Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh hà giang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 106 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH BCH VN

BảO ĐảM QUYềN CON NGƯờI CủA NGƯờI CHƯA THàNH NIÊN
TRONG GIAI ĐOạN ĐIềU TRA vụ áN HìNH Sự

(trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2016


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH BCH VN

BảO ĐảM QUYềN CON NGƯờI CủA NGƯờI CHƯA THàNH NIÊN
TRONG GIAI ĐOạN ĐIềU TRA Vụ áN HìNH Sự

(trên cơ sở thực tiễn tại địa bàn tỉnh Hà Giang)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 60 38 01 04

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: TS. TRN THU HNH


H NI - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Bích Vân


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ .................................... 7
1.1.


Nhận thức chung về người chưa thành niên ...................................... 7

1.2.

Nhận thức chung về bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................ 9

1.2.1. Nhận thức chung về giai đoạn điều tra vụ án hình sự .......................... 9
1.2.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................................................ 11
1.2.3. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ........... 14
1.3.

Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của người
chưa thành niên trong tố tụng hình sự ........................................... 17

1.3.1. Bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong một số điều ước
Quốc tế ............................................................................................... 17
1.3.2. Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự trong Luật tố tụng hình sự một số
nước trên thế giới ............................................................................... 26


1.4.

Khái quát lịch sử hình thành và phát triển các quy định pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người
của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra các vụ án

hình sự ............................................................................................... 33

1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988 ............................................... 33
1.4.2. Giai đoa ̣n từ năm 1988 đến năm 2003 ............................................... 36
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ..................40
2.1.

Quy định của Luật tố tụng hình sự về bảo đảm quyền con
người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự................................................................................................ 40

2.1.1. Bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên bị tạm giữ,
bị khởi tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ............................... 40
2.1.2. Bảo đảm quyền con người của bị hại, người làm chứng là người
chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..................... 52
2.2.

Thực tiễn bảo đảm quyền con người của người chưa thành
niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh
Hà Giang ........................................................................................... 56

2.2.1. Khái quát tình hình tội phạm .............................................................. 56
2.2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang ........ 59
2.2.3. Những tồn tại, vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật để bảo đảm
quyền con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang ..................................... 65



Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI
ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .... 69
3.1.

Cơ sở của việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền
con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự ..................................................................................... 69

3.2.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm bảo
đảm quyền con người của người chưa thành niên trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự ............................................................. 73

3.3.

Một số giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ... 79

3.3.1. Tăng cường hướng dẫn đầy đủ và kịp thời về bảo đảm quyền con
người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự ................................................................................................ 80
3.3.2. Nâng cao năng lực nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề
nghiệp của điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự có liên quan
đến người chưa thành niên................................................................... 81
3.3.3. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức

cho người dân về các quyền con người của người chưa thành niên
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ................................................ 83
3.3.4. Một số giải pháp khác ........................................................................ 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ Luật Hình sự

BLTTHS:

Bộ Luật Tố tụng hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra

CQTHTT:

Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐTV:

Điều tra viên

NCTN:


Người chưa thành niên

NTHTT:

Người tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình điều tra vụ án có bị can là người chưa
thành niên từ năm 2010 đến năm 2014

58

Bảng 2.2: Tình hình người bị hại, người làm chứng là người
chưa thành niên trong vụ án hình sự từ năm 2010 đến

năm 2014

63


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài sự nghiệp
đấu tranh giải phóng, cải tạo xã hội và cải tạo thiên nhiên của cả nhân loại.
Nhà nước ta với mục tiêu phấn đấu là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân do vậy bảo đảm quyền con người được ghi nhận và thể hiện trong việc
Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống Pháp luật, chăm lo đến quyền, lợi
ích hợp pháp của người dân, không ngừng cải cách tư pháp, tạo môi trường
lành mạnh, cải thiện đời sống văn hóa, đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao
nhận thức của người dân về pháp luật. Hiến pháp 2013 vừa được sửa đổi, ban
hành càng khẳng định quyết tâm của Nhà nước trong việc công nhận, tôn
trọng, bảo đảm các quyền cơ bản của con người: “các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng và bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật” [48, tr. 4]. Việc làm đó
nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của toàn xã hội đối với việc bảo đảm
công lý, bảo đảm quyền con người.
Trong những năm gần đây, tình trạng tội phạm do người chưa thành
niên ở nước ta có chiều hướng ngày càng gia tăng cả về số lượng, tính chất
nguy hiểm và mức độ phạm tội. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện
nay, NCTN được hiểu là người chưa đủ 18 tuổi – đây là những người chưa
phát triển đầy đủ về thể chất, nhận thức và tâm sinh lý và là đối tượng cần
được quan tâm, giáo dục, giúp đỡ của gia đình, nhà trường và xã hội.
Hoạt động điều tra trong TTHS là một hoạt động của Nhà nước liên
quan rất chặt chẽ với quyền con người. CQĐT nằm ở vị trí đầu đầu tiên trong
hệ thống CQTHTT, thực hiện giai đoạn đầu của quá trình TTHS. Hoạt động

