp các dịch vụ như: Tư vấn lựa chọn cơ hội đầu tư, cách thức đầu tư; tư vấn
lựa chọn loại hình doanh nghiệp (trường hợp tự kinh doanh), tiến hành các thủ tục thành lập
doanh nghiệp, tư vấn về quản lý nhân sự, xây dựng các quy chế hoạt động cho doanh nghiệp,
soạn thảo các biểu mẫu giấy tờ giao dịch chuẩn mực…
2.3.4 Đại diện theo pháp luật
Khi doanh nghiệp và nhà đầu tư không muốn hoặc không có điều kiện để đàm phán với
đối tác, làm việc với cơ quan liên quan hoặc muốn có người am hiểu về luật pháp và các quy
định về kinh doanh để loại trừ rủi ro cho mình…., luật sư có thể đại diện cho doanh nghiệp để
thực hiện các công việc này và đưa ra các ý kiến tư vấn chính xác, kịp thời giúp nhà đầu tư,
doanh nghiệp bảo toàn vốn và lợi nhuận.
2.3.5 Tìm kiếm đối tác, kiểm tra thông tin, xúc tiến thương mại đầu tư
Qua quá trình tư vấn pháp luật, luật sư có được những mối quan hệ mật thiết với nhiều
doanh nghiệp và có được những kinh nghiệm cũng như sự hiểu biết về thị trường, do đó, luật
sư sẽ là những địa chỉ tin cậy cho các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các đối tác kinh doanh
và môi trường đầu tư trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế.
2.3.6 Tư vấn pháp luật Tài chính – Ngân hàng
Hoạt động này giúp cho nhà đầu tư & doanh nghiệp có được tình hình tài chính lành
mạnh, sử dụng đồng vốn hiệu quả, hạch toán, kế toán đúng chế độ, giúp tránh được rủi ro bị
phạt thuế, truy thu thuế – một rủi ro tiềm tàng khi thực hiện chế độ tự kê khai, tự nộp thuế.
Mặt khác, luật sư còn giúp doanh nghiệp xây dựng phương án kinh doanh, vay vốn ngân hàng
hoặc huy động vốn từ các nhà tài trợ khác.
2.3.7 Tư vấn pháp luật về hợp đồng
Khi có sự tham gia của chuyên gia tư vấn, luật sư, những hợp đồng mà doanh nghiệp &
nhà đầu tư tham gia ký kết sẽ đảm bảo được tính hợp pháp cũng như phù hợp với tập quán
thương mại; chặt chẽ và đầy đủ. Đồng thời sẽ giảm thiểu ở mức thấp nhất những rủi ro có thể
xảy ra do những quy định lỏng lẻo trong hợp đồng; những cam kết, thoả thuân, bị vô hiệu do

trái pháp luật.

8


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Luật sư không phải để nói với quý khách hàng rằng được làm hay không được làm gì,
luật sư sẽ nói nên làm thế nào để đạt được điều quý khách hàng mong muốn. Việc thuê luật sư
tư vấn ở các nước phát triển là chuyện thường ngày và không thể thiếu đối với một doanh
nghiệp. Kinh tế càng phát triển, các quan hệ kinh tế đan xen nhau ngày càng phức tạp, khi đó
vai trò luật sư càng quan trọng, nhằm để tránh các rủi ro pháp lý và các rủi ro có liên quan đến
hoạt động kinh doanh. Nếu không được phòng ngừa, nếu các rủi ro pháp lý diễn ra thì hậu quả
và thiệt hại đối với các doanh nghiệp là vấn đề rất khó dự báo trước, do vậy trong xã hội hiện
đại và nền kinh tế thị trường mang tính mở thì vai trò của luật sư là tối quan trọng và các
doanh nghiệp không nên coi nhẹ vấn việc dùng luật sư tư vấn.
Hiện nay, pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng, nó là một trong những công cụ nhất định
không thể thiếu của nhà nước để tổ chức và quản lý xã hội, duy trì và bảo vệ trật tự xã hội, tạo
điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Pháp luật luôn tác động và ảnh hưởng rất lớn
tới trật tự và sự phát triển của các quan hệ xã hội, xác lập, củng cố và bảo vệ các quan hệ kinh
tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong lĩnh vực kinh tế, mặc
dù ra đời, phát triển và thay đổi cùng với sự phát triển và thay đổi của kinh tế nhưng pháp luật
có vai trò to lớn trong việc tổ chức và quản lý kinh tế, nó là yếu tố điều tiết quá trình sản xuất,
trao đổi và phân phối sản phẩm. Tuy nhiên, vấn đề có tính nguyên tắc là sự phản ánh của pháp
luật luôn phải phù hợp với những nhu cầu khách quan, phổ biến và điển hình của nền kinh tế.
Quá trình tổ chức và quản lý kinh tế ở Việt Nam những năm vừa qua là một thực tiễn sinh
động khẳng định vai trò của pháp luật. Nhận thấy, việc nghiên cứu “Vai trò của luật sư đối với
việc phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay” là rất cần thiết vì pháp luật có thể tác động tích
cực tới việc phát triển kinh tế nhưng nó cũng có thể tác động tiêu cực nếu như những quy định
của nó không phù hợp, cao hơn hoặc thấp hơn so với trình độ của nền kinh tế. Chính vì vậy

nên em đã chọn đề tài này cho bài tiểu luận của mình. Kính mong quý thầy cô và các bạn có ý
kiến đóng góp để bài luận được hoàn chỉnh hơn.

