Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự là trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 90 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN THU PHNG

NGƯờI BàO CHữA, NGƯờI BảO Vệ QUYềN LợI CHO ĐƯƠNG Sự
Là TRợ GIúP VIÊN PHáP Lý TRONG Tố TụNG HìNH Sự
(Trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Yên Bái)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN THU PHNG

NGƯờI BàO CHữA, NGƯờI BảO Vệ QUYềN LợI CHO ĐƯƠNG Sự
Là TRợ GIúP VIÊN PHáP Lý TRONG Tố TụNG HìNH Sự
(Trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Yên Bái)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. CHU THI TRANG VN

H NI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất
kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thu Phƣơng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BÀ O CHƢ̃ A

,

NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN L ỢI CHO ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ LÀ TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ ................................8

1.1.

Ngƣời bào chƣ̃a , Ngƣời bảo vê ̣ quyề n lơ ̣i cho đƣơng sƣ ̣ trong tố
tụng hình sự .................................................................................................8

1.1.1.

Người bào chữa .............................................................................................8

1.1.2.

Người bảo vê ̣ quyề n lơ ̣i cho đương sự ........................................................13

1.2.

Ngƣời bào chƣ̃a , Ngƣời bảo vê ̣ quyề n lơ ̣i cho đƣơng sƣ ̣ trong tố
tụng hình sự là trợ giúp viên pháp lý ......................................................15

1.2.1.

Khái quát chung về trợ giúp pháp lý và và trợ giúp pháp lý trong tố
tụng hình sự .................................................................................................15

1.2.2.

Người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong tố tụng
hình sự là trợ giúp viên pháp lý ...................................................................24

1.3.


Sơ lƣợc lịch sử các quy định pháp luật về Ngƣời bào chữa, Ngƣời
bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự trong TTHS là trợ giúp viên pháp lý ......36

Tiểu kết chƣơng 1 ....................................................................................................39
Chƣơng 2: THƢ̣C TIỄN HOA ̣T ĐỘNG BÀ O CHƢ̃ A , BẢO VỆ QUYỀN
LỢI CHO ĐƢƠNG SƢ̣ TRONG TTHS CỦ A TGVPL TẠI TỈ NH
YÊN BÁI ....................................................................................................40
2.1.

Khái quát chung về hoạt động TGPL tại tỉnh Yên Bái ..........................41


2.1.1.

Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội ở Yên Bái có ảnh hưởng tới hoạt
động trợ giúp pháp lý ..................................................................................41

2.1.2.

Quá trình thành lập và phát triển của Trung tâm TGPL tỉnh Yên Bái ........45

2.2.

Kết quả hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự trong
tố tụng hình sự của trợ giúp viên pháp lý tỉnh Yên Bái.........................50

2.2.1.

Hoạt động bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý ..........................................50


2.2.2.

Hoạt động bảo vệ quyền lợi cho đương sự của Trợ giúp viên pháp lý .......55

2.3.

Đánh giá chung về hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho
đƣơng sự trong tố tụng hình sự của Trợ giúp viên pháp lý tại tỉnh
Yên Bái .......................................................................................................57

2.3.1.

Kết quả đạt được .........................................................................................57

2.3.2.

Một số tồn tại, hạn chế ................................................................................58

2.3.3.

Nguyên nhân ...............................................................................................60

Tiểu kết chƣơng 2 ....................................................................................................62
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
NÂNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BÀO CHỮA, BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CHO ĐƢƠNG SỰ TRONG TTHS CỦA TGVPL
TẠI TỈNH YÊN BÁI .................................................................................63
3.1.

Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt động

bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự trong tố tụng hình sự
của Trợ giúp viên pháp lý .........................................................................63

3.1.1.

Về phương diện lý luận ...............................................................................63

3.1.2.

Về phương diện lập pháp ............................................................................65

3.1.3.

Về phương diện thực tiễn ............................................................................66

3.2.

Hoàn thiện cơ sở pháp lý và cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bào
chữa, bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự trong tố tụng hình sự của
Trợ giúp viên pháp lý ................................................................................70

3.3.

Một số giải pháp nâng cao vị trí, vai trò và hiệu quả hoạt động
bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho đƣơng sự trong tố tụng hình sự
của Trợ giúp viên pháp lý tại tỉnh Yên Bái .............................................72


3.3.1.


Nâng cao nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp về tổ
chức, hoạt động trợ giúp pháp lý .................................................................72

3.3.2.

Tăng cường công tác phố i hơ ̣p về trợ giúp pháp lý trong tố tụng hình........
sự 73

3.3.3.

