Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Vai trò của thẩm phán trong thu thập chứng cứ xây dựng hồ sơ giải quyết vụ án dân sự qua thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân quận hà đông, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 122 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ VIỆT CƢỜNG

VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG THU THẬP
CHỨNG CỨ XÂY DỰNG HỒ SƠ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ VIỆT CƢỜNG

VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG THU THẬP
CHỨNG CỨ XÂY DỰNG HỒ SƠ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành
Mã số

: Luật dấn sự và tố tụng dân sự
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Huy Cƣơng

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÊN TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Việt Cƣờng


Lời cảm ơn
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo hướng dẫn luận văn
của tôi, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Ngô Huy Cương đã tạo mọi
điều kiện, hướng dẫn và giúp đỡ tận tình để tôi hoàn thành
được luận văn. Trong suốt quá trình nghiên cứu, bằng sự
nhiệt huyết sâu sắc về khoa học, cũng như kinh nghiệm của
thầy chính là tiền đề giúp tôi đạt được những thành tựu và
kinh nghiệm quý báu trong nghiên cứu khoa học.
Xin cảm ơn Khoa luật – Trường Đại học Quốc Gia Hà
Nội cùng toàn thể các thầy cô đã tạo điều kiện thuận lợi và

giúp đỡ tôi trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng chấm luận
văn đã nhiệt tình hướng dẫn và góp ý để tôi có thể hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM

7

PHÁM TRONG THU THẬP CHỨNG CỨ, XÂY DỰNG
HỒ SƠ GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ

1.1.

Khái niệm vai trò của Thẩm phán trong hoạt động TTCC,


7

xây dựng hồ sơ giải quyết VADS

1.1.1

Khái niệm Thẩm phán

7

1.1.2.

Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động thu thập chứng cứ, xây

9

dựng hồ sơ giải quyết vụ án dân sự

1.2.

Những nguyên tắc tố tụng dân sự liên quan đến vai trò của

12

Thẩm phán

1.2.1.

Nguyên tắc pháp chế XHCN


12

1.2.2.

Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số

13

1.2.3.

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập

14

và chỉ tuân theo pháp luật

1.2.4.

Nguyên tắc CCCC và chứng minh trong TTDS

15

1.2.5.

Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự

18

1.3.


Mối quan hệ của Thẩm phán với những ngƣời tiến hành tố

20

tụng và ngƣời tham gia tố tụng

1.3.1.

Mối quan hệ của Thẩm phán với người tiến hành tố tụng.

20

1.3.2.

Mối quan hệ của Thẩm phán với người tham gia tố tụng.

23

1.4.

Lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp luật

25

Việt Nam về vai trò của Thẩm phán

1.4.1.

Giai đoạn từ 1945 đến năm 1959


25


1.4.2.

Giai đoạn từ 1959 đến năm 1980

28

1.4.3.

Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992

29

1.4.4.

Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2004

31

1.4.5.

Giai đoạn từ năm 2005 đến nay

32

1.5.

Quy định pháp luật của một số nƣớc trên thế giới về vai trò

của Thẩm phán trong TTDS

36

Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
THU THẬP CHỨNG CỨ, XÂY DỰNG HỒ SƠ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
Thẩm phán thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét
xử
Thẩm phán thông báo về việc thụ lý vụ án.

44

Thẩm phán yêu cầu đương sự CCCC để có cơ sở giải quyết vụ
án
2.1.2.1 Yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ

47

2.1.2.2 Yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án

49

2.1.
2.1.1
2.1.2

2.1.3


Thẩm phán thực hiện các biện pháp TTCC

44
44

48
50

2.1.3.1 Các trường hợp Thẩm phán áp dụng biện pháp TTCC

51

2.1.3.2 Các biện pháp Thẩm phán áp dụng để TTCC

53

2.1.4.

Thẩm phán hòa giải để các đương sự thống nhất với nhau về
chứng cứ.

71

2.2.

Thẩm phán TTCC tại phiên tòa.

75

2.2.1


Thẩm phán TTCC và làm rõ chứng cứ qua phần thủ tục hỏi

76

2.2.2

Thẩm phán TTCC và củng cố chứng cứ qua phần tranh luận

78
82

3.1.

Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG
CAO VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRONG HOẠT ĐỘNG
THU THẬP CHỨNG CỨ, XÂY DỰNG HỒ SƠ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
Thực tiễn áp dụng tại quận Hà Đông, thành phố Hà Nội

6

82


3.1.1.

Những kết quả đạt được

82


3.1.2

Những tồn tại, hạn chế.

84

3.2.

Những yêu cầu hoàn thiện nâng cao vai trò của Thẩm phán

94

trong TTDS

3.3.

Những giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán

97

trong hoạt động TTCC, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS

3.3.1.

Hoàn thiện pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong hoạt

97

động TTCC, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS


3.3.2.

Đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án trên cơ sở hoàn thiện

100

vai trò độc lập của Thẩm phán

3.3.3.

Nâng cao chất lượng, năng lực chuyên môn cũng như phẩm

103

chất, đạo đức của đội ngũ Thẩm phán nhằm khẳng định vai trò
của Thẩm phán
KẾT LUẬN

106

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

108

7


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự.