của CQĐT thực hiện nhiệm vụ chung của quá trình tố tụng đó là phát hiện

1


chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội,
không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Hoạt động điều tra được
áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi tội phạm, là giai đoạn các biện pháp cưỡng chế Nhà nước
được áp dụng phổ biến nhất; và vì vậy là giai đoạn quyền con người nói
chung và của NCTN nói riêng có nguy cơ dễ bị xâm hại nhất.
Thực tiễn viê ̣c giải quyế t vu ̣ án hiǹ h sự trong nh

ững năm qua cho

thấy rằng vẫn xảy ra các trường hợp vi phạm quyền con người của NCTN,
những vi phạm đó xảy ra là do nhiều nguyên nhân, do hạn chế của Pháp luật,
do nhận thức của người tiến hành tố tụng, quy định về chế độ trách nhiệm
của Nhà nước, CQTHTT, NTHTT đối với NCTN chưa rõ ràng. Vì vậy, có
thể nói nghiên cứu việc bảo đảm quyền con người của NCTN nói chung và
trong giai đoạn điều tra VAHS nói riêng trong TTHS từ góc độ lập pháp
cũng như áp dụng Pháp luật đóng vai trò quan trọng.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung và bảo đảm quyền con
người của NCTN nói riêng là vấn đề được Đảng, Nhà nước cùng các nhà khoa
học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu. Các trung tâm nghiên cứu quan trọng
được thành lập, ví dụ như: Trung tâm nghiên cứu quyền con người trực thuộc
Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu Quyền con
người trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Tuy nhiên các công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài: “Bảo đảm quyền con người của người chưa thành

niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự” chưa được công bố nhiều.
Các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết đề cập đến quyền
con người nói chung và NCTN nói riêng trong TTHS có thể kể đến như sau:
Nguyễn Quang Hiền (2008) Bảo vệ quyền con người trong TTHS Việt
Nam, luận án tiến sỹ luật học Viện Nhà nước và Pháp luật Hà Nội.

2


Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Bảo đảm quyền
con người trong tư pháp hình sự Việt Nam (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản
Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Vũ Ngọc Bình (2000), Quyền con người trong quản lý tư pháp, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Lê Cảm - Đỗ Thị Phượng (2004), “Tư pháp hình sự đối với người chưa
thành niên: Những khía cạnh pháp lý, hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học
và so sánh luật học”, Phần 1, phần 2, phần 3 Tạp chí tòa án nhân dân.
Đỗ Thị Phượng (2008) Những vấn đề lý luận và thực tiễn về thủ tục tố
tụng đối với người chưa thành niên trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam, luận
án tiến sỹ Luật học, Hà Nội.
Vũ Thị Thu Quyên (2012) “Quyền của người chưa thành niên phạm tội
trong pháp luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam”, tạp chí dân chủ và Pháp
luật, số chuyên đề 05/2012.
Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia “Bảo vệ quyền con người bằng
Pháp luật hình sự và Pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước Pháp quyền Việt Nam” của GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS Nguyễn Ngọc
Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì.
“Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” của Đồng
tác giả Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao,
Lã Khánh Tùng.