9


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

C.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT LUẬT SƯ VÀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT
NAM

3. Thực trạng pháp luật luật sư về tổ chức và hoạt động
3.1 Thuận lợi
3.1.1 Thuận lợi về nhu cầu thị trường
Nhu cầu dịch vụ pháp lý trong hoạt động kinh doanh, thương mại chỉ mới hình thành vào đầu
thập niên 1990, chủ yếu từ các nhà đầu tư, thương nhân nước ngoài, và từ một số ít doanh
nghiệp trong nước.
Cùng với quá trình hội nhập, nhu cầu về dịch vụ pháp lý ngày càng tăng về số lượng đồng thời
cũng đặt ra yêu cầu cao hơn về chất lượng. Một mặt, nhu cầu tăng do có sự gia tăng về số
lượng và mức độ phức tạp trong các giao dịch của doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam. Mặt khác, nhu cầu cũng đến từ nhiều doanh nghiệp trong nước, do có sự phát triển
của cộng đồng doanh nghiệp trong nước, và sự chuyển biến rõ rệt trong nhận thức chung về
vai trò của luật sư và sự cần thiết của dịch vụ pháp lý trong hoạt động kinh doanh.
Ở cấp độ quốc gia, luật sư có thể đóng góp vào quá trình đàm phán các hiệp định, điều ước
quốc tế, tham gia vào các vụ tranh tụng quốc tế với chủ thể là các cơ quan nhà nước, các hiệp
hội. Ở cấp độ doanh nghiệp, nhu cầu về hoạt động của luật sư rất đa dạng, từ các dịch vụ tư
vấn pháp lý cho giao dịch quan trọng, phức tạp của doanh nghiệp, đến các hoạt động tranh
tụng tại tòa án hoặc trọng tài quốc tế…

Chính sự gia tăng nhu cầu của thị trường là thuận lợi cơ bản cho sự phát triển của hoạt động
luật sư và thị trường dịch vụ pháp lý.
3.1.2 Thuận lợi về chính sách, pháp luật
Chính sách và pháp luật về cải cách tư pháp và phát triển nghề luật sư trong thời gian qua đã
tạo cơ sở chính trị và pháp lý vững chắc và điều kiện thuận lợi cho hoạt động hành nghề luật
sư: Từ Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến Luật
Luật sư năm 2006. Tác động quan trọng và dễ nhận thấy nhất đó là những chuyển biến của thị
trường dịch vụ pháp lý, thể hiện qua sự phát triển về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề, số
lượng vụ việc có luật sư tham gia. Đây là hệ quả từ những quy định rõ ràng và theo hướng mở
hơn của Luật Luật sư, về việc gia nhập đoàn luật sư, tập sự, hành nghề và đào tạo nghề luật sư.
Gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển luật sư đến năm 2020 và
Đề án Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2010 – 2020, đặt

10


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

ra những mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cụ thể cho việc phát triển nghề luật sư nói chung và
phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập.
Với những cơ sở chính trị và pháp lý nêu trên, vai trò luật sư trong tiến trình cải cách tư pháp,
cải cách hành chính, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế được nâng cao.
Đồng thời, sự hỗ trợ của Nhà nước đối với việc phát triển hoạt động luật sư đã được khẳng
định.
3.1.3 Thuận lợi về sự trưởng thành của đội ngũ luật sư
Cùng với sự phát triển của đất nước sau hơn 20 năm đổi mới, đội ngũ luật sư Việt Nam
đã phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng ngày càng được nâng cao. Trong 9 năm
(2001-2010), số lượng luật sư đã tăng 250% so với trước khi Pháp lệnh luật sư 2001 có hiệu
lực. Để làm được điều này thực sự không dễ dàng khi nhận thức của xã hội về nghề luật sư
chưa tương xứng với tốc độ phát triển. Đó thực sự là kết quả từ những nỗ lực không ngừng của

bản thân giới luật sư trong quá trình hoàn thiện kỹ năng, nghiệp vụ và xây dựng vị trí trên cơ
sở uy tín, đạo đức nghề nghiệp. Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 được ban hành là cơ sở
pháp lý hình thành và mở ra triển vọng phát triển đội ngũ luật sư ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong
thời gian này, số lượng luật sư cả nước tăng chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Pháp lệnh luật sư 2001 và Luật Luật sư được ban hành, số lượng Luật sư tăng lên đáng kể cụ
thể tính đến ngày 31.5.2005 có 1.883 Luật sư và 1.535 Luật sư tập sự, đến hết tháng 6 năm
2008 tăng lên gần 4.200 Luật sư và 2.000 người tập sự hành nghề Luật sư. Đến tháng 9 năm
2011, số luật sư ở Việt Nam đã tăng đến gần 8600 người được cấp chứng chỉ HNLS, trên 7500
luật sư được cấp thẻ thành viên Đoàn luật sư và có trên 3500 người tập sự hành nghề luật sư.
Cùng với sự phát triển và nâng lên về số lượng, chất lượng của đội ngũ luật sư Việt nam.
Trước hết, về tiêu chuẩn luật sư, Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã đặc biệt chú
trọng nâng cao tiêu chuẩn chuyên môn, về phẩm chất đạo đức đối với Luật sư. Đồng thời, theo
hướng “chuyên nghiệp hoá” đội ngũ luật sư, Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy
định cán bộ, công chức không được hành nghề luật sư.
Có thể nói, trong những năm gần đây, chất lượng của đội ngũ Luật sư đã được nâng lên
đáng kể, về cơ bản đủ khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý tin cậy cho khách hàng. Trong số
những người đã qua đào tạo nghề luật sư, có nhiều người đã tập sự hành nghề trong các tổ
chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam nên có hiểu biết về pháp luật quốc tế và thông
thạo ngoại ngữ. Một số luật sư Việt Nam đã theo học các khoá đào tạo nghề luật sư ở nước
ngoài và được công nhận là luật sư của nước sở tại (Mỹ, Úc, Pháp).