XHCH

: Xã hội chủ nghĩa.

TTCC

: Thu thập chứng cứ.

CCCC


: Cung cấp chứng cứ.

GQVA

: Giải quyết vụ án.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo chủ trương cải cách tư pháp của Đảng xác định xây dựng Tòa án có
vị trí trung tâm và xét xử là trọng tâm của hoạt động tư pháp [11]. Trên cơ sở đó
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, Tòa án có nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân”. Người đại diện cho Tòa án thực hiện quyền tư pháp bảo vệ công lý là
Thẩm phán – người có trách nhiệm chính trong công tác xét xử các loại vụ án
nói chung và trong GQVA dân sự nói riêng. Trong quá trình tố tụng dân sự
Thẩm phán là người được phân công GQVA từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết
thúc hồ sơ vụ án bằng quyết định hoặc bản án xác định quyền và nghĩa vụ của
các bên trong tranh chấp dân sự. Để có căn cứ giải quyết VADS, ngoài nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc về các đương sự, hay chính là chứng cứ
do đương sự xuất trình có trong hồ sơ vụ án, thì còn những chứng cứ đương sự
không cung cấp được mà Thẩm phán phụ trách hồ sơ vụ án phải thu thập để có
căn cứ GQVA. Do vậy, Hoạt động thu thập chứng cứ để hỗ trợ cho đương sự
đồng thời để Thẩm phán xây dựng hồ sơ GQVA dân sự là hoạt động đặc biệt
quan trọng trong tố tụng dân sự, việc thu thập chứng cứ đầy đủ sẽ là cơ sở đánh
giá chứng cứ khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Căn cứ vào đó Tòa án
(hay chủ thể đặc biệt là Thẩm phán) có thể ra những bản án, quyết định đúng với
quy định của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự và bảo

đảm Bản án, quyết định dân sự của Tòa án khi có hiệu lực pháp phải được các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội tôn trọng, nghiêm chỉnh
chấp hành; không bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm để
hủy bản án vì thiếu chứng cứ hoặc Tòa án không áp dụng biện pháp thu thập
chứng cứ do lỗi chủ quan của Thẩm phán.

1


Từ khi được hình thành và phát triển đến nay, đội ngũ Thẩm phán nước
ta cơ bản đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của mình. Trong đó, đội ngũ
Thẩm phán TAND cấp huyện có ảnh hưởng rất lớn đến nhiệm vụ chính trị của
hệ thống Tòa án nói riêng và của Bộ máy nhà nước nói chung. Hiện nay, số
lượng Thẩm phán cấp huyện là lực lượng chiếm số lượng lớn nhất so với số
lượng Thẩm phán của cả nước và hàng năm số lượng VADS do họ tham gia giải
quyết chiếm số lượng nhiều nhất. Do vậy, việc nghiên cứu vai trò của Thẩm
phán trong thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS cũng là một nội
dung rất quan trọng không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay.
Mặt khác, theo Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, thì “Công tác tư pháp nước ta
còn bộc lộ nhiều hạn chế”. Đội ngũ Thẩm phán xét xử còn thiếu, nhất là ở các
tòa án cấp huyện; còn tồn tại số lượng không ít các Thẩm phán chưa nêu cao tinh
thần trách nhiệm trong công tác, thiếu thận trọng thậm chí là cẩu thả nên dẫn đến
tình trạng còn nhiều sai sót trong thực tiễn xét xử. Thêm nữa, về năng lực
chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cũng như kinh nghiệm trong công
tác của đội ngũ Thẩm phán hiện còn chưa đồng đều. Một số Thẩm phán chưa
tích cực tích lũy, học tập, nghiên cứu pháp luật để củng cố kiến thức, trình độ
nghiệp vụ. Nhiều cán bộ bằng lòng với kiến thức đã có, không thường xuyên bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức mới nên đã phạm sai sót khi giải quyết các VADS.

Hơn nữa trong thực tiễn báo cáo tổng kết công tác của ngành Tòa án
nhân dân tỷ lệ các bản án bị hủy do nguyên nhân chủ quan của Thẩm phán liên
quan đến thu thập chứng cứ vẫn chiếm tỷ lệ cao.
Trước tình hình trên và trong bối cảnh Việt Nam từng bước đi vào quỹ
đạo toàn cầu hóa, hội nhập thế giới, nhất là đang thực hiện cải cách tư pháp theo
tinh thần Nghị quyết 08 ngày 02/1/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp thời gian tới; Nghị quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng Nhà nước

