Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

Áp dụng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế và vấn đề tranh chấp ở biển đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ HẢI HOÀN

ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ
VÀ VẤN ĐỀ TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÁ DIẾN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Ngô Hải Hoàn




MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC
HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP QUỐC TẾ .................5
1.1.

KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGUYÊN
TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ.......................5

1.1.1. Khái niệm .......................................................................................................5
1.1.2. Đặc điểm ........................................................................................................5
1.1.3.

Lịch sử hình thành nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế ...............6

1.2.

PHÂN LOẠI CÁC BIỆN PHÁP HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ ...........................................................................................8

1.3.

VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT HÒA BÌNH CÁC

TRANH CHẤP QUỐC TẾ ..........................................................................18

Chƣơng 2: CÁC PHƢƠNG THỨC CƠ BẢN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUỐC TẾ BẰNG BIỆN PHÁP HÒA BÌNH ...........................................21
2.1.

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI ĐẠI HỘI ĐỒNG, HỘI ĐỒNG
BẢO AN VÀ TỔNG THƯ KÝ LIÊN HỢP QUỐC ....................................21

2.2.

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRƯỚC TÒA ÁN CÔNG LÝ QUỐC
TẾ LIÊN HỢP QUỐC .................................................................................23

2.2.1. Khái quát về tòa án công lý quốc tế .............................................................23
2.2.2.

Các phương thức xác lập thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án ...............28

2.2.3. Thủ tục tố tụng trước Tòa án ........................................................................29
2.2.4. Giá trị pháp lý của phán quyết của Tòa án ...................................................32


2.2.5. Thẩm quyền tư vấn pháp luật của Tòa án công lý quốc tế ...........................34
2.3.

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THEO HIỆP ƯỚC THÂN THIỆN, HỢP
TÁC ĐÔNG NAM Á (HIỆP ƯỚC BALI) NGÀY 24/2/1976.....................36

2.4.


GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TÒA ÁN QUỐC TẾ VỀ LUẬT BIỂN ...38

2.5.

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TÒA TRỌNG TÀI THÀNH LẬP
THEO PHỤ LỤC VII CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM 1982 ...................43

2.6.

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TÒA TRỌNG TÀI ĐẶC BIỆT THÀNH
LẬP THEO PHỤ LỤC VIII CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM 1982.................47

2.7.

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT MỘT SỐ TRANH CHẤP QUỐC TẾ ÁP
DỤNG NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
QUỐC TẾ .....................................................................................................50

Chƣơng 3: ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG...............................................................................55
3.1.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG .........................55

3.2.

XÁC ĐỊNH CÁC ĐỐI TƯỢNG TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG ................59

3.2.1. Tranh chấp chủ quyền ..................................................................................59

3.2.2. Từ tranh chấp chủ quyền dẫn đến tranh chấp quyền chủ quyền ..................60
3.3.

ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
HIỆN NAY ...................................................................................................62

3.4.

ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT CÁC TRANH
CHẤP QUỐC TẾ TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG .....75

3.4.1. Xác định các chế định giải quyết tranh chấp Biển Đông .............................75
3.4.2. Tuân thủ luật pháp quốc tế tác động tích cực tới giải quyết tranh chấp
Biển Đông của Việt Nam .............................................................................78
3.5.

ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BIỂN ĐÔNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM .........................................................80

3.5.1. Áp dụng biện pháp đàm phán.......................................................................81
3.5.2. Áp dụng biện pháp trung gian hòa giải ........................................................84
3.5.3. Biện pháp lấy ý kiến tư vấn của các tổ chức quốc tế ...................................86


3.6.

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG BẰNG BIỆN PHÁP
KHỞI KIỆN TRUNG QUỐC RA TÒA TRỌNG TÀI THÀNH LẬP
THEO PHỤ LỤC VII CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN 1982 .............................88


3.6.1. Tìm hiểu vụ việc Philippin kiện Trung Quốc ra Tòa trọng tài .....................89
3.6.2. Vụ kiện của Philippin sẽ đem lại bài học gì cho ASEAN và Việt Nam
trong việc giải quyết tranh chấp ở biển Đông? ..........................................102
3.6.3. Trước tình hình Biển Đông hiện nay, Việt Nam học được gì từ vụ
Philippines kiện Trung Quốc? ....................................................................109
KẾT LUẬN ............................................................................................................111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................114
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ASEAN:

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.

AU:

Liên minh châu Phi.

EU:

Liên minh châu Âu.

ILO:

Tổ chức Lao động quốc tế.

UNCLOS:


Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển

WHO:

Tổ chức Thương mại thế giới.


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Bảng trình bày thể hiện yêu sách chồng lấn (ngoại trừ Brunei) của
những chủ thể tranh chấp trên Biển Đông ..............................................58
Bảng 3.2. Bảng lược sử niên đại các sự kiện lịch sử liên quan đến Hoàng Sa và
Trường Sa ...............................................................................................63


