Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Áp dụng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trong luật quốc tế với việc giải quyết tranh chấp trên biển đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (973.88 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THI ̣MINH HẠNH

ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HOÀ BÌNH GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRONG LUẬT QUỐC TẾ VỚI
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THI ̣MINH HẠNH

ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HOÀ BÌNH GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRONG LUẬT QUỐC TẾ VỚI
VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRÊN BIỂN ĐÔNG

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN BÁ DIẾN

HÀ NỘI - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Thị Minh Hạnh


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài: ........................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu: ............................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu: ............................................................................. 3
4. Phạm vi nghiên cứu: ............................................................................... 4
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài: .............................................. 4
6. Phƣơng pháp nghiên cứu: ...................................................................... 4
7. Ngoài phấn mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn gồm ba chƣơng: ......................................................... 5

Chƣơng I: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ ................................................... 6
1.1 Sơ lƣợc về giải quyết tranh chấp quốc tế ............................................ 6
1.1.1. Khái quát chung về tranh chấp quốc tế ........................................... 6
1.1.2 Các phương thức giải quyết tranh chấp quốc tế cơ bản xuyên suốt
trong luật quốc tế ....................................................................................... 7
1.2. Khái niệm Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế.... 12
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế ..................................................................................................... 12
1.2.2. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trong luật quốc
tế .............................................................................................................. 14
1.3. Ý nghĩa, vai trò của Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế......................................................................................................... 16


1.3.1. Ý nghĩa, vai trò .............................................................................. 16
1.3.2. Khái lược lịch sử hình thành và phát triển của Nguyên tắc hòa bình
giải quyết tranh chấp quốc tế .................................................................. 17
1.3.3. Mối quan hệ giữa Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp
quốc tế và các nguyên tắc cơ bản khác của Luật quốc tế........................ 19
1.3.4. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trên Biển Đông,
lập trường của Việt Nam hiện nay .......................................................... 21
1.4. Cơ sở pháp lý của Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc
tế .................................................................................................................. 25
Chƣơng II: ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT CÁC
TRANH CHẤP QUỐC TẾ TRÊN BIỂN ĐÔNG....................................... 36
2.1. Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế thông
qua các tổ chức quốc tế ............................................................................. 36
2.1.1. Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế ở Liên
hợp quốc .................................................................................................. 36

2.1.2. Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế tại các
tổ chức quốc tế khu vực, tổ chức quốc tế khác ....................................... 38
2.2. Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trên
Biển Đông tại các thiết chế tài phán quốc tế........................................... 40
2.2.1. Trọng tài quốc tế ........................................................................... 40
2.2.2. Tòa án Công lý Quốc tế ................................................................ 43
2.3. Cơ chế áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp biển quốc
tế trên Biển Đông và việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình nhằm đấu tranh
bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trƣờng Sa. ............... 50
Chƣơng III : GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG HIỆU LỰC CỦA VIỆC ÁP
DỤNG NGUYÊN TẮC HOÀ BÌNH TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG .............................................................. 69


3.1. Xu hƣớng áp dụng nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh
chấp quốc tế và trong tranh chấp trên Biển Đông ................................. 69
3.2. Giải pháp tăng cƣờng áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế trong tranh chấp Biển Đông ................................... 70
3.2.1. Hợp tác quốc tế đa lĩnh vực .......................................................... 70
3.2.2. Tăng cường vai trò của các tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực, liên
khu vực .................................................................................................... 75
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật quốc tế......................................................... 89
3.2.4. Một số kiến nghị trong giải quyết tranh chấp trên biển Đông đối
với Việt Nam ........................................................................................... 94
KẾT LUẬN .................................................................................................. 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 101


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:

Biển ngày càng có vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người. Do
tầm quan trọng của biển mà từ lâu những cuộc tranh chấp trên biển luôn diễn
ra gay gắt. Cùng với sự thay đổi nhận thức của con người về tầm quan trọng
của biển, thay đổi của các quy phạm pháp lý điều chỉnh các hoạt động trên
biển, những vấn đề liên quan đến biển và cả việc giải quyết tranh chấp trên
biển cũng hình thành và đang phát triển mạnh mẽ như một sự tất yếu.
Việt Nam nằm cạnh biển Đông, một vùng biển có vị trí địa lý quan
trọng, mang tầm chiến lược trong phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng.
Tham vọng chiếm hữu biển Đông đã đưa vùng này trở thành “điểm nóng” về
tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia. Bởi vậy, việc áp dụng các nguyên tắc
cơ bản của luâ ̣t quố c tế để giải quyết tranh chấp, đặc biệt là áp dụng nguyên
tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trở nên có ý nghĩa trong việc hạn
chế và hạ nhiệt các “điểm nóng” tranh chấp, nhằm duy trì hòa bình, ổn định
trong khu vực và thế giới.
“Hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế” là một nguyên tắc quan trọng trong
luật quốc tế. Hơn thế nữa, ngày nay trong xu hướng hội nhập quốc tế, xu
hướng toàn cầu hóa quốc tế nguyên tắc này trên tất thảy được các quốc gia và
nhân loại tiến bộ thế giới hướng tới.
Nguyên tắc giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng phương pháp hòa
bình được ghi nhận trong Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế điều
chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến
chương Liên hợp quốc được Đại Hội đồng thông qua theo Nghị quyết số 2625
năm 1970. Các nước thành viên Liên Hợp quốc đều tuân theo nguyên tắc này
để giải quyết các bất đồng xung đột hay tranh chấp có tính chất quốc tế. Tuy
nhiên, trong thực tiễn có nhiều trường hợp việc áp dụng các biện pháp để giải

