CÂU HỎI THẢO LUẬN TRIẾT HỌC
CÂU 1:
* Quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn:
Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, lý luận nhận thức là một nội dung cơ bản của phép biện
chứng; đó là lý luận nhận thức duy vật biện chứng, tức học thuyết về khả năng nhận thức của con
người đối với thế giới khách quan thông qua hoạt động thực tiễn; lý giải bản chất, con đường và
quy luật chung của quá trình con người nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực khách quan nhằm
phục vụ hoạt động thực tiễn của con người,
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử -xã hội của con
người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội.
Khác với các hoạt động khác hoạt động thực tiễn là hoạt động mà con người sử dụng những
công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi chúng theo mục đích của
mình. Đó là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người. Hoạt động thực tiễn bao giờ cũng là
hoạt động vật chất mang tính sáng tạo, có mục đích và tính lịch sử - xã hội.
Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Thực tiễn biểu hiện rất đa dạng với nhiều hình thức, song có ba hình thức cơ bản là:
Hoạt động sản xuất vật chất: Là hoạt động cơ bản, đầu tiên của thực tiễn. Đây là hoạt động
mà con người sử dụng công cụ lao động đểtác động vào giới tự nhiên đểtạo ra của cải vật chất,
các điều kiện cần thiết đểduy trì và phát triển con người và xã hội.
Hoạt động chính trị xã hội: là hoạt động của các cộng đồng người, các tổ chức khác nhau
trong xã hội nhằn cải biến những quan hệ chính trị xã hội. Thúc đẩy xã hội phát triển.
Hoạt động khoa học: là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn, được tiến hành trong
những điều kiện do con người tạo ra nhằm xác định những quy luật biến đổi, phát triển của đối
tượng nghiên cứu. Hoạt động này có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
Mỗi hình thức hoạt động thực tiễn có chức năng khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ,
tác động qua lại với nhau, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là quan trọng nhất, quyết định các
hoạt động thực tiễn khác.
b. Nhận thức và các trình độnhận thức
Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và sáng tạo thếgiới khách quan vào
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.
Quan niệm trên đây về nhận thức xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc lập với ýthức con người và con
người có thể nhận thức được thế giới khách quan ấy.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan; coi nhận thức
là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách thể
của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể nhận thức được mà chỉ có những cái con
người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh là quá trình biện chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo và đi từ
thấp đến cao (chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, chưa toàn diện sâu sắc đến toàn diện sâu
sắc...)
Các trình độnhận thức
Nhận thức là một quá trình với các trình độnhận thức khác nhau, đó cũng là quá trình đi từ
nhận thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận; từ nhận thức thông thường đến trình độ
nhận thức khoa học.
Nhận thức kinh nghiệm: Là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự
vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận
thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm bao gồm cả tri thức kinh nghiệm thông thường và tri
thức kinh nghiệm khoa học. Hạn chế của nhận thức kinh nghiệm là chỉ dừng lại ở sự mô tả sự vật
do đó chỉ đem lại những hiểu biết về các mặt riêng rẽ, bề ngoài, rời rạc, chưa phản ánh được bản
chất và quy luật của sự vật, hiện tượng.
Nhận thức lý luận: Là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc
khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý
luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau, có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó nhận
thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận.
Nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp do đó nó có thể đi trước
những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa
chọn kinh nghiệm hợp lý phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ
trong hoạt động hàng ngày của con người.
Nhận thức thông thường phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi
tiết, cụ thể và với sắc thái khác nhau của sự vật do đó mang tính phong phú, nhiều vẻ, gắn liền với
quan niệm sống hàng ngày. Vì thế nó có vai trò chi phối thường xuyên hoạt động của con người
trong xã hội.
Nhận thức khoa học: là loại nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự
phản ánh đặc điểm bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu.
Nhận thức khoa học vừa có tính khách quan, vừa có tính trừu tượng, khái quát, hệ thống
dưới hình thức các khái niệm, các phạm trù và quy luật khoa học. Để nhận thức khoa học, con
người phải sử dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu và được diễn đạt bằng cả ngôn ngữ
thông thường và thuật ngữ khoa học. Nhận thức khoa học có vai trò to lớn trong hoạt động thực
tiễn, nhất là trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá
trình nhận thức nhằm đạt tới các tri thức chân thực.
Giữa chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau: nhận thức thông thường là cơ sở cho nhận thức
khoa học ngược lại khi đã đạt đến trình độ nhận thức khoa học nó lại tác động trở lại nhận thức
thông thường, làm cho nhận thức thông thường phát triển.
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của chủ ngh ĩa Mác - Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện
chứng với nhau, quy định, tác động qua lại với nhau, trong đó:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của lý luận và là tiêu chuẩn của chân lý; sự hình
thành và phát của lý luận xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn; lý luận phải được
kiểm nghiệm, được bổ sung và phát triển trong thực tiễn
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở, động lực và mục
đích của nhận thức. Chính trong quá trình cải tạo thế giới mà nhận thức, lý luận ở con người mới
được hình thành và phát triển. Thực tế lịch sử cho thấy, con người quan hệ với thế giới bắt đầu
không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn. Trong quá trình này, con người sử dụng các công cụ,
phương tiện tác động vào các sự vật, hiện tượng, buộc chúng phải bộc lộ những thuộc tính và tính
qui luật, nhờ đó mà con người có được những hiểu biết về thế giới khách quan. Ban đầu con người
thu nhận những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm, sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổng
hợp, trừu tượg hóa, khái quát hóa... đểxây dựng thành lý luận. Do đó, có thể nói, thực tiễn cung
cấp những tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực tiễn thì không có nhận thức, không
có lý luận. Những tri thức mà chúng ta có được cho đến hôm nay hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp đều
nảy sinh từ hoạt động thực tiễn.
Quá trình cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn cũng chính là quá trình hoàn thiện bản
thân con người. Thông qua thực tiễn, con người phát triển năng lực bản chất, năng lực trí tuệ của
mình. Ph.Ăngghen viết: “Từ trước đến nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã coi thường
ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết tự nhiên
mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên... là cơ sở chủ yếu nhất
và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người phát đã phát triển song song với việc
người ta người đã học cải biến tự nhiên”
Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn, trí tuệ con người được phát triển, được nâng
cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học. Nhưng bản thân lý luận không có mục đích tự thân. Lý
luận khoa học ra đời vì chúng cần thiết cho hoạt động cải tạo tự nhiên và xã hội. Hay nói một cách
khác, thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ
thực tiễn, hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý
luận chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, đáp ứng được những đòi hỏi
của thực tiễn.