Nâng cao chất lượng đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý ...................................73

3.3.4.

Nâng cao nhận thức của nhân dân các dân tộc trong tỉnh về quyền
được trợ giúp pháp lý ..................................................................................74

3.3.5.

Tăng cường sự hợp tác quốc tế và trao đổi về kinh nghiệm .......................76

KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................79


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự


BLTTHS

Bộ Luật Tố tụng hình sự

CQTHTT

Cơ quan tiến hành tố tụng

NTHTT

Người tiến hành tố tụng

TGPL

Trợ giúp pháp lý

TGVPL

Trợ giúp viên pháp lý

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1: Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh

44

Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ % hộ nghèo ở các địa phương trong tỉnh

44

Biểu đồ 2.3: Đặc điểm nhân thân của bị cáo trong các vụ án sơ thẩm
trên địa bàn tỉnh Yên Bái (2011 – 2013)

44

Biểu đồ 2.4: Tỷ lệ vụ việc trợ giúp pháp lý về hình sự trên địa bàn tỉnh

45

Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ % vụ việc TGVPL và chuyên viên thực hiện TGPL

48

Biểu đồ 2.6: Tỷ lệ % vụ việc tham gia TTHS của TGVPL và Luật sư


52

Biểu đồ 2.7: Tỷ lệ % các đối tượng được TGPL trong TTHS

52

Biểu đồ 2.8: Tỷ lệ án sơ thẩm trên địa bàn tỉnh có người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự

59

Biểu đồ 2.9: Tỷ lệ án phúc thẩm trên địa bàn tỉnh có người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự

59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật TTHS là một trong những hê ̣ thố ng pháp luâ ̣t nhằm bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời,
pháp luật hình sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người
ý thức chấp hành và tuân theo pháp luật.
Bộ luật tố tụng hình sự 2003 được ban hành thay thế Bộ luật TTHS 1988, đã
có những thay đổi về thủ tục tố tụng theo hướng tăng thẩm quyền cho các cơ quan
tiến hành tố tụng cấp huyện, xác định chính xác hơn về quyền hạn, nghĩa vụ, trách
nhiệm của những người tiến hành tố tụng, mở rộng hơn quyền của cơ quan, tổ chức,
công dân tham gia vào hoạt động tố tụng hình sự, cũng như quyền hạn, trách nhiệm
của người tham gia tố tụng nhất là đối với người bào chữa và người bảo vệ quyền

lợi của đương sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định người bào chữa có thể là
luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bào chữa viên
nhân dân; người bảo vệ quyền lợi của đương sự gồm luật sư, bào chữa viên nhân
dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận [32].
Đến năm 2006, có một đạo luật quy định thêm một số chủ thể chưa được quy
định cụ thể trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 nhưng được tham gia tố tụng hình sự
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đối tượng theo quy định của pháp luật.
Đó là Luật trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006.
Các chủ thể này được tham gia tố tụng hình sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của những người được trợ giúp pháp lý theo quy định, gồm trợ giúp viên pháp lý và
luật sư là cộng tác viên tham gia trợ giúp pháp lý [32].
Nếu xét hiểu theo nghĩa rộng, thì Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng đã đề cập
đến các chủ thể này vì có quy định một trong những người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự là “Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo”, “người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận” [30].

1


Ngoài ra, để thực hiện đúng và thống nhất các quy định của Luật trợ giúp pháp lý
trong hoạt động tố tụng, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao đã có các Thông tư liên
ngành hướng dẫn. Tuy nhiên, thực tế tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trong hoạt
động tố tụng nói chung và việc thực hiện quyền hạn, trách nhiệm của trợ giúp viên
pháp lý, luật sư là cộng tác viên pháp lý khi tham gia tố tụng hình sự nói riêng còn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Những khó khăn, vướng mắc này xuất phát từ cơ
chế, nhận thức của một số cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cũng
như do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Ở Việt Nam, Trợ giúp pháp lý được biết đến như là một trong những chính
sách xã hội rộng lớn thể hiện bản chất tốt đẹp của nền Tư pháp nhân dân. Trợ giúp