1


quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia chưa thực sự bình đẳng, chưa đạt

được sự nhất trí vì không ít các trường hợp giải quyết tranh chấp bằng việc kí
các Hiệp định ngừng bắn hoặc kí các Hiệp định hòa bình một phần do sự thu
xếp từ những “thế lực quốc tế”.
Ngày nay, trước xu hướng quốc tế hóa, hợp tác hóa giữa các quốc gia,
tiềm ẩn nhiều nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp quốc tế gia
tăng. Để đảm bảo được lợi ích của các bên tranh chấp nói riêng mà không làm
phương hại đến hòa bình, an ninh quốc tế nói chung, thì việc áp du ̣ng Nguyên
tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế cần được đưa vào sử dụng một cách
hiệu quả nhất.
Nghiên cứu việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế để giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông theo nhận định của cá
nhân tôi, vấn đề còn mới và “khá nóng”; đặc biệt là trong vài năm gần đây khi
cả Việt Nam và Phi-lip-pin đều bị những hành động đơn phương của Trung
Quốc đe dọa sâu đến chủ quyền biển đảo quốc gia.
Từ những sự kiện và xu hướng quốc tế trong vấn đề tranh chấp và giải
quyết tranh chấp trên biển Đông, với mong muốn làm rõ hơn về Nguyên tắc
hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế của luật quốc tế và việc áp dụng
nguyên tắc với các tranh chấp trên Biển Đông, luận văn tập trung nghiên cứu
đề tài của mình với những giá trị thực tiễn sau:
- Đưa ra một cái nhìn khái quát về hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
từ khi sơ khai hình thành cho đến nay, đã được chú ý và áp dụng ngày
một rộng rãi.
- Hệ thống hóa các phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
và việc áp dụng các phương pháp đó trên thực tiễn.
- Áp dụng nguyên tắc và các phương pháp hòa bình đối với vấn đề Biển
Đông và giải quyết tranh chấp trên Biển Đông hiện nay.

2



- Phân tích tình hình thực tiễn để đưa ra lập trường của Việt Nam đối với
việc hòa bình giải quyết tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là với vấn đề
Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở lập trường luật quốc tế hiện đại.
- Đề cập đến một số giải pháp tăng cường sự đảm bảo quốc tế để thúc
đẩy việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế; và
một số kiến nghị đối với Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu:
Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên Hợp quốc, chính thức tham
gia Công ước Luật biển 1982. Cho đến nay, đã có một số bài viết, công trình
nghiên cứu liên quan đến các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại,
cũng như việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản vào thực tiễn giải quyết các
tranh chấp quốc tế nói chung, các tranh chấp trên biển nói riêng. Tuy nhiên số
lượng vẫn còn hạn chế và cũng chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu
đầy đủ, toàn diện về áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc
tế với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Bởi vấn đề biển Đông và
tranh chấp trên Biển Đông thay đổi và diễn biến ngày càng phức tạp, khó
lường trước, đã trở thành “tâm điểm” không chỉ của các nước hữu quan liên
quan mà còn của toàn thế giới.
3. Mục đích nghiên cứu:
Trong phạm vi đề tài luận văn, học viên hướng tới mong muốn làm
sáng tỏ những cơ sở lý luận về hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế nói
chung và áp dụng phương pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp trên biển
Đông nói riêng. Qua đó, nhận xét, phân tích, hướng đến việc áp dụng trên
thực tiễn nguyên tắc với Việt Nam trong vấn đề giải quyết tranh chấp trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hiện nay cũng như đưa ra một số giải pháp
tăng cường sự đảm bảo quốc tế.