Ngày nay, công cuộc đổi mới xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đang đặt
ra nhiều vấn đềmới mẻ và phức tạp, đòi hỏi lý luận phải đi sâu nghiên cứu đểđáp ứng những yêu
cầu đó. Chẳng hạn, đó là những vấn đềlý luận về CNXH và con đường đi lên ở nước ta, về kinh tế
thị trường, về hoàn chỉnh hệ thống quan điểm đổi mới, ... Qua việc làm sáng tỏ những vấn đềtrên,
chắc chắn lý luận sẽ góp phần đắc lực vào sự nghiệp đổi mới đất nước.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận còn thể hiện ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý. C. Mác viết: “Vấn đềtìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách
quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đềlý luận mà là một vấn đềthực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
Chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được tri thức đạt được là đúng hay sai, là
chân lý hay sai lầm. Thực tiễn sẽ nghiêm khắc chứng minh chân lý, bác bỏ sai lầm. Tuy nhiên, cần
phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng: tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối vừa có
tính tương đối. Tính tuyệt đối là ở chỗ thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm
nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi gia đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lý. Nhưng tiêu chuẩn
thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn không đứng im một chỗ mà biến đổi và phát triển; thực tiễn
là một qúa trình và được thực hiện bởi con người nên không tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan.
Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri thức của con người trở thành những chân vĩnh
viễn, tuyệt đích cuối cùng. Trong quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức, những tri thức
đạt được trước kia và hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì vậy, những
tri thức được thực tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải tiếp tục được bổ sung,
điều chỉnh, sửa chữa và phát triển hoàn thiện hơn. Việc quán triệt tính biện chứng của tiêu chuẩn
thực tiễn giúp ta tránh khỏi những cực đoan sai lầm như chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ hoặc chủ
nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiến đối với lý luận đòi hỏi chúng ta phải quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa
trên cơ sở thực tiễn, đi sâu đi sát thực tiễn, coi trọng việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
phải liên hệ với thực tiễn, học đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn tới các sai lầm của bệnh
chủ quan, giáo điều, máy móc, bệnh quan liêu, chủ nghĩa xét lại.
- Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận khoa học; lý luận đềra mục tiêu, phương hướng,
biện pháp cho thực tiễn.
Coi trọng thực tiễn không có nghĩa là xem thường lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận.
Không nên đềcao cái này, hạ thấp cái kia và ngược lại. Không thể dừng lại ở những kinh nghiệm
thu nhận lại trực tiếp từ thực tiễn mà phải nâng lên thành lý luận bởi lý luận là một trình độ cao
hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận có vai trò rất lớn đối với thực tiễn, tác động trở lại thực
tiễn, góp phần làm biến đổi thực tiễn thông qua hoạt động của con người. Lý luận là “kim chỉ
nam” cho hành động, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Đánh giá vai trò và ý nghĩa lớn lao của
lý luận, Lênin viết: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”[3].
Lý luận một khi thâm nhập vào quần chúng thì biến thành "lực lượng vật chất". Lý luận có thể dự
kiến được sự vận động trong tương lai, từ đó vạch ra phương hướng cho thực tiễn, chỉ rõ những
phương pháp hành động có hiệu quả nhất đểđạt mục đích của thực tiễn. Nhờ có lý luận khoa học
mà hoạt động của con ngươi nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng mò mậm, tự phát. Sức mạnh
của chủ nghĩa Mác - Lênin là ở chỗ, trong khi khái quát thực tiễn cách mạng, l ịch sử xã hội, nó
vạch rõ qui luật khách quan của sự phát triển, dự kiến những khuynh hướng cơ bản của sự tiến hóa
xã hội. Điều đó làm cho các Đảng của giai cấp công nhân có thể vạch ra đường lối, phương
hướng, nhiệm vụ, biện pháp hành động cho phù hợp với đặc điểm, hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của
mỗi nước một cách sáng tạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh ví "không có lý luận thì lúng túng như nhắm
mắt mà đi".[4]
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh
hiện thực, do sự chi phối của hệ tư tưởng và thái độkhông khoa học nên lý luậncó nguy cơ xa rời
cuộc sống và trở nên ảo tưởng, giáo điều. Trong khi nhấn mạnh vai trò quan trọng của lý luận,
V.I. Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là "kim ch ỉ nam"
cho hành động cách mạng; và lý luậnkhông lại là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý
luậnluôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động. Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập không đúng thì sẽ không
có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực
tế.
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông.
Sự hình thành và triển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã thể hiện tiêu biểu cho sự gắn bó mật
thiết giữa lý luậnvà thực tiễn. C.Mác và Ph. Ăngghen đã khái quát thực tiễn cách mạng, l ịch sự xã
hội đểxây dựng nên hệ thống lý luận của mình. V.I.Lênin đã nêu một tấm gương sáng về sự phát
triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện thực tiễn mới. Trên cơ sở nghiên cứu điều kiện nước Nga lúc
đó, V.I. Lênin đã đưa ra chính sách kinh tế mới (NEP) và Người nhận xét: “toàn bộ quan điểm của
chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản”[5].
Như vậy, sức mạnh của lý luậnlà ở chỗ nó gắn bó mật thiết với thực tiễn, được kiểm
nghiệm, bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
* Liên hệ v ới quan điểm giáo dục: “Học đi đôi v ới hành”
Tư tưởng giáo dục “học đi đôi với hành” cuả Bác Hồ làmôṭ bộ phâṇ rất quan trong
̣ trong
kho tàng lý luận về giáo dục, được Bác thường xuyên đềcập từ năm 1945 đến khi Người vĩnh biệt
chúng ta. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, năm 1960, Đảng lao động Việt Nam đã khẳng
định “Công tác giáo dục phải phục vụ nhiệm vụ và đường lối cách mạng của Đảng, phải nắm
vững phương châm giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tế, học đi đôi
với hành, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục xã hội ” [1], từ đó “Học đi đôi với hành” được
coi là mục tiêu, nguyên lý, phươ ng pháp, phươ ng châm dạy và học của nền giáo dục cách mạng
nướ c ta.
Theo quan điểm của Người, “học” là m ột hoạt động nhận th ức, là quá trình ti ếp th ụ tri th ức,
kinh nghiệm, kỹ năng, các phẩm chất văn hoá - đạo đức… m ột cách tích c ực, toàn diện và th ường
xuyên của mỗi người. Tính tích cực của việc h ọc thể hiện ở ch ỗ h ọc không ch ỉ để hiểu biết, không
dừng lại ở hiểu biết mà thông qua học cá nhân trang bị cho mình kiến thức, k ỹ năng cần thiết làm
hình thành nhân cách, năng lực phù h ợp v ới yêu cầu c ủa hoạt động th ực ti ễn. H ọc là quy ền l ợi, là
trách nhiệm của mỗi người dân, Bác viết: “mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền l ợi c ủa
mình, bổn phận của mình, phải có ki ến thức m ới để có thể tham gia vào công cu ộc xây d ựng n ước
nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” [2] học bao giờ cũng gắn với những nhu
cầu, mục đích cụ thể. Trước hết, gắn liền v ới m ỗi cá nhân thì h ọc là nh ằm “c ải t ạo mình, c ải t ạo t ư
tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào cải tạo xã hội”. Vượt trên động lực cá nhân, h ọc trong
nhà trường XHCN còn gắn liền v ới mục tiêu cao cả c ủa Cách m ạng là “ H ọc để làm vi ệc, làm
người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, T ổ qu ốc và nhân lo ại” [3], “
Mục đích học là để làm kinh tế, chính trị, văn hoá đều tiến bộ, các dân tộc đều đoàn k ết… Để xây
dựng chủ nghĩa xã hội ” [4] .