pháp lý không chỉ giúp người nghèo, đối tượng chính sách và những đối tượng có
hoàn cảnh đặc biệt được tiếp cận pháp luật, hỗ trợ họ bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp mà còn góp phần xây dựng và hình thành lối sống và làm việc theo pháp
luật. Đây cũng là một trong những hoạt động thể hiện đậm nét truyền thống, đạo lý
tương thân, tương ái “lá lành đùm lá rách”, “đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc, phù hợp
với yêu cầu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và xu thế phát triển của
cộng đồng quốc tế. Trong các hình thức trợ giúp pháp lý cho các đối tượng được trợ
giúp pháp lý thì thực tiễn cho thấy tham gia tố tụng là hoạt động có hiệu quả nhất
trong việc bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng. Nên để tăng cường
hiệu quả hơn nữa chính sách về trợ giúp pháp lý, ngày càng nâng cao hiệu quả bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý thì việc xác
định vị trí, vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của trợ giúp viên pháp lý, luật sư là
cộng tác viên trong hoạt động tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng.
Mặt khác, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư
pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08 ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về "Một số
nhiệm vụ trong tâm công tác tư pháp trong thời gian tới"; Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020"; và Nghị quyết số

2


49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020". Thì việc xác định vị trí , vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của luâ ̣t sư
nói chung và đội ngũ luật sư nhà nước – TGVPL nói riêng với yêu cầu cải cách tư
pháp là điều hết sức quan trọng và cần thiết . Bên cạnh đó , năm 2010 Quố c hô ̣i đã
thông qua Luâ ̣t Tố tu ̣ng hành chin
́ h , đã ghi nhận TGVPL là một trong những người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Yên Bái, việc tiếp tục nghiên cứu

các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của trợ giúp
viên pháp lý, đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao
hiệu quả tham gia tố tụng hình sự của trợ giúp viên pháp lý, không chỉ có ý nghĩa lý
luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự cần thiết để
tôi lựa chọn đề tài “Người bào chữa, người bảo vê ̣ quyền lợi cho đương sự là trợ
giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Yên Bái )”
làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có thể nói Luật Trợ giúp pháp lý ra đời muộn và cũng là lĩnh vực mới chưa
được công nhận trong các Bộ luật và một số văn bản dưới luật. Luật trợ giúp pháp
lý được triển khai thi hành đã qua 1 lần tổng kết thực hiện 8 năm. Đội ngũ trợ giúp
viên pháp lý mới tham gia tố tụng hình sự theo quy định pháp luật cũng được từng
đó năm. Tuy nhiên, hiện nay không có nhiều nghiên cứu khoa học trợ giúp pháp lý
trong tố tụng hình sự nói chung và về vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của trợ
giúp viên pháp khi tham gia tố tụng hình sự nói riêng.
Đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sỹ, thạc sỹ, đề tài cấp Bộ và các bài báo,
tạp chí, chuyên đề nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
về TGPL miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách. Đó là: “Điều chỉnh
pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới”, Luận án tiến sỹ luật học
của Nghiên cứu sinh Tạ Thị Minh Lý, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009; “Quản
lý Nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay”, Luận
án tiến sỹ luật học của Nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Tùng, Học viện Chính trị -

3


Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007; “Thực hiện pháp luật về TGPL”, Luận
án tiến sỹ luật học của Nghiên cứu sinh Nguyễn Huỳnh Huyện, Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2011; “Hoàn thiện pháp luật về người trợ giúp
pháp lý ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Hồng Tuyến,
Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2004; “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người

nghèo ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Vũ Thị Hoàng Hà, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2008; “Chất lượng hoạt động
TGPL ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả Phạm Quang Đại, Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2013 v.v..
Bên cạnh đó, còn có một số bài nghiên cứu đăng trên tạp chí như ”Một số
vấn đề về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách” của Tiến sỹ Trần Huy
Liệu, chuyên đề TGPL, Thông tin khoa học pháp lý số 4/2005; “Bàn về khái niệm
TGPL” của Tiến sỹ Tạ Thị Minh Lý, đặc san TGPL, tháng 10/2006; “Huy động các
tổ chức đoàn thể xã hội tham gia TGPL”, của Tiến sỹ Đỗ Xuân Lân, đặc san TGPL
số 14/2006; “Chất lượng vụ việc TGPL” của Thạc sỹ Nguyễn Hải Anh, tạp chí dân
chủ pháp luật số 5/2008; số chuyên đề tháng 6/2014 tạp chí Dân chủ và pháp luật về
TGPL trong TTHS.
Phần lớn các công trình khoa học nói trên chỉ tập trung nghiên cứu, luận
giải về cơ sở khoa học của chính sách TGPL, mô hình tổ chức vận hành của hệ
thống các tổ chức thực hiện TGPL , phương thức cung cấp dịch vụ pháp lý miễn
phí…cho nhân dân nói chung trên diện rộng và phạm vi cả nước chỉ đề cập đến
một số vấn đề lý luận và thực tiễn về TGPL ; cũng có một số nghiên cứu về TGPL
trong TTHS nhưng chưa nhiề u ; chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu
vấn đề lý và làm rõ những luận cũng như thực tiễn hoạt động tham gia tố tụng
hình sự của trợ giúp viên pháp lý với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự trong các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Yên Bái; tìm ra
những ưu điểm, hạn chế và những giải pháp nâng cao vị trí, vai trò cũng như hiệu
quả hoạt động bào chữa và việc bảo vệ quyền lợi của đương sự trong các vụ án
hình sự của TGVPL tại tỉnh Yên Bái.