11


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Qua hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, đội ngũ luật sư trong nước đã dần trưởng thành
trong hoạt động hành nghề, cung cấp các dịch vụ pháp lý đa dạng cho khách hàng trong nước
và nước ngoài trong các giao dịch ngày càng phức tạp.
Quy mô cung cấp dịch vụ pháp lý cho doanh nghiệp đã tăng lên nhanh chóng, nhất là ở Hà Nội

và TP.HCM. Một bộ phận luật sư và tổ chức hành nghề, tuy chưa nhiều, đã bước đầu hoạt
động chuyên nghiệp, tập trung vào các lĩnh vực chuyên sâu nh
3.2 Thách thức
3.2.1 Năng lực chuyên môn
Nói đến thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam, điều thường được đề cập đến là tỷ lệ luật
sư trên dân số còn thấp. Nhưng ngay cả khi số lượng luật sư đang gia tăng nhanh chóng như
hiện nay, cũng không thể đảm bảo đáp ứng thích đáng nhu cầu dịch vụ pháp lý của xã hội, nếu
vấn đề chất lượng không được coi trọng. Ngược lại, chính sự phát triển nhanh về số lượng luật
sư đang tạo ra thách thức về chất lượng dịch vụ pháp lý, khi mà điều kiện để trở thành luật sư
dường như ngày càng dễ dàng hơn.
Một trong các nguyên nhân thường được nhắc đến là chất lượng đào tạo đầu vào: Chương
trình đào tạo cử nhân luật cần chú trọng hơn nữa các kiến thức pháp lý về kinh doanh thương
mại quốc tế, và cần cho sinh viên trang bị các kỹ năng mềm. Chương trình đào tạo nghiệp vụ
luật sư hiện nay còn nghiêng về các nội dung tranh tụng, mà chưa chú trọng các kỹ năng trong
hoạt động tư vấn. Trong khi đó, chi phí đào tạo ở nước ngoài rất tốn kém, vượt xa khả năng
của đại bộ phận người hành nghề luật sư.
Tất nhiên, việc đào tạo cử nhân luật và đào tạo nghiệp vụ luật sư có lẽ chỉ cần tập trung vào
kiến thức và kỹ năng căn bản để bước đầu hành nghề, mà không đòi hỏi đi vào chuyên sâu, bởi
vì “nghề dạy nghề” vẫn là yếu tố then chốt trong đào tạo chuyên sâu. Ngoài ra, chất lượng hoạt
động luật sư trong kinh doanh thương mại không chỉ biểu hiện ở kiến thức và kỹ năng pháp lý,
mà còn ở sự hiểu biết về các khía cạnh kinh tế, kỹ thuật trong hoạt động của doanh nghiệp.
Các kiến thức này chỉ có thể được tích lũy qua thực tiễn hành nghề được chuyên môn hóa và
qua hoạt động đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên.
Trong môi trường hành nghề chuyên nghiệp, kiến thức, kỹ năng và phẩm chất của cá
nhân luật sư cần kết hợp với các yếu tố khác trong hoạt động của tổ chức hành nghề để tạo nên
tổng thể chất lượng dịch vụ pháp lý. Các yếu tố này bao gồm:tính chuyên nghiệp và kịp thời
trong giao dịch và xử lý công việc, sự đồng nhất trong tiêu chuẩn dịch vụ, khả năng tổ chức,
ứng dụng các phương pháp và công nghệ quản lý hiện đại, sự kết hợp hiệu quả giữa làm việc

12



VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

độc lập và làm việc nhóm…Vì vậy, tổ chức hành nghề có vai trò trung tâm quyết định chất
lượng của dịch vụ pháp lý, nhờ sự kết hợp hài hòa các yếu tố đã nêu.
Hiện nay, một số tổ chức hành nghề đã duy trì hoạt động đào tạo nội bộ với mục đích trang bị
kỹ năng, chuẩn mực chuyên môn, cập nhật kiến thức và chia sẻ kinh nghiệm. Khi mà việc đào
tạo đầu vào luật sư mới dừng ở mức phổ cập hóa kiến thức cơ bản, và hoạt động bồi dưỡng
thường xuyên chưa phát huy được hiệu quả, thì chương trình đào tạo nội bộ bài bản của các tổ
chức hành nghề là hết sức cần thiết để nâng cao chất lượng hoạt động luật sư và chất lượng
dịch vụ pháp lý.
Xét về quy mô, hoạt động hành nghề luật sư hiện nay khá phân tán. Luật sư hành nghề đa phần
riêng lẻ, với quy mô phổ biến chỉ có từ 1 đến 2 luật sư, số tổ chức có trên 10 luật sư còn rất ít.
Quy mô nhỏ này phù hợp với đặc điểm phát triển của thị trường dịch vụ pháp lý thời gian qua,
khi mà cá nhân vẫn là đối tượng khách hàng chính, và dịch vụ chủ yếu là tham gia tố tụng và
các giao dịch dân sự của cá nhân.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế, những chuyển biến của thị trường, bao gồm sự gia
tăng đối tượng khách hàng doanh nghiệp, sự gia tăng số lượng, quy mô và tính chất phức tạp
của các giao dịch, đang đòi hỏi dịch vụ pháp lý có mức độ chuyên môn hóa cao, đồng thời có
quy mô tập trung hơn. Chất lượng dịch vụ pháp lý chỉ có thể được nâng cao khi có sự chuyên
môn hóa (giữa các tổ chức hành nghề và ngay giữa các luật sư trong cùng một tổ chức hành
nghề). Mặt khác, cần có quy mô tập trung hơn trong hoạt động để tạo nên sự đồng bộ trong
dịch vụ pháp lý: Không khó để hình dung sự bất tiện của một doanh nghiệp khi phải đồng thời
sử dụng nhiều nhà cung cấp dịch vụ pháp lý khác nhau cho các giao dịch thuộc những lĩnh vực
khác nhau. Như vậy, việc chuyên môn hóa đồng thời duy trì sự đồng bộ trong dịch vụ pháp lý
chỉ có thể thực hiện được trong các tổ chức hành nghề chuyên nghiệp và có quy mô.
Tuy nhiên, việc phát triển quy mô và chuyên nghiệp hóa hoạt động hành nghề cũng gặp phải
một số rào cản, đó là tập quán hành nghề riêng lẻ của luật sư, sự chú trọng chuyên môn mà
thiếu quan tâm đến tổ chức hoạt động, và hầu hết luật sư đều chưa qua đào tạo bài bản về quản