“Hành” tức là thực hành, là làm việc. “Hành” là con đường duy nhất, hiệu quả nhất, là m ục tiêu
cuối cùng của học tập. Nội dung “hành” trong tư tưởng của Người là sự vận dụng những điều đã
học nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Ví dụ như một bác sĩ đem những kiến thức
tiếp thu được trong suốt quá trình đào tạo sáu, bảy năm ở trường đại h ọc để vận d ụng vào việc
chữa bệnh cho mọi người. Những kiến trúc sư, k ĩ sư xây dựng đem kiến th ức đã h ọc để thiết kế và
thi công bao công trình như nhà máy, bệnh viện, trường h ọc, công viên… để phục v ụ đời s ống con
người.
Nếu coi “học” là việc tiếp thụ tri thức, kinh nghiệm thực tiễn, thì “hành” là s ự vận d ụng nh ững tri
thức lý luận, kinh nghiệm thực tiễn để giải quyết bài tập, vận dụng vào hoạt động lao động sản
xuất, cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính bản thân mình. “Hành” là kết tinh của việc
học, hiệu quả công việc trong hiện tại và xu hướng hành vi c ủa m ỗi người nh ư thế nào ch ủ yếu b ị
quy định bởi chất lượng học trước đó của chính họ; “Hành” cao cả nhất là hành động cách
mạng nhằm cải tạo xã hội, có tác dụng hình thành con ng ười v ới t ư t ưởng, tình cảm và hành vi cao
đẹp, góp phần vào sự nghiệp chung của tập thể, của cộng đồng dân t ộc Việt Nam. Gi ữa “h ọc” và
“hành”, Bác cho rằng “học” phải đầy đủ, toàn diện, sát th ực tế; “hành” phải linh ho ạt, m ềm d ẻo;
muốn mọi việc làm, mọi hành động cách mạng luôn đúng đắn thì “ khi trở về làm việc, cần phải
áp dụng những điều đã học cộng v ới kinh nghiệm của mình vào công việc th ực tế m ột cách khôn
khéo, mềm dẻo, phù hợp v ới hoàn cảnh chứ không nên máy móc ” [5]. Có nhà khoa học đã viết:
“Một con ngựa đi chậm nhưng lại đúng đường thì sẽ tới đích, nếu con ngựa đi nhanh nhưng sai
đường thì càng đi càng xa đích”. Hành mà không đi đôi với học thường có kết quả thấp hoặc thất
bại. Học không hành thì chỉ nắm lý thuyết suông, không thể nắm bắt ý nghĩa sâu sắc của nó với
thực tiễn.
Xuất phát từ nguyên lý quan hệ biện chứng lý luận gắn với thực tiễn, việc học tập lý luận
và hành động cách mạng cũng có mối liên hệ rất chặt chẽ, Bác lưu ý “ lý luận rất quan trọng cho
sự thực hành cách mạng… Hoạt động sản xuất là nền tảng của thực hành, nó quyết định tất cả các
hoạt động khác… muốn hiểu biết lý luận và phương pháp cách mạng, phải thực hành tham gia
cách mạng… ” [6] “ Lao động trí óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết
thực hành thì cũng là trí thức một nửa. Vì vậy, cho nên các cháu trong lúc học lý luận cũng phải
biết kết hợp với thực hành… ” [7]. Từ nguyên lý trên, Bác đã chỉ ra một cách cụ thể về việc vận
dụng phương thức học đi đôi với hành, Bác nói “ngoài cách học ở trường, ở lớp, học trên sách,
báo, v.v., có một cách học rất tốt ai cũng có thể tham gia hằng ngày. Đó là học tập ngay trong sản
xuất, học tập những người, những tổ, những đơn vị tiên tiến...” [8], “các em sẽ phải vừa làm vừa
học, nghiên cứu không những trong sách vở mà ngay trong những công tác của mình” [9]; đối với
cán bộ, đảng viên Bác nói,“Học tập làm cho mỗi đảng viên nâng cao quyết tâm phấn đấu suốt đời
cho lý tưởng cộng sản, biến quyết tâm đó thành hành động thực tế trong lao động sản xuất, trong
chiến đấu và đời sống hằng ngày” và “Phương châm, phương pháp học tập là lý luận liên hệ với
thực tế. Học xong, về xí nghiệp, về hợp tác xã, về cơ quan… Phải biến những điều đã học thành
hành động cách mạng thực tế. Học phải đi đôi với hành, chứ không phải học đểnói suông”.
Với tư tưởng nêu trên Bác đã chỉ cho chúng ta thấy rằng việc “hành” là mục tiêu, động lực
của “học”, “hành” vừa là môi trường trải nghiệm đểhọc tập hiệu quả nhất, vừa là kết tinh, là biểu
hiện bên ngoài của việc học. Cũng với tư tưởng như vậy, Albert Einstein đã từng nói “Ch ỉ có trải
nghiệm mới là hiểu biết, còn tất cả các thứ khác chỉ là thông tin”, các nhà khoa học giáo dục thì
khẳng định “người học có thể nhớ đến 60% tri thức với những gì mà họ trải nghiệm thông qua
phát biểu ý kiến, đóng kịch, sắm vai, thực tập trong phòng thí nghiệm hay hiện trường (tức là
“hành”) đểáp dụng các điều đã học…”. Dạy - học không phải là một quá trình truyền đạt - tiếp
thụ tri thức một cách thụ động, một chiều mà ở đó diễn ra sự tương tác hai chiều trong dạy - học
và học - dạy. “Học đi đôi với hành” còn là nguyên lý, phương pháp trong dạy và học, Người nhắc
nhở phải hết sức tránh “giáo điều”, “máy móc”, Người nói “đi học thì phải có mở lòng, tức phải
biết học đểlàm gì, học như thế nào… trong khi các cô, các chú nghiên cứu tài liệu, không phải
học thuộc lòng. Dù có thuộc từ đầu chí cuối mà không biết cách áp dụng vào thực tế thì thuộc
cũng vô ích, đó là giáo điều”[11], “ Cán bộ trong khi học tập nghiên cứu như nghiên cứu về xã
hội, con người và sự vật thì phải xem xét toàn diện, xem quá khứ, nhất là xem hiện tại đểhiểu biết
và suy đoán tương lai. Có thế mới nhận định tình hình, mới nhận xét sự việc xảy ra được đúng
đắn” [12]… “Dạy dần dần từ ít đến nhiều, từ dễ đến khó, từ thấp đến cao. Không tham nhiều,
không nhồi sọ. Dạy một cách thiết thực. Lý luận gắn chặt với thực hành” [13].