4


Như vậy, tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định
việc nghiên cứu đề tài “Người bào chữa , Người bảo vê ̣ quyền lợi cho đương sự là

Trợ giúp viên pháp lý trong tố tụng hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại tỉnh Yên
Bái)” à đòi hỏi khách quan, cấp thiết, vừa có tính lý luận vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật về nghĩa vụ,
quyền hạn của trợ giúp viên pháp lý khi tham gia bào và bảo vệ quyền lợi cho
đương sự trong các vụ án hình sự. Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn về vai trò và hoạt
động của trợ giúp viên pháp lý khi tham gia tố tụng hình sự tại tỉnh Yên Bái. Từ đó,
luận văn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về của pháp luật về
nghĩa vụ, quyền hạn của trợ giúp viên pháp lý khi tham gia bào chữa và bảo vệ
quyền lợi cho đương sự trong các vụ án hình sự nói chung cũng như đề xuất những
giải pháp nâng cao vị trí, vai trò và hiệu quả hoạt động của trợ giúp viên pháp lý khi
tham gia tố tụng hình sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đối tượng được
trợ giúp pháp lý theo quy định của nhà nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề chung về người bào chữa,
người bảo vệ quyền lợi cho đương sự trong tố tụng hình sự TTHS
- Nghiên cứu các quy định pháp luật cụ thể về hoạt động bào chữa, bảo vệ
quyền lợi cho đương sự trong vụ án hình sự của TGVPL.
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về hoạt
động bào chữa, hoạt động bảo vệ quyền lợi cho đương sự vụ án hình sự của trợ giúp
viên pháp lý tại tỉnh Yên Bái. Đồng thời phân tích làm rõ những khó khăn, tồn tại,
hạn chế xung quanh việc áp dụng tại tỉnh Yên Bái.
- Từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về hoạt
động tham gia tố tụng hình sự của TGVPL nói chung và những giải pháp nâng cao
hiệu quả hoạt động của trợ giúp viên pháp lý khi tham gia bào chữa, bảo vệ quyền
lợi cho đương sự trong TTHS trên địa bàn tỉnh Yên Bái.

5



3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh việc tham gia
bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho đương sự trong TTHS của TGVPL và thực tiễn tại
tỉnh Yên Bái; những tồn tại hạn chế, từ đó kiến nghị những giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng hiệu quả hoạt động bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho đương sự
trong TTHS của TGVPL tại tỉnh Yên Bái.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn tham gia bào chữa, bảo vệ quyền
lợi cho đương sự trong TTHS của TGVPL tại tỉnh Yên Bái từ 2006 đến 2013.
4. Phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử
và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền,
về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị
quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002
về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích và
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp
quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa
học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu
trong luận văn.
5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp độ một
luận văn thạc sĩ luật học về sự tham gia TTHS của trợ TGVPL tại tỉnh Yên Bái.
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất những
giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của trợ giúp viên pháp lý khi tham gia tố

tụng hình sự để bào chữa, bảo vệ quyền lợi lợi cho đương sự là các đối tượng được
trợ giúp pháp lý ở tỉnh Yên Bái nói riêng và Việt Nam nói chung.

6


Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành
cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng
dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên
ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu của luận văn
còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn
đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Trợ giúp pháp lý
trong quá trình thực hiện quyền hạn và trách nhiệm của mình.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về Người bào chữa, Người bảo vê ̣ quyề n lơ ̣i
cho đương sự trong tố tụng hình sự là Trợ giúp viên pháp lý.
Chương 2: Thực tiễn hoa ̣t động người bào chữa , bảo vệ quyền lợi cho đương
sự trong trong tố tụng hình sự của Trợ giúp viên pháp lý ta ̣i tỉnh Yên Bái .
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho đương sự trong trong tố tụng hình sự của Trợ
giúp viên pháp lý tại tỉnh Yên Bái.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BÀ O CHƢ̃ A, NGƢỜI BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CHO ĐƢƠNG SƢ̣ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ LÀ