lý.
Do đó, bên cạnh việc nâng cao chất lượng đào tạo và chuyên môn hóa, việc xây dựng và phát
triển mô hình tổ chức hành nghề có quy mô cũng là một trong những biện pháp giúp nâng cao
chất lượng dịch vụ pháp lý trong hoạt động kinh doanh thương mại.
3.2.2 Năng lực cạnh tranh
Cạnh tranh luôn là một thách thức điển hình trong điều kiện kinh tế thị trường. Đối với
dịch vụ pháp lý trong kinh doanh thương mại quốc tế, cạnh tranh được nhắc đến trong quan hệ

13


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

giữa các tổ chức hành nghề trong nước và nước ngoài. So với các nước trong khu vực,
Việt Nam có điều kiện khá mở cho hoạt động của tổ chức luật sư nước ngoài tại thị trường
trong nước. Tổ chức luật sư nước ngoài được tư vấn pháp luật Việt Nam khi có luật sư đáp
ứng được điều kiện hành nghề luật sư Việt Nam. Như thế, mức độ “bảo hộ thị trường” cho
ngành dịch vụ pháp lý trong nước là rất thấp.
Trong điều kiện như vậy, với tên tuổi, bề dày kinh nghiệm và tầm hoạt động toàn cầu, các tổ
chức luật sư nước ngoài có uy tín tại Việt Nam đang chiếm ưu thế trong hoạt động cung cấp
dịch vụ pháp lý cho khách hàng nước ngoài. Ở đây, khía cạnh “tiêu cực” có thể được nhắc đến
khi nói về cạnh tranh là các tổ chức luật sư nước ngoài này chiếm thị phần của các tổ chức luật
sư trong nước. Tuy nhiên, cách đánh giá này có phần phiến diện, vì việc có được khách hàng
và công việc chủ yếu phụ thuộc vào uy tín và năng lực chuyên môn. Nếu tổ chức luật sư trong
nước xây dựng được thương hiệu, uy tín và có năng lực chuyên môn cao thì lại còn có những
ưu thế nhất định trong cạnh tranh, nhất là trong các giao dịch thực hiện tại Việt Nam.
Ngoài ra, khi cùng hoạt động trong một thị trường, việc cạnh tranh là tất yếu, không phân biệt
với tổ chức luật sư trong nước hay nước ngoài. Chính áp lực cạnh tranh là một trong những
động lực giúp các tổ chức luật sư trong nước không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn,
xây dựng uy tín để có thể thành công trong hoạt động hành nghề. Mặt khác, môi trường hoạt

động đan xen giữa tổ chức luật sư trong nước và nước ngoài cũng đồng thời tạo ra cơ hội hợp
tác, trao đổi, cũng như học hỏi lẫn nhau.
Áp lực cạnh tranh cũng có thể làm nảy sinh một số hệ quả “tiêu cực”, đó là việc bất chấp các
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức trong hành nghề. Ảnh hưởng tất yếu và lâu dài là làm suy
giảm uy tín chung của giới luật sư trong xã hội, làm cho môi trường hoạt động hành nghề bị
“xuống cấp”. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi ý thức và sự rèn luyên về phẩm chất, đạo đức nghề
nghiệp của mỗi tổ chức, cá nhân luật sư, cần coi đó không chỉ là nghĩa vụ mà còn là lợi ích
trong phát triển lâu dài. Đồng thời, cũng cần có cơ chế giám sát hiệu quả của Nhà nước, của tổ
chức xã hội nghề nghiệp luật sư và của xã hội nói chung để hoạt động luật sư, thị trường dịch
vụ pháp lý thực sự phát triển trong điều kiện thuận lợi, để thách thức cạnh tranh phát huy tốt
vai trò là động lực cho sự phát triển của nghề luật sư và thị trường dịch vụ pháp lý.
4.