Người nêu yêu cầu việc dạy và học phải đảm bảo tính toàn diện về đạo đức, năng lực “ Dạy cũng
như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức. Đức là đạo đức cách mạng. Đó là cái gốc, rất quan
trọng. Nếu không có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vô dụng” [14]. Chất lượng, hiệu quả công
tác giáo dục đào tạo như thế nào trước hết phụ thuộc vào quá trình tương tác giữa giáo viên và học
viên, Bác khẳng định: “Học trò tốt hay xấu đều do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu… phải luôn luôn
đặt câu hỏi: Dạy ai?... Dạy để làm gì?... lúc đó mới tìm cách dạy… quần chúng công nhân, nông
dân, trí thức có nhiều kinh nghiệm. Giáo viên nên khêu gợi những kinh nghiệm đểtìm cách dạy
tốt” [15]. Theo đó, trước và trong khi giảng dạy, mỗi giáo viên, giảng viên cần nắm rõ trạng thái
tâm lý, đạo đức, năng lực chung của người học từ đó có sự lựa chọn phương pháp, nội dung, vấn
đề mang tính trọng tâm, trọng điểm đểtrao đổi, gợi mở hướng nghiên cứu. Bên cạnh đó mỗi giảng
viên cũng hết sức chú trọng việc nghiên cứu tình hình kinh tế xã hội, cập nhật thông tin kịp thời so
với những vận động, thay đổi nhanh chóng của đời sống và những sửa đổi, bổ sung không ngừng
của chính sách, pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Kế thừa và phát triển quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, Nghị quyết Đại
hội XI Đảng tiếp tục xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển” . Vì vậy, để phát
triển giáo dục và đào tạo lên một tầm cao mới, cần vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
một cách toàn diện để xây dựng một nền giáo dục tiến bộ và ưu việt. Hiện nay chúng ta tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Để
Cuộc vận động này đi vào cuộc sống, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần tư tưởng của Hồ
Chí Minh về “Học đi đôi với hành”. Chúng ta đã quán triệt, học tập đầy đủ tư tưởng, tấm gương
đạo đức của Bác. Điều quan trọng là xây dựng, phát động phong trào chuyển từ học tập sang làm
theo tấm gương đạo đức của Bác, đặc biệt cần sự gương mẫu từ đảng viên, cán bộ lãnh đạo quản
lý, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị để mọi người noi theo. Chúng ta tin tưởng rằng, quan
điểm “Học đi đôi với hành” của Người mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho nền giáo dục nước
nhà, cho quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên” cho đất nước, góp phần thực
hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
CÂU 2:
* Quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể và quan điểm phát triển
- Quan điểm toàn diện:
+ Nhận thức sự vật trong mối liên hệ tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật hay
với sự vật khác, kể cả trong mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp.
+ Chú ý những mối liên hệ bản chất, tất nhiên, chủ yếu…và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa
các mối liên hệ.
- Quan điểm lịch sử - cụ thể: Khi nhận thức sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý môi trường
cụ thể, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể trong đó sự vật sinh ra, tồn tại, phát triển.
- Quan điểm phát triển:
+ Phải đặt sự vật trong trạng thái động, trong khuynh hướng phát triển.
+ Nắm bắt không chỉ hiện tại mà thấy khuynh hướng phát triển trong tương lai
+ Phân chia quá trình phát triển thành những giai đoạn để nhận thức và tác động phù hợp.
* Phân tích một vấn đề cụ thể trong cuộc sống hiện nay: Mạng xã hội - sống ảo trong thực
- Quan điểm toàn diện:
Mạng xã hội hay gọi là mạng xã hội ảo (Social Network) là: “Mạng xã hội ảo là một trang
web mà nơi đó một người có thể kết nối với nhiều người thông qua chia sẻ những sở thích cá
nhân, nơi ở, đặc điểm học vấn…” Những mạng xã hội như Facebook, Orkut, Friendster, Hi5,
Yahoo360, Myspace…. là những mạng xã hội có số lượng người tham gia đông đảo. Những
người tham gia mạng xã hội sẽ có cơ hội để chia sẻ sở thích, trò chuyện (chat), gửi thư điện tử
(email), xem phim, ảnh, điện thoại (voice chat), nhật ký điện tử (blog), trò chơi (games) quản lý
thông tin, tìm kiếm thông tin và kết nối bạn bè không phân biệt không gian và thời gian… Với
những tính năng tiện lợi đó, mạng xã hội đã trở thành một phần tất yếu trong đời sống xã hội của
hàng trăm triệu thành viên trên khắp thế giới.
Hơn tất cả mọi phương tiện truyền thông đại chúng khác, ngày nay Internet đang chứng tỏ
sức mạnh và tốc độphát triển nhanh như tên lửa và sự ảnh hưởng lớn lao của nó đối với con người.
Và trong đó, mạng xã hội đã, đang và sẽ là một phần trong đời sống xã hội của một bộ phận công
chúng. Thật vậy, con người ngày nay đang sống và làm việc trong một môi trường truyền thông đa
phương tiện. Cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm việc, cùng yêu, cùng ghét... với truyền thông. Trong
thời đại được gọi là “Thế giới phẳng”, không ai có thể phủ nhận lợi ích từ mạng xã hội, đặc biệt là
giới trẻ. Trong đó mạng xã hội, một hiện tượng mới trên Internet đang gây sức ảnh hưởng lớn đến
một bộ phận người dân, nó là một sự kiện điển hình đang thu hút nhiều sự quan tâm.
Không thể phủ nhận lợi ích mà mạng xã hội đã mang lại, nó giúp mọi người có thể kết nối,
cập nhật thông tin, giữ liên lạc cùng bạn bè, người thân ở bất kể không gian, thời gian và địa lý
nào. Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi đi đến bất kỳ nơi đâu, ta cũng có thể bắt gặp những bạn trẻ
dán mắt vào điện thoại di động ở quán ăn, quán cà phê, nơi công cộng... Sự xuất hiện ngày càng
nhiều các trang web với nhiều tính năng mới, hiện đại, tiện lợi đã thu hút và thực sự đã mang lại
khá nhiều kết quả tốt cho ngườ i sử dụng. Tìm kiếm việc làm? Học anh văn miễn phí,? Tìm kiếm
tài liệu, sách, Tìm ngườ i yêu, tìm bạn bạn bè cũ? Tìm quán ăn ngon?… Tất cả đều có trên mạng
xã hội. Tất cả mọi ngườ i đề u có thể truy cập mọi thông tin mà mình cần, miễn là có trên mạng.