TRỢ GIÚP VIÊN PHÁP LÝ
1.1. Ngƣời bào chƣ̃a, Ngƣời bảo vê ̣quyề n lơ ̣i cho đƣơng sƣ ̣ trong tố tụng
hình sự
1.1.1. Người bào chữa
Hiê ̣n nay có nhiề u quan đ iể m khác nhau về quyề n bào chữa . Có quan điể m
cho rằ ng: “quyề n bào chữa là tổ ng hòa tấ t cả các hành vi tố tụng hướng tới viê ̣c bãi
bỏ sự buộc tội và xác định bị can không có lỗi hoặc nhằm làm g

iảm trách nhiệm

của bị can” [22].
Có quan điể m cho rằ ng , “quyề n bào chữa không chỉ thuộc về bi ̣ can , bị cáo
mà còn thuộc về người bị tình nghi phạm tội , người bi ̣ kế t án , người bào chữa , bị
đơn dân sự và người đại diê ̣n hợp pháp của họ” [47].
Quan điể m khác lại cho rằ ng:
Quyề n bào chữa trong BLTTHS là tổ ng hòa các hành vi tố tu ̣ng do
người bi ̣ta ̣m giữ , bị can, bị cáo, người bi ̣kế t án thực hiê ̣n trên cơ sở phù
hơ ̣p với quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t nhằ m phủ nhâ ̣n mô ̣t phầ n hay toàn bô ̣ sự
buô ̣c tô ̣i của cơ quan tiế n hành tố tu ̣ng , làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách
nhiê ̣m hình sự của mình trong vu ̣ án hình sự [26].
Theo mô ̣t cách hiể u chung nhấ t thì quyề n bào chữa là tổ ng thể các quyề n mà
pháp luâ ̣t quy đinh
̣ cho chủ thể của quyề n này đươ ̣c trin
̀ h bày các ý kiế n , quan điể m
của mình đối với việc buộc tội , đươ ̣c đưa ra những chứng cứ cầ n thiế t để đề nghi ̣
các cơ quan tiến hành tố tụng xem xét bác bỏ toàn bộ hoặ

c mô ̣t phầ n đố i với viê ̣c


buô ̣c tô ̣i hoă ̣c giảm nhe ̣ trách nhiê ̣m cho ho ̣ . Hay nói cách khác , quyề n bào chữa
hiể u theo đúng nghiã của từ này là quyề n của mô ̣t người đươ ̣c đưa ra các chứng cứ
để chứng minh cho sự vô tội (lỗi) hoă ̣c giảm nhe ̣ tô ̣i (lỗi của min
̀ h ) [22]. Như vâ ̣y,
những chủ thể nào liên quan trực tiế p đ ến viê ̣c buô ̣c tô ̣i và cầ n phải phản bác la ̣i

8


viê ̣c buô ̣c tô ̣i đó hoă ̣c để giảm nhe ̣ các trách nhiê ̣m hình sự do viê ̣c buô ̣c tô ̣i gây ra
thì mới có thể trở thành chủ thể của quyề n bào chữa .
Tóm lại, quyề n bào chữa của người bi ̣ta ̣m giữ , bị can, bị cáo là tổng hợp tất
cả các hành vi / phương thức mà pháp luâ ̣t quy đ ịnh cho người bi ̣ta ̣m giữ , bị can, bị
cáo sử d ụng trong các giai đo ạn của quá trình TTHS để chố ng la ̣i sự buô ̣c tô ̣i hoă ̣c
làm giảm trách nhiệm hình sự cho họ.
Để thực hiện quyền bào chữa người bị tạm giam, bị can, bị cáo có thể thực
hiện bằng một thông qua một hoặc cả hai phương thức là tự mình bào chữa và nhờ
người khác bào chữa.
Về phương thức tự mình bào chữa: Đây là hình thức mà người bi ̣ta ̣m giữ , bị
can, bị cáo sử dụng các quyền mà pháp luật quy định cho họ trong việc chứng minh
sự vô tô ̣i hoă ̣c làm giả m nhe ̣ tô ̣i cho min
̀ h. Như vâ ̣y, người bi ̣ta ̣m giữ , bị can, bị cáo
đươ ̣c sử du ̣ng những hiể u biế t về pháp luâ ̣t của min
̀ h để chố ng la ̣i sự buô ̣c tô ̣i hoă ̣c
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của mình . Họ có thể thực hiện quyền tự b ào chữa của
mình bằng cách đề xuất chứng cứ , nhâ ̣n xét và đánh giá chứng cứ , đưa ra yêu cầ u ,
tranh luâ ̣n trước tòa, kháng cáo bản án hay quyết định của tòa án .
Về phương thức nhờ người khác bào chữa: Đây là hin
̀ h thức mà ngườ i bi ̣ta ̣m
giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa thông qua người bào chữa .

Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ghi nhận hai phương thức bào chữa trên.
Điề u 11 BLTTHS quy định:
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm vụ bảo đảm cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo
quy định của Bộ luật này [30, Điều 11].
Tuy nhiên, BLTTHS chưa đưa ra khái niệm về người bào chữa chỉ đưa ra các
đối tượng được thực hiện bào chữa. Khoản 1 Điều 56 BLTTHS quy định:

9


Người bào chữa
1. Người bào chữa có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Bào chữa viên nhân dân [30, Điều 56].
Như vậy, theo pháp luật tố tụng hình sự nước ta, người bào chữa chỉ có ba đối
tượng gồm: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và
Bào chữa viên nhân dân. Nhưng người đó không được bào chữa nếu là: a) Người đã
tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành
tố tụng trong vụ án đó; b) Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là người làm
chứng, người giám định hoặc người phiên dịch. (Khoản 2 Điều 56 BLTTHS).
Luật sư, theo Điề u 2 của Luật Luật sư 2006 thì luật sư là người có đủ tiêu
chuẩ n, điề u kiê ̣n hành nghề theo quy đinh
̣ của LLS và thực hiê ̣n các dich
̣ vu ̣ pháp lý
theo yêu cầ u của cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu.

Theo quy đinh
̣ , công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến
pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo
nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành
nghề Luật sư thì có thể trở thành Luật sư và muốn được hành nghề Luật sư phải có
Chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư [31].
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là bố mẹ đẻ,
bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của pháp
luật đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất
hoặc tinh thần. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu
không bào chữa cho bị cáo thì họ cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo, họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, nếu họ tham
gia tố tụng với tư cách là người bào chữa thì họ có quyền và nghĩa vụ như đối với
người bào chữa. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhất
thiết phải là người đã thành niên; không bị tâm thần; có quốc tịch Việt Nam và cư
trú tại Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác đối với người bị tạm

10


giữ, bị can, bị cáo là người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch hoặc
là người Việt Nam ở nước ngoài.
Bào chữa viên nhân dân là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để
bào chữa cho bị cáo. Tuy nhiên, hiện nay chế định bào chữa viên nhân dân chưa
được cụ thể hoá, quy định chi tiết ở bất cứ văn bản pháp luật nào. Do chưa có quy
định cụ thể nên hầu như chưa có sự tham gia của các bào chữa viên nhân dân tại các
phiên tòa kể cả hình sự lẫn dân sự, hành chính v.v.. Mặc dù, tại điểm c Điều 56 của
Bộ luật TTHS quy định về người bào chữa, trong đó có nêu sự tham gia của bào
chữa viên nhân dân trong các phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho bị can


, bị cáo ,

người bị hại... Thực tế hiê ̣n nay hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không
được tổ chức thành một hệ thống, chưa có quy định nào cụ thể, chi tiết về điều kiện,
tiêu chuẩn để được công nhận là bào chữa viên nhân dân, hiện nay trong xã hội có
nhiều người có trình độ pháp lý có hiểu biết về công việc bào chữa nhưng họ chưa
được kết nạp vào đoàn Luật sư và họ lại được bị can, bị cáo nhờ bào chữa.
Có thể nói , viê ̣c bảo đảm q uyề n bào chữa thông qua người bào chữa là mô ̣t
đảm bảo rấ t quan tro ̣ng vì nhiề u trường hơ ̣p người bi ̣ta ̣m giữ , bị can, bị cáo không
hiể u biế t về pháp luâ ̣t thì ho ̣ không thể tự min
̀ h sử du ̣ng hế t các quyề n mà pháp luâ ̣t
quy đinh
̣ cho ho ̣ để có thể bảo vê ̣ quyề n lơ ̣i cho min
̀ h

, họ cũng không thể biết và

nắ m bắ t hế t đươ ̣c các hoa ̣t đô ̣ng tố tu ̣ng của cơ quan tiế n hành tố tu ̣ng có vi pha ̣m
pháp luật hay không ? Như vâ ̣y, viê ̣c tham gia của người bào chữ a đươ ̣c xem là mô ̣t
sự cầ n thiế t để giúp đỡ cho người bi ̣ta ̣m giữ , bị can, bị cáo về mặt pháp lý , bảo vệ
quyề n và lơ ̣i ić h hơ ̣p pháp của ho .̣
Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập nhau. Nhiều
người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người
bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo
quy định tại Điều 81 và Điều 82 của BLTTHS thì người bào chữa tham gia tố tụng
từ khi có quyết định tạm giữ.
Khi tham gia tố tụng, người bào chữa có các quyền sau:

