Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

TỔ CHỨC và HOẠT ĐỘNG HÀNH NGHỀ LUẬT sư ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG và HƯỚNG PHÁT TRIỂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.58 KB, 45 trang )

Tiểu luận

LỜI MỞ ĐẦU
Từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây, nền kinh tế thế giới đang có sự phát triển
vượt bậc. Tốc độ phát triển khoa học kĩ thuật ngày càng cao, nền kinh tế tăng trưởng với
tốc độ chóng mặt đã làm thay đổi cả bộ mặt thế giới, cùng với đó là quá trình hội nhập giao lưu và hợp tác cùng tiến bộ của các nước trên thế giới. Đó là quá trình toàn cầu hóa,
là sự cạnh tranh khốc liệt.
Ở Việt Nam, tháng 12/1986 Đại hội toàn quốc lần thứ VI Đảng cộng sản Việt Nam đã
thông qua đường lối đổi mới và mở rộng nền kinh tế. Đất nước ta từ một nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trải qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới phát triển
kinh tế, nền kinh tế Việt Nam tiến lên một tầm cao mới, tầm cao của công cuộc đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng vững chắc về kinh tế và cơ sở vật chất.
Ngày 11 tháng 1 năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức thương mại thế
giới WTO.Sau 8 năm đàm phán Việt Nam đã có những bước chuẩn bị thật tốt để có thể
bước lên sân chơi bình đẳng với các quốc gia khác trên tòa thế giới.Để chuẩn bị gia nhập
WTO, nhà nước Việt Nam đã có nhiều thay đổi.Một trong những sự thay đổi tất yếu là sự
thay đổi hệ thống pháp luật nhằm thu hẹp khoảng cách giữa pháp luật Việt Nam và pháp
luật quốc tế, tạo sân chơi bình đẳng cho các bên tham gia vào hoạt động thương mại tại
Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu, năm 2005 quốc hội Việt nam đã thông qua nhiều đạo luật
mới. Trong quá trình thay đổi đó,Năm 2006 Việt Nam đã ban hành Luật luật sư (có hiệu
lực từ 1/1/2007). Đây là cơ sở pháp lý tiếp tục củng cố và phát triển đội ngũ luật sư
chuyên nghiệp có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn đóng góp vào công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, hội nhập quốc tế và đáp ứng yêu cầu về phát triển
kinh tế-xã hội của Việt Nam. Trên cơ sở những văn bản pháp lý nêu trên đội ngũ luật sư
của Việt Nam đã hình thành và ngày càng phát triển đông về số lượng, tính chuyên
nghiệp và kinh nghiệm hành nghề cũng ngày được nâng cao. Thực tế khách quan của một
quốc gia đang phát triển đã cho thấy quốc gia đó luôn hướng đến nền dân chủ vững mạnh
và đảm bảo công bằng xã hội.
Không có giai đoạn nào trong lịch sử phát triển của đất nước ta từ xưa đến nay, vị thế và
vai trò của nghề luật sư lại được coi trọng như trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói, đây


là thời điểm mà xã hội Việt Nam đã dần nhìn nhận gần hơn đối với vai trò của nghề luật


Tiểu luận
sư theo đúng chỗ đứng mà nghề này xứng đáng có được. Luật sư đóng một vai trò vô
cùng quan trọng góp phần hình thành nền kinh tế thị trường và là trụ cột của nền kinh tế
quốc dân, luật sư đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo công bằng xã
hội.Chính vì vậy, người dân ngày càng tìm đến luật sư như một nhu cầu cần thiết, số
lượng luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngày một phát triển.
Đất nước ta đã và đang có những thay đổi triệt để tạo điều kiện nhiều hơn để luật sư
thể hiện tầm quan trọng của mình.Liên tiếp trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước
đã thể hiện mối quan tâm đặc biệt giành cho nghề luật sư, cụ thể Nghị quyết 08NQ/TW về cải cách tư pháp và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ vai trò
của luật sư trong nền tư pháp nước nhà. Luật luật sư 2006 thay thế Pháp lệnh luật sư năm
2001 (trước đó nữa là Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987) đã thể hiện thành tựu tích cực
của hoạt động lập pháp đối với nghề luật sư. Đặc biệt, khi mà nhu cầu của xã hội, của nhà
nước đối với nghề luật sưở nước ta được thể hiện ngày một bức thiết, thì những vị lãnh
đạo Nhà nước đã có những sự quan tâm lớn, thể hiện cách nhìn nhận mới cũng như cách
thức sự cụ thể hóa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đối với nghề luật
sư.
Ngày 14/1/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 149/QĐ-TTg lấy ngày 10/10
hàng năm là Ngày truyền thống Luật sư Việt Nam. Luật sư Đỗ Ngọc Thịnh, Phó Chủ tịch
kiêm Tổng Thư ký Liên đoàn luật sư Việt Nam cho biết, đây là một vinh dự hết sức to
lớn cho đội ngũ luật sư Việt Nam, không chỉ khẳng định sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước, cộng đồng xã hội về nghề luật sư, mà còn là mốc son quan trọng đánh dấu sự
trưởng thành của Luật sư và nghề luật sư tại Việt Nam.
Ngày 13/10/2015 Liên đoàn luật sư Việt Nam kỷ niệm 70 năm ngày truyền thống luật sư
Việt Nam (10/10/1945-10/10/2015) và đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba. Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang đã phát biểu và nhấn mạnh thời gian tới cần đào tạo, bồi
dưỡng cho được đội ngũ luật sư có khả năng tư vấn và tranh tụng.
Xuất phát từ tầm quan trọng đối việc nhìn nhận nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay, em xin

chọn đề tài"TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN" làm bài tiểu luận.
Nội dung chính của tiểu luận gồm ba chương:
CHƯƠNG I:


Tiểu luận
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT
NAM
CHƯƠNG III:
GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.


Tiểu luận
CHƯƠNG I:
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ
I. LÍ LUẬN CHUNG LUẬT SƯ
1. Khái quát về sự ra đời, phát triển của nghề luật sư
1.1.Sự ra đời và phát triển của nghề luật sư trên thế giới
Khoảng thế kỷ V trước Công Nguyên, ở một số quốc gia cổ đại Châu Âu (tiêu biểu là
Hy Lạp và La Mã) đã xuất hiện những người có các hoạt động giúp đỡ nguyên cáo hoặc
bị cáo trong các vụ kiện hoặc bênh vực những người bị áp bức, bất công. Đây chính là
hình thái ban đầu của luật sư và nghề luậtsư.
Sau một thời gian dài cho đến vài thế kỷ đầu sau Công Nguyên,ở các quốc gia phong
kiến châu Âu đã hình thành một lớp người am hiểu về pháp luật, có khả năng tranh
luận,chuyên làm công việc “biện hộ” và trợ giúp pháp lý cho người dân. Hoạt động của
họ bước đầu đã mang tính chất nghề nghiệp, được xã hội và Nhà nước ghinhận.

Khi các quốc gia châu Âu bước vào thời kỳ Trung cổ (thế kỷ thứ VI đến thế kỷ XV), với
sự cai trị hà khắc, chuyên chế và phản động của giai cấp phong kiến, cùng với sự thống
trị về tư tưởng của nhà thờ Thiên chúa giáo, sự tự do dân chủ của người dân bị thủ tiêu
hoặc hạn chế, do vậy mà nghề luật sư cũng bị hạn chế, không phát triển. Trong các
khoảng thời gian nói trên, ở châu Á và các khu vực khác còn lại trên thế giới, do tính
chất hà khắc trong chính sách cai trị và đặc điểm của văn hóa, tôn giáo nên vấn đề “biện
hộ”, “bào chữa” chưa được thừa nhận tại các Tòa án, chính vì thế nghề luật sư chậm ra
đời và không có sự phát triển bằng ở châuÂu.
Sau thành công của các cuộc cách mạng tư sản và sự ra đời của các Nhà nước tư sản ở
châu Âu và Bắc Mỹ (thế kỷ 17), cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và giao
dịch
dân
sự,
thương
mại
trên
thế
giới,
luật
sưvànghềluậtsưđãpháttriểnnhanhchóngvàrấtmạnhmẽ.Ngàynay,trên thế giới – đặc biệt là ở
các nước phát triển, luật sư và nghề luật sư có một vai trò vô cùng quan trọng, không thể
thiếu được trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, được Nhà nước và xã hội đặc
biệt coitrọng.
Ở châu Âu vào thời Hy Lạp, La Mã cổ đại, nghề luật sư đã xuất hiện trong đời sống xã
hội. Sử sách kể lại rằng, vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên, trong nhà nước Hy
Lạp cổ, tổ chức toà án đã được hình thành và việc xét xử có sự tham gia của người dân.