Trong các công trình này, các tác giả nghiên cứu việc bảo đảm quyền
con người nói chung và NCTN nói riêng trong TTHS. Do phạm vi rộng nên
các tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu thật đầy đủ, toàn diện trong từng giai
đoạn TTHS với các đối tượng khác nhau.
Đánh giá chung về các công trình đã được công bố có nội dung đề cập
đến vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung, NCTN nói riêng chưa có
3


công trình nào tiếp cận một cách trực tiếp về vấn đề bảo đảm quyền con người
của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS. Với quan điểm bảo đảm quyền
con người của NCTN, xuất phát từ cơ sở lý luận của chính sách hình sự được
ghi nhận trong pháp luật quốc tế và quốc gia. Giai đoạn điều tra – giai đoạn
quan trọng của tiến trình TTHS nhằm phục vụ chức năng buộc tội – là giai
đoạn bắt đầu đưa một người vào vòng tố tụng có vai trò rất quan trọng đối với
việc xử lý đúng đắn khách quan, toàn diện VAHS cũng như bảo đảm quyền
con người của NCTN. Nhận thấy đây là vấn đề khó nhưng rất quan trọng cả
về lý luận và thực tiễn vì vậy ho ̣c viên quy ết định chọn đề tài “Bảo đảm
quyền con người của người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự” cho luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ khái niệm bảo đảm quyền con người của NCTN
trong giai đoạn điều tra VAHS, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định
pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động điều tra tại tỉnh Hà Giang, làm sáng tỏ
những bất cập, hạn chế, để đưa ra những kiến nghị và giải pháp tăng cường
bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS theo
TTHS Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:

- Làm rõ nhận thức chung về khái niệm NCTN và bảo đảm quyền con
người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS;
- Nghiên cứu quy định luật pháp Quốc tế và pháp luật một số nước trên
thế giới về bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Phân tích các quy định của BLTTHS liên quan đến bảo đảm quyền
con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS; tìm ra những hạn chế
4


và bất cập về bảo đảm quyền con người của NCTN trong thực tiễn điều tra
VAHS trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
- Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và biện pháp tăng
cường bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu về quyền và lợi ích của NCTN trong phạm vi quy định
của pháp luật Việt Nam, tập trung chủ yếu vào nội dung bảo đảm quyền con
người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Thực tiễn bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra
VAHS từ năm 2010 đến năm 2014 (trên địa bàn tỉnh Hà Giang). Những vướng
mắc, tồn tại về vấn đề bảo đảm quyền con người khi giải quyết VAHS liên quan
đến NCTN.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách Pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,
so sánh, thống kê…
5. Nhiệm vụ của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ vấn đề bảo đảm quyền con người của
NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Phân tích làm rõ tình hình thực trạng bảo đảm quyền con người của

NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS trên địa bàn tỉnh Hà Giang và nguyên
nhân của thực trạng đó.
- Luận văn góp phần xác định đòi hỏi sự cần thiết của đề tài: Bảo đảm
quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
- Xác định phương hướng, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong lĩnh
vực Bảo đảm quyền con người của NCTN.
5


- Luận văn đưa ra những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và
giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai
đoạn điều tra VAHS.
- Luận văn so sánh TTHS Việt Nam trong lĩnh vực bảo đảm quyền con
người của NCTN trong giai đoạn điều tra giai đoạn từ 1945 đến nay và sự phù
hợp với Luật pháp Quốc tế về bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai
đoạn điều tra VAHS.
6. Những đóng góp mới của đề tài
- Được thực hiện và nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
- Luận văn đã đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của Pháp luật TTHS Việt Nam về bảo đảm quyền con người
của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Chương 2: Bảo đảm quyền con người của người chưa thanh niên trong
giai đoạn điều tra của Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn
áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và một số giải pháp
nâng cao việc bảo đảm quyền con người của người chưa thành niên trong giai

đoạn điều tra vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI
CỦA NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức chung về người chưa thành niên
Quá trình phát triển của một đứa trẻ từ khi sinh ra đến khi trưởng thành
được các nhà khoa học phân chia thành các giai đoạn khác nhau, trong đó có
giai đoạn chưa thành niên, nhưng việc xác định cụ thể thời điểm bắt đầu, kết
thúc tuổi chưa thành niên còn có nhiều ý kiến khác nhau (tuổi chưa thành niên
từ 14 -17 tuổi; 11 - 15 tuổi; 12 - 15 tuổi; hoặc nam là từ 14 - 16 tuổi, nữ là từ
11 - 13 tuổi; hoặc nam từ 12 - 17 tuổi, nữ là từ 12 - 15 tuổi) [15, tr. 17].
NCTN là những người đang trong giai đoạn phát triển, chưa hoàn thiện
về thể chất, tâm sinh lý. Trong độ tuổi chưa thành niên, con người chưa phát
triển đầy đủ cả về mặt thể lực, trí tuệ, tinh thần và nhân cách. Là những người
chưa có kinh nghiệm sống, thiếu kiến thức về pháp luật, dễ dàng thay đổi do
điều kiện sống tác động; Khả năng tự kiềm chế chưa tốt, chưa phân biệt về
hành vi khi mình thực hiện có nguy hiểm cho xã hội hay không. Nhận thức về
khái niệm NCTN được sử dụng trong các ngành như tâm lý học, giáo dục
học, xã hội học, luật học… Từ những góc độ khác nhau, cách hiểu khác nhau.
NCTN theo luật pháp Quốc tế và pháp luật Việt Nam chưa có một khái
niệm cụ thể nào, chủ yếu xác định NCTN qua độ tuổi, cụ thể:
Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi nhận: “Trong phạm vi của công
ước này, Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp
dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn” [32, Điều 1] Theo
công ước này trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật

quốc gia có quy định khác.

7


Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của LHQ về việc áp dụng pháp luật đối với
NCTN (hay còn được gọi là Quy tắc Bắc Kinh), được Đại hội đồng LHQ
thông qua ngày 29-11-1985 nêu rõ: "Người chưa thành niên là trẻ em hay
người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp
theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn" [29, số 2.2 mục a].
Quy tắc tối thiểu phổ biến của LHQ về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự
do thông qua ngày 14-12-1990 quy định: "Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và
không được tước quyền tự do của người chưa thành niên" [29, số 2.1, mục a].
Qua các quy định của Luật pháp Quốc tế cho thấy việc xác định một
người là NCTN không căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lý và sự phát triển về
thể chất hay tinh thần... mà thông qua căn cứ xác định một người là NCTN
chính là xác định độ tuổi. Độ tuổi được xác định chung là dưới 18 tuổi, và mở
ra một khả năng là tùy điều kiện mỗi nước có thể đưa ra độ tuổi chưa thành
niên thấp hơn 18 tuổi.
Trong hệ thống pháp luật của Việt Nam việc quy định độ tuổi chưa
thành niên được ghi nhận trong Hiến Pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm
1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự,
và một số văn bản quy phạm Pháp luật khác. Trong các văn bản Pháp luật này
đều quy định tuổi của NCTN là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế
định Pháp luật đối với NCTN trong từng lĩnh vực cụ thể.
Không giống như pháp luật Quốc tế xác định trẻ em là NCTN dưới 18
tuổi, pháp luật Việt Nam có những quy định khác về NCTN và trẻ em. Theo
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt
Nam dưới 16 tuổi” [46, Điều 1]. Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 ghi nhận:

“…Người chưa đủ mười tám tuổi là người chưa thành niên” [47, Điều 18]. Bộ
luật hình sự 1999 quy định:

8


1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự
về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16
tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do
cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [44, Điều 12]. BLHS
cũng quy định: Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự... [44, Điều 68].
Có thể thấy rằng nhận thức chung của các nước về NCTN, được xây
dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất, tinh thần và được xác định về mặt
thực tế bằng giới hạn độ tuổi quy định trong các văn bản Pháp luật của từng
quốc gia. Căn cứ vào đó, người ta mới có những quy định cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của NCTN.
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam, có không nhiều các định nghĩa
về NCTN phạm tội. Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS.Đỗ Thị Phượng thì
“Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, có
năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do sự hạn chế bởi các đặc điểm về
tâm, sinh lý và đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm” [7, tr.20 - 22]. TS Trịnh Tiến Việt định
nghĩa như sau: "Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về
thể chất và tâm - sinh lí, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện" [64].
Từ những nhận thức chung nhất có thể hiểu rằng: người chưa thành
niên là người đang trong giai đoạn chuyển từ độ tuổi trẻ em trở thành người
lớn và là giai đoạn có những xung đột, xáo trộn tâm sinh lý, chưa nhận thức
đầy đủ tính chất nguy hiểm của hành vi do mình thực hiện.

1.2. Nhận thức chung về bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Nhận thức chung về giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Điều tra là hoạt động của CQĐT và những cơ quan được giao nhiệm vụ
9