2


pháp quyền và xã hội dân sự ở Việt Nam, cũng như hàng loạt vấn đề lý luận thực
tiễn liên quan đến Tòa án và Thẩm phán ở nước ta vẫn tiếp tục đặt ra và cần giải
đáp. Bởi vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận, thực tiễn để làm sáng tỏ mặt khoa
học và đưa ra những giải pháp nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động
thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS là đòi hỏi khách quan, cấp
thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Vai
trò của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết vụ án
dân sự qua thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố
Hà Nội” làm luận văn tốt nghiệp cao học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, hoàn
toàn cần thiết và mang tính khách quan.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng dân sự là một trong những vấn đề
được những người làm công tác nghiên cứu và thực tiễn quan tâm. Trong những
năm vừa qua đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan vấn đề này ở nhiều cấp
độ, phạm vi khác nhau như: Nguyễn Thị Hằng “Nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của Thẩm phán trong tố tụng dân sự” Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia
Hà Nội, 2013; Vũ Thu Hiền “Xây dựng đội ngũ Thẩm phán đáp ứng với yêu cầu
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học quốc

gia Hà Nội, 2008…; bài viết “Cần hoàn thiện quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của Thẩm phán trong giải quyết VADS sơ thẩm” , của Vũ Thanh
Tuấn (2014), Tạp chí Tòa án nhân dân số 7 (tháng 4/2014); bài viết “Vai trò của
Thẩm phán đối với việc mở rộng tranh tụng trong các VADS” của Tưởng Duy
Lượng - Nguyễn Văn Cường Tạp chí NCPL số 2/2004; bài viết Vai trò của
Thẩm phán trong thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS của
Nguyễn Văn Lin và Nguyễn Thị Hạnh, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp; bài viết
Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật” lý luận và thực tiễn của Nguyễn Quang Hiền, Tạp chí Tòa án nhân
dân số 19 (tháng 10/2012). Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết của nhiều tác giả
liên quan đến đội ngũ Thẩm phán được công bố như: Tạp chí TAND, Tạp chí

3


dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp… Các nghiên cứu đã đánh giá năng lực của đội ngũ Thẩm phán và đề ra
những khuyến nghị để nâng cao vai trò của đội ngũ này.
Có thể nói, qua nghiên cứu, khảo sát nội dung các sách chuyên khảo,
luận văn, các bài báo khoa học đã công bố ở Việt Nam trong thời gian qua, cho
thấy hầu hết các công trình này là những công trình nghiên cứu cơ bản và trực
diện về tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án, còn về vai trò của Thẩm phán
chưa được khoa học pháp lý nước ta quan tâm đúng mức. Những nghiên cứu chỉ
dừng lại ở các công trình đơn lẻ hoặc chỉ đề cập đến một số vấn đề liên quan đến
địa vị pháp lý của Thẩm phán và chủ yếu là trong tố tụng hình sự, chưa có một
công trình khoa học nào nghiên cứu có hệ thống, sâu sắc về vai trò của Thẩm
phán trong hoạt động thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS. Vì
vậy, những bất cập, hạn chế của đội ngũ Thẩm phán Tòa án các cấp hiện nay và
nhất là ở Hà Nội chưa được phân tích có hệ thống để đưa ra được những giải
pháp đồng bộ tăng cường vai trò của Thẩm phán đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn cho
việc nâng cao vai trò của Thẩm phán trong hoạt động thu thập chứng cứ, xây
dựng hồ sơ giải quyết VADS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể đạt được mục đích đó, trong phạm vi đề tài, tác giả tập trung
vào những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu vai trò của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ, xây dựng
hồ sơ giải quyết VADS theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.
Làm rõ những đặc trưng riêng của hoạt động thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ
giải quyết VADS của Thẩm phán.

4


- Phân tích vai trò của Thẩm phán trong hoạt động thu thập chứng cứ,
xây dựng hồ sơ giải quyết VADS ở TAND quận Hà Đông, Hà Nội trong thời
gian từ năm 2011 đến 2014, phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế dẫn đến
những thiếu sót của Thẩm phán trong hoạt động thu thập chứng cứ, xây dựng hồ
sơ giải quyết VADS theo quy định của BLTTDS.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của Thẩm phán
trong hoạt động thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS, góp phần
thực hiện có hiệu quả công cuộc cải cách tư pháp, nâng cao uy tín của nền tư pháp
nước nhà trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử
của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước và pháp luật.

Đồng thời được tiến hành bằng những phương pháp nghiên cứu khoa học
cơ bản như: phân tích, đối chiếu so sánh, hệ thống, logic, tổng hợp, thống kê thu
thập thông tin, quy nạp và diễn dịch, v.v... Nhờ vậy, những vấn đề có liên quan
đến vai trò của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ VADS được
xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, có
hệ thống và xác thực.
5. Ý nghĩa của luận văn.
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả của BLTTDS về vai trò của
Thẩm phán trong thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập.
Những giải pháp của luận văn sẽ cung cấp một số luận cứ khoa học phục vụ cho
công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự liên
quan đến vai trò của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả công tác giải quyết VADS hiện nay và sắp tới.

5


6. Những điểm mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn thạc sĩ luật học,
nghiên cứu hệ thống, toàn diện, đầy đủ về vài trò của Thẩm phán trong thu thập
chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS theo quy định của BLTTDS. Những
điểm mới của luận văn là:
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về vai trò của Thẩm
phán trong thu thập chứng cứ xây dựng hồ sơ VADS theo BLTTDS.
- Phân tích, đánh giá một cách toàn diện thực trạng áp dụng pháp luật về
vai trò của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ tại Tòa án nhân dân quận Hà
Đông; qua đó nên ra những tồn tại, hạn chế, bất cập chung của pháp luật và
những tồn tại thực tiễn trong việc áp dụng pháp luật về vai trò của Thẩm phán

trong TTCC, xây dựng hồ sơ trong TTDS. Trên cơ sở đó luận văn đề xuất các
giải pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao vai trò của Thẩm phán
trong TTCC, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS trong TTDS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động thu
thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết vụ án dân sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong hoạt
động thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết vụ án dân sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao vai trò của Thẩm
phán trong hoạt động thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ vụ án dân sự.