3



4. Phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi, khuôn khổ một luận văn Thạc sĩ, tác giả xin đề cập đến
các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại; đi sâu phân tích về Nguyên
tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Bên cạnh đó, luận văn cũng nghiên
cứu việc áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế với việc
giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Phần liên hệ chủ quyền trên biển của
Việt Nam và lập trường, tư tưởng kiên định hòa bình giải quyết tranh chấp
trên biển của Việt Nam nhằm khẳng định chủ quyền và triển vọng giải quyết
tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đây chính là
ý nghĩa liên hệ sâu xa mà luận văn hướng đến.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài:
Việc nghiên cứu nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
nói chung và áp dụng hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế trên biển đã
được nhiều học giả quan tâm, đã có nhiều nhà nghiên cứu, giảng viên các
trường đại học, học viện đưa ra trong các luận văn nghiên cứu hay các tạp chí
nghiên cứu pháp luật của quốc tế và Việt Nam.
Tuy nhiên, những nghiên cứu trước đây được thực hiện dưới nhiều góc độ
khác nhau nhưng đứng trên góc độ nghiên cứu và hướng nghiên cứu về áp
dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp trên Biển Đông của đề tài thì
chưa nhiều nghiên cứu đề cập một cách tổng thể, toàn diện, cập nhật; bởi diễn
biến mang tính thời sự và “điểm nóng” thay đổi theo thời gian của những
tranh chấp, xung đột trên Biển Đông.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để làm rõ vấn đề trên, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Thu thập tài liệu để rà soát, phân tích, tham khảo thông tin.
- Tổng hợp, kế thừa các nghiên cứu trước đây liên quan đến đề tài nghiên cứu
của tác giả.

4



- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng kết hợp với
phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và đối chiếu tổng hợp để làm sáng
rõ những vấn đề cần nghiên cứu.
- Nghiên cứu trực tiếp các quy định của pháp luật Quốc tế; các quy định của
pháp luật Việt Nam để làm sáng tỏ vấn đề đặt ra cho luận văn.
- Bên cạnh đó, đề tài cũng được nghiên cứu thông qua phương pháp phân tích,
bình luận, tổng hợp, so sánh khi nghiên cứu một vấn đề cụ thể.
7. Ngoài phấn mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận văn gồm ba chƣơng:
Chương 1: Tổng quan lí luận về Nguyên tắc hòa bình trong giải quyết
tranh chấp quốc tế.
Chương 2: Áp dụng Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
trên Biển Đông.
Chương 3: Giải pháp tăng cường hiệu lực của việc áp dụng Nguyên tắc
hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế ở Biển Đông.
Đây là một đề tài khó, rộng và phức tạp, trong khi kiến thức của tác giả
còn hạn chế nên luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất
mong các thầy cô giúp đỡ, chỉ dạy để tác giả hoàn thiện thêm đề tài của mình.

5


Chƣơng I: TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ
1.1 Sơ lƣợc về giải quyết tranh chấp quốc tế
1.1.1. Khái quát chung về tranh chấp quốc tế
Hiện nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về tranh chấp quốc tế
trong các văn bản pháp lý.
Theo Cuốn Từ điển Tiếng Việt xuất bản năm 1992 giải thích về “tranh

chấp” là đấu tranh giằng co khi có ý kiến bất đồng, thường là trong vấn đề
quyền lợi giữa các bên.
Theo quan niệm của Pháp viện Thường trực quốc tế - Cơ quan giải
quyết tranh chấp của Hội Quốc liên (Tổ chức tiền thân của Liên Hợp Quốc)
lại cho rằng: Tranh chấp là sự bất đồng về một quy phạm pháp luật hoặc một
sự kiện nào đó giữa các chủ thể nhất định (trường hợp này là giữa các quốc
gia) khi một trong các bên đưa ra yêu sách, đòi hỏi đối với bên kí nhưng bên
đó không chấp nhận hoặc chỉ chấp nhận một phần.
Theo Giáo trình Luật quốc tế của Ấn độ, Tiến sỹ S.K.Kapoor chủ biên
tái xuất bản năm 1994 giải thích khái niệm về tranh chấp quốc tế: là sự tranh
chấp giữa các quốc gia. Trường hợp có hành vi sai trái với một dân tộc hay
với một quốc gia nào đó nhưng nếu Chính phủ của quốc gia đó không có hành
động phản ứng lại thì cũng không được coi đó là tranh chấp quốc tế.
- Sự tranh chấp phải xảy ra những hành vi cụ thể từ phía quốc gia gây sự.
- Sự tranh chấp phải liên quan đến các đối tượng tranh chấp cụ thể của quốc
gia bị hại.[31, tr.724].
Giáo trình Công pháp quốc tế của Mỹ năm 1990 có ghi: Việc giải quyết
các tranh chấp quốc tế là việc giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia.[33]
Căn cứ vào thực tiễn của pháp luật quốc tế hiện nay, có thể hiểu một cách
chung nhất về tranh chấp quốc tế như sau: “Tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh

6


thực tế mà trong đó các chủ thể tham gia có những quan điểm trái ngược nhau
hoặc mâu thuẫn với nhau, và có những yêu cầu, hay đòi hỏi cụ thể trái ngược
nhau. Đó là sự không thỏa thuận được với nhau về quyền hoặc sự kiện, đưa
đến sự mâu thuẫn, đối lập nhau về quan điểm pháp lý hoặc quyền giữa các
bên chủ thể luật quốc tế với nhau”.
Căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, có thể phân loại tranh chấp quốc

tế như sau:
- Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia: bao gồm tranh chấp song
phương và tranh chấp đa phương.
- Căn cứ vào tính chất của vụ tranh chấp: tranh chấp mang tính chất
chính trị và tranh chấp có tính pháp lý.
- Căn cứ vào đối tượng tranh chấp: tranh chấp về kinh tế về thực hiện
nghĩa vụ thành viên về điều ước quốc tế hoặc tổ chức quốc tế…
Như vậy, tranh chấp quốc tế có nhiều loại. Tuy nhiên, chúng ta cần
quan tâm đến những tranh chấp quốc tế có tính chất nguy cơ ảnh hưởng đến
hòa bình an ninh khu vực và thế giới. Các tranh chấp là mối đe dọa tới sự
sống còn của nhân loại và bị luật quốc tế cấm. Tranh chấp quốc tế luôn được
coi là vấn đề nhạy cảm đối với các quốc gia, đối với giới cầm quyền ở mỗi
quốc gia. Bởi vậy, các tổ chức lớn tầm cỡ quốc tế “có tiếng nói” như Liên
Hợp quốc cần tập hợp sức mạnh tổng hợp cũng như chú trọng tới việc dự liệu
trước, đề xuất các quy định, các nguyên tắc trong luật pháp quốc tế để ngăn
cản trước khi xảy ra, cũng như tìm giải pháp để chấm dứt các tranh chấp đã
xảy ra.
1.1.2 Các phƣơng thức giải quyết tranh chấp quốc tế cơ bản xuyên
suốt trong luật quốc tế
Các phương pháp bạo lực (chiến tranh) trong quan hệ quốc tế giữa các
nước giai đoạn trước đây là phương pháp hay được đề cập.

7


Trước khi Hiệp ước Hòa bình Briand-Kellogg 1928 ra đời, trong quan
hệ quốc tế việc dùng vũ lực hay chiến tranh được coi là biện pháp hợp pháp
để giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia. Xâm lược một quốc gia độc
lập chủ quyền hay xâm chiếm một bộ phận lãnh thổ của nước khác, luật quốc
tế cổ điển gọi là “can thiệp – Intervention”. Khi đó, sẽ sử dụng lực lượng vũ

trang đánh xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia khác và có thể hiểu là đánh
chiếm và xóa bỏ một quốc gia.[27, tr.110]
Sau khi Hiệp ước Hòa bình Briand-Kellogg 1928 và Hiến chương Liên
hợp quốc ra đời, những chế định liên quan đến sử dụng vũ lực đã được thay
đổi đáng kể và bị cấm trong luật quốc tế. Thời kì sau đó, trong luật quốc tế đã
xuất hiện hai khái niệm về chiến tranh: chiến tranh chính nghĩa (just wars được luật pháp quốc tế cho phép và ủng hộ) và chiến tranh phi nghĩa (unjust
wars - được coi là ngoài vòng pháp luật). Khi chiến tranh xảy ra giữa hai quốc
gia, các bên thứ ba luôn muốn tránh tham gia chiến tranh với các bên và muốn
giữ quan hệ với tất cả các bên tham chiến mà không nhất thiết cần đưa ra ý
kiến xem chiến tranh nào là chính nghĩa.[29, tr.873-874]
Trên thực tế, các quốc gia cùng tuân theo quy định của luật quốc tế về
hòa bình nhưng nếu biết lợi ích quốc gia mình có nguy cơ bị đe dọa nghiêm
trọng, họ sẽ nghĩ đến hành động sử dụng bạo lực hay nói cách khác là dùng
chiến tranh để đảm bảo lợi ích của mình và thành lập những nguyên tắc mới
cho những quan hệ quốc tế mới.
Trong khoản 3, Điều 2, Hiến chương Liên Hợp quốc có quy định: “Tất
cả các nước thành viên Liên Hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của
họ bằng biện pháp hòa bình sao cho không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc
tế và công lý”.
Khoản 4, điều 2, của Hiến chương Liên Hợp quốc có ghi: “Tất cả các
nước thành viên Liên Hợp quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực

8


trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay
nền độc lập chính trị của bất cứ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái
với những mục đích của Liên Hợp quốc”. Như vậy, Hiến chương chỉ đề cập
đến việc cấm đe dọa hay sử dụng vũ lực mà không đề cập cụ thể đến những
khái niệm như “chiến tranh” hay “xâm lược”.