tiến hành một số hoạt động điều tra theo luật định, được tiến hành theo trình
tự TTHS, nhằm chứng minh sự thật của VAHS theo yêu cầu của Pháp luật.
Điều tra VAHS là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng, phục vụ
việc thực hiện mục đích chung của quá trình tố tụng đó là: Phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Trong giai đoạn điều tra VAHS, CQĐT chỉ được áp dụng những biện
pháp, những phương tiện theo quy định để làm rõ vụ án. Hoạt động điều tra
phải bảo đảm tuân thủ tất cả các văn bản Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có liên quan đến hoạt động điều tra. CQĐT, các cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và ĐTV có quyền và
nghĩa vụ áp dụng có hiệu quả tất cả các biện pháp và phương tiện theo quy
định của Pháp luật để điều tra khám phá tội phạm, đồng thời phải bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, lợi ích của cơ quan, tổ chức và công dân, tôn trọng và bảo
đảm các quyền cơ bản của công dân.
Điều tra VAHS là một giai đoạn của quá trình tiến hành TTHS, được
bắt đầu từ khi có quyế t đinh
̣ khởi tố vụ án đến khi CQĐT ra bản kết luận điều
tra, chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát nhân dân đề nghị truy tố bị can trước
Pháp luật nếu có đầy đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi tội phạm của
bị can hoặc đình chỉ điều tra nếu có một trong những căn cứ được quy định tại
khoản 2 Điều 105 và Điều 107 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 19, Điều 25 và
khoản 2, Điều 69 Bộ luật Hình sự.

Giai đoạn điều tra từ khi có quyết định khởi tố vụ án chia thành nhiều
giai đoạn nhỏ. Giai đoạn điều tra ban đầu nhằm xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi tội phạm. Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn nhằm chứng minh
tội phạm và người thực hiện hành vi tội phạm. Trong giai đoạn này CQĐT
được áp dụng các biện pháp như hỏi cung bị can, truy bắt các đối tượng gây

10


án, khám xét, thực nghiệm điều tra, lấy lời khai của người làm chứng, áp dụng
các biện pháp ngăn chặn… để chứng minh tội phạm và người thực hiện hành
vi tội phạm. Trong giai đoạn điều tra, CQĐT được áp dụng mọi biện pháp
theo quy định để xác định sự thật của vụ án. Có nghĩa là việc áp dụng các
biện pháp để nhằm mục đích khám phá vụ án phải bảo đ ảm yếu tố tuân thủ
Pháp luật, phù hợp với quy định của Pháp luật, bảo đảm yếu tố khách quan,
đầy đủ, toàn diện của giai đoạn điều tra.
1.2.2. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người chưa thành
niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và nhân
quyền [16, Điều 1] “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá
nhân” [16, Điều 3].
Từ nhận thức chung nhất về quyền con người có thể hiểu rằng: Quyền
con người là những quyền vốn có tự nhiên mà con người trong điều kiện xã
hội tiến bộ nhất định mới được hưởng.
Theo Từ điển Tiếng Việt, khái niệm “bảo đảm” được cho là: “Làm cho
chắc chắn thực hiện được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết” [62.tr38]. Như
vậy “bảo đảm” có thể hiểu là sự cam kết, bảo vệ tuyệt đối về những gì cần
thiết. Bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS là
sự cam kết, bảo vệ của CQTHTT chống lại sự xâm hại những đặc lợi vốn có
của NCTN được hưởng.

Chủ thể được bảo đảm của quyền con người và chủ thể có nghĩa vụ bảo
đảm quyền con người theo nhận thức chung có thể hiểu rằng: Chủ thể được
bảo đảm của quyền con người của NCTN là NCTN tham gia với các tư cách
khác nhau trong giai đoạn điều tra VAHS. Chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm
quyền con người của NCTN là Nhà nước. Mà cụ thể đại diện cho Nhà nước là
CQTHTT. Nhà nước dùng sức mạnh và quyền lực của mình để bảo đảm các

11


quyền con người của NCTN không bị xâm phạm và được thực thi trên thực tế
trong giai đoạn điều tra. Thông qua CQTHTT Nhà nước giúp cho các quyền
cơ bản và quyền riêng của NCTN được thực hiện và loại bỏ những gì cản trở
hoặc làm cho các quyền đó không được thực thi. Hiến pháp năm 2013 ghi
nhận: “Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
Pháp luật” [48, Điều 14]. Như vậy chủ thể trách nhiệm bảo đảm quyền của
NCTN trước hết là Nhà nước. Để thực hiện trách nhiệm của mình Nhà nước
tiến hành trên hai phương diện là xây dựng Pháp luật và áp dụng Pháp luật.
CQĐT là Cơ quan áp dụng Pháp luật và đại diện cho chủ thể bảo đảm quyền
con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS.
Trong khoa học pháp lý tồn tại những quan điểm khác nhau về chủ thể
mà quyền con người cần được bảo đảm. Ví dụ như có quan điểm cho rằng
“Bảo vệ quyền con người là bảo vệ quyền của những người tham gia tố tụng”
hay một số nhà luật học cho rằng bảo đảm quyền con người trong TTHS là
bảo đảm quyền của những người bị buộc tội.
Bảo đảm quyền con người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS là
một bộ phận của bảo đảm quyền con người nói chung được ghi nhận trong
các văn bản pháp luật Việt Nam.
Trước hết, quan điểm của học viên cho rằng bảo đảm quyền con người