Hoạt động hành nghề của luật sư
Thứ nhất, về phạm vi hành nghề. Có thể thấy rằng sau khi Pháp lệnh luật sư năm 2001

và đặc biệt sau khi Luật Luật sư được ban hành, hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam có
những bước chuyển biến rõ rệt. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của
luật sư bao gồm tham gia tố tụng thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật
14


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Luật sư đã mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại diện
ngoài tố tụng cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định ngày càng thông thoáng
hơn của pháp luật cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư ở Việt Nam
tăng đáng kể về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng.
Trong đó, hoạt động tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư
Việt Nam hiện (70%). Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn

vụ án. Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước phát triển về chất.
Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được hoàn thiện, các cơ quan tiến hành tố
tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự. Ý kiến của luật sư tại phiên toà đã
được cơ quan công tố quan tâm và coi trọng. Việc tham gia tố tụng của các luật sư không
những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp
các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan,
xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư trong thời kỳ Việt Nam
hội nhập quốc tế. Các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh doanh,
đầu tư, thương mại. Trong lĩnh vực pháp luật dân sự thì tư vấn về đất đai, hôn nhân gia đình
đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất. Với điều kiện hội nhập quốc tế trên quy mô
toàn cầu hoá, các luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp luật đang phát huy vai trò quan
trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh
chấp phát sinh đặc biệt trong các lĩnh vực quan trọng như đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ,
quan hệ thương mại hàng hoá có yếu tố nước ngoài...
Bên cạnh các hoạt động nói trên, các luật sư Việt Nam còn tham gia tích cực vào hoạt
động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng chính sách. Việc tham gia vào hoạt động
này không chỉ mang tính chất tự nguyện của luật sư đối với xã hội mà còn là trách nhiệm của
đội ngũ luật sư góp phần bảo đảm sự công bằng cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp
lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc,
góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc
diện chính sách và các tổ chức, đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo và các đương sự khác.
Thứ hai, về hình thức hành nghề của luật sư. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm
2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (thành lập hoặc tham gia
15


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức
hành nghề luật sư, kể cả tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Luật Luật sư đã
mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, theo đó luật sư không chỉ hành nghề trong tổ chức
hành nghề luật sư như quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, mà còn được phép hành nghề
với tư cách cá nhân dưới hình thức tự mình nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng
theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, hoặc làm việc cho cơ quan, tổ chức theo hợp đồng lao động.
Thứ ba, về hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Theo quy định của Luật Luật sư thì tổ
chức hành nghề luật sư bao gồm:
Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức
và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân.
Công ty luật bao gồm Công ty luật hợp danh và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. So
với Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy định thêm loại hình Công ty luật trách
nhiệm hữu hạn. Hơn nữa, để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn
quy định Công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể là Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên hoặc Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Như vậy, hình thức tổ chức hành nghề luật sư cũng được mở rộng, tạo điều kiện thuận
lợi cho các luật sư lựa chọn mô hình hoạt động nhằm phát huy hết khả năng sử dụng các điều
kiện để hành nghề một cách thuận lợi nhất.
5.
Về tổ chức luật sư Việt Nam
Luật Luật sư hiện hành đã quy định hệ thống tổ chức luật sư từ trung ương đến các địa
phương, đó là Tổ chức luật sư toàn quốc và Đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc TW.
Sự ra đời của Liên đoàn luật sư Việt Nam đã tạo cho giới luật sư Việt Nam có mái nhà chung.
Là nơi tập hợp đoàn kết đội ngũ luật sư góp phần vào việc bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế,
thực hiện cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội và giữ vững an ninh - ổn định chính trị. Liên đoàn luật sư Việt Nam là người đại diện và
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của luật sư, đồng thời thực hiện công tác tự quản thống nhất của tổ
chức xã hội – nghề nghiệp luật sư trong phạm vi toàn quốc.
Sau hai năm thành lập, công tác tổ chức bộ máy nhân sự của Liên đoàn luật sư Việt

Nam cơ bản đã được hoàn thiện và đi vào hoạt động ổn định. Với 05 Ủy ban chuyên môn: Ủy
ban Bảo vệ quyền lợi luật sư; Ủy ban giám sát, khen thưởng kỷ luật luật sư; Ủy ban đào tạo,
bồi dưỡng xây dựng và phổ biến pháp luật; Ủy ban hợp tác quốc tế và Ủy ban phát triển kinh
tế tài chính. Các Ủy ban đã phát huy được vai trò trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ
với các lĩnh vực được phân công, vừa xử lý trực tiếp các vấn đề có liên quan, vừa tham mưu
16


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

giúp việc cho lãnh đạo Liên đoàn trong công tác lãnh đạo chỉ đạo các lĩnh vực thuộc về trách
nhiệm Ủy ban. Bên cạnh các Ủy ban, Liên đoàn còn thành lập 02 Trung tâm là Trung tâm bồi
dưỡng luật sư và Trung tâm tư vấn pháp luật đã đi vào hoạt động, góp phần thực hiện nhiệm
vụ bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng hành nghề, đạo đức và ứng xử nghề nghiệp cho luật sư.
Cùng với việc hoàn thiện tổ chức, bộ máy nhân sự, Liên đoàn luật sư Việt Nam đã xây
dựng hoàn thiện các Quy chế nội bộ bao gồm: Quy chế tổ chức hoạt động của Hội đồng luật sư
toàn quốc, Ban Thường vụ, các cơ quan giúp việc, các Ủy ban và đơn vị trực thuộc Liên đoàn.
Bộ máy làm việc của Liên đoàn đã hoạt động rất hiệu quả và đi dần vào nề nếp nhờ có các quy
chế làm việc được ban hành, tạo dựng một cơ chế làm việc đồng bộ trong toàn Liên đoàn.
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp luật sư luôn được coi là nhiệm vụ
trọng tâm, xuyên suốt nhằm xây dựng các giá trị chuẩn mực của luật sư, tạo lập niềm tin của
nhân dân, của Đảng, Nhà nước với Liên đoàn luật sư Việt Nam và đội ngũ luật sư trong việc
thực hiện các dịch vụ pháp lý với khách hàng và người dân, cũng như sẵn sàng thực hiện các
nhiệm vụ khác đáp ứng yêu cầu của xã hội. Công tác tuyên truyền đường lối chính sách của
Đảng và pháp luật nhà nước, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho luật sư luôn được Liên
đoàn quan tâm thể hiện qua việc phát động phong trào thi đua học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh, từ đó đã phát huy tác động tích cực trong việc nắm bắt các diễn biến về
tư tưởng, chính trị của luật sư và nâng cao ý thức trách nhiệm của luật sư trong việc thực hiện
các dịch vụ pháp lý phục vụ nhân dân. Các hiện tượng vi phạm pháp luật và vi phạm đạo đức
nghề nghiệp của luật sư trong 02 năm vừa qua là có chiều hướng giảm hơn so với các năm