Tiểu luận
Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của mình trước Toà hoặc nhờ

người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ bảo vệ hoặc bào chữa. Vào thời đó,
việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị chính
quyền bắt giam, trừng phạt một cách độc đoán và vô cớ. Còn ở La Mã cổ đại, phiên toà
thường có sự tham gia của các nhà chuyên môn, người am hiểu pháp luật để nhắc nhỡ
những quy tắc tôn giáo để tránh việc viện dẫn sai hoặc vi phạm thủ tục tố tụng; xã hội
dần dần hình thành một nhóm người chuyên sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải
pháp luật của họ được xem xét như hoạt động nghề nghiệp. Từ đó, hoạt động của họ
( luật sư) được chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao, nghề
luật sư được xem như một nghề vinh quang trong xã hội.
Khi châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các triều đại phong kiến phân quyền cát
cứ, Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau
nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế độ phong kiến. Luật sư thời ký này không thể
hiện rõ và đầy đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai trò của luật sư bị hạn chế và bóp
nghẹt bởi chế độ xã hội chuyên quyền hà khắc.
Bước sang chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điều kiện khắt
khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một bộ phận người xuất thân từ giai cấp tư sản. Dần
dần, các cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền
các nước tư sản phải mở rộng quyền dân chủ cho người dân, nhu cầu của người dân đối
với việc được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp luật luôn
thường trực. Nghề luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình thành một nghề tự
do.
Hiện nay, ở các nước phát triển, nghề luật sư lại càng được trân trọng, và thực sự nghề
luật sư, bằng tính chất và đòi hỏi đặc thù của nghề nghiệp luôn là một trong những nghề
được yêu thích nhất. Ở Mỹ, rất nhiều vị tổng thống xuất thân là luật sư, nhiều chính trị
gia của nước này đã từng là luật sư trước khi bước vào chính trường. Nói đến thu nhập,
nghề luật sư luôn là nghề có thu nhập dẫn đầu ở các nước phát triển như Mỹ và châu Âu.
Theo thống kê trong năm 2009 của Tạp chí Fortune, trong số 10 tập đoàn trả lương cho
nhân viên cao nhất toàn cầu thì các công ty luật đã chiếm đến con số 6, bao gồm: Baker
Donelson, Bingham McCutchen, Alston & Bird, Perkins Coie, Arnold & Porter và



Tiểu luận
Orrick, Herrington & Sutcliffe. Trong đó, Baker Donelson đứng số một toàn cầu về việc
trả lương cao nhất cho nhân viên của mình.
Như vậy, không ngẫu nhiên mà nghề luật sư thực sự luôn được tôn trọng ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Bởi có được điều đó, qua thực tiễn nghề nghiệp với những đặc thù riêng,
với những phẩm chất, yếu tố cần thiết đảm bảo hành nghề phải đạt ở mức độ cao, không
dễ gì ai cũng có thể theo đuổi nghề này một cách thực sự.
1.2.Sự ra đời và phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam
Trong suốt thời kỳ cổ đại và thời kỳ Bắc thuộc, luật sư và nghề luật sư chưa xuất
hiện.Trong thời đại phong kiến độc lập, đặc biệt là ở triều đại nhà Hậu Lê, nhà nước đã
thừa nhận người dân có quyền kiện tụng, quyền nhờ người khác giúp hoặc bênh vực cho
mình nên đã xuất hiện những người gọi là “thầy cãi”, “thầy kiện”. Đây là hình thái ban
đầu của người luật sư ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến trước khi bị thực dân Pháp xâm
lược và cai trị, ởViệt Nam vẫn chưa xuất hiện “luật sư” theo nghĩa hiệnđại.
Cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, việc áp dụng pháp luật và chế độ xét xử của nước
Pháp ở Đông Dương đã làm xuất hiện hoạt động luật sư. Tuy nhiên, hoạt động luật sư
thời điểm bấy giờ cũng rất hạn chế và là sự độc quyền của ngườiPháp.
Năm 1930, Tổng thống Pháp ký Sắc lệnh thành lập các Luật sư đoàn bên cạnh các Tòa
án ở Đông Dương, chính thức xác lập các tổ chức luật sư ở Việt Nam. Việc đào tạo các
luật sư ở Việt Nam cũng bắt đầu được thực hiện từ giai đoạnnày.
Từ đó cho đến khi cách mạng tháng Tám thành công thì bộ máy tư pháp nước ta cũng
được tổ chức lại. Hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu chính quyền mới đã ký Sắc lệnh số
46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh số 46/SL duy trì tổ chức
luật sư cũ trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư nhưng
không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền
cơ bản của công dân, cụ thể Điều 67 của Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền
tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.



Tiểu luận
Do hoàn cảnh lịch sử với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ kế tiếp nhau, toàn dân
ta đã phải tập trung sức người, sức của cho nhiệm vụ cứu nước. Với điều kiện đó, tổ chức
luật sư không thể duy trì. Nhiều luật gia, luật sư đã ra mặt trận, lên chiến khu hoặc tham
gia vào hoạt động tư pháp tại các vùng do chính quyền ta kiểm soát, nghề luật sư giai
đoạn này gặp muôn vàn khó khăn. Tuy thế, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến
việc bảo đảm quyền bào chữa trước Toà án của bị cáo, một trong những quyền cơ bản
của công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định
nguyên cáo, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình.
Tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào chữa và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm
1959 (Điều 101) đã quy định "Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm"; tiếp đó
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ngoài việc khẳng định
bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập tổ chức luật sư để giúp
cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để thực hiện quy định của Hiến pháp, trong giai đoạn triển khai xây dựng văn bản pháp
luật về tổ chức luật sư, đội ngũ bào chữa viên tiếp tục được củng cố và phát triển, cụ thể
ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 691/QLTPK về công tác bào chữa,
trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương thành lập một Đoàn bào chữa viên. Riêng ở hai thành
phố Hà Nội và Hồ Chí Minh thì thành lập Đoàn luật sư, bào chữa viên, tập hợp các luật
sư đã được công nhận trước đây và các bào chữa viên, đến cuối năm 1987, trên cả nước
đã có 30 Đoàn bào chữa viên với gần 400 bào chữa viên.
Sau ngày thống nhất đất nước, với yêu cầu khách quan, mang tính sống còn là phải đổi
mới, xoá bỏ cơ chế quan liêu-bao cấp và mở rộng dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV năm 1986 đã mở đầu một thời
kỳ lịch sử mới xây dựng đất nước, thời kỳ đổi mới. Đường lối đổi mới do Đại hội vạch ra
đã tác động sâu rộng đến mọi mặt hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp.