Rất nhiều ngườ i trẻ đã biết cách sử dụng Mạng xã hội một cách hiệu quả nhất. Họ sử dụng Mạng
xã hội là nơi để cung cấp thêm cho mình nguồn tri thức, nâng cao giá trị bản thân, là nơi để gắn
kết cộng đồ ng, là nơi để sẻ chia những bất hạnh, niềm vui của những ngườ i có cùng trái tim biết
thông cảm và giúp đỡ những ngườ i có hoàn cảnh đáng thươ ng, cần sự trợ giúp của xã hội. Trên cơ
sở đó nhiều bạn trẻ đã lập ra các trang web là nơi để kêu gọi đóng góp tiền, gạo, … và cả hiến
máu nhân đạo giúp cho ngườ i nghèo, ngườ i bệnh… Bên cạnh đó, công việc có thể đượ c giải quyết
nhanh chóng hơn nhờ sự tiện lợi, các mối quan hệ đố i tác hoặc bạn bè có thể đượ c duy trì lâu dài
hơn nhờ tính tươ ng tác. Thậm chí, xây dựng tốt mối quan hệ cá nhân trên mạng xã hội có thể
“đóng góp” rất lớn vào thành công của công việc. Một ví dụ đơ n giản là, sau một ngày dài 8 giờ ở
cơ quan, áp lực công việc có thể khiến dù làm chung một công ty nhưng bạn và đồng nghiệp
chẳng có cơ hội nói với nhau một câu nào. Nhưng mọi chuyện có thể hoàn toàn khác nếu cả hai
đều sử dụng mạng xã hội. Nói chuyện với nhau sau giờ làm việc, chia sẻ những gì đã diễn ra trong
ngày thông qua các ứng dụng có thể giúp kéo gần khoảng cách giữa hai ngườ i. Và điều này rõ
ràng là sẽ giúp ích cho công việc chung rất nhiều. Ở một khía cạnh khác, chính vì s ức mạnh
“không giới hạn” này mà mạng xã hội ngày nay còn trở thành một công cụ marketing tuyệt vời
trong mắt những ngườ i làm kinh doanh. Thực tế, kênh tiếp thị này đang dần chứng minh “sức hút”
cũng như sự hiệu quả của mình, dù vẫn còn tồn tại không ít những nhượ c điểm.
Bên cạnh những thuận tiện, hữu ích Mạng xã hội còn đư a đế n những hiện tượ ng tiêu cực,
đó chính là hiện tượng “khủng hoảng thông tin”, gây rối dư luận, gây “nghiện online” đặc biệt là
đối với giới trẻ. Thời gian gần đây, có rất nhiều các vụ scandal liên quan đặc biệt đến ng ười c ủa
công chúng là giới diễn viên điện ảnh, người mẫu, ca s ĩ những video clip sex bị tung lên mạng,
chỉ trong vòng một đêm, toàn b ộ đã được truyền đi khắp thế gi ới b ởi các thành viên c ủa mạng xã
hội. Gần đây nhất là việc các h ọc sinh nam nữ đánh bạn, l ột quần áo bạn r ồi đưa lên mạng xã hội,
tình trạng quan hệ tình dục bừa bãi sau khi xem phim sex, t ự ch ụp hình nude, quay phim clip sex
tràn lan trên mạng xã hội đã gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển nhân cách của thanh thiếu
niên. Không ít bạn trẻ coi cuộc sống ảo v ới hàng ngàn l ượt like, hàng tri ệu ng ười follow chính là
thước đo giá trị con người họ. Tất cả m ọi cảm xúc, hoạt động, di ễn bi ến tâm tr ạng, vui bu ồn, t ức
giận, phẫn nộ… đều được phơi bày một cách hiện h ữu trên trang Facebook cá nhân c ủa h ọ, b ất
chấp cả những rào cản về thuần phong m ỹ tục. Từ nh ững bạn n ữ m ới dậy thì cho đến nh ững b ạn
sinh viên hay nhân viên văn phòng có thể tạo dáng ở m ọi t ư thế v ới đa d ạng nh ững bi ểu c ảm để
chụp hình, cùng với những dòng tâm sự tâm trạng... Bên cạnh tấm hình kh ỏa thân táo b ạo là
những dòng trạng thái khoe khoang sự giàu có không đúng s ự thật hay gần đây nhất là s ự ảo t ưởng
của một bạn nữ sẵn sàng tung tin là mình b ị tai n ạn qua đời và kêu g ọi m ột vài ng ười b ạn thân
giúp đỡđểmình nhận được sự quan tâm của m ọi người xung quanh. Nhi ều bạn trẻ xem facebook
như một cứu cánh, họ sống với thế giới ảo đó và quên bản thân mình đang s ống trong đời th ực.
Chính vì vậy, họ thường xuyên truy cập vào Facebook đểxem m ọi ng ười xung quanh mình đang
làm gì, nói gì và suy ngh ĩ về đi ều gì…. H ọ không mu ốn b ỏ l ỡ b ất c ứ thông tin gì đang di ễn ra,
mặc dù có những thông tin ảo.
Có thể thấy ngay tác hại trước mắt là một khi đã dấn thân vào l ối s ống ảo, bạn tr ẻđã đểm ất
đi những giá trị bản thân, giá tr ị đạo đức trong lúc tìm m ọi cách để kh ẳng định mình. V ề lâu dài,
với vô số thời gian dành cho cu ộc s ống ảo, các bạn sẽ m ất đi nh ận th ức v ề th ực t ại, không bi ết
định hướng cho bản thân mình về t ương lai và phí phạm quá nhi ều th ời gian c ủa tu ổi tr ẻ, cái tu ổi
mà con người ta năng nổ, hăng hái nhất. Nhưng còn m ột mặt hại khác, m ột mặt hại vô hình mà t ất
cả chúng ta đều có thể vô tình bỏ qua. Đó là mặt hại về s ức kh ỏe. Đi kèm v ới l ối s ống ảo là s ự ti ếp
xúc thường xuyên với những công cụ như máy tính cá nhân, máy tính bảng và đi ện thoại thông
minh. Theo một số nghiên cứu, hàng triệu con vi khuẩn trên nh ững d ụng c ụ này có th ể s ử d ụng
đôi bàn tay của chúng ta làm bước đệm để đi vào c ơ thể và gây ra nh ững c ăn b ệnh và tàn phá c ơ
thể.
- Quan đi ểm l ịch s ử - c ụ th ể:
Chỉ vài năm trước đây, Facebook, Twitter, Youtube hay Skype vẫn còn là m ột khái ni ệm
xa lạ với nhiều người dân Việt Nam. Tuy nhiên gi ờ đây thì chúng ta d ễ dàng b ắt g ặp c ảnh nh ững
cô cậu học sinh cấp 1 có tài khoản Facebook. Th ực t ế là Vi ệt Nam tuy là m ột n ền kinh t ế đang
phát triển nhưng lại là một thị trường đầy tiềm năng dành cho các trang mạng xã h ội.
Trước khi mạng xã hội ra đời thì việc giao tiếp hàng ngày chỉ xoay quanh những lá thứ viết
tay, những cuộc điện thoại, thậm chí những lời chúc mừng sinh nhật cũng đến từ những tấm thiệp
cổ điển. Ngày nay, nhờ sự phát triển nhanh chóng của công nghệ Internet đã len lỏi đến hầu hết
ngóc ngách của xã hội hiện đại. Mọi thứ trở nên đơn giản và nhanh chóng hơn rất nhiều so với
khoảng 30 năm trước đây.