11



- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu
Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những
hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của
mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị
can để có mặt khi hỏi cung bị can;
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của Bộ luật này;
- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí
mật nhà nước, bí mật công tác;
- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
- Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam;
- Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến
việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng;
- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành
niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
Khi tham gia tố tụng, người bào chữa có các nghĩa vụ:
- Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình
tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan
đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm

sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan
tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này;

12


- Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ;
- Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình
đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
- Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi
giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
- Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
- Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc
bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào
mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức và cá nhân.
Người bào chữa chỉ thực hiện bào chữa khi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
hay người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo yêu cầu hoặc khi
được chỉ định trong các trường hợp: a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự; b) Bị can, bị cáo là người
chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong trường hợp bào chữa chỉ định: nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của họ không mời người bào chữa mà theo quy định pháp luật trường hợp
đó phải có người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu
cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề
nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người
bào chữa cho thành viên của tổ chức mình. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các
tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình.

1.1.2. Người bảo vê ̣ quyền lợi cho đương sự
Bên cạnh sự tham gia bào chữa của Người bào chữa trong TTHS thì pháp
luật TTHS có quy định về sự tham gia của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự
trong các vụ án hình sự.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viên Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, đương sự là

13


“Người là đối tượng trong một sự việc nào đó được đưa ra giải quyết” [49]. Như
vậy, đương sự bao gồm những chủ thể tham gia vào vụ việc được giải quyết mà vụ
việc đó có ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. BLTTHS không đưa ra khái
niệm về đương sự nhưng quy định đương sự gồm có 3 đối tượng là: Người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
BLTTHS quy định:
Người bảo vệ quyền lợi của đương sự
1. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư, bào chữa
viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà
án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình [30, Điều 59, Khoản 1].
Như vậy, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự là người được người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
hình sự nhờ và được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án chấp nhận bảo vệ
quyền lợi cho mình. Người bảo vệ quyền lợi có thể là luật sư, bào chữa viên nhân
dân hoặc người khác được chấp nhận. Việc xác định một người có phải là người
bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự hay không phải do Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án quyết định. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự muốn nhờ người khác
bảo vệ quyền lợi cho mình thì người đó phải là nhờ luật sư, bào chữa viên nhân


dân hoặc người khác và người đó phải được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án chấp nhận. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ
khi khởi tố bị can. Khi tham gia TTHS, người bảo vệ quyền lợi của đương sự được
pháp luật đảm bảo các quyền để đảm bảo hoạt động bảo vệ quyền lợi cho đương sự,
đồng thời phải tuân thủ đúng các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Theo quy định, khi tham gia tố tụng, Người bảo vệ quyền lợi cho đương sự
có quyền: a) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; b) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài
liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự sau khi kết
thúc điều tra theo quy định của pháp luật; c) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;

14


xem biên bản phiên tòa; d) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của BLTHS.
Đối với đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi cơ quan tiến
hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; kháng cáo phần bản án, quyết
định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ.
Người bảo vệ quyền lợi cho đương sự có nghĩa vụ: a) Sử dụng mọi biện pháp
do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án; b) Giúp đương sự về
mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
1.2. Ngƣời bào chƣ̃a, Ngƣời bảo vê ̣quyề n lơ ̣i cho đƣơng sƣ ̣ trong tố tụng
hình sự là trợ giúp viên pháp lý
1.2.1. Khái quát chung về trợ giúp pháp lý và và trợ giúp pháp lý trong tố
tụng hình sự
1.2.1.1. Khái quát chung về trợ giúp pháp lý
Thuật ngữ “TGPL” là một cụm từ ghép “trợ giúp” và “pháp lý”. Theo Từ

điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, thì "trợ giúp" được hiểu là
"giúp đỡ", pháp lý tức là "nguyên lý về pháp luật" [49]. Theo Từ điển từ và ngữ
Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Lân, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2005 thì
"trợ giúp” là “giúp đỡ", góp sức hoặc góp tiền cho một người hoặc vào một việc
chung, giúp làm hộ mà không lấy tiền công, còn về "pháp lý" là "nguyên lý của
pháp luật" [25]. Theo Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp,
2006, thì pháp lý: những khía cạnh, phương diện khác nhau của đời sống pháp luật
của một quốc gia, "pháp lý" chỉ những lý lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lý
bắt buộc từ một sự việc, hiện tượng xã hội, những nguyên lý, phạm trù, khái niệm lý
luận về pháp luật [48]. Do vậy, dù là "giúp đỡ", "bảo trợ" hay là “hỗ trợ” cũng có
thể được hiểu là "trợ giúp". Ở đây trợ giúp được hiểu là sự giúp đỡ cho ai đó đang
gặp khó khăn, nhằm làm giảm bớt khó khăn về một vấn đề mà họ đang cần, cái họ