Các đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, trong
đó có việc tăng cường bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ quan tố tụng khác. Đó cũng chính là tiền đề quan


Tiểu luận
trọng để vực dậy mạnh mẽ hơn nghề luật sư ở nước ta. Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ
chức luật sư được ban hành ngày 18/12/1987. Có thể nói, đây là văn bản pháp luật có ý
nghĩa lịch sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề
luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh quy định rõ tiêu chuẩn được công nhận
là luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật sư và tổ chức các
Đoàn luật sư ở các tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ương. Chỉ sau gần 10 năm thi hành
Pháp lênh, ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Đoàn luật
sư; đội ngũ luật sư trong cả nước đã đạt tới con số hàng ngàn luật sư. Hoạt động luật sư
cũng có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tăng cường một bước về số lượng và chất
lượng tham gia tố tụng của luật sư trong các vụ án hình sự, dân sự, các luật sư đã từng
bước mở rộng hoạt động hành nghề sang lĩnh vực tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch
vụ pháp lý khác.
Khi bước sang nửa cuối thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn quan trọng của quá
trình đổi mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế thị trường, yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế ngày càng trở lên sâu
sắc, ở mức độ cao hơn.
Để đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Nội dung của
Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta
theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường
vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá
trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh,
đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong 5 năm đó
các luật sư đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công
ty luật hợp danh. Các Đoàn luật sư được xây dựng lại và củng cố để làm đúng chức năng

của tổ chức xã hội-nghề nghiệp tự quản của các luật sư. Hoạt động hành nghề của luật sư
cũng được tăng lên đáng kể về phạm vi và chất lượng. Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm
2001 là văn bản mở đầu cho quá trình chuyên nghiệp hoá và hội nhập quốc tế của nghề
luật sư ở Việt Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật
sư ở nước ta.


Tiểu luận
Không dừng lại ở đó, cùng với bước phát triển và những yêu cầu mới của xu thế toàn
cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta đã có những bước phát triển
nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang tính chất đột phá. Việt Nam gia
nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển
đất nước, đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ quan trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp
luật và các thiết chế cùng cơ chế vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết khi gia
nhập WTO. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước ta đã ban thành một số lượng
lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật
sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
01/01/2007.
Sự kiện Luật Luật sư được ban hành và đi vào đời sống đã góp phần nâng cao vị thế của
luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ luật sư, nghề luật sư
mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với luật sư và nghề luật sư ở các nước tiên tiến trên
thế giới. Có thể nói, Luật Luật sư là mốc son đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của
pháp luật về luật sư ở Việt Nam, và qua đó mở ra nhiều triển vọng mới mẽ cho nghề luật
sư.
Từ đó có thể thấy luật sư và nghề luật sư với hình thái ban đầu là biện hộ, ra đời do
nhu cầu tự thân của con người. Tuy nhiên, quá trình phát triển của nó phụ thuộc vào các
yếu tố như: chính trị, kinh tế,văn hóa, tôn giáo, truyền thống…. Trong các yếu tố đó thì
bản chất của nhà nước cầm quyền (yếu tố chính trị) và trình độ phát triển kinh tế (yếu tố
kinh tế ) là các yếu tố chủ yếu nhất và là quan trọngnhất.
2. Khái niệm của luậtsư và nghề luật sư

2.1. Luật sư
Theo pháp luật Việt Nam, để trở thành luật sư cần đáp ứng các tiêu chuẩn sau đây:
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ Quốc, tuân thủ pháp luật, có đạo đức tốt, có bằng
cử nhân luật được nhà nước Việt Nam thừa nhận, đã qua đào tạo nghề, đã qua tậpsự.
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu với nhau rằng: luật sư là một chức danh tư pháp độc
lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp
luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước tòa án và thực hiện các dịch vụ


Tiểu luận
pháp lý khác. Điều 2 Luật Luật sư năm 2006 quy định: “Luật sư là người có đủ tiêu
chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý
theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều
10 Luật Luật sư năm 2006 như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã được
đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm
hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư”. Lưu ý rằng, người có đủ tiêu chuẩn quy
định tại Điều 10 của Luật luật sư muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành
nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
2.2. Nghề luật sư
Nghề luật sư ở Việt Nam trước hết là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến
thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong phạm vi hành nghề theo
quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự
công lý, góp phần bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, nghề luật sư không giống như những nghề bình thường khác
vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì việc hành nghề luật sư
còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Điều này tạo nên nét đặc thù riêng
của nghề luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là
kỹ năng tranh tụng của các luật sư.

Xét về tính chất, có thể hiểu nghề luật sư có ba tính chất cơ bản như sau:
Thứ nhất, tính chất trợ giúp: Nói đến trợ giúp nghĩa là nói đến sự giúp đỡ, bênh vực
không vụ lợi của luật sư cho những người ở vào vị thế thấp kém. Những người được trợ
giúp thường là người bị ức hiếp, bị đối xử bất công trái pháp luật trong xã hội hay những
người nghèo, người già cô đơn, người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia
đình. Do đó, tính chất này thể hiện hoạt động của nghề luật sư không chỉ là bổn phận mà
còn là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
Thứ hai, tính chất hướng dẫn: Thông thường, luật sư thực hiện việc hướng dẫn cho khách
hàng hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, để từ đó họ biết cách tháo gỡ vướng


Tiểu luận
mắc sao cho phù hợp với pháp lý và đạo lý, cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng của họ.
Thứ ba, tính chất phản biện: Là những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan
điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp lý và đạo lý. Luật sư lấy
pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm
xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải,
loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý.
Từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, chúng ta thấy rằng không dễ dàng để có thể thực
hiện nghề này một cách bình thường. Ở các nước phát triển nghề luật sư rất được coi
trọng trong xã hội. Người được phép hành nghề luật sư phải trải qua nhiều chương trình
đào tạo và phải là người hội đủ nhiều phẩm chất quan trọng như thông minh, trong sáng,
trung thực, dũng cảm. Luật sư phải biết lấy pháp luật, đạo đức xã hội, lẽ sống công bằng
và chân lý khách quan làm cơ sở cho hoạt động nghề nghiệp thì mới được tin tưởng và
trân trọng.
3. Đặc điểm của nghề luậtsư
Luật sư là người hành nghề luật, cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Tuy nhiên,
không chỉ bảo vệ lợi ích cho khách hàng mà thông qua hoạt động nghề nghiệp, luật sư
góp phần quan trọng bảo vệ công lý và bảo vệ các giá trị tốt đẹp của con người, của xã

hội như: tự do, dân chủ, công bằng ….
3.1. Nghề luật sư trước hết là một nghề luật
Nói nghề luật sư là một nghề luật trước hết nhằm để phân biệt với các nghề khác trong
xã hội. Như vậy, nói tới nghề luật là nói tới công việc chuyên môn của những người hoạt
động liên quan đến pháp luật, như nghề thẩm phán, công tố, công an, công chứng… Tuy
nhiên, nghề luật sư có những khác biệt với những nghề liên quan đến pháp luật nói trên
không chỉ ở chức năng, theo sự phân công của xã hội, mà còn ở chỗ nó được thể hiện qua
các phương thức hành nghề một cách tự do theo khuôn khổ của pháp luật. Nghề luật sư
bao hàm ý nghĩa chỉ những người hội đủ điều kiện theo quy định của pháp luật mới được
phép hành nghề luật sư. Điều này cũng phân biệt một số trường hợp được coi là người
bào chữa hoặc là người đại diện theo ủy quyền như quy định trong pháp luật tố tụng (như