Thời đại thông tin ngày nay đã tạo những điều kiện và cơ hội cho con người giao lưu, liên
kết, chia sẻ những sở thích, sự quan tâm, những ý tưởng, những việc làm bằng các phương tiện
truyền thông hiện đại – nhất là sự phát triển ngày càng đa dạng của internet, trong đó có các mạng
xã hội. Sự xuất hiện với những tính năng đa dạng, nguồn thông tin phong phú, mạng xã hội đã cho
phép người dùng tiếp nhận, chia sẻ và chọn lọc thông tin một cách có hiệu quả, vượt qua trở ngại
về không gian và thời gian, vượt qua khoảng cách giữa các thế hệ. Nó giúp nâng cao vai trò của
mỗi công dân trong việc tạo lập quan hệ và tự tổ chức xoay quanh những mối quan tâm chung
trong những cộng đồng thúc đẩy sự liên kết các tổ chức xã hội . Do chức năng đa dạng và sự gia
tăng ngày càng nhanh số lượng thành viên, mạng xã hội đã có tác động làm thay đổi nhiều thói
quen cũ và hình thành những biểu hiện mới của tư duy, lối sống, văn hóa… ở một bộ phận khá lớn
những người sử dụng.
- Quan điểm phát triển:
Trong tương lai 5 năm tới, mạng xã hội sẽ không thể độc tôn được nữa. Vì đó là khoảng
thời gian đủđểnhững con nghiện Face bây giờ và cả xã hội “khôn” hơn và nhận ra v ị trí thực sự
của mình, giá trị thực của mình, và chua xót thành thực với bản thân. Khi đó chúng ta sẽ khao khát
kiến thức, mong muốn hoàn thiện bản thân hơn chứ không phải là thê hiện bản thân nữa. Sẽ phải
có một công cụ hiệu quả thực sự đem lại tri thức cho mọi người theo cách diễn đạt của mạng xã
hội.Và xu thế của tương lai sẽ là sự xuất hiện của nhiều loại mạng đặc thù và chuyên biệt bên cạnh
mạng xã hội : MẠNG CỘNG ĐỒNG.
Xét theo các quy luật phát triển trong triết học thì việc xuất hiện các mạng cộng đồng là
điều tất yếu “Lượng biến đổi sẽ dẫn đến biến đổi về chất”,với việc mạng xã hội đang bùng nổ
cũng tương đương sự lạm phát về “lượng”. Mạng cộng đồng sẽ có hình thái tương đồng với mạng
xã hội ở mặt hình thức,quy mô thì chưa khẳng định, và tuyệt nhiên có sự chắt lọc về đối tượng
thành viên nhưng nội dung thì sẽ “chất” hơn nhiều. Mạng cộng đồng sẽ khỏa lấp điểm khiếm
khuyết của mạng xã hội: nghiêng về giải trí nhiều. Mạng cộng đồng sẽ đẩy mạnh việc thúc đẩy và
nâng cấp đam mê bằng hình thức tương tác tư duy giữa những người có cùng đam mê. Và tiến xa
hơn, mạng cộng đồng sẽ còn là môi trường tương tác làm việc. Mỗi công ty có thể tự hình thành
mạng cộng đồng của riêng mình và có khả năng tạo liên kết với các mạng cộng đồng khác (mức
độ liên kết sẽ do 2 bên thỏa thuận).
CÂU 3:
* Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Lênin đã định nghĩa: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng đểchỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản
ánh và tồn tại trong lệ thuộc vào cảm giác”
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào trong bộ não con người thông qua
lao động mà ngôn ngữ. Nó là toàn bộ hoạt động tinh thần của con người như: Tình cảm yêu
thương, tâm trạng, cảm súc, ý trí, tập quán, truyền thống, thói quen quan điểm, tư tưởng, lý luận,
đường lối, chính sách, mục đích, kế hoạch, biện pháp, phương hướng.
Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
a) Vật chất quyết định ý thức:
– Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất sinh ra ý thức, ý thức là chức năng của óc con
người – dạng vật chất có tổ chức cao nhất của thế giới vật chất
– Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người. Thế giới vật chất là nguồn gốc
khách quan của ý thức.
Ta cứ thử giả dụ, nếu một người nào đó sinh ra mà bộ não không hoạt động được hay
không có bộ não thì không thể có ý thức được. Cũng như câu chuyện cậu bé sống trong rừng cùng
bầy sói không được tiếp xúc với xã hội loài người thì hành động của cậu ta sau khi trở về xã hội
cũng chỉ giống như những con sói. Tức là hoàn toàn không có ý thức.
VD. Ở Việt Nam, nhận thức của các học sinh cấp 1, 2, 3 về công nghệ thông tin là rất yếu
kém sở dĩ như vậy là do về máy móc cũng như đội ngũ giáo viên giảng dậy còn thiếu. Nhưng nếu
vấn đềvề cơ sở vật chất được đáp ứng thì trình độ công nghệ thông tin của các em cấp 1, 2, 3 sẽ
tốt hơn rất nhiều.
b) Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất:
– Ý thức có thể thức đẩy hoặc kìm hãm với một mức độ nhất định sự biến đổi của những
điều kiện vật chất.
– Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người. Con
người dựa trên các tri thức về những quy luật khách quan mà đềra mục tiêu, phương hướng thực
hiện;
xác
định
các
phương
pháp
và
bằng
ý
chí
thực
hiện
mục
tiêu
ấy.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức độ nào đi chăng nữa thì nó vẫn phải dựa
trên sự phản ánh thế giới vật chất.
VD. Nếu tâm trạng của người công nhân mà không tốt thì làm giảm năng suất của một dây
chuyền sản xuất trong nhà máy. Nếu không có đường lối cách mạng đúng đắn của đảng ta thì dân
tộc ta cũng không thể giảng thắng lơị trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ cũng như Lê Nin đã nói “ Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”.
Ý thức phản ánh đúng hiện thực khách quan có tác dụng thấy đẩy hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo thế giới vật chất. Khi phản ánh đúng hiện thực khách quan thì
chúng ta hiểu bản chất quy luật vận động của các sự vật hiện tượng trong thế giới quan.
VD1. Hiểu tính chất vật lý của thép là nóng chảy ở hơn 1000 0C thì con người tạo ra các nhà
máy gang thép để sản xuất cách loại thép với đủ các kích cỡ chủng loại, chứ không phải bằng
phương pháp thủ công xa xưa.
VD2. Từ nhận thức đúng về thực tại nền kinh tế của đất nước. Tư sản đại hội VI, đảng ta
chuyển nền kinh tế từ trị cung, tự cấp quan liêu sang nền kinh tế thị trường, nhờ đó mà sau gần 20
năm đất mới bộ mặt đất nước ta đã thay đổi hẳn.