6


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁM TRONG
THU THẬP CHỨNG CỨ, XÂY DỰNG HỒ SƠ
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm vai trò của Thẩm phán.
1.1.1. Khái niệm Thẩm phán
TAND có vị trí trung tâm trong các cơ quan tư pháp thực hiện chức năng
xét xử. Trong TAND, Thẩm phán là người có vị trí và vai trò then chốt để thực
thi chức năng của Tòa án. Xét về lịch sử ra đời thì khái niệm Thẩm phán ra đời
khá muộn mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ rất lâu và không thể thiếu trong bộ
máy nhà nước. Dưới thời kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến hình thức Nhà nước
chủ yếu là quân chủ lập hiến, hoạt động xét xử cũng như hoạt động lập pháp,
hoạt động hành pháp đều tập trung vào giai cấp chủ nô và phong kiến mà đại
diện là nhà vua. Nhà vua là người nắm toàn bộ quyền hành, đứng đầu Nhà nước

ban hành các đạo luật, quy định tổ chức thực hiện và là người có quyền lực cao
nhất. Đến thế kỷ XVII, XVIII giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến đã hạn chế dần quyền lực của nhà vua, tiến tới
xoá bỏ Nhà nước phong kiến. Trong thời gian này, các học giả tư sản mà tiêu
biểu nhất là Montesquieu trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật” đã đưa ra luận
điểm: Phải tách các hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động thực hiện pháp luật
và hoạt động xét xử, chia quyền lực nhà nước thành ba loại quyền: lập pháp,
hành pháp và tư pháp độc lập với nhau tạo cơ chế kiềm chế đối trọng lẫn nhau,
chống lại tư tưởng độc quyền của một người, hay của một cơ quan nào đó, nắm
toàn bộ quyền lực Nhà nước. Có thể nói sự tách bạch và độc lập giữa Toà án ra
khỏi hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp đã hình thành nên một đội ngũ
cán bộ mới trong bộ máy nhà nước làm nhiệm vụ xét xử từ xưa đến nay chưa
từng có đó là Thẩm phán.

7


Theo khái niệm Thẩm phán trong từ điển Tiếng Việt thì: Thẩm phán là
người chuyên làm công tác xét xử các loại vụ án.
Tại Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 đã định
nghĩa: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền
của Toà án”.
Từ định nghĩa về Thẩm phán cho thấy Thẩm phán là một chức danh tư
pháp được bổ nhiệm theo trình tự thủ tục và tiêu chuẩn do pháp luật quy định
chặt chẽ để làm nhiệm vụ xét xử của Tòa án hay chính là thực hiện chức năng
của Tòa án (chức năng xét xử nhân danh Nhà nước) thực hiện quyền tư pháp.
Theo quan điểm của TS. Nguyễn Quang Hiền: “Tòa án là một thiết chế không
thể tự thực hiện được quyền tư pháp (xét xử) mà phải thông qua con người cụ
thể để thay mặt Tòa án thực hiện quyền tư pháp, đó chính là Thẩm phán”[17].

- Thẩm phán TAND ở nước ta gồm có:
Thẩm phán TANDTC.
Thẩm phán cao cấp.
Thẩm phán trung cấp.
Thẩm phán sơ cấp.
- Thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm.
- Về nhiệm kỳ của Thẩm phán: “Nhiệm kỳ đầu của các Thẩm phán là 05
năm; trường hợp được bổ nhiệm lại hoặc được bổ nhiệm vào ngạch Thẩm phán
khác thì nhiệm kỳ tiếp theo là 10 năm.” [41].
Ngoài ra, qua định nghĩa về Thẩm phán, ta thấy Thẩm phán cũng được coi
là công chức nhà nước. Thẩm phán là công dân Việt Nam được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan Nhà nước ở đây là TAND,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Theo pháp luật về cán bộ,
công chức hiện hành, Thẩm phán được xếp vào ngạch công chức nhà nước được
hưởng mọi quyền lợi, nghĩa vụ và chế độ của công chức nói chung. Theo quan

8


điểm của tác giả Nguyễn Minh Sử thì cần phải coi “Thẩm phán là một dạng công
chức đặc biệt” [65].
Từ các lý do trên tác giả đưa ra khái niệm về Thẩm phán: “Thẩm phán là
công chức danh tư pháp đặc biệt được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để
thực hiện chức năng xét xử của Tòa án, nhân danh Nhà nước có vai trò bảo vệ
công lý, công bằng và bình ổn các mối quan hệ xã hội”.
Với quy định trên thì không có một công chức nào có thể thay thế hoặc
thực hiện thay nhiệm vụ của Thẩm phán được.
1.1.2. Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động TTCC, xây dựng hồ sơ
giải quyết VADS.
TTCC là việc phát hiện, lựa chọn và tập hợp chứng cứ đưa vào hồ sơ vụ án