Tiểu luận
bào chữa viên nhân dân, người thân thích của bị can, bị cáo…) nhưng không phải là
người hoạt động trong nghề luật sư nhằm giúp cho quá trình hành nghề được hợp pháp.
3.2. Nghề luật sư mang tính chất dịch vụ và được nhận thù lao của khách hàng
Tính chất dịch vụ của nghề luật sư không phải đã được thừa nhận rộng rãi. Nhiều
người quan niệm không nên đề cập đến tính chất dịch vụ như một trong những đặc điểm
của nghề luật sư bởi sự cao quý của nghề nghiệp này. Hơn nữa, hiểu dịch vụ như là “đổi
trao, mua bán” thứ hàng hóa là “kiến thức - kỹ năng pháp luật” sẽ hạ thấp vai trò của luật
sư trong việc thúc đẩy sự phát triển dân chủ trong hoạt động tư pháp và xã hội nói chung.
Tính chất dịch vụ của nghề luật sư là một loại dịch vụ đặc biệt, khác với quan niệm về
dịch vụ thông thường.
Tuy nhiên, khi coi nghề luật sư mang tính chất dịch vụ, có nghĩa là nói đến khía cạnh
dịch vụ pháp lý. Vì là dịch vụ nên khách hàng phải trả thù lao khi sử dụng dịch vụ pháp
lý cho luật sư, đồng thời quy định rõ căn cứ và phương pháp tính thù lao.
Luật Luật sư 2006 đã thể hiện rõ hướng nhà nước chỉ quy định mức trần thù lao cho luật
sư khi tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự, còn đối với các vụ việc khác thì mức thù
lao do khách hàng và tổ chức hành nghề luật sư thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp

lý.
3.3. Nghề luật sư gắn liền với chức năng xã hội và nhân văn
Có thể nói, nghề luật sư, cũng như các nghề luật khác, từ bao đời nay được coi là một
nghề nghiệp gắn bó với số phận của con người.
Phần nhiều các ý kiến đều quan niệm luật sư có nhiệm vụ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị can, bị cáo đồng thời với nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, tôn trọng sự thật
và pháp luật. Hai nhiệm vụ trên không mâu thuẫn với nhau, trái lại gắn bó hữu cơ và mật
thiết với nhau. Tuy nhiên, có tác giả lại quan niệm sứ mạng cao cả và thiêng liêng của
luật sư là bênh vực và bảo vệ kẻ yếu. “Kẻ yếu” ở đây được hiểu là “người dân trong quan
hệ với cơ quan công quyền, người kém hiểu biết hơn và nghèo hơn trong quan hệ với
người hiểu biết hơn và giàu hơn…Kẻ yếu, để làm tăng sức mạnh của mình thì có một
cách tốt là sử dụng luật sư”10. Quan niệm như trên không phải là một quan niệm đúng cả
về phương diện lịch sử và bản chất nghề nghiệp luật sư. Không thể quan niệm quyền lợi
người dân như là “kẻ yếu” chỉ vì họ kém hiểu biết hoặc nghèo hơn người khác. Phải nhìn
nhận rằng, dân chủ và nhân đạo là bản chất của chế độ XHCN. Nhà nước ta coi trọng
quyền của con người. Những quyền này được Hiến pháp quy định (Điều 70): “Công dân


Tiểu luận
có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Quyền
này được nêu thành nguyên tắc cơ bản và được xếp lên hàng đầu. Sự gắn bó của nghề
nghiệp luật sư với số phận của con người, bất luận trong trường hợp nào, cũng được coi
là sự kết nối tự nhiên, mang tính bản chất. Đối tượng của nghề nghiệp luật sư, vì thế
không đơn thuần mang tính dịch vụ và chỉ nghĩ đến việc kiếm lời từ dịch vụ đó, mà trước
hết chính là nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân cần được sự trợ giúp về
mặt pháp lý.
3.4. Nghề luật sư hoạt động dựa trên pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư
Cũng như bất cứ hoạt động nghề nghiệp nào khác, nền tảng hoạt động của nghề luật sư
phải dựa trên pháp luật và các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Pháp luật về luật

sư được coi là hệ thống các quy phạm pháp luật xác định vị trí, vai trò của luật sư trong
xã hội, quy định các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hành nghề, phạm vi quản lý Nhà
nước đối với hoạt động luật sư và tính tự quản trong tổ chức nghề nghiệp luật sư; xử lý vi
phạm trong hoạt động nghề nghiệp… Tuy nhiên, khi nói tới quy tắc đạo đức và ứng xử
nghề nghiệp luật sư như chuẩn mực nền tảng đạo đức và kỷ luật của hoạt động luật sư thì
cũng không có nghĩa là quy chế này “chi phối luật sư cả trong công việc và đời sống
riêng của họ” như có tác giả đã đề cập. Ở đây, chúng ta chỉ có thể nói đến sự chi phối
trong hoạt động nghề nghiệp và những tác động của hành vi ứng xử của luật sư trong
cuộc sống riêng có thể làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của luật sư.
Tuy đối tượng và phạm vi điều chỉnh của pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp luật sư có khác nhau, nhưng giữa chúng có mối liên hệ mật thiết và chi phối lẫn
nhau. Pháp luật về luật sư có tác dụng như “hành lang”, “khuôn mẫu chung” cho luật sư
hoạt động với các quyền và nghĩa vụ cụ thể trước pháp luật, còn quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp luật sư lại chủ yếu điều chỉnh hành vi ứng xử của luật sư trong hoạt động
nghề nghiệp và trong xã hội, nhưng cũng đòi hỏi phải được sự tôn trọng từ phía các luật
sư. Trong nhiều trường hợp, đối với nghề nghiệp luật sư, các quy tắc ứng xử thuộc về
phạm trù đạo đức lại chi phối và có tác động lớn lao đến uy tín, danh dự của luật sư và
ảnh hưởng chi phối rất nhiều đến chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Sự cộng
hưởng qua lại giữa pháp luật và quy tắc trách nhiệm nghề nghiệp trong hoạt động của luật
sư là một trong những minh chứng cho mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức nói
chung.Tuy nhiên, điều chúng tôi muốn bàn thêm chính là ở chỗ, khi xem xét mối quan hệ


Tiểu luận
giữa pháp luật và đạo đức nói chung, người ta không thể không đề cập đến một vấn đề lý
luận rất quan trọng là với sự trùng khớp về nội hàm của hai khái niệm này trong mục đích
điều chỉnh hành vi của xã hội, cần phải nhìn thấy “tính pháp lý” của các quy phạm đạo
đức và “tính đạo đức” của các quy phạm pháp luật. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát
triển của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật về bảo đảm quyền bào chữa của
công dân, về luật sư nói riêng, đã có một giai đoạn khá dài trong lịch sử, nhiều quan hệ

xã hội được điều chỉnh chủ yếu bằng các hương ước, luật tục và trong nhiều trường hợp,
tính “vượt trội” của thứ lệ làng này cao hơn phép nước. Các quy phạm xã hội như hương
ước, luật tục đã không chỉ tồn tại dưới dạng truyền khẩu, bất thành văn, mà đã được nâng
lên một bước với việc được in ấn dưới nhiều hình thức khác nhau. Nói cách khác, các
quy phạm xã hội này được “luật hóa” thông qua việc thể hiện bằng các văn bản mang
tính chế ước, có tác dụng cưỡng chế nhất định, thứ cưỡng chế không xuất phát từ quyền
lực Nhà nước. Ở chiều ngược lại, nhiều quy phạm pháp luật lại mang tính định hướng,
giáo dục hơn là răn đe, trừng phạt.
Vấn đề này có ý nghĩa lý luận to lớn ở chỗ, không chỉ đôi khi các giá trị đạo đức có ý
nghĩa ràng buộc trách nhiệm công dân lớn hơn pháp luật, mà thật sự nền tảng phát triển
của pháp luật trong đời sống sẽ có một chất xúc tác tốt hơn nếu tính tự giác và ý thức
pháp luật được hình thành từ đạo lý, từ bề dày lịch sử truyền thống văn hóa của dân tộc.
Bất luận trong trường hợp nào, vấn đề cốt lõi là làm sao cho người dân nhận ra được nhu
cầu về dịch vụ pháp lý một cách trung thực và lựa chọn được hình thức dịch vụ thích hợp
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3.5. Nghề luật sư không thể kiêm nhiệm
Thông lệ hành nghề luật sư trên thế giới là bất khả kiêm nhiệm. Tuy nhiên, do đặc
điểm lịch sử của đất nước và quá trình hình thành nghề luật sư ở Việt Nam, nên trong
một thời gian khá dài sau giải phóng, pháp luật về luật sư vẫn cho phép duy trì chế độ
luật sư kiêm chức. Những luật sư kiêm chức này thực chất vẫn bảo đảm các tiêu chuẩn
hành nghề luật sư, nhưng họ đang là công chức hoặc những người làm việc liên quan đến
pháp luật khác, chiếm tỷ lệ gần 40% số lượng luật sư trong cả nước. Khiếm khuyết của
tình trạng kiêm nhiệm này trong thời gian qua là luật sư kiêm chức không thật sự sống
với nghề và bằng nghề, thời gian dành cho hoạt động luật sư bị chi phối bởi thời gian làm
việc mang tính bắt buộc của công chức, thậm chí gây phiền hà cho các cơ quan tiến hành
tố tụng khi vắng mặt tại phiên tòa xét xử bị cáo mà mình đã nhận trách nhiệm bào chữa.