Ý thức phản ánh không đúng hiện thực khách quan có thể kìm hãm hoạt động thực tiễn của
con người trong quá trình cải tạo thế giới quan. VD. Nhà máy sử lý rác thải của Đồng Tháp là một
ví dụ điển hình, từ việc không khảo sát thực tế khách quan hay đúng hơn nhận thức về việc sử lý
rác vô cơ và rác hữu cơ là chưa đầy đủvì vậy khi vừa mới khai trương nhà máy này đã không sử
lý nổi và cho đến nay nó chỉ là một đống phế liệu cần được thanh lý.
c) Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa
tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và ý thức xã hội có
tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác nhau như: chủ thể và khách thể, lý luận và thực
tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan ...
Ý nghĩa phương pháp luận:
– Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất, cho nên trong nhận thức phải
bảo đảm nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn
xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
– Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động của con
người, cho nên cần phải phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất bằng cách nâng cao
năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng chúng trong hoạt động thực tiễn của con
người.
– Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độthụ động, chờ đợi vào điều
kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan…
* Vận dụng ý ngh ĩa phương pháp luận vào phân tích một v ấn đề thực ti ễn hi ện
nay: Chính sách tiền lương.
Chính sách, chế độtiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế
- xã hội của mỗi quốc gia. Nó có mối quan hệ mật thiết và tác động đa chiều đối với động lực phát
triển, tăng trưởng kinh tế cũng như nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Ở Việt Nam cũng có nhiều khái niệm khác nhau về tiền lương. Một số khái niệm về tiền
lương có thể được nêu ra như sau:
- “Tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành qua thỏa thuận giữa người sử dụng
sức lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung cầu sức lao động trong nền kinh tế thị
trường”.
- “Tiền lương là khoản tiền mà người lao động nhận được khi họ đã hoàn thành hoặc sẽ
hoàn thành một công việc nào đó, mà công việc đó không bị pháp luật ngăn cấm”.
Từ các khái niệm trên cho thấy bản chất của tiền lương là giá cả sức lao động được hình
thành trên cơ sở giá trị sức lao động. Như vậy: tiền lương được hiểu là số tiền mà người lao động
được người sử dụng lao động của họ thanh toán lại, tương ứng với số lượng và chất lương lao
động mà họ đã tiêu hao trong quá trình tạo ra của cải, vật chất.
Trong mọi chế độ xã hội, tiền lương thực hiện chức năng kinh tế cơ bản của nó là đảm bảo
tái sản xuất sức lao động cho xã hội.Tuy nhiên mức độ tái sản xuất mở rộng cho người lao động
và cách tính, cách trả tiền lương trong mỗi chế độ là khác nhau. Người lao động tái sản xuất sức
lao động của mình thông qua các tư liệu sinh hoạt nhận được từ khoản tiền lương của họ. Để tái
sản xuất sức lao động, tiền lương phải đảm bảo tiêu dùng cá nhân người lao động và gia đình họ.
Để thực hiện chính sách này trong công tác tiền lương:
+ Nhà nước phải định mức lương tối thiểu; mức lương tối thiểu phải đảm bảo nuôi sống gia
đình và bản thân người lao động. Mức lương tối thiểu là nền tảng cho chính sách tiền lương và
việc trả lương của các doanh nghiệp, bởi vậy nó phải được thể chế bằng pháp luật buộc mọi doanh
nghiệp khi sử dụng lao động phải thực hiện. Mức lương tối thiểu được ấn định theo giá linh hoạt,
đảm bảo cho người lao động làm việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp
sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ tái sản xuất sức lao động mở rộng, mức lương tối
thiểu làm căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác.
+ Mức lương cơ bản khác: Được xác định trên cơ sở mức giá hàng vật phẩm tiêu dùng
trong từng trường hợp một, bởi vậy khi giá cả có biến động, đặc biệt khi tốc độ lạm phát cao, phải
điều chỉnh tiền lương phù hợp để đảm bảo đời sống của người lao động.
Có thể nói tiền lương là một nhân tố quan trọng tác động mạnh mẽ nhất, nếu như tiền
lương không gắn chặt với chất lượng, hiệu quả công tác, không theo giá trị sức lao động thì tiền
lương không đủ đảm bảo để sản xuất, thậm chí tái sản xuất giản đơn sức lao động không đủ để
khuyến khích nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ tay nghề. Vì vậy, tiền lương phải đảm bảo các
yếu tố cấu thành để đảm bảo nguồn thu nhập, là nguồn sống chủ yếu của người lao động và gia
đình họ, là điều kiện để người lao động hưởng lương hoà nhập vào thị trường lao động xã hội . Để
sử dụng đòn bẩy tiền lương đối với người lao động đòi hỏi công tác tiền lương trong doanh nghiệp
phải đặc biệt coi trọng. Tổ chức tiền lương được công bằng và hợp lý sẽ tạo ra hoà khí cởi mở
giữa những người lao động, hình thành khối đoàn kết thống nhất, trên dưới một lòng, một ý chí vì
sự nghiệp phát triển và vì lợi ích bản thân người lao động. Chính vì vậy mà người lao động tích
cực làm việc bằng cả lòng nhiệt tình, hăng say và họ có quyền tự hào về mức lương họ đạt được.
Ngược lại, khi công tác tổ chức tiền lương trong doanh nghiệp thiếu tính công bằng và hợp lý thì
không những sẽ sinh ra những mâu thuẫn nội bộ thậm chí khá gay gắt giữa người lao động với
nhau, giữa những người lao động với cấp quản trị, cấp lãnh đạo doanh nghiệp, có lúc còn có thể
dẫn đến sự phá hoại ngầm dẫn đến sự lãng phí to lớn trong sản xuất.
Về phương diện kinh tế: Tiền lương là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng kích thích lợi ích
vật chất đối với người lao động làm cho họ vì lợi ích vật chất của bản thân và gia đình mình mà
lao động một cách tích cực với chất lượng kết quả ngày càng cao. Để trở thành đòn bẩy kinh tế,
việc trả lương phải gắn liền với kết quả lao động, tổ chức tiền lương phải nhằm khuyến khích
người lao động nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động. Làm nhiều hưởng nhiều, làm
ít hưởng ít, không làm không hưởng. Bội số của tiền lương phải phản ánh đúng sự khác biệt trong
tiền lương giữa loại lao động có trình độ thấp nhất và cao nhất được hình thành trong quá trình lao
động.
Tiền lương đóng vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định trong việc ổn định và phát triển
kinh tế gia đình. Nếu tiền không đủ trang trải, mức sống của người lao động bị giảm sút, họ phải
kiếm thêm việc làm ngoài doanh nghiệp như vậy có thể làm ảnh hưởng kết quả làm việc tại doanh
nghiệp. ngược lại nếu tiền lương trả cho người lao động lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu
thì sẽ tạo cho người lao động yên tâm, phấn khởi làm việc, dồn hết khả năng và sức lực của mình
cho công việc vì lợi ích chung và lợi ích riêng, có như vậy dân mới giàu, nước mới mạnh.