Điều 51 Hiến chương Liên Hợp quốc lại ghi: “không có một điều
khoản nào trong Hiến chương này làm tổn hại đến quyền tự vệ cá nhân hay
tập thể chính đáng trong trường hợp thành viên Liên Hợp quốc bị tấn công vũ
trang…” Có thể hiểu rằng, nội dung điều 51 trên cho phép các nước thành
viên Liên Hợp quốc được quyền tự vệ cá nhân hay tự vệ tập thể chính đáng
nếu bị tấn công vũ trang.
Trên thực tế, các quan hệ quốc tế cho thấy: pháp luật quốc tế hiện nay
vừa cấm việc dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế lại vừa cho
phép việc dùng vũ lực. Có những trường hợp luật quốc tế, Hiến chương Liên
Hợp quốc và cả Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc cho phép sử dụng một số
biện pháp dùng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế hay để duy trì hòa
bình an ninh quốc tế, như sau:
- Tự vệ cá nhân và tự vệ tập thể;
- Cấm vận, trả đũa dưới sự cho phép của Liên Hợp quốc;
- Can thiệp (quân sự) vì mục đích nhân đạo;
- Can thiệp (quân sự) vì mục đích khôi phục dân chủ;
- Can thiệp (quân sự) vì mục đích khôi phục nhân quyền.
Thời gian gần đây, lịch sử quan hệ quốc tế ghi nhận nhiều thành công
của việc áp dụng các phương pháp hòa bình vào giải quyết tranh chấp quốc tế.
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc này gắn liền với sự hình thành và
phát triển của nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong quan
hệ quốc tế. Trong thực tiễn quốc tế, tranh chấp luôn tiềm ẩn, phát sinh từ các

9


mối quan hệ giữa các quốc gia. Đó là khi các chủ thể luật quốc tế có những
quan điểm trái ngược hoặc mâu thuẫn xung đột hoặc không thống nhất được
về quyền và lợi ích.
Hệ thống Công ước Lahay năm 1899 và năm 1907 có Công ước về hòa

bình giải quyết xung đột quốc tế, là công ước đa phương đầu tiên đề cập đến
vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, Công ước mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra
lời kêu gọi các quốc gia tự nguyện thực hiện các biện pháp trung gian, hòa
giải trước khi dùng vũ lực.
Trong quy chế Hội quốc liên có đưa ra quyền của các quốc gia dùng
chiến tranh như là phương tiện giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên có đề cập đến
nghĩa vụ của các quốc gia trong giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hoà
bình nhưng quy định này không được đem ra giải quyết ở Tòa án hoặc đưa ra
Hội đồng của Hội quốc liên với tính chất là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc của mọi
quốc gia. Và việc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình chỉ được
coi như một khả năng có thể xảy ra khi có tranh chấp mà thôi.
Liên hợp quốc cùng với bản Hiến chương của mình lần đầu tiên đã
nâng vấn đề giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế lên thành nguyên tắc
trong quan hệ giữa các quốc gia; Khoản 3, điều 2 Hiến chương ghi nhận "Hội
viên Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng phương
pháp hòa bình, làm thế nào khỏi nguy hại đến hòa bình và an ninh quốc tế
cũng như đến công lý".
Theo Công ước La-hay năm 1907, Định ước Hội Quốc liên, Tuyên bố
Manila năm 1982; khoản 1, điều 33 Hiến chương Liên Hợp quốc và Tuyên bố
của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc năm 1970 có thể tóm lược một số nhóm
phương pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế sau:
- Đàm phán ngoại giao trực tiếp;
- Các biện pháp trung gian, hòa giải;

10


- Các biện pháp tư pháp (Tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế);
- Giải quyết tranh chấp thông qua các tổ chức quốc tế hoặc trên cơ sở
dàn xếp của các tổ chức khu vực;

- Các phương pháp hòa bình khác mà các bên tự chọn.
Điều 33 Hiến chương Liên Hợp quốc đã quy định cụ thể các biện pháp
hòa bình mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn, đó là các con đường : "...
đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng các tổ chức
hoặc các hiệp định khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác”. Như
vậy, hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với
mọi quốc gia - thành viên của cộng đồng quốc tế. Các bên có quyền tự do lựa
chọn các biện pháp phù hợp nhất, sao cho mọi tranh chấp đều được giải quyết
trên cơ sở của luật quốc tế và nguyên tắc công bằng. Thực tiễn cho thấy,
phương pháp đàm phán là phương pháp thường xuyên được các quốc gia sử
dụng để giải quyết khi có tranh chấp hoặc bất đồng với nhau.
Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định rất nhiều biện pháp hòa bình,
tạo điều kiện cho các chủ thể luật quốc tế lựa chọn khi giải quyết tranh chấp
quốc tế mà xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của Luật quốc tế. Về thẩm
quyền giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế cũng có những đặc điểm khác
biệt so với luật quốc gia: thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế do các chủ
thể luật quốc tế quyết định.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế từ trước tới nay thường vẫn áp
dụng các phương thức giải quyết tranh chấp cơ bản sau:
- Giải quyết trực tiếp tranh chấp;
- Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba;
-Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và các hiệp định
khu vực;
- Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán quốc tế.