của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS chính là bảo đảm quyền của chủ thể
là NCTN. Có thể chia chủ thể là NCTN thành 2 nhóm: Nhóm NCTN là người bị
tạm giữ, bị khởi tố và nhóm NCTN là người bị hại, người làm chứng.
Nội dung đối tượng bảo đảm là các quyền của NCTN được quy định cụ
thể trong BLHS và BLTTHS. Bao gồm các quyền cơ bản các quyền đặc thù
cho đối tượng là NCTN được quy định ở các mức độ, tính chất khác nhau tùy
thuộc vào tư cách tham gia tố tụng là người bị tạm giữ, bị khởi tố hay người
bị hại, người làm chứng.
12


Phương thức bảo đảm của Nhà nước thể hiện trong việc quy định trách
nhiệm của chủ thể là CQĐT phải bảo đảm các quyền của NCTN được ghi
nhận trực tiếp trong quyền cơ bản, quyền đặc thù trong BLHS và BLTTHS và
được ghi nhận gián tiếp thông qua quy định trách nhiệm của CQĐT, ĐTV khi
tiến hành điều tra VAHS liên quan đến NCTN. Quy định vai trò quan trọng
của người bào chữa, người đại diện gia đình, nhà trường, các tổ chức chính trị
xã hội trong suốt quá trình điều tra VAHS.
Giai đoạn điều tra VAHS có liên quan đến NCTN là hoạt động khá
phức tạp. Bởi quy định của pháp luật nước ta về trình tự tố tụng đối với
NCTN thực hiện theo trình tự đặc biệt, có những điểm khác biệt so với thủ tục
thông thường. Nhóm chủ thể bị tạm giữ, bị khởi tố ngoài các quyền cơ bản,
họ còn có các quyền khác vì đặc thù lứa tuổi cần được Pháp luật bảo vệ. Để
có thể tạm giữ, khởi tố bị can là NCTN phạm tội, ngoài việc xem xét kỹ lưỡng
các yếu tố thuộc về tuổi, tội phạm, lỗi, năng lực trách nhiệm hình sự, CQĐT
phải xác định khả năng nhận thức về tính nguy hiểm của hành vi, nhân thân,
hoàn cảnh sống, môi trường sống, điều kiện giáo dục, gia đình, nguyên nhân,
điều kiện gây ra tội phạm. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ,
tạm giam NCTN chỉ được thực hiện trong trường hợp thật cần thiết. Chính
sách hình sự đối với truy cứu trách nhiệm hình sự NCTN nhằm giúp đỡ, cải

tạo, giáo dục để NCTN nhận ra lỗi lầm của mình, tạo điều kiện để các em có
khả năng tái hòa nhập cộng đồng và cuộc sống bình thường. Vì thế, trong giai
đoạn điều tra, phải luôn tuân thủ nguyên tắc đặc biệt quan trọng quy định tại
Điều 9, Bộ luật TTHS “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội
của Tòa án đã có hiệu lực Pháp luật”. Mặt khác, khi chưa làm rõ sự thật khách
quan của vụ án, họ vẫn chưa bị truy tố, có thể không trở thành bị cáo để bị xét
xử, trong nhiều trường hợp, những người này có thể còn được miễn truy tố,
miễn hình phạt, thậm chí còn được tòa án tuyên vô tội.