Tiểu luận
Tính không chuyên nghiệp trong hoạt động luật sư về phương diện này còn làm cho

người cần hỗ trợ về pháp lý, bị can, bị cáo cảm thấy không tin tưởng vào sự tận tâm của
luật sư, các cơ quan tiến hành tố tụng vì thế mà có đánh giá không tốt về hoạt động nghề
nghiệp luật sư, giảm thiểu vai trò luật sư trong đời sống xã hội.
Bất khả kiêm nhiệm như một đặc điểm trong hoạt động của nghề luật sư không chỉ bảo
đảm hoạt động này mang tính chuyên nghiệp, mà còn góp phần nâng cao vị trí, vai trò
của luật sư trong xã hội. Mặt khác, về phương diện pháp lý, Pháp lệnh công chức quy
định cán bộ, công chức không được thành lập và tham gia thành lập, quản lý điều hành
các loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã, trường học, tổ chức nghiên cứu khoa học tư;
không được tư vấn về các công việc có liên quan đến bí mật Nhà nước, bí mật công tác,
các công việc thuộc thẩm quyền giải quyết của mình… Quan điểm của những nhà làm
luật cho rằng, để tiến tới chuyên nghiệp nghiệp hóa đội ngũ luật sư, cần thực hiện nguyên
tắc bất khả kiêm nhiệm để luật sư có thể chuyên tâm với nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu
giúp đỡ pháp lý ngày càng phong phú và phức tạp của nhân dân.
3.6. Nghề luật sư là hoạt động mang tính quốc tế
Tính chất quốc tế của hoạt động nghề nghiệp luật sư hình thành cùng với sự phát triển
của nghề luật sư trong lịch sử. Cùng với sự phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội của
loài người, các cuộc chiến tranh liên miên đã kéo theo sự xê dịch của các nền văn hóa và
pháp lý. Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế và chủ động hội nhập đời sống quốc tế,
luật sư các nước trên thế giới đã mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động ra khỏi biên giới
quốc gia, đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong việc thúc đẩy các quan hệ kinh tế,
chính trị, xã hội giữa các nước. Người ta đã quen với hình ảnh bên cạnh các doanh nghiệp
quốc tế đến hợp tác kinh doanh tại Việt Nam có một đội ngũ luật sư giúp tư vấn và soạn
thảo hợp đồng, tham gia giải quyết tranh chấp. Các hiệp ước song phương và đa phương
ký kết giữa các nước có sự tham gia soạn thảo của các luật sư giàu kinh nghiệm. Trong
điều kiện đất nước chủ động tham gia tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ban hành
nhiều văn bản pháp quy điều chỉnh hoạt động hành nghề tư vấn pháp luật của tổ chức luật
sư nước ngoài tại Việt Nam, theo đó các luật sư nước ngoài chỉ được tư vấn về pháp luật
nước ngoài, pháp luật quốc tế trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại, không được
tư vấn pháp luật Việt Nam, không tham gia tố tụng trước Tòa án Việt Nam. Nhiều luật sư
Việt Nam đã tham gia giải quyết các vụ kiện tranh chấp có yếu tố nước ngoài tại các Tòa

án, trọng tài quốc tế…


Tiểu luận
4. Vai trò đối với xã hội của luậtsư
Vai trò đối với xã hội hay chức năng xã hội của luật sư được quy định tại điều 3 Luật
luật sư 2006 và được sửa đổi bổ sung năm 2012 “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp
phần bảo vệ công lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, vănminh.”
Vai trò đối với xã hội của luật sư góp phần xây dựng xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Khi nói tới vai trò trên còn có nghĩa là trong sự phát triển dân chủ của xã hội nói chung
và hoạt động tư pháp nói riêng, cần quan tâm đến các yếu tố tác động đến quá trình hình
thành quan niệm về luật sư và nghề luật sư, đặt vị trí luật sư trong các mối quan hệ chi
phối đến hoạt động nghề nghiệp, xem xét các yếu tố này trong tổng thể mặt bằng các giá
trị của sự phát triển dân chủ, quan niệm về sự công bằng, văn minh như các thành tố của
xã hội dân chủ. Nghiên cứu bản chất của hoạt động luật sư trong tiến trình phát triển dân
chủ của xã hội hiện còn rất nhiều quan điểm khác nhau. Nhưng trước hết muốn thực hiện
chức năng góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì trước hết phải
đảm bảo các điều kiện và cơ sở kinh tế cho việc thực hiện các quyền tự do và dân chủ của
công dân, đến việc gây dựng, vun đắp nhận thức và sự tin cậy của người dân với các
thiết chế dân chủ, trong đó chế định luật sư được nhìn nhận như một trong những yếu tố
đảm bảo cho sự phát triển dân chủ của xã hội. Hoạt động luật sư mang đến cho xã hội nói
chung và tố tụng tư pháp nói riêng những giá trị của dân chủ, thông qua sự bình đẳng
trong tranh tụng, đề xuất yêu cầu, đại diện hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức trước những hành vi xâm phạm, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của nền
kinh tế thị trường phát triển ổn định và vững chắc. Vì thế, mức độ phát triển của nghề
luật sư ở một quốc gia có thể xem là một trong những điều kiện đánh giá sự phát triển của
nền dân chủ và việc xây dựng Nhà nước phápquyền.
Ngoài ra luật sư còn giúp cho các cá nhân, tổ chức thực hiện các thủ tục pháp lý khác liên

quan đến thủ tục hành chính, giúp đỡ về pháp luật trong trường hợp giải quyết khiếu nại,
dịch thuật, xác nhận giấy tờ, thủ tục thành lập doanh nghiệp, chuyển nhượng bất động
sản, xuất nhập cảnh,…cũng đã được luật sư quan tâm và có chiều hướng phát triển nhanh
trong những năm trở lại đây, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Hoạt động
đại diện ngoài tố tụng còn rất mới mẻ đối với các luật sư và hiện nay chưa được phổ
biến.Tuy nhiên, trong những năm gần đây có những tổ chức hành nghề