để Tòa án nghiên cứu, đánh giá, sử dụng phục vụ cho việc giải quyết VADS một
cách đúng đắn. Đây là công việc rất quan trọng, tạo cơ sở cho quá trình chứng
minh, có ý nghĩa quyết định đối với việc giải quyết VADS. Trong TTDS Việt
Nam hiện hành, hoạt động TTCC có thể được tiến hành bởi nhiều loại chủ thể tùy
thuộc vào vị trí, vai trò, chức năng của từng chủ thể và từng giai đoạn tố tụng khác
nhau. Tác giả đề cập đến vai trò TTCC của Thẩm phán khi tiến hành GQVA ở
giai đoạn sơ thẩm.
Đồng thời với việc quy định nghĩa vụ CCCC của đương sự, BLTTDS năm
2004, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2011 quy định trách nhiệm
TTCC của Tòa án và chỉ được tiến hành trong những trường hợp do Bộ luật này
quy định (Điều 6, Khoản 2 Điều 85BLTTDS).
Quy định về trách nhiệm TTCC của Tòa án (Thẩm phán) hay sự cần thiết
của Thẩm phán trong thu thập chứng cứ là xuất phát từ điều kiện kinh tế - xã hội
cụ thể của Việt Nam; do vậy tác giả đồng ý với quan điểm của Ths. Nguyễn Văn
Lin và Ths. Nguyễn Thị Hạnh, xuất phát từ các điều kiện sau đây [22]:
Thứ nhất: Hệ thống tư pháp Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo truyền
thống pháp luật lục địa. Trong đó, TTDS thể hiện tính chất pha trộn giữa tố tụng
tranh tụng và tố tụng xét hỏi nhưng yếu tố xét hỏi nổi trội hơn. Thẩm phán được

9


phân công GQVA là người trực tiếp xây dựng hồ sơ vụ án và trên cơ sở hồ sơ
này để GQVA. Quá trình xác minh, TTCC cũng chính là quá trình xây dựng hồ
sơ VADS. Chính vì vậy, hồ sơ VADS là yếu tố có ý nghĩa hết sức quan trọng
trong GQVA. Ngoài việc phải đảm bảo việc giải quyết VADS khách quan, công
bằng, đúng pháp luật, Thẩm phán còn có trách nhiệm GQVA đúng thời hạn. Mặt
khác, lý luận về chứng cứ cũng cho thấy, Tòa án là cơ quan có nhiệm vụ đánh
giá toàn bộ chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án. Việc đánh giá chứng cứ có
đúng đắn, khách quan và toàn diện hay không phụ thuộc vào việc cung cấp,

TTCC có đầy đủ, chính xác và đúng pháp luật hay không. Và ở đây, trách nhiệm
của Thẩm phán là phải đảm bảo trong hồ sơ vụ án có đầy đủ chứng cứ làm căn
cứ cho việc GQVA. Do đó, mặc dù BLTTDS quy định các đương sự có nghĩa vụ
CCCC để Tòa án xem xét GQVA, nhưng nếu “phó thác” toàn bộ nghĩa vụ chứng
minh cho các đương sự để giải phóng hoàn toàn nghĩa vụ chứng minh của Tòa
án, thì sẽ không thực tế trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Vì như vậy có thể
làm cho vụ án bị giải quyết thiếu khách quan, làm lợi cho đương sự này nhưng
lại xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của đương sự khác.
Thứ hai: Trong điều kiện hiện nay, khả năng tự bảo vệ của các đương sự trong
VADS còn rất yếu, sự hiểu biết pháp luật của họ còn hạn chế. Nhất là đương sự
ở những vùng nông thôn và miền núi, họ không có điều kiện mời luật sư để bảo
vệ quyền lợi cho mình. Do đó, khi có tranh chấp dân sự xảy ra, họ không biết
phải có các chứng cứ, tài liệu gì để bảo vệ quyền lợi của mình, tìm kiếm các
chứng cứ đó ở đâu, để cung cấp cho Tòa án. Trong khi đó, chúng ta chưa đủ điều
kiện quy định việc tham gia tố tụng của luật sư là bắt buộc, nên nếu quy định
nghĩa vụ chứng minh hoàn toàn thuộc về đương sự có thể dẫn đến tình trạng
đương sự không có khả năng chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Chính vì vậy, quy định Nhà nước (Tòa án) phải hỗ trợ đương sự trong
việc TTCC là hợp lý.
Thứ ba: Ở nước ta, do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc phổ cập các tài liệu,
giấy tờ liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, nhà ở còn hạn chế; các