13


Đối với NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS, nhận thức pháp luật, xã
hội, chuẩn mực quy tắc sinh hoạt của họ chưa ổn định và đúng đắn, việc tôn
trọng các quyền của họ là rất quan trọng, giải thích cho họ hiểu có ý nghĩa lớn
trong việc bảo đảm quyền con người nói chung, quyền trẻ em nói riêng và
giúp họ tuân thủ nghĩa vụ và thực hiện quyền tố tụng nhằm tự bảo vệ mình.
Đối với nhóm chủ thể NCTN là người bị hại, người làm chứng việc bảo
đảm quyền con người của họ cũng hết sức quan trọng. Họ cũng có những đặc
điểm tâm lý chung của NCTN, hơn thế nữa họ còn là người cần được Pháp
luật bảo vệ hơn cả vì họ là đối tượng bị xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp,
là người đứng ra tố cáo tội phạm, hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án.
Tóm lại học viên cho rằng: Bảo đảm quyền của NCTN trong giai đoạn
điều tra VAHS là sự cam kết của chủ thể Nhà nước mà đại diện là CQĐT đối
với chủ thể là NCTN khi họ tham gia vào giai đoạn điề u tra , nhằm bảo đảm
các quyền cơ bản và đặc thù được thực thi hoặc loại bỏ những cản trở quyền
đó không được thực thi đối với họ.
1.2.3. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người của
người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra các VAHS là xác định sự thật khách
quan, trong giai đoạn này CQTHTT được phép tiến hành thực hiện các biện
pháp công khai mà Pháp luật cho phép nhằm trực tiếp giải quyết các vấn đề
liên quan đến hành vi vi phạm Pháp luật và các quyền lợi nghĩa vụ liên quan
của người tham gia tố tụng.
Sự cần thiết và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền con người của
CQTHTT trong giai đoạn điều tra thể hiện:
Thứ nhất: Những NTHTT thực hiện trách nhiệm mà Nhà nước giao cho
là thực hiện các hoạt động tố tụng mà Pháp luật cho phép. Quá trình thực hiện

14


nhiệm vụ đó họ chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và
được pháp luật bảo đảm. Họ là những người giữ vai trò chủ đạo tiến hành các
hoạt động TTHS. Họ hoạt động nguyên tắc độc lập trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, không có ai, người nào, tổ chức nào được phép can thiệp vào công
việc của họ. Không có cá nhân hoặc tổ chức, cơ quan nào được tác động dẫn đến
buộc họ phải thực hiện không đúng quy định của pháp luật. Không cá nhân nào,
tổ chức nào được lấy danh nghĩa thẩm quyền hành chính cấp trên, cấp dưới để
chỉ đạo họ làm theo ý muốn của mình và vi phạm Pháp luật. Đó là những hành
vi mà Pháp luật không cho phép. Việc làm của những NTHTT là áp dụng Pháp
luật, sử dụng quyền lực của Nhà nước để xem xét xử lý hành vi phạm tội. Thẩm
quyền của những NTHTT là quan trọng, liên quan mật thiết đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự… của mọi công dân trong đó đặc biệt là NCTN.
NCTN khi tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra VAHS là đối tượng
chịu tác động trực tiếp liên quan đến NTHTT. Do đó việc bảo đảm quyền con
người của NCTN trong giai đoạn điều tra VAHS là thật sự cần thiết.
Thứ hai: Trong giai đoạn điều tra, để làm rõ sự thật khách quan và sáng
tỏ những tình tiết quan trọng xác định người thực hiện hành vi phạm tội và dấu

hiệu tội phạm, Cơ quan điều tra xét thấy cần thiết phải áp dụng các biện pháp
cưỡng chế tố tụng khác nhau theo quy định của Pháp luật. Các biện pháp đó có
thể là bắt, tạm giam, tạm giữ để phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm. Việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn đối với NCTN là vấn đề có liên quan trực tiếp
đến sức khỏe, tâm lý, tính mạng, danh dự, nhân phẩm… của họ, dễ dẫn đến tổn
thương về tinh thần, sức khỏe vì NCTN là những người chưa phát triển toàn
diện, nhận thức chưa đầy đủ. Vì vậy đòi hỏi CQĐT phải hết sức thận trọng, tỷ
mỉ, khách quan, đúng Pháp luật. Khi áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với
NCTN, CQĐT phải cân nhắc kỹ lưỡng, chuẩn bị đầy đủ điều kiện con người,
phương tiện, cơ sở vật chất và chỉ tiến hành khi thấy thật sự cần thiết.