Tiểu luận
luậtsưvàluậtsưđạidiệnchokháchhàngtrongcácgiaodịchkinhdoanh,thương mại có kết quả
được khách hàng tín nhiệm. Có thể nói, mặc dù còn những hạn chế nhưng hoạt động luật
sư trong thời gian qua đã đáp ứng một phần quan trọng trong nhu cầu giúp đỡ pháp lý
cho công dân và tổ chức, đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị can, bị cáo và các đương sự khác, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
5. Quy trình trở thành luật sư
Người muốn trở thành luật sư và được phép hành nghề luật sư thì phải qua một quy
trình như sau: tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật, qua đào tạo nghề luật sư, tập sự hành
nghề luật sư.
5.1. Đào tạo nghề luật sư (Điều 12 của Luật Luật sư)
Đào tạo nghề luật sư là một khâu quan trọng, một yêu cầu bắt buộc của quy trình trở
thành luật sư. Xuất phát từ yêu cầu chuyên nghiệp hoá, chuyên môn hoá của nghề luật sư,
pháp luật yêu cầu người hành nghề luật sư phải được đào tạo về nghề. Nội dung, chương
trình đào tạo nghề luật sư tập trung chủ yếu vào những kỹ năng hành nghề cơ bản trong
các lĩnh vực hành nghề như tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật; những vấn đề cơ bản về
đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
Thời gian của khoá đào tạo nghề luật sư là 6 tháng. Sau khi tốt nghiệp khoá đào tạo
nghề luật sư, học viên được cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp khoá đào tạo nghề luật sư.
Người tham dự khoá đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài và có Giấy chứng nhận tốt nghiệp
đào tạo nghề luật sư do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp muốn trở
thành luật sư Việt Nam thì phải thực hiện thủ tục đề nghị công nhận Giấy chứng nhận đó.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền công nhận Giấy chứng nhận đào tạo nghề luật sư
do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài cấp.
Vấn đề miễn đào tạo nghề luật sư được quy định tại Điều 13 của Luật Luật sư. Luật Luật
sư quy định đối tượng được miễn đào tạo nghề luật sư rộng hơn so với Pháp lệnh luật sư
năm 2001. Những người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; giáo sư, phó giáo
sư chuyên ngành luật; tiến sỹ luật; đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Toà án, kiểm tra
viên cao cấp ngành Kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên
cao cấp trong lĩnh vực pháp luật; đã là thẩm tra viên chính ngành Toà án, kiểm tra viên
chính ngành Kiểm sát; chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong
lĩnh vực pháp luật thì được miễn đào tạo nghề luật sư.


Tiểu luận
Luật Luật sư giao cho Chính phủ quy định về cơ sở đào tạo nghề luật sư. Theo quy định
tại Điều 2 của Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư và Thông tư số 02/2007/TT-BTP ngày
25/4/2007, thì cơ sở đào tạo nghề luật sư ở Việt Nam bao gồm Học viện Tư pháp thuộc
Bộ Tư pháp và cơ sở đào tạo nghề luật sư do Tổ chức luật sư toàn quốc thành lập.
Cơ sở đào tạo nghề luật sư do Tổ chức luật sư toàn quốc thành lập có tư cách pháp nhân;
hoạt động theo quy định của pháp luật áp dụng đối với cơ sở ngoài công lập trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo.
Chỉ có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư do Học Viện Tư pháp thuộc Bộ
Tư pháp và Tổ chức luật sư toàn quốc hoặc do cơ sở đào tạo nghề luật sư của nước ngoài
cấp được Bộ trưởng Bộ Tư pháp công nhận mới có giá trị để xem xét cấp Chứng chỉ hành
nghề luật sư.
5.2. Tập sự hành nghề luật sư (Điều 14), kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư
(Điều 15)
Quy định về việc tập sự hành nghề luật sư là một điểm mới của Luật Luật sư so với
Pháp lệnh luật sư năm 2001. Luật Luật sư thay chế định “luật sư tập sự” theo quy định
của Pháp lệnh luật sư năm 2001 bằng chế định “người tập sự hành nghề luật sư”.Theo

đó, người đã tốt nghiệp khoá đào tạo nghề luật sư có thể lựa chọn một tổ chức hành nghề
luật sư (Văn phòng luật sư Việt Nam, Công ty luật Việt Nam, Chi nhánh của Công ty luật
Việt Nam, Chi nhánh của tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam, Công ty
luật nước ngoài tại Việt Nam, Chi nhánh của Công ty luật nước ngoài tại Việt Nam) để
tập sự và phải đăng ký việc tập sự tại Đoàn luật sư địa phương nơi tổ chức hành nghề luật
sư mà mình tập sự đăng ký hoạt động.
Mục đích của việc tập sự hành nghề luật sư là giúp người tập sự hành nghề luật sư có
điều kiện thực tế để rèn luyện những kỹ năng hành nghề đã được học trong thời gian đào
tạo nghề luật sư. Trong thời gian tập sự, dưới sự hướng dẫn của luật sư hướng dẫn tập sự,
người tập sự hành nghề luật sư có thể tiếp cận trực tiếp với vụ việc để học cách tự mình
giải quyết vụ việc. Ví dụ: trong vụ việc tư vấn pháp luật, người tập sự hành nghề luật sư
có thể cùng luật sư hướng dẫn tiếp khách hàng, chuẩn bị ý kiến tư vấn cho khách hàng,
luật sư hướng dẫn có thể phân công người tập sự hành nghề luật sư thực hiện một số công
việc giao dịch, thu thập thông tin khác. Trong lĩnh vực tham gia tố tụng, người tập sự
hành nghề luật sư có thể cùng luật sư hướng dẫn gặp gỡ đương sự, bị can, bị cáo, cùng


Tiểu luận
nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị bài bào chữa, ý kiến biện hộ; người tập sự hành nghề luật sư
tham dự phiên toà cùng luật sư hướng dẫn để giúp luật sư hướng dẫn thực hiện việc bào
chữa, bảo vệ cho khách hàng.
Tuy nhiên, do đang trong thời gian học việc và chưa phải là luật sư, nên người tập sự
hành nghề luật sư không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng; tất cả
công việc mà người tập sự hành nghề luật sư thực hiện đều phải được luật sư hướng dẫn
phân công. Người tập sự hành nghề luật sư phải chịu trách nhiệm trước luật sư hướng dẫn
về những công việc đó, còn luật sư hướng dẫn chịu trách nhiệm trước khách hàng và
trước pháp luật về kết quả của những công việc mà mình đã phân công cho người tập sự.
Khi hết thời gian tập sự, luật sư hướng dẫn có văn bản nhận xét về kết quả tập sự của
người tập sự hành nghề luật sư gửi Đoàn luật sư nơi người tập sự hành nghề luật sư đăng
ký tập sự. Người đã hoàn thành thời gian tập sự thì được tham dự kỳ kiểm tra kết quả tập

sự hành nghề luật sư do Bộ Tư pháp phối hợp với Tổ chức luật sư toàn quốc tổ chức.
Những người được miễn thời gian tập sự hành nghề luật sư thì không phải tham dự kỳ
kiểm tra.
Bộ Tư pháp phối hợp với Tổ chức luật sư toàn quốc ban hành và hướng dẫn thực hiện
Quy chế tập sự hành nghề luật sư, trong đó quy định cụ thể về chế độ tập sự, quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề nhận người tập sự, luật sư hướng dẫn và
cá nhân người tập sự. Đoàn luật sư địa phương có trách nhiệm giám sát việc tuân theo
Quy chế tập sự hành nghề luật sư.
Quy định về tập sự hành nghề luật sư theo Luật Luật sư có ưu điểm là phân định rõ
việc tập sự hành nghề (giai đoạn học việc) của người tập sựvà hoạt động hành nghề của
luật sư, khắc phục tình trạng vừa tập sự vừa hành nghề gây ảnh hưởng đến chất lượng dịch
vụ pháp lý cung cấp cho khách hàng. Hơn nữa, quy định này bảo đảm được sự thống nhất
giữa quy định của Luật Luật sư với các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố
tụng dân sự. Theo quy định của hai Bộ luật này, thì chỉ luật sư mới được tham gia tố tụng,
chứ không có quy định về luật sư tập sự. Mặt khác, quy định này cũng khắc phục được các
hạn chế, bất cập khi thực hiện quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001 về việc tập sự của
luật sư tập sự trong thời gian qua.Pháp luật về hành nghề luật sư của phần lớn các nước
khác trong khu vực và trên thế giới cũng có quy định tương tự như quy định về việc tập
sự hành nghề luật sư của Luật Luật sư.