11


1.2. Khái niệm Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh

chấp quốc tế
Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia bằng các biện pháp hòa bình
là xu hướng tất yếu không thể phủ nhận và được tuyệt đại đa số các nước trên
thế giới ủng hộ. Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia bằng các biện
pháp hòa bình có thể hiểu là giải quyết các tranh chấp thông qua đàm phán
hòa bình (song phương hoặc đa phương) trên cơ sở luật pháp và thực tiễn
quốc tế, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm đi tới một giải pháp công bằng
cho tất cả các bên hoặc giải quyết các tranh chấp thông qua trung gian, hòa
giải hoặc bằng các cơ chế tài phán quốc tế như Tòa án Công lý Quốc tế, Tòa
án Quốc tế về Luật Biển và các tòa trọng tài khác…
Thế nào là "tranh chấp quốc tế"? Luật quốc tế chưa có một định nghĩa
chính xác về tranh chấp quốc tế được thừa nhận rộng rãi, nhưng đa số các tác
giả đều cho rằng tranh chấp quốc tế là những vấn đề phát sinh giữa các chủ
thể luật quốc tế và những bất đồng về các vấn đề cơ bản của quan hệ quốc tế.
Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được ghi nhận lần đầu tiên
trong Hiến chương Liên hợp quốc và được khẳng định rõ hơn trong Tuyên bố
năm 1970 "mỗi quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế của mình với các quốc
gia khác bằng phương pháp hòa bình để không dẫn đến đe dọa hòa bình, an
ninh quốc tế và công bằng".
Và các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là căn cứ pháp lý để giải
quyết các tranh chấp quốc tế, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế thường
được viện dẫn trong hệ thống các cơ quan của Liên Hợp quốc.
Về đặc điểm, các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế có bốn đặc điểm sau:
Tính mệnh lệnh chung: tất cả các chủ thể đều phải tuyệt đối tuân thủ
các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế. Không một chủ thể hay nhóm chủ

12


thể nào của Luật Quốc tế có quyền hủy bỏ nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc

tế. Bất kỳ hành vi đơn phương nào không tuân thủ triệt để nguyên tắc cơ bản
của LQT đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế. Các quy
phạm điều ước và tập quán quốc tế có nội dung trái với các nguyên tắc cơ bản
của Luật Quốc tế đều không có giá trị pháp lý. Ngoài ra, đối với các lĩnh vực
xuất hiện các nguyên tắc chuyên biệt như: Luật Biển quốc tế, Luật hàng
không dân dụng quốc tế... thì bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản
của Luật Quốc tế, các bên còn phải chấp hành các nguyên tắc chuyên biệt
trong từng lĩnh vực cụ thể.
Về tính bao trùm: Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là chuẩn mực để
xác định tính hợp pháp của toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế.
Đồng thời chúng được thực hiện trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế
giữa các quốc gia.
Về tính hệ thống: Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế có mối quan
hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, biểu hiện ở chỗ: việc
tôn trọng hay phá vỡ nguyên tắc này sẽ làm ảnh hưởng đến nội dung và việc
tuân thủ các nguyên tắc khác.
Về tính thừa nhận rộng rãi: các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
được áp dụng trong phạm vi toàn thế giới, đồng thời được ghi nhận trong các
văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến Chương Liên Hợp quốc, Tuyên
bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế.
Trong các đặc điểm trên, đặc điểm về tính mệnh lệnh chung là quan
trọng nhất, đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để các nguyên tắc cơ bản của
Luật quốc tế chi phối lại các nguyên tắc pháp luật chung và các nguyên tắc
chuyên ngành.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là công cụ pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể Luật quốc tế.

13



1.2.2. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế trong luật
quốc tế
Việc sử dụng một số biện pháp hòa bình như: ngoại giao, đàm phán,
trung gian, hòa giải… để giải quyết các tranh chấp trong quan hệ quốc tế đã
được biết đến từ rất sớm. Nhưng ban đầu chưa có những quy phạm bắt buộc
các quốc gia phải giải quyết tranh chấp bằng các phương pháp hòa bình,
không được sử dụng vũ lực. Hệ thống Công ước Lahay năm 1899 và năm
1907 có Công ước về hòa bình giải quyết xung đột quốc tế, đây là văn kiện đa
phương đầu tiên đề cập đến vấn đề quan trọng này. Tuy nhiên, Công ước này
cũng chỉ đưa ra lời kêu gọi các quốc gia với khả năng có thể, ngăn ngừa việc
dùng vũ lực, sử dụng tối đa các biện pháp trung gian, hòa giải trước khi dùng
vũ khí.
Trong quy chế của Hội quốc liên, ở một mức độ nhất định cũng đã xác
định nghĩa vụ các quốc gia giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình
dưới hình thức giải quyết ở Tòa án hoặc đưa ra Hội đồng của Hội quốc liên,
nhưng vẫn không quy định giải quyết hòa bình tranh chấp là nghĩa vụ bắt
buộc của mọi quốc gia thành viên cũng như không quy định cấm tiến hành
chiến tranh.
Tuy nhiên, Hiệp ước Paris năm 1928 về khước từ chiến tranh lại tuyên
bố cấm chiến tranh xâm lược và nêu rõ trách nhiệm của các quốc gia chỉ giải
quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình. Điều 2 Hiệp ước khẳng định:
các bên công nhận rằng việc điều chỉnh hoặc giải quyết mọi tranh chấp hoặc
xung đột phát sinh với bất kỳ tính chất và nguyên nhân nào chỉ có thể bằng
các phương pháp hòa bình.
Năm 1945 với sự ra đời của Hiến chương Liên hợp quốc có nêu: “Tất
cả các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ
bằng biện pháp hòa bình, sao cho không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế

14



và công lý”, khẳng định giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa
bình là một nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia.
Ngày nay với sự ra đời của nhiều tổ chức quốc tế toàn cầu và tổ
chức khu vực, nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế được ghi
nhận trong nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như: Hiến chương Liên hợp
quốc, bản Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh mối quan
hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp
quốc năm 1970; văn kiện bế mạc của Hội nghị an ninh và hợp tác Châu Âu
năm 1975; Định ước Henxiki năm 1975…
Nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế nêu rõ việc
nghiêm cấm các quốc gia sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp với
nhau, một mặt xác lập nghĩa vụ của các bên trong tranh chấp giải quyết bằng
các biện pháp hòa bình, mặt khác cũng quy định các bên tham gia vào tranh
chấp có quyền lựa chọn các biện pháp hòa bình thích hợp để giải quyết tranh
chấp. Pháp luật quốc tế không quy định một công thức giải quyết bắt buộc,
cứng nhắc cho mỗi loại hình tranh chấp nhất định, việc sử dụng một phương
thức cụ thể nào hoàn toàn do các bên liên quan tự thỏa thuận và lựa chọn, với
điều kiện đó phải là những biện pháp hòa bình.
Khoản 2, điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định cụ thể các
biện pháp hòa bình mà các bên tranh chấp có thể lựa chọn như: đàm phán,
trung gian, hòa giải, trọng tài, bằng con đường tư pháp, sử dụng những cơ
quan hoặc những hiệp định khu vực, hay các biện pháp hòa bình khác do họ
lựa chọn. Hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với
mọi quốc gia, cần phải nỗ lực giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và
công bằng nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, phương pháp đàm phán là phương pháp
thường được các quốc gia sử dụng. Đây là phương pháp tốt để giải quyết

15



nhanh chóng tranh chấp quốc tế mà vẫn bảo đảm quyền bình đẳng của các
bên, dễ đi đến thỏa thuận nhượng bộ lẫn nhau. Ngoài ra, biện pháp giải quyết
tranh chấp thông qua tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực để giải quyết tranh
chấp cũng được cộng đồng quốc tế quan tâm và áp dụng nhiều trong những
năm gần đây như: WTO, EU, ASEAN.
Việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế sẽ làm hạn chế
đáng kể sự xuất hiện tranh chấp. Mặt khác, góp phần giải quyết nhanh chóng
và hiệu quả tranh chấp nếu nảy sinh trong đời sống quốc tế. Việc giải quyết
tranh chấp bằng phương pháp hòa bình chiếm một vị trí và vai trò hết sức
quan trọng góp phần ổn định quan hệ quốc tế, duy trì và bảo vệ hòa bình,
an ninh thế giới, tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển.
1.3. Ý nghĩa, vai trò của Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế.
1.3.1. Ý nghĩa, vai trò
Hiện nay, trong quá trình quốc tế hóa mọi mặt của đời sống, sự ra đời
của các tổ chức quốc tế phổ cập và khu vực đang ngày càng giữ vị trí quan
trọng trong việc phối hợp hoạt động hợp tác của các quốc gia thành viên. Khi
tham gia tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên tự nguyện trao cho tổ chức
quốc tế một số thẩm quyền. Quốc gia khi tự nguyện tham gia tổ chức quốc tế,
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên, chịu sự chi phối
nhất định của các tổ chức quốc tế... Trong không gian quốc tế hiện nay, việc
tôn trọng nghiêm chỉnh pháp luật quốc tế là cơ sở quan trọng để đưa trật tự
thế giới phát triển theo xu hướng ngày càng ổn định, hội nhập và tiến bộ.
Như vậy, các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế nói chung và nguyên tắc
Hòa bình giải quyết các tranh chấp nói riêng có ý nghĩa, vai trò quan trọng
trong việc điều chỉnh các quan hệ quốc tế, nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định
thế giới. Đặc biệt, hiện nay trên thế giới có rất nhiều vấn đề nóng bỏng, nổi