15


đang cần ở đây là "pháp lý". Như vậy, có nhiều cách gọi khác nhau có cùng nghĩa
với thuật ngữ “TGPL” nhưng thuật ngữ “TGPL” có nghĩa chung nhất, rõ nhất nêu
bật được sự giúp đỡ, hỗ trợ đối với những trường hợp có khó khăn về mặt pháp lý
Ở Việt Nam, thuật ngữ “TGPL” được sử dụng trong các tài liệu nghiên cứu từ
năm 1995, bắt đầu là Đề án nghiên cứu về hoạt động TGPL ở Việt Nam của Bộ Tư
pháp. Đến năm 1996, thuật ngữ “TGPL” được sử dụng trong Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp Bộ “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong
điều kiện hiện nay” của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. Năm 1997,
thuật ngữ này được sử dụng trong Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997 của Thủ
tướng Chính phủ về việc thành lập tổ chức TGPL cho người nghèo và đối tượng
chính sách. Tiếp đó, các văn bản pháp luật hướng dẫn thực hiện Quyết định 734/TTg
và một số văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực khác cũng đề cập đến thuật ngữ “TGPL”
như Pháp lệnh Luật sư năm 2001, Quy tắc mẫu về đạo đức nghề nghiệp luật sư ban
hành kèm theo Quyết định số 356b/2002/QĐ-BT ngày 05/8/2002 của Bộ trưởng Bộ

Tư pháp… Ngoài ra, trong nhiều văn bản, chính sách khác của Nhà nước đã nhắc đến
thuật ngữ “TGPL”. Năm 2006, Luật TGPL đã đưa ra cách hiểu về thuật ngữ “TGPL”
tại Điều 3: “TGPL là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được TGPL
theo quy định của Luật này, giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp
phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã
hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”.
Qua tham khảo một số khái niệm TGPL của một số nước trên thế giới, đa số
các nhà quản lý cũng như các nhà xây dựng pháp luật đều xuất phát từ cơ sở lý luận
về dân chủ, nhân quyền và bảo đảm quyền con người, họ cho rằng TGPL chính là
một biện pháp bảo đảm tư pháp dành cho người không có điều kiện tiếp cận và sử
dụng pháp luật, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của
pháp luật. Tuy về ngữ nghĩa, nội dung của các khái niệm “TGPL” ở mỗi nước có
khác nhau, nhưng nói chung các khái niệm đều hàm chứa tính chất chung của TGPL
là hoạt động mang tính kinh tế, pháp lý, xã hội và nhân đạo.

16


Mục đích của TGPL
Luật TGPL đã khẳng định: TGPL "giúp người được TGPL bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm
công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”. Như vậy
mục đích của hoạt động TGPL là giúp cho những người được trợ giúp pháp lý
(Người nghèo, Người có công với cách mạng, Người già cô đơn, người tàn tật và trẻ
em không nơi nương tựa, Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và những người khác theo quy định pháp luật)
trước hết bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình; qua đó góp phần nâng cao
hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của những người được

TGPL; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm
công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật.
Một số đặc điểm của Trợ giúp pháp lý
- TGPL là một loại hình dịch vụ pháp lý đặc thù, được thể hiện ở chỗ: chủ
thể thực hiện bao gồm cả Nhà nước và xã hội, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng
cốt tổ chức thực hiện; về mục đích, đối tượng: giúp đỡ về pháp luật cho những
người có hoàn cảnh đặc biệt không đủ khả năng để sử dụng các dịch vụ pháp lý
thông thường như: người nghèo, người có công với cách mạng, người khuyết tật, trẻ
em, người già cô đơn, không nơi nương tựa…;
- Đối tượng được hưởng TGPL là những người được pháp luật quy định cụ
thể, gồm Pháp luật về TGPL quy định các nhóm đối tượng thuộc diện được TGPL
miễn phí bao gồm:
1. Người thuộc chuẩn nghèo theo quy định của pháp luật.
2. Người có công với cách mạng bao gồm: a) Người hoạt động
cách mạng trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng 8 năm 1945; b) Bà mẹ Việt
Nam anh hùng; c) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng
Lao động; d) Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; đ)
Bệnh binh; e) Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học;

17


×