Tiểu luận
Thời gian tập sự hành nghề luật sư là 18 tháng, trừ trường hợp được giảm thời gian tập
sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 16 của Luật Luật sư. Thời gian tập sự hành nghề
luật sư được tính từ ngày đăng ký tập sự tại Đoàn luật sư. Luật sư tập sự theo quy định
của Pháp lệnh luật sư năm 2001 được tiếp tục tập sự hành nghề luật sư theo quy định của
Luật Luật sư; không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng.
Trong trường hợp luật sư tập sự theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001 đang
thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng thì phải giao lại vụ, việc đó cho luật sư hướng
dẫn; trong trường hợp khách hàng không đồng ý thì tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư

hướng dẫn hành nghề và khách hàng thoả thuận giải quyết.
Thời gian đã tập sự hành nghề luật sư theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001
được tính vào thời gian tập sự hành nghề luật sư theo quy định của Luật Luật sư.Thẻ luật
sư tập sự được cấp theo Pháp lệnh luật sư năm 2001 không còn giá trị. Ban Chủ nhiệm
Đoàn luật sư có trách nhiệm thu hồi Thẻ luật sư tập sự.Luật sư tập sự theo quy định của
Pháp lệnh luật sư năm 2001 đang tập sự hành nghề tại một tổ chức hành nghề luật sư ở
địa phương khác với địa phương nơi có Đoàn luật sư mà mình đã gia nhập được tiếp tục
tập sự hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư đó, nhưng phải đăng ký việc tập sự theo
quy định của Luật Luật sư tại Đoàn luật sư ở địa phương nơi tổ chức hành nghề luật sư
mà mình đang tập sự đăng ký hoạt động. Khi đăng ký việc tập sự, người tập sự hành nghề
luật sư phải chuyển hồ sơ gốc từ Đoàn luật sư nơi đã gia nhập đến Đoàn luật sư nơi đăng
ký tập sự.
Việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư được quy định tại Điều 15 của Luật
Luật sư. Bộ Tư pháp chủ trì phối hợp với Tổ chức luật sư toàn quốc tổ chức kiểm tra kết
quả tập sự hành nghề luật sư. Việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư do Hội đồng
kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư tiến hành. Thành phần Hội đồng bao gồm đại
diện lãnh đạo Bộ Tư pháp làm Chủ tịch, đại diện lãnh đạo Tổ chức luật sư toàn quốc và
một số luật sư là thành viên. Danh sách thành viên Hội đồng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quyết định. Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư được Hội đồng
kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp Giấy chứng
nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư.
Điều 16 của Luật Luật sư quy định về việc miễn, giảm thời gian tập sự. Những người
đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến
sỹ luật, đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát,


Tiểu luận
chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp
luật được miễn tập sự hành nghề luật sư.
Đối với những người đã là thẩm tra viên chính ngành Toà án, kiểm tra viên chính

ngành Kiểm sát, chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh
vực pháp luật thì được giảm hai phần ba thời gian tập sự hành nghề luật sư.
Đối với những người có thời gian công tác ở các ngạch chuyên viên, nghiên cứu viên,
giảng viên trong lĩnh vực pháp luật, thẩm tra viên ngành Toà án, kiểm tra viên ngành
Kiểm sát từ mười năm trở lên thì được giảm một nửa thời gian tập sự hành nghề luật sư.
5.3. Cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư (Điều 17 của Luật Luật sư), thu hồi Chứng
chỉ hành nghề luật sư (Điều 18 của Luật Luật sư)
Cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Bộ Tư
pháp) công nhận một người đáp ứng đủ tiêu chuẩn về chuyên môn (có bằng cử nhân luật,
đã qua đào tạo nghề luật sư, tập sự hành nghề luật sư), yêu cầu về đạo đức và có khả năng
hành nghề luật sư.
Đối với người phải tập sự hành nghề luật sư hoặc chỉ được giảm thời gian tập sự hành
nghề luật sư thì sau khi đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư phải có hồ
sơ cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư gửi Đoàn luật sư nơi đăng ký tập sự. Ban Chủ nhiệm
Đoàn luật sư có trách nhiệm đề nghị bằng văn bản kèm theo hồ sơ gửi Bộ Tư pháp. Trong
trường hợp Đoàn luật sư nhận đủ hồ sơ nhưng không đề nghị Bộ Tư pháp cấp Chứng chỉ
hành nghề luật sư, thì người đó có quyền khiếu nại theo quy định tại Điều 87 của Luật
Luật sư.
Người được miễn đào tạo nghề luật sư và miễn tập sự hành nghề luật sư phải có hồ sơ
cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư gửi trực tiếp đến Bộ Tư pháp mà không phải thông qua
Đoàn luật sư. Việc thẩm tra hồ sơ cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư được thực hiện trên
cơ sở xem xét các tiêu chuẩn luật sư quy định tại Điều 10 của Luật Luật sư. Về vấn đề
này, có một số điểm cần lưu ý, cụ thể như sau:
Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam và thường trú tại Việt Nam. Như
vậy, một người có quốc tịch Việt Nam nhưng đang cư trú ở nước ngoài (người Việt Nam
định cư ở nước ngoài) thì không được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư (điểm b khoản 4
Điều 17 của Luật Luật sư). Trong trường hợp người đã được cấp Chứng chỉ hành nghề
luật sư mà không còn thường trú tại Việt Nam thì bị thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư
(điểm b khoản 1 Điều 18 của Luật Luật sư).



Tiểu luận
Người có bằng cử nhân luật là người tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật do cơ sở
giáo dục đại học của Việt Nam cấp, hoặc có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành luật
do cơ sở giáo dục đại học của nước ngoài cấp và được công nhận tại Việt Nam theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc tham gia (Điều 1 của Nghị định số 28/2007/NĐ-CP).
Phẩm chất đạo đức là một trong những tiêu chuẩn quan trọng đối với luật sư. Luật sư
là người hành nghề pháp luật, giúp đỡ về mặt pháp lý cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Do
vậy, luật sư trước hết phải là người có ý thức tuân thủ pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp. Để duy trì uy tín và danh dự nghề nghiệp, luật sư còn phải là người trung
thực trong cuộc sống, có bản lĩnh nghề nghiệp. Tuy nhiên, tiêu chí để xem xét về tiêu
chuẩn đạo đức đối với luật sư thường không cụ thể. Luật Luật sư chỉ yêu cầu Phiếu lý
lịch tư pháp trong hồ sơ cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư thể hiện ý thức tuân thủ pháp
luật của một cá nhân.
Khoản 4 Điều 17 Luật Luật sư quy định những người không được cấp Chứng chỉ
hành nghề luật sư. Về những trường hợp này, Luật Luật sư về cơ bản kế thừa các quy
định của Pháp lệnh luật sư năm 2001. Một trong những điểm mới của Luật Luật sư so với
Pháp lệnh luật sư năm 2001 là không cho phép người đã bị kết án về tội phạm nghiêm
trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý được hành nghề
luật sư ngay cả khi họ đã được xoá án tích. Quy định này xuất phát từ quan điểm đề cao
danh dự, uy tín của nghề luật sư cũng như đòi hỏi cao hơn về phẩm chất đạo đức đối với
luật sư.
5.4. Gia nhập Đoàn luật sư (Điều 20 của Luật Luật sư)
Kế thừa Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định người được cấp Chứng chỉ
hành nghề luật sư phải gia nhập một Đoàn luật sư để hành nghề luật sư. Người được gia
nhập Đoàn luật sư thì được cấp Thẻ luật sư, có các quyền, nghĩa vụ của luật sư .
Luật Luật sư quy định người được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư có thể gia nhập
bất cứ Đoàn luật sư địa phương nào nơi mình dự kiến sẽ hành nghề thường xuyên tại đó
mà không phụ thuộc vào nơi đăng ký hộ khẩu hay nơi thường xuyên sinh sống của

người đó. Quy định này phù hợp với tính chất của nghề luật sư là nghề tự do, các luật
sư có thể tự do lựa chọn nơi hành nghề trong phạm vi toàn quốc. Về thực tế, phương án
này khắc phục được vướng mắc trong việc gia nhập Đoàn luật sư theo nơi cư trú quy
định tại Pháp lệnh luật sư năm 2001. Tuy nhiên, để bảo đảm hiệu quả của công tác quản