15


Thứ ba: Nhà nước đưa ra quy định về hạn chế một số quyền công dân,
quyền con người với mục đích là để phục vụ cho việc phát hiện, điều tra, xử
lý chính xác và khách quan tội phạm và người phạm tội. Các hạn chế và quy
định cưỡng chế của Nhà nước chỉ ở mức độ cần thiết để xử lý đúng người,
đúng tội và không vi phạm nghiêm trọng đến quyền con người. Trong giai
đoạn điều tra, quyền con người của NCTN gắn bó mật thiết với quy định về
các biện pháp áp dụng đối với NCTN. Do các nguyên nhân như: Sự thiếu hợp
tác của NCTN trong giai đoạn điều tra, do sự tác động chi phối từ bên ngoài
của công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, do các mối quan hệ công tác, mối
quan hệ thân quen, do trình độ năng lực hạn chế của ĐTV, do vi phạm đạo
đức nghề nghiệp… nên dễ dẫn đến các quyết định trong giai đoạn điều tra
chưa thực sự được khách quan, trung thực, đầy đủ.
Vì vậy, nguyên tắc trong giai đoạn điều tra đối với NCTN của CQĐT
được đặt lên hàng đầu là phải bảo đảm không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng
không được làm oan người vô tội. Việc xem xét, xử lý hành vi phạm tội của
NCTN phải gắn chặt với việc bảo đảm quyền con người của họ. Trong giai

đoạn điều tra phải bảo đ ảm đầy đủ các nguyên tắc đó, không thể thiếu một
trong hai nguyên tắc đó vì nếu thiếu một trong hai nguyên tắc thì sẽ không đạt
được mục đích tố tụng là xử lý đúng người, đúng tội, khách quan, trung thực.
Nếu thiên về mục đích không bỏ lọt tội phạm thì sẽ dễ dẫn đến vi phạm yếu tố
quyền con người của NCTN, nếu thiên về bảo đảm quyền con người thì sẽ dễ
dẫn đến không đạt được kết quả điều tra tốt nhất, xử lý không kịp thời hoặc có
thể bỏ lọt tội phạm.
Các hoạt động trong giai đoạn điều tra có ý nghĩa xác lập cơ sở để truy
cứu trách nhiệm hình sự, thực hiện quyền công tố. Nếu hoạt động điều tra
đúng Pháp luật, sẽ bảo đảm được quyền con người, quyền điều tra quá lớn mà
không bị hạn chế thì sẽ xâm hại đến quyền con người, mà trong giai đoạn điều

16


tra quá coi trọng sự bảo đảm quyền con người thì không đạt được mục đích
điều tra [22, tr. 44]. Trong giai đoạn điều tra VAHS có liên quan đến NCTN
một mặt phải đáp ứng được yêu cầu điều tra, làm sáng tỏ các tình tiết trong vụ
án, mặt khác phải thấy được yêu cầu bảo đ ảm quyền con người của NCTN
với đặc tính riêng biệt tâm, sinh lý của lứa tuổi chưa phát triển toàn diện này.
Do đó trong giai đoạn điều tra VAHS có liên quan đến NCTN, nguyên
tắc thượng tôn Pháp luật được CQĐT đặt lên hàng đầu. Chỉ có tuân thủ Pháp
luật một cách tuyệt đối, hạn chế vi phạm Pháp luật đến mức thấp nhất mới bảo
đảm được yêu cầu điều tra và bảo đảm được quyền con người của NCTN.
Thứ tư, mục đích của giai đoạn điều tra là làm rõ sự thật khách quan
của vụ án, bảo đảm sự nghiêm minh của Pháp luật, giữ gìn trật tự kỷ cương,
trật tự an toàn xã hội, xây dựng Nhà nước Pháp quyền. Thông qua thực tiễn
Nhà nước dần tiếp thu, chỉnh sửa, hoàn thiện hệ thống Pháp luật có liên quan
đến giai đoạn điều tra với hướng khắc phục hạn chế, thiếu sót làm sao để việc
điều tra giải quyết vụ án có liên quan đến NCTN được khách quan, đúng quy

định của Pháp luật, đạt được yêu cầu điều tra là xử lý đúng người, đúng tội
cũng như tôn trọng, bảo đảm quyền con người của NCTN.
1.3. Pháp luật quốc tế về bảo đảm quyền con người của người chưa
thành niên trong tố tụng hình sự
1.3.1. Bảo đảm quyền của người chưa thành niên trong một số điều
ước Quốc tế
Mọi hoạt động điều tra của CQTHTT và NTHTT là để làm sáng tỏ vụ
án, phát hiện kịp thời, xử lý chính xác người phạm tội, đồng thời không để lọt
tội phạm và làm oan người vô tội. Đó là hoạt động Nhà nước trao cho một số
cơ quan và cá nhân có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước để áp dụng các biện
pháp theo luật định đạt được mục đích đề ra. NCTN khi tham gia vào giai
đoạn điều tra tức là đang là đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, các quyền

17


×