trước. Công tác đào tạo, bồi dưỡng luật sư đã được triển khai ngay từ khi Liên đoàn mới được
thành lập cho đến nay Liên đoàn trực tiếp và kết hợp với Bộ Tư pháp, với Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam tổ chức được hơn 20 lớp bồi dưỡng và toạ đàm về pháp luật và kỹ
năng hành nghề cho luật sư với hàng nghìn lượt luật sư tham dự ở nhiều đoàn luật sư trong
toàn quốc. Công tác bồi dưỡng luật sư đang đi vào nề nếp và tiếp tục sẽ được đẩy mạnh trong
những năm tiếp theo. Công tác hợp tác quốc tế của Liên đoàn đã được đẩy mạnh ngay từ ngày
đầu Liên đoàn mới thành lập, nhằm tranh thủ sự hỗ trợ và sẵn sằng hợp tác với các Hiệp hội
luật sư nước ngoài và các tổ chức quốc tế quan tâm tới hoạt động luật sư, nghề luật sư và tổ
chức xã hội – nghề nghiệp luật sư. Tháng 5 năm 2010, Hiệp hội luật sư Châu Á Thái Bình
Dương (LawAsia) đã kết nạp Liên đoàn luật sư Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức
này. Cho đến nay Liên đoàn luật sư Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác với: Đoàn luật sư
Nauy, Canada, Hiệp hội luật sư Hoa Kỳ, Liên hội luật sư Nhật Bản, Liên đoàn luật sư Đức.
Liên đoàn đang hợp tác với tổ chức Jica Nhật Bản, dự án JPP của EU, Đan Mạch, Thụy Điển
17


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

đồng tài trợ, chương trình phát triển Liên hiệp quốc UNDP, trung tâm nhân quyền thuộc
trường Đại học Oslo Nauy…. Các quan hệ hợp tác quốc tế và đối ngoại luôn được quán triệt
đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước, đảm bảo và tôn trọng lợi ích của các
bên.Liên đoàn luật sư Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp và các cơ quan quản lý
nhà nước khác, các cơ quan Tư pháp trong việc quản lý luật sư, công tác xây dựng các văn bản
pháp luật và các Quy chế phối hợp có liên quan tới luật sư. Liên đoàn luật sư Việt Nam đã
phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc xây dựng quy chế tập sự kiểm tra đánh giá các kỳ thi hết
tập sự hành nghề luật sư, góp ý vào nhiều các văn bản pháp luật do Bộ Tư pháp chủ trì soạn
thảo ban hành. Ngoài ra nhiều hoạt động về quản lý luật sư của Bộ Tư pháp đã được phối hợp
với công tác tự quản của Liên đoàn luật sư Việt Nam.Liên đoàn luật sư Việt Nam đã hoàn
thiện hai văn bản dự thảo với hai cơ quan là Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ công an để
thống nhất quy chế phối hợp trong hoạt động tố tụng của luật sư nhằm bảo vệ quyền hành

nghề hợp pháp của luật sư.Trải qua hơn 65 năm xây dựng và trưởng thành, đội ngũ luật sư
Việt Nam đã vượt qua khó khăn, thử thách, gắn bó với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của
dân tộc. Chặng đường phát triển tiếp theo đã được mở ra nhiều cơ hội và thuận lợi, song cũng
không ít khó khăn, thử thách đòi hỏi đội ngũ luật sư Việt Nam phải luôn phấn đấu, vượt mọi
khó khăn để vươn lên. Chúng tôi mong rằng, cùng với sự phát triển của đội ngũ luật sư quốc
tế, Việt Nam sẵn sàng và mong muốn được chia sẻ kinh nghiệm nghề nghiệp với các luật sư
đồng nghiệp và bạn bè quốc tế.
6.
Những giải pháp vượt qua khó khăn – thách thức
Góp phần tích cực vào sự nghiệp bảo vệ công lý, xây dựng nhà nước pháp quyền, phát
triển kinh tế - xã hội. Hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn khó khăn, thách thức,
trong đó phải kể đến trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng nghề nghiệp của đội ngũ luật
sư không đồng đều, dẫn tới việc cung cấp dịch vụ pháp lý vẫn còn ảnh hưởng tới chất lượng
chung. Trên thực tế, công tác quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư ở một số địa
phương còn lỏng lẻo, một bộ phận đội ngũ luật sư chưa chủ động, tích cực trong việc tự nâng
cao trình độ, kỹ năng hành nghề cũng như việc trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp, có hành vi vụ lợi... dẫn đến vi phạm pháp luật. Mô hình tố tụng hiện nay vẫn còn
một số tồn tại chưa tạo thuận lợi cho các luật sư hành nghề. Còn có nơi, có vụ việc luật sư còn
bị cản trở trong quá trình hành nghề từ một số các cơ quan và người tiến hành tố tụng, đặc biệt
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Đáng lưu tâm, có một bộ phận cán bộ và cộng đồng
18