10


chứng cứ hiện đang do một số cơ quan Nhà nước có trách nhiệm bảo quản, quản
lý. Nhiều tài liệu, giấy tờ, văn bản chưa có điều kiện để công khai cho công dân.
Thêm nữa, việc quản lý hành chính còn cồng kềnh, quan liêu; máy móc, trang
thiết bị chưa cho phép phổ cập tất cả mọi thông tin này đến với mọi người dân.
Nhiều trường hợp, việc TTCC đang do cơ quan, tổ chức lưu giữ, quản lý là rất

khó khăn. Trong rất nhiều vụ án, mặc dù đương sự đã mất nhiều công sức, thời
gian đi lại yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp các chứng cứ liên quan đến việc
giải quyết VADS để họ giao nộp cho Tòa án, nhưng đều bị từ chối với đủ mọi lý
do; hoặc các cơ quan, tổ chức cung cấp không đầy đủ, không chính xác, không
đúng thời hạn. Điều này đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, cụ thể là Tòa
án, với tính chất là cơ quan có chức năng giải quyết tranh chấp, hỗ trợ đương sự
TTCC đang lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức mà đương sự không thể thu thập
được.
Với vị trí là người tiến hành tố tụng, có nhiệm vụ xây dựng hồ sơ vụ án,
giải quyết VADS đúng pháp luật, đúng thời hạn, nên Thẩm phán có vai trò quan
trọng trong việc TTCC. Thẩm phán là người phải xác định đối tượng chứng
minh, các chứng cứ cần thu thập của vụ án, trên cơ sở đó, Thẩm phán thúc đẩy
các bên đương sự chủ động tiến hành TTCC để cung cấp cho Tòa án, đồng thời
Thẩm phán tiến hành các hoạt động tố tụng để TTCC hỗ trợ đương sự và củng
cố chứng cứ VADS theo quy định của pháp luật; có trách nhiệm hòa giải để cho
các đương sự thương lượng thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Như
quan điểm Ths. Vũ Thu Hiền: “Thẩm phán như là một trọng tài không thiên vị,
một người phán xử trung lập, Thẩm phán nghe và tạo điều kiện cho các bên cơ
hội thích hợp để trình bày chứng cứ, luận điểm để chứng minh làm sáng tỏ các
tình tiết tại phiên tòa, trên cơ sở đó Thẩm phán đưa ra các phán quyết cuối cùng
một cách công tâm” [18].
Theo quan điểm tác giả, Thẩm phán có vai trò đặc biệt quan trọng trong
hoạt động thu thập chứng cứ, xây dựng hồ sơ giải quyết vụ án dân sự. Thẩm
phán là người thúc đẩy các đương sự cung cấp chứng cứ và hỗ trợ đương sự thu

11


thập chứng cứ, đồng thời là trọng tài công tâm đưa ra phán quyết đánh giá chứng
cứ một cách khách quan mang tính chất bắt buộc thực hiện đối với các bên

đương sự.
1.2. Những nguyên tắc TTDS liên quan đến vai trò của Thẩm phán
Để thể hiện được sức mạnh của một nền pháp chế, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan và tổ chức thì nhà làm luật
đã xây dựng một số nguyên tắc tố tụng tạo ra hành lang pháp lý cho việc áp dụng
pháp luật tố tụng khi giải quyết vụ án dân sự. Trong quá trình GQVA những
người tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng phải thực hiện nghiêm
chỉnh các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS, mọi biểu hiện không tuân thủ đều
có thể dẫn đến sai lầm trong quá trình giải quyết các VADS.
Các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS Việt Nam được thể chế hoá tại
Chương II “Những nguyên tắc cơ bản” của BLTTDS (từ Điều 3 đến Điều 24),
trong các nguyên tắc cơ bản này, có những nguyên tắc không chỉ được ghi nhận
trong pháp luật TTDS mà còn được thể hiện trong các văn bản pháp luật tố tụng
hình sự và pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trong
phạm vi đề tài tác giả chỉ tập trung giới thiệu nội dung chủ yếu của các nguyên
tắc TTDS thể hiện hoặc liên quan đến vai trò của Thẩm phán trong hoạt động
TTCC, xây dựng hồ sơ giải quyết VADS bao gồm các nguyên tắc cụ thể sau:
1.2.1.

Nguyên tắc pháp chế XHCN

Pháp chế luôn là yêu cầu đặt ra đối với mọi nhà nước hiện đại, Điều 8
Hiến pháp năm 2013 quy định [36]: “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo
Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. Nội dung
chủ yếu của pháp chế là các hoạt động của nhà nước và xã hội đều dựa trên cơ sở
pháp luật nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Mọi hoạt động trong TTDS cũng
không nằm ngoài ngoại lệ này.
Nguyên tắc pháp chế XHCN trong TTDS được quy định trong BLTTDS
[45]: Mọi hoạt động TTDS của người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng,


12


của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo các quy định của Bộ
luật này. Nội dung nguyên tắc được biểu hiện cụ thể trong TTDS như sau:
Người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng phải nghiêm
chỉnh tuân thủ những quy định của BLTTDS, chỉ được áp dụng những biện pháp
mà pháp luật yêu cầu và cho phép để tiến hành các hoạt động của mình nhằm
giải quyết các VADS. Hay nói cách khác, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng phải thực hiện đầy đủ và đúng các quyền tố tụng của mình, đồng
thời nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ tố tụng khi tiến hành hoạt động TTDS
để giải quyết VADS theo đúng trình tự, thủ tục luật định.
Có thể nói rằng quá trình TTDS là một xâu chuỗi bao gồm nhiều hành vi
tố tụng có tính chất khác nhau do các chủ thể có thẩm quyền thực hiện. Nguyên
tắc pháp chế XHCN làm cho quá trình đó diễn ra theo đúng thứ tự trước sau theo
quy định của BLTTDS, mà không hề bị đảo lộn. Do vậy, hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng sẽ không bị chồng chéo về chức năng, thẩm quyền. Với
vai trò như vậy, ý nghĩa trước hết của nguyên tắc này trong TTDS là giúp cho
quá trình TTDS trong thực tế được vận hành một cách thống nhất, đồng bộ và
đạt hiệu quả cao. Nguyên tắc pháp chế còn là cơ sở quan trọng cho việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia TTDS. Nguyên tắc này
đảm bảo việc giải quyết các VADS nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng
pháp luật.
1.2.2.

Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.

Nguyên tắc này được quy định tại điều 103 Hiến pháp năm 2013 và bắt
nguồn từ nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước. Xét xử là hoạt động đặc thù do TAND thực hiện nhằm bảo vệ

pháp chế XHCN, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Bằng bản án, quyết định của tòa án mà
các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được hưởng các quyền hoặc phải thực hiện
các nghĩa vụ nhất định. BLTTDS năm 2004 đã cũng cụ thể hóa nguyên tắc trên
tại Điều 14: Tòa án xét xử tập thể VADS và quyết định theo đa số. Vì vậy, việc

13


xét xử của tòa án phải khách quan, đúng pháp luật. Muốn có bản án, quyết định
khách quan, đúng pháp luật đòi hỏi phải phát huy trí tuệ tập thể. Do đó khi xét
xử tất cả các vụ án, ở tất cả các trình tự tố tụng đều phải thành lập hội đồng xét
xử. Các văn bản pháp luật về tố tụng đã quy định cụ thể thành phần của
Hội đồng xét xử ở từng cấp xét xử:
- Theo luật định thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai
hội thẩm nhân dân, trường hơp đặc biệt Hội đồng xét xử có hai Thẩm phán và
ba hội thẩm. Tòa chuyên trách Tòa án tối cao xét xử thì thành phần Hội đồng
xét xử là ba Thẩm phán và hai hội thẩm.
- Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán, trường hợp đặc biệt có
thêm hai hội thẩm nhân dân.
- Hội đồng xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm Tòa chuyên trách Tòa án
nhân dân tối cao hoặc Tòa án quân sự Trung ương gồm có ba Thẩm phán.
Nếu Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm thì số thành viên tham gia xét xử phải chiếm hai phần ba tổng số các
thành viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán.
Nguyên tắc này phát huy được trí tuệ tập thể và đảm bảo cho việc xét xử
của Tòa án thận trọng, khách quan, toàn diện, chống độc đoán. Hội đồng xét xử
làm việc tập thể và chịu trách nhiệm phán quyết của mình. Mọi thành viên Hội
đồng xét xử ngang quyền nhau khi giải quyết những vấn đề phát sinh tại phiên
tòa. Khi quyết định bản án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề một.

Trong Hội đồng xét xử sơ thẩm, Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý
kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu trong
hồ sơ vụ án.
1.2.3.

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc

lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Nguyên tắc độc lập trong xét xử đều được quy định trong năm bản Hiến
pháp của nước ta (Điều 69 Hiến pháp 1946, Điều 100 Hiến pháp 1959, Điều 131
Hiến pháp 1980, Điều 130 Hiến pháp 1992 và khoản 2 Điều 103 Hiến pháp
2013). Trong Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946 và các luật tổ chức
TAND năm 1960, 1981, 1992 và 2014 cũng đều ghi nhận nguyên tắc này.

14


Nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc pháp chế XHCN, nó bảo đảm cho
TAND xét xử khách quan, đúng pháp luật để bảo vệ trật tự pháp luật XHCN.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi xét xử các thành viên trong Hội đồng xét xử
độc lập với nhau trong suy nghĩ, trong việc xem xét, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
và đưa ra các kết luận về vụ án. Trong quá trình nghị án Thẩm phán giải thích
cho Hội thẩm nhân dân biết những quy định của pháp luật và đường lối xét xử
cần được áp dụng xử lý đối với vụ án đó nhưng Thẩm phán phải tôn trọng ý
kiến, quan điểm của Hội thẩm và Thẩm phán phải phát biểu và biểu quyết sau
cùng để tránh trường hợp Hội thẩm ỉ vào quyết định của Thẩm phán, chỉ việc
đồng ý và biểu quyết theo quan điểm của Thẩm phán. Trong trường hợp thành
viên của Hội đồng xét xử có ý kiến khác nhau thì vẫn có quyền bảo lưu ý kiến
của mình nếu ý kiến đó là thiểu số. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày
ý kiến của mình bằng văn bản và được lưu vào trong hồ sơ.

Độc lập xét xử không có nghĩa là xét xử tuỳ tiện mà độc lập trong khuôn
khổ pháp luật.
Nguyên tắc này còn được thể hiện ở nội dung Hội đồng xét xử độc lập với
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân. Trong quá trình xét xử cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân không được can thiệp hoặc tác
động đến thành viên của Hội đồng xét xử. Mọi hành động can thiệp dưới bất kỳ
hình thức nào đều bị coi là bất hợp pháp. Sự độc lập còn được thể hiện trong
quan hệ giữa các cấp xét xử. Toà án cấp trên không được quyết định hoặc gợi ý
cho Toà án cấp dưới trước khi xét xử một vụ án cụ thể. Đồng thời khi xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm cũng không bị phụ thuộc bởi các nhận định
những phán quyết của Toà án cấp dưới.
Theo quan điểm của Ts. Nguyễn Quang Hiền: “Độc lập” là một mình tự
lập, hành động không phụ thuộc vào người khác [17].
Tóm lại, đây là một trong những nguyên tắc tố tụng quan trọng bậc nhất
đảm bảo cho việc giải quyết các VADS nhanh chóng, chính xác, công minh và
đúng pháp luật.
1.2.4.