Trong khu vực công, tiền lương là số tiền mà các cơ quan, tổ chức của Nhà nước trả cho
người lao động theo cơ chế, chính sách của Nhà nước và được thể hiện trong hệ thống thang, bảng
lương do Nhà nước quy định. Trong hoạt động công vụ, tiền lương đóng giữ vai trò đặc biệt quan
trọng, là một trong những yếu tố tiên quyết thu hút và giữ được người tài tham gia hoạt động trong
khu vực công, tránh hiện tượng chảy máu chất xám từ khu vực công sang khu vực tư.
Tóm lại, tiền lương đóng vai trò đặc biệt quan trọng, nó không chỉ đảm bảo cho đời sống
của người lao động, tái sản xuất sức lao động mà còn là một công cụ để quản lý, là đòn bẩy kinh
tế hiệu lực. Tuy nhiên, chỉ trên cơ sở áp dụng đúng đắn chế độ tiền lương, đảm bảo các nguyên
tắc của nó thì mới phát huy được mặt tích cực và ngược lại sẽ làm ảnh hưởng xấu đến toàn bộ
hoạt động của đơn vị.
CÂU 4: Nội dung qui luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại. Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của nó trong thực tiễn hiện
nay.
* Nội dung quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược
lại
Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng được biểu hiện thông qua các thuộc
tính và đặc điểm cấu trúc của sự vật. Tính quy định là cái vốn có của sự vật, hiện tượng đểphân
biệt sự vật này với sự vật khác. Tính quy định này được thể hiện thông qua các thuộc tính. Có
thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật. Nếu thuộc tính cơ
bản mất đi thì chất của sự vật thay đổi. Còn thuộc tính không cơ bản thì trong quá trình tồn tại
của sự vật, có những thuộc tính không cơ bản mới nảy sinh vàcó những thuộc tính không cơ bản
mất đi nhưng chất của sự vật không thay đổi. Thuộc tính chỉ bộc lộ thông qua quan hệ với sự vật
khác. Ví dụ: Khi ta nói đến muối ăn là nói đến chất của muối (NaCl) và thuộc tính của muối là:
Thể kết tinh, tan trong nước, có vị mặn…
Lượng của sự vật là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về mặt quy mô,
tốc độ, trình độ phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng sự vật tức là sự vật đó lớn hay bé,
tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ cao hay thấp....đo bằng các đại lượng cụ thể, bằng s ố
tuyệt đối như trong lượng, thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời k ỳ này v ới th ời k ỳ khác.
Ví dụ tốc độ của ánh sáng là 300.000km/giây, một cái bàn có chiều cao 80 phân, m ột n ước có 50
triệu dân....
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay
một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Hai phương diện đó đều tồn tại khách
quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về sự vật ch ỉ có ý
nghĩa tương đối; có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng trong mối quan hệ khác
lại là lượng.
Nội dung quy luật từ những thay đổi dần về lượng dấn đến sự thay đổi về chất và ngược lại:
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai
mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về lượng tất
yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không phải sự thay đổi về
lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một gi ới hạn nhất định, s ự thay đổi v ề l ượng
chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất thay đổi được
gọi là độ. Khái niệm độ chỉ tính qui định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng
giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng.
Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chứ chưa chuyển hóa thành sự vật và
hiện tượng khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi
lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là
điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện xác định tất yếu sẽ dẫn
đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển c ủa s ự
vật.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự
thay đổi về chất diễn ra dưới nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định b ởi mâu
thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: lớn và nhỏ, cục b ộ và toàn bộ,
tự phát và tự giác…Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển đồng thời đó cũng
là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên
tục của sự vật. Trong thế giới, luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến s ự
nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút liên tục, thể hiện cách thức vận động và phát triển của s ự
vật từ thấp đến cao. Ăngghen khái quát tính tất yếu này: “Những thay đổi đơn thuần về l ượng, đến
một mức độnhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất”
Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại lượng mới. chất mới tác động t ới lượng m ới làm
thay đổi kết cấu, qui mô. Trình độ, nhịp độcủa sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sụ thống nhất biện chứng giữa hai mặt chất
và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước
nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra,
tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính qui định lẫn
nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, cho nên trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi
trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự nhận thức toàn diện
về sự vật.
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả năng trong những điều kiện nhất định sẽ
chuyển hóa thành những thay đổi về chất và ngược lại, cho nên trong hoạt động nhận thức và thực
tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng đểcó thể làm thay đổi về chất của
sự vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự
vật.
- Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật với điều kiện
lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, cho nên trong công tác thực tiễn cần phải khắc
phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu qui luật thì khi lượng đã được tích
lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, do đó, cũng
cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Tả khuynh chính là
hành động bất chấp qui luật, chủ quan, duy ý chí, không tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực
hiện những bước nhảy liên tục về chất; hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không
dám thực hiện bước nhảy dù lượng đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần
là sự tiến hóa về lượng.
- Hình thức bước nhảy của sự vật là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy trong nhận thức và
thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng
điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ
thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó,
cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể đểthúc đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng
đến chất một cách có hiệu quả nhất.
* Vận dụng ý ngh ĩa phương pháp luận của nó trong thực tiễn hiện nay: Việc học
của sinh viên hiện nay.
Khi hai người mới gặp nhau thường thì họ chỉ có một chút gì đó mến cảm với nhau lúc đầu
thôi chứ khó có thể nói là đã yêu nhau được. Sau khi đã quen biết nhau, họ bắt đầu đi lại nhiều
hơn, nói chuyện với nhau nhiều hơn, cùng nhau làm một số việc như cùng học, cùng đi chơi... qua
những chuyện đó họ sẽ dần dần hiểu nhau hơn, hiểu về con người, tính cách, cá tính và nét duyên
dáng đáng yêu của nhau hơn. Dần dần trong họ bắt đầu nảy nở tình yêu vì thấy rằng đối phương là
một người rất đáng yêu trong các hoàn cảnh của cuộc sống. Việc tích lũy về những hiểu biết,
những tình cảm, cảm xúc về nhau đó được xem là việc tích lũy về lượng. Khi những sự hiểu biết
đó, những tình cảm đó đủ lớn, tình cảm đó sẽ có thể chuyển thành tình yêu. Nhưng thường để
chính thức được công nhận là người yêu, họ thường qua một bước gọi là ngỏ lời yêu và nhận lời
yêu. Đây được xem là một "bước nhảy" trong quan hệ giữa hai người chuyển từ chất này (tình
bạn) qua chất khác (tình yêu).
Và đến khi họ quyết định sẽ cưới nhau, đó thực sự là một bước nhảy lớn trong quan hệ của
hai người, nó cũng được tuân thủ các quy luật của lượng chất, khi sự hiểu biết về nhau, hiểu và
thông cảm cho nhau, hiểu tính cách, hiểu cuộc sống, thấy rằng hợp với mình và tình cảm của 2
người dành cho nhau đủlớn đểđảm bảo sẽ chiến thắng được những sóng gió của cuộc đời thì họ
sẽ tiến đến hôn nhân.