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

dân cư chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vị trí, vai trò của luật sư và nghề luật sư; về những
đóng góp âm thầm, tích cực của họ trong các hoạt động tố tụng và tư vấn pháp lý cho người
dân để bảo vệ công lý và công bằng xã hội. Chúng ta đều biết rằng, uy tín của mỗi một luật sư
được gắn với nghề luật sư và giới luật sư, do đó trách nhiệm của mỗi một luật sư và cả đội ngũ

luật sư với cộng đồng xã hội là phải nhất quán trong việc cung cấp các dịch vụ có chất lượng
cho xã hội. Đạo đức nghề nghiệp luật sư luôn là cái gốc để tạo lập sự phát triển vững bền cho
mỗi luật sư và nghề luật sư.
Nước ta vốn đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, lại chịu hậu quả nặng nề
của chiến tranh. Nền kinh tế mang nặng tính chất tự cấp tự túc, công nghiệp nhỏ bé và lạc hậu,
các ngành dịch vụ chưa phát triển. Chiến tranh kéo dài làm tổn hao lớn về người và của; nhiều
cơ sở công nghiệp mới được khôi phục và xây dựng đã bị tàn phá; đường sá và các cơ sở hạ
tầng kỹ thuật bị hư hỏng nặng; đời sống kinh tế - xã hội bị đảo lộn. Trước đây, đặc biệt là
trong thời kì chiến tranh, những cân đối lớn trong nền kinh tế của đất nước được đảm bảo bằng
viện trợ và vay nợ của nước ngoài. Vì thế, tuy có những năm mức tăng trưởng kinh tế tương
đối khá, nhưng tỉ lệ nhập siêu rất lớn. Từ sau khi đất nước thống nhất, các nguồn viện trợ bị
cắt giảm đột ngột, Hoa Kì lại duy trì chính sách cấm vận chống Việt Nam trong nhiều năm.
Các quan hệ kinh tế xuất nhập khẩu trước đây bị phá vỡ. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, rơi
vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vào cuối thập kỉ 70, nửa đầu thập kỉ 80 của thế kỷ XX.
Để tiếp tục vượt qua khó khăn, thách thức nhằm năng cao và phát huy vai trò của Luật sư trong
giai đoạn hiện nay thì các ngành, các cấp, các địa phương cần làm tốt những nội dung chủ yếu
sau:
Một là: Tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô nhằm vừa bảo đảm thanh khoản, tăng khả năng cung ứng vốn cho nền kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, vừa giữ ổn định vĩ mô. Tích cực xử lý nợ xấu trên cơ sở phân
loại nợ của các doanh nghiệp, nhất là nợ của doanh nghiệp Nhà nước. Tháo gỡ kịp thời những
vướng mắc đang tồn tại trong khâu cung ứng vốn nhằm tạo điều kiện hơn nữa cho doanh
nghiệp tiếp cận vốn phát triển sản xuất kinh doanh.
Hai là: Nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đây là một trong các nhân tố quan
trọng quyết định năng lực cạnh tranh của quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh năm 2015 nước ta
là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN và thực hiện các hiệp định mới được ký. Các
doanh nghiệp cần nâng cao thương hiệu sản phẩm; xây dựng năng lực tài chính đáp ứng yêu
cầu phát triển sản xuất quy mô lớn. Ngoài ra, phải giải quyết kịp thời và hiệu quả những bất
cập về thủ tục hành chính trong môi trường đầu tư, kinh doanh.


19


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Ba là, nâng cao năng suất lao động, phương thức quan trọng nhất để nâng cao năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế. Chính phủ có chính sách tăng cường đầu tư quy trình sản
xuất trang thiết bị hiện đại cho người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế; tập trung đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ và kiến thức cao trong xu thế hội nhập ngày càng sâu, tạo sự
phù hợp hơn giữa kỹ năng sản xuất và yêu cầu công việc. Đổi mới thể chế kinh tế nhằm tăng
năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP), trong đó tập trung khuyến khích khu vực doanh
nghiệp nâng cao khả năng xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh cũng như năng lực
quản trị. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải tập trung đầu tư cho nghiên cứu và phát triển
(RD), chủ động tiếp thu và ứng dụng tri thức mới, đồng thời tăng khả năng sáng tạo trong
sản xuất kinh doanh. Các Bộ, ngành, lĩnh vực và địa phương cần tăng tính hiệu lực và hiệu
quả trong quản lý điều hành.
Bốn là, mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu hàng hóa theo hướng đa dạng. Đẩy nhanh tốc
độ chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm qua chế biến, giảm
dần tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
ngày càng sâu. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp sản xuất hàng phụ trợ, tạo liên kết giữa các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm đáp ứng nguyên liệu phụ trợ và hạn chế nhập khẩu nguyên
nhiên vật liệu đầu vào từ nước ngoài phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu,
góp phần gia tăng giá trị cho nền kinh tế.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện chính sách trợ giúp xã hội và cải tiến hệ thống chính sách an
sinh xã hội theo hướng tập trung, đầy đủ, đồng bộ. Tiếp tục rà soát, bổ sung cơ chế chính sách
nhằm giảm nghèo bền vững, chống tái nghèo. Tạo việc làm phải bảo đảm tính bền vững.
Nghiên cứu đổi mới công tác giáo dục và đào tạo cho các bậc học, đáp ứng yêu cầu phát triển
của xã hội. Tổ chức có hiệu quả công tác dạy nghề cho lao động nông thôn, tạo điều kiện cho
họ tiếp cận tiến bộ khoa học kỹ thuật để vận dụng vào thực tiễn sản xuất, góp phần tạo việc
làm, cải thiện thu nhập, nâng cao đời sống. Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ

người dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số.
Sáu là, để hoạt động luật sư phát triển, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, tổ
chức xã hội nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề và cá nhân luật sư.
Bên cạnh việc hoạch định chính sách pháp luật, tạo hành lang pháp lý, định hướng phát triển
nghề luật sư, sự hỗ trợ cụ thể của Nhà nước là hết sức quan trọng để tăng cường năng lực cạnh
tranh của luật sư trong nước, trong điều kiện thị trường dịch vụ pháp lý mới ở giai đoạn phát
triển ban đầu. Sự hỗ trợ có thể dưới các hình thức như: hỗ trợ về nguồn nhân lực bằng việc
cấp kinh phí cho đào tạo luật sư phục vụ hội nhập, trong đó có đào tạo ở nước ngoài; hỗ trợ

20


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

phát triển thị trường bằng cách quy định các dự án, giao dịch có sử dụng vốn ngân sách cần có
sự tham gia của luật sư; và dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho hoạt động này; khuyến khích
các hiệp hội, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ luật sư…
Liên đoàn Luật sư, các Đoàn luật sư địa phương cần quan tâm hơn nữa đến hoạt động bồi
dưỡng thường xuyên cho luật sư, chú trọng công tác giám sát việc tuân thủ quy tắc đạo đức
nghề nghiệp. Ngoài ra, hoạt động truyền thông cũng cần được tăng cường để xã hội trong đó
có cộng đồng doanh nghiệp hiểu biết hơn về vai trò của luật sư và dịch vụ pháp lý của luật sư.
Cuối cùng, với vai trò trung tâm trong việc phát triển đội ngũ luật sư, phát triển thị trường dịch
vụ pháp lý, mỗi tổ chức luật sư cần dựa trên đặc điểm, tiềm năng phát triển và nhu cầu thị
trường để hoạch định chiến lược trong dài hạn cũng như đặt ra các kế hoạch trong ngắn hạn về
đào tạo, nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển thị trường, qua đó xây dựng được hình ảnh
của tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp, có chất lượng và đáng tin cậy, tiếp tục nâng cao
niềm tin của xã hội và cộng đồng doanh nghiệp đối với hoạt động của luật sư Việt Nam.
Đây là những tiền đề căn bản cho sự phát triển của nghề luật sư nói chung và đội ngũ luật sư
chuyên sâu trong lĩnh vực kinh doanh thương mại, góp phần vào tiến trình cải cách tư pháp,
cải cách hành chính, phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.


21


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

D. KẾT LUẬN
Muốn có một xã hội phát triển công bằng và văn minh thì luôn luôn cần đến pháp luật
để điều tiết nó. Trong đó, Luật sư là một trong những gương mặt đại diện của pháp luật và
công lý. Để nền kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ và bền vững thì luôn luôn cần đến pháp
luật để điều tiết; trong đó Luật sư đóng một vai trò quan trọng. Chính vì vậy chúng ta cần nâng
cao chất lượng Luật sư để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, Luật sư phải cố gắng học
hỏi, tìm tòi những điều hay lẽ phải từ các đồng nghiệp trong nước và trên thế giới. Cần rèn
luyện chuyên môn nghiệp vụ. Quan trọng nhất là trau dồi khả năng thông thạo ngoại ngữ để
vương cao hơn sánh vai bước cùng bạn bè năm châu.
Về phía nhà nước thì phải luôn có những chính sách, đường lối kịp thời, hợp tình và
hơn nữa là phải hợp lý. Các chính sách đưa ra phải đúng thời điểm để đáp ứng cho quá trình
hội nhập kinh tế thế giới một cách nhanh chóng và vũng chắc. Một xã hội văn minh là một xã
hội là một xã hội được điều tiết bằng một hệ thống pháp luật chặc chẽ. Một Luật sư tài – giỏi
là một Luật sư luôn vì dân, vì nước, vì sự phát triển bền vững, nhà nhà ấm no và hạnh phúc.
Với vai trò của Luật sư trong thời đại ngày hôm nay, chúng ta phải tự nhủ với bản thân luôn
luôn cống hiến cho đất nước, cống hiến vì nền kinh tế nước nhà ngày càng phát triển và vương
xa hơn.
Để vận động, phát triển được tốt nền kinh tế thị trường thì các hoạt động kinh tế rất cần
có trật tự và muốn có được trật tự này thì phải dựa vào pháp luật – công cụ điều tiết không thể
thiếu đó chính là đội ngũ tri thức Luật sư . đặt biệt vai trò của pháp luật sẽ có ý nghĩa rất lớn
trong việc tổ chức, quản lý và phát triển nền kinh tế của đất nước, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam “của dân, do dân, vì dân”, xây dựng xã hội Việt Nam công
bằng, dân chủ, hạnh phúc và văn minh.


22


VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ ĐỒI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA ĐẤT NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

1.
2.
3.
4.

5.
6.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987;
Pháp lệnh Luật sư năm 2001;
Luật Luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012);
Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị “về một số nhiệm vụ trọng tâm
công tác tư pháp trong thời gian tới”, và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trịngày
02/06/2005về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020;
Báo cáo 5 năm tổng kết thi hành Luật luật sư số 46/BC-BTP ngày 06/03/2012.
Giáo trình Luật sư và nghề Luật sư của Học Viện Tư Pháp.

23



×