Nguyên tắc CCCC và chứng minh trong TTDS.

15


Theo quan điểm của Ngô Vĩnh Bạch Dương: “Chứng minh trong tố tụng
là một quá trình gồm thu thập, cung cấp, sử dụng chứng cứ nhằm làm sáng tỏ cơ
sở pháp lý cũng như cơ sở thực tế các yêu cầu của các bên trong vụ án. Mỗi một
chủ thể tham gia vào quá trình này có những quyền và nghĩa vụ riêng biệt, tùy
thuộc vào vị trí tố tụng của họ. Khái niệm nghĩa vụ chứng minh (mà người ta
thường gọi là Onus probandi theo tiếng La tinh, Beweislast theo tiếng Đức,
Burden of proof theo tiếng Anh, hay La charge de la preuve theo tiếng Pháp)

được hình hành nhằm xác định bổn phận phải gánh vác của một chủ thể trong
việc chứng tỏ hoặc phản bác một vấn đề trong vụ án. Thông thường, nói đến
nghĩa vụ chứng minh, người ta nói đến nghĩa vụ chứng minh nội dung và nghĩa
vụ chứng minh hình thức” [7].
Hoạt động xét xử các VADS là hoạt động phát sinh trên cơ sở có sự tranh
chấp quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có lợi ích tư đối lập nhau nhưng
bình đẳng về địa vị pháp lý mà trong đó có một quy tắc chung cho cả hai bên
đương sự: người nào đề ra một luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng minh.
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các VADS, kinh tế, lao động, trước đây quy định
Toà án phải giữ vai trò tích cực và chủ động trong việc xác minh, TTCC, theo đó
Toà án không chỉ giới hạn ở những tài liệu, chứng cứ đã được đương sự xuất
trình mà còn có thể (nếu xét thấy cần thiết) áp dụng các biện pháp TTCC do
pháp luật quy định để bảo đảm cho việc GQVA được chính xác. Tuy nhiên, quy
định này dễ dẫn đến tình trạng Toà án lạm dụng quyền lực, thiên vị cho một bên
hoặc “làm thay” cho các bên đương sự khi giải quyết vụ việc và hậu quả là quy
định về nghĩa vụ CCCC và chứng minh của đương sự trong TTDS chỉ còn mang
tính hình thức, không còn mấy ý nghĩa trong thực tiễn. Để khắc phục một phần
những khiếm khuyết trong các Pháp lệnh trước, đồng thời mở rộng nguyên tắc tự
định đoạt của đương sự cũng như tăng cường yếu tố tranh tụng trong TTDS,
Điều 6 BLTTDS quy định nguyên tắc CCCC và chứng minh trong TTDS như
sau:

16


“1. Các đương sự có quyền và nghĩa vụ CCCC cho Toà án và chứng minh
cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi
kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và
nghĩa vụ CCCC, chứng minh như đương sự. 2. Toà án chỉ tiến hành xác minh,
TTCC trong những trường hợp do Bộ luật này quy định”.

Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này là:
- Mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những tình tiết mà mình
đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối của mình, hay nói một
cách giản đơn hơn: “Ai khẳng định một sự việc gì thì phải chứng minh sự việc
ấy”. Nghĩa vụ này cũng được áp dụng trong trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng hoặc quyền, lợi ích
hợp pháp của người khác. Nhưng cần lưu ý là, nguyên tắc chung về nghĩa vụ
chứng minh của các bên đương sự cũng có những ngoại lệ. Những ngoại lệ này
có thể được quy định ngay trong BLTTDS (ví dụ: như quy định tại Điều 80
BLTTDS về những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh) hoặc có thể do
pháp luật nội dung quy định.
- Đương sự có nghĩa vụ chứng minh nên khi không đưa ra được chứng cứ
hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc không chứng
minh được hoặc chứng minh không đầy đủ đó (khoản 4 Điều 79). Hậu quả đó có
thể là yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu mà đương sự đưa ra không được Toà án
chấp nhận hoặc chỉ được Toà án chấp nhận một phần…;
Đăc điểm này khác biệt hoàn toàn với tố tụng hình sự bởi: Điều 11 Bộ luật
tố tụng hình sự quy định :“…trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ
quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng
minh mình là vô tội” [43]. Vì vậy, trong vụ án hình sự nghĩa vụ chứng minh tội
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Vai trò của Toà án trong việc xác minh, TTCC được đổi mới theo hướng
Toà án chỉ áp dụng một hoặc một số biện pháp TTCC trong những trường hợp
luật quy định và việc tiến hành các biện pháp TTCC của Tòa án phải tuân theo

17


×