Tiểu luận
lý về luật sư và hành nghề luật sư, Luật quy định luật sư chỉ được thành lập, tham gia
thành lập tổ chức hành nghề luật sư, làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật
sư tại địa phương nơi có Đoàn luật sư mà mình là thành viên.Người có Chứng chỉ hành
nghề luật sư gửi hồ sơ gia nhập Đoàn luật sư đến Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư. Trong
thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ gia nhập Đoàn luật sư, Ban Chủ
nhiệm Đoàn luật sư xem xét, quyết định việc gia nhập Đoàn luật sư. Theo quy định của
Luật Luật sư thì Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư chỉ được từ chối việc gia nhập Đoàn luật sư
nếu người nộp hồ sơ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 17 của
Luật Luật sư. Trong trường hợp từ chối việc gia nhập thì Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư
phải thông báo lý do bằng văn bản. Người bị từ chối có quyền khiếu nại theo quy định tại
Điều 87 củaLuật Luật sư.
Người gia nhập Đoàn luật sư được Tổ chức luật sư toàn quốc cấp Thẻ luật sư theo đề
nghị của Đoàn luật sư. Thời hạn cấp Thẻ luật sư không quá 30 ngày, kể từ ngày gia nhập
Đoàn luật sư. Trong thời gian Tổ chức luật sư toàn quốc chưa được thành lập, việc cấp
Thẻ luật sư do Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư thực hiện theo mẫu thống nhất của Bộ Tư
pháp. Đối với luật sư chuyển từ Đoàn luật sư này sang Đoàn luật sư khác thì phải làm thủ
tục rút tên khỏi danh sách luật sư của Đoàn luật sư mà mình đang là thành viên để chuyển
sinh hoạt đến Đoàn luật sư mới và được đổi Thẻ luật sư.

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT
NAM
I.Những kết quả đạt được trong tổ chức và hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam

1. Về đội ngũ luật sư
Qua 5 năm thi hành Luật Luật sư, số lượng và chất lượng luật sư đã có bước phát triển
đáng kể, cụ thể như sau:
1.1. Về số lượng luật sư
Sau 5 năm thi hành Luật Luật sư, đội ngũ luật sư ở nước ta đã và đang phát triển nhanh về
số lượng . Tính đến tháng 10/2011, trong cả nước đã thành lập 62 Đoàn luật sư/63 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương với 7.072 luật sư và gần 3.500 người tập sự hành nghề luật sư


Tiểu luận
hoạt động trong 2.831 tổ chức hành nghề luật sư (hiện còn tỉnh Lai Châu chưa thành lập
được Đoàn luật sư).
Trong 5 năm qua, đội ngũ luật sư Việt Nam đã tăng thêm hơn 4.000 người (tăng
250,78%), gần 78%trong số đó (khoảng 3.000 người) là luật sư trẻ (có độ tuổi dưới 40) đã
góp phần trẻ hoá đội ngũ luật sư Việt Nam. Sự phát triển đội ngũ luật sư chủ yếu tập trung tại
các thành phố lớn, các tỉnh có điều kiện kinh tế, xã hội phát triển đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội và nhu cầu sử dụng pháp lý của cá nhân, cơ quan, tổ chức tại các địa phương
đó như Đoàn luật sư thành phố Hà Nội từ 812 luật sư (năm 2006) tăng lên 1.754 luật sư
(năm 2011) (tăng 116%), Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh từ 808 luật sư (năm 2006)
tăng lên 3.075 luật sư (năm 2011) (tăng 280,6%) , Đoàn luật sư thành phố Cần Thơ từ 87 luật
sư (năm 2006) tăng lên 204 luật sư (năm 2011) (tăng 134,48%), Đoàn luật sư tỉnh Đồng Nai
từ 54 luật sư (năm 2006) tăng lên 193 luật sư (năm 2011) (tăng 257,4%).v.v. Các địa phương
có điều kiện kém phát triển về kinh tế xã hội cũng đã tăng về số lượng luật sư, đến nay chỉ
còn 12 Đoàn luật sư có số lượng luật sư dưới 10 người (có phụ lục kèm theo).
1.2. Về chất lượng luật sư
Cùng với sự phát triển về số lượng, chất lượng của đội ngũ luật sư ở ước ta đã và đang
từng bước được nâng lên. Thi hành Pháp lệnh luật sư và Luật Luật sư, đội ngũ luật sư có
trình độ cử nhân luật trở lên được nâng từ 59% (năm 1989) lên trên 98% (năm 2010); số
luật sư đã qua đào tạo nghề luật sư chiếm hơn 75% tổng số luật sư của cả nước; số luật sư
có trình độ trên đại học đến nay chiếm trên 5% tổng số luật sư của cả nước. Trong 5 năm

thi hành Luật Luật sư, với hơn 4.000 luật sư được phát triển thì 100% những luật sư này
đều có trình độ cử nhân luật trở lên, 84,2% đã tốt nghiệp khóa đào tạo nghề luật sư,
25,8% là những người đã là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Chuyên viên cao
cấp, Nghiên cứu viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật, Thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa
án, Kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát và tiến sỹ luật, trong số đó có khoảng 20 luật
sư đã có quá trình tập sự hành nghề trong các tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại
Việt Nam. 07 luật sư Việt Nam đã theo học các khoá đào tạo nghề luật sư ở nước ngoài
và được công nhận là luật sư của nước sở tại (Mỹ, Úc, Pháp). Qua khảo sát chất lượng
đội ngũ luật sư thì hiện nay có khoảng trên 100 luật sư thông thạo từ 1 đến 2 ngoại ngữ
trong giao tiếp, khoảng trên 20 luật sư đủ khả năng trực tiếp tham gia đàm phán và giải
quyết các tranh chấp thương mại quốc tế.
Đa số luật sư là những người có phẩm chất đạo đức tốt, yêu nghề và có tâm với nghề,


Tiểu luận
tận tâm trong hoạt động nghề nghiệp phục vụ khách hàng. Nhìn chung các luật sư có ý
thức tuân thủ và chấp hành pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp
của luật sư, có kỷ cương trong việc thực hiện nội quy, quy chế của Đoàn luật sư.
1.3. Về mức độ chuyên môn hoá trong hành nghề luật sư
Đa số luật sư ở nước ta hành nghề trong tất cả các lĩnh vực tham gia tố tụng, tư vấn
pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy số lượng luật sư ở
nước ta trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, song vẫn chưa hình thành được đội
ngũ các luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau. Các luật sư chủ yếu hành nghề
trong hai lĩnh vực dân sự và hình sự. Trong các lĩnh vực pháp luật khác như hành chính,
lao động, kinh tế…tỷ lệ vụ việc mà các luật sư tham gia tương đối thấp. Số lượng luật sư
có đủ kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm
phán giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ 1,2% trong tổng số luật sư, trong đó
chỉ khoảng 20 luật sư có trình độ ngang tầm với luật sư khu vực. Mới có khoảng 10/1.500
tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có
yếu tố nước ngoài.

2. Về hoạt động hành nghề của luật sư
Theo quy định của Luật Luật sư thì phạm vi hành nghề của luật sư bao gồm tham gia
tố tụng, tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác và đại diện ngoài tố tụng. Luật Luật sư
đã mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư so với Pháp lệnh luật sư năm 2001 với việc
quy định luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng, mở rộng thêm hình thức
hành nghề luật sư với tư cách cá nhân. Có thể nói, trên cơ sở những quy định ngày càng
thông thoáng hơn của pháp luật trước yêu cầu mở rộng, phát triển dịch vụ pháp lý của
luật sư trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra
sâu sắc và mạnh mẽ cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư tăng
đáng kể về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng.
Có thể nói rằng, trong 5 năm qua, hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư cho cá
nhân, tổ chức đã tăng cả về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng. Theo báo cáo
của 59 Đoàn luật sư, trong 5 năm (2007 - 2011) đội ngũ luật sư đã tham gia 64.173 vụ án
hình sự (trong đó có 32.752 vụ án do khách hàng mời và 31.421 vụ án theo yêu cầu của


×