16


cộm như vấn đề tranh chấp trên Biển Đông giữa các quốc gia hữu quan liên
quan thì hơn bao giờ hết Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp cần
được nghiên cứu để áp dụng một cách phù hợp, hiệu quả.
1.3.2. Khái lƣợc lịch sử hình thành và phát triển của Nguyên tắc
hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
Trong quan hệ quốc tế, khi đề cập đến các nguyên tắc của Luật Quốc
tế, người ta thường nói đến ba loại nguyên tắc đó là: Nguyên tắc cơ bản,
nguyên tắc pháp luật chung, nguyên tắc chuyên ngành. Trong các nguyên tắc
này thì hệ thống các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là những nguyên tắc
thể hiện tập trung nhất các quan điểm chính trị - pháp lý và cách xử sự của
các quốc gia trong việc giải quyết những vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của
đời sống quốc tế.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế được hiểu là những tư tưởng
chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung đối
với mọi chủ thể Luật Quốc tế. Trong Luật Quốc tế, các nguyên tắc cơ bản tồn
tại dưới dạng những quy phạm được ghi nhận ở điều ước quốc tế và tập quán
quốc tế.
Cũng như sự hình thành luật quốc tế, phạm trù các nguyên tắc cơ bản
của Luật quốc tế là một phạm trù mang tính xã hội - lịch sử. Nó cũng có quá
trình phát sinh, phát triển và hoàn thiện gắn liền với các giai đoạn hình thành
và phát triển của luật quốc tế, căn cứ vào sự ra đời của các nguyên tắc, luật
quốc tế chia chúng ra thành hai nhóm cơ bản đó là:
Nhóm các nguyên tắc truyền thống của luật quốc tế: là các nguyên tắc
ra đời chủ yếu trong thời kỳ trung đại và cận đại, khi các quan hệ quốc tế mới
chỉ dừng lại ở dạng sơ khai và chúng tồn tại chủ yếu dưới dạng các tập quán
quốc tế. Nhóm này gồm hai nguyên tắc: nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa
các quốc gia và nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế.


17


Nhóm các nguyên tắc hình thành trong luật quốc tế hiện đại: Đây là các
nguyên tắc hình thành trong thời kỳ hiện đại, khi sự hình thành các tổ chức
quốc tế và quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ tại hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Nhóm này gồm các nguyên tắc sau: nguyên tắc cấm đe
dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực; nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh
chấp quốc tế; nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia
khác; nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác và nguyên tắc dân tộc tự quyết.
Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, khả năng tham gia vào các quan hệ
quốc tế của các quốc gia không giống nhau. Luật quốc tế đã có những quy
phạm nhằm trao cho một số quốc gia nhất định những quyền đặc biệt mà các
quốc gia khác không có, như quyền phủ quyết của năm thành viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Tuy nhiên, việc được hưởng các quyền
đặc biệt này bao giờ cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia này phải gánh vác
thêm những nghĩa vụ đặc biệt khác.
Và sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh
chấp quốc tế gắn liền với sự hình thành và phát triển của nguyên tắc cấm đe
dọa dùng vũ lực và dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế và là hệ quả tất yếu của
nguyên tắc này.
Trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, luật pháp quốc tế cũng ghi nhận
một số biện pháp hòa bình để giải quyết các tranh chấp song vào thời điểm đó
nguyên tắc này chưa trở thành một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được ghi nhận lần đầu tiên
trong Hiến chương Liên hợp quốc và được khẳng định rõ ràng trong Tuyên bố
năm 1970, trong đó chỉ rõ "mỗi quốc gia giải quyết tranh chấp quốc tế của
mình với các quốc gia khác bằng phương pháp hòa bình để không dẫn đến đe
dọa hòa bình, an ninh quốc tế và công bằng".


18


Ngày nay, với mục đích đảm bảo hòa bình, an ninh quốc tế và công lý,
luật pháp quốc tế đã ghi nhận nguyên tắc này như là một trong những nguyên
tắc cơ bản, nền tảng có tính xuyên suốt và bao trùm. Điều này được thể hiện
rõ trong khoản 2, Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc; Phần XV Giải quyết
các tranh chấp (Điều 279- Điều 299) Công ước Luật biển 1982 của Liên Hợp
Quốc, và trong hầu hết các điều ước quốc tế đa phương cũng như song
phương, điều ước quốc tế khu vực cũng như điều ước mang tính toàn cầu...
1.3.3. Mối quan hệ giữa Nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh
chấp quốc tế và các nguyên tắc cơ bản khác của Luật quốc tế
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có giá trị bắt buộc chung, chúng
thực hiện hai chức năng quan trọng là ổn định quan hệ quốc tế và ấn định
khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc tế, qua đó tạo điều kiện
cho quan hệ quốc tế phát triển.
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có mối quan hệ qua lại với nhau
trong một chỉnh thể thống nhất, chỉ khi tồn tại trong sự tác động qua lại chúng
mới có khả năng hoàn thành các chức năng của mình. Vì thế khi giải thích và
áp dụng từng nguyên tắc, các chủ thể phải đối chiếu, so sánh và xem xét nó
trong mối quan hệ với tất cả các nguyên tắc khác, điều này đã được khẳng
định trong Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1970 về các
nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa
các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc, mọi nguyên tắc đều
phải nhằm mục đích đảm bảo cho việc gìn giữ hòa bình.
Giải quyết tranh chấp không chỉ tuân thủ đúng Nguyên tắc giải quyết
hòa bình các tranh chấp quốc tế còn phải bảo đảm và phù hợp với tất cả các
nguyên tắc cơ bản khác theo quy định của Hiến chương và luật pháp quốc tế,
các bên không chỉ không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực mà còn

phải tôn trọng độc lập, chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ

19


×