MỞ ĐẦU
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế giữa các quốc gia và các chủ thể khác của
luật quốc tế, có rất nhiều các lĩnh vực, nhiều mối quan hệ mà quyền và lợi ích của
các chủ thể đan xen lẫn nhau trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã
hội, an ninh, quốc phòng, môi trường… Tất cả đều phản ánh lợi ích đa dạng và
phong phú của các chủ thể luật quốc tế khi tham gia vào quan hệ quốc tế. Chính vì
vậy, khi thiết lập và thực hiện các quan hệ diễn ra giữa các chủ thể của luật quốc tế
với nhau thì tranh chấp, bất đồng giữa các chủ thể là điều không thể tránh khỏi.
Ngày nay, cùng với xu thế toàn cầu hóa, hợp tác giữa các quốc gia ngày càng mở
rộng và phát triển, đồng hành với đó là những nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến
những tranh chấp quốc tế ngày càng gia tăng. Để bảo đảm được lợi ích của các bên
tranh chấp nói riêng mà không làm phương hại đến hòa bình, an ninh quốc tế nói
chung, thì việc áp dụng nguyên tắc hòa bình trong giải quyết tranh chấp quốc tế cần
được sử dụng một cách hiệu quả nhất. Về phương diện lý luận, khi các quốc gia đặt
ra nguyên tắc cấm sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, lẽ
đương nhiên trong hệ thống pháp luật quốc tế cần thiết phải có nguyên tắc hòa bình

giải quyết tranh chấp quốc tế. Bởi lẽ nguyên tắc cấm sử dụng hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực sẽ không có giá trị pháp lý rang buộc các chủ thể luật quốc tế nếu như không
có nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế.
Nguyên tắc giải quyết quyết các tranh chấp quốc tế chính thức được ghi nhận
trong Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị
và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc được Đại hội
đồng thông qua theo Nghị quyết số 2625 năm 1970. Các nước thành viên Liên hợp
quốc có nghĩa vụ tuân theo nguyên tắc này để giải quyết các bất đồng, xung đột hay
tranh chấp có tính chất quốc tế. Hiến chương Liên hợp quốc đã liệt kê rất nhiều
những biện pháp hòa bình để tạo cơ hội cho các chủ thể liên quan tự lựa chọn trong
quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế. Vậy lịch sử hình thành, những nôi dung cơ
bản, những phương thức giải quyết tranh chấp được ghi nhận như thế nào trong luật

1


pháp quốc tế, cũng như cơ chế giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế sẽ được học
viên trình bày trong khuôn khổ luận văn này.
Thực tế trong nhiều năm qua, chủ quyền và quyền chủ quyền của Viê ̣t Nam
trên Biển Đông bị vi phạm nghiêm trọng, đặc biệt là hai Quần Đảo Hoàng Sa và
Trường Sa. Đáng lưu ý hơn là bên cạnh các tranh cãi vốn đã tồn tại về chủ quyền và
lãnh thổ, đã xảy ra nhiều va chạm liên quan đến an ninh và an toàn hàng hải, và liên
quan đến quản lý, khai thác tài nguyên biển. Vùng biển Đông có 7 quốc gia xung
quanh gồm Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Singapore và
Việt Nam. Đây là một khu vực có diện tích tương đối hẹp, là vùng biển nửa kín.
Biển Đông là nơi có nguồn tài nguyên phong phú, đồng thời là con đường quan
trọng nối liền Đông Á với Ấn Độ Dương và châu Âu, có vị trí chiến lược vô cùng
quan trọng. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, giữa các quốc gia xung quanh biển
Đông đã phát sinh nhiều xung đột. Bảo vệ cục diện an ninh ở biển Đông trở thành
vấn đề được các nước xung quanh và thậm chí các nước khác trên thế giới cùng

quan tâm. Điều này đặt ra một bối cảnh tranh chấp là chúng ta cần phải xây dựng
một lộ trình giải quyết an toàn, vừa phải đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ dựa trên pháp
luật quốc tế, lại vừa phải đảm bảo mối quan hệ ổn định với các bên tranh chấp.
Trong cuộc hội thảo khoa học quốc tế về Biển Đông được khai mạc ngày 1111-2010, GS Stein Tennesson của Viện nghiên cứu Hòa bình quốc tế (NaUy) cho
rằng Biển Đông là một vấn đề luật pháp chứ không chỉ là một vấn đề chính trị, nên
giải quyết chính đáng nhất là Luật pháp.
Trong pháp luật quốc tế, hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là một khái
niệm bao gồm những biện pháp và các cách thức để tiến hành. Nghiên cứu tất cả
những cách thức để lựa chọn và áp dụng một biện pháp hữu hiệu nhất để giải quyết
tranh chấp trên Biển Đông, hay là tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp? Lộ trình áp
dụng những cách thức để giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông sẽ được xây dựng
ra sao ? Dưới góc độ nghiên cứu lý luận về nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh
chấp quốc tế và tiếp thu có chọn lọc những công trình nghiên cứu, bài viết của các
học giả trong nước và quốc tế, học viên chọn đề tài “ Áp dụng nguyên tắc hòa bình

2


giải quyết tranh chấp quốc tế và vấn đề tranh chấp ở Biển Đông” trong khuôn khổ
một luận văn thạc sỹ luật học của mình.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
1. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế,
là cơ sở lý luận để nghiên cứu các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
trong pháp luật quốc tế, trong đó đặt vấn đề giải quyết tranh chấp Biển Đông trong
những biện pháp này.
Luận văn không nghiên cứu và phân tích các chứng cứ và lập luận của Việt
Nam đối với yêu sách chủ quyền và quyền chủ quyền trên Biển Đông mà nghiên
cứu các khía cạnh pháp lý của các giải pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
dựa trên những chuyển biến của quan hệ quốc tế. Tuy nhiên từ các chứng cứ và lập

luận mà các học giả trước đã phân tích, học viên kế thừa và vận dụng một cách phù
hợp trong luận văn.
Cung cấp một cái nhìn tổng quan nhất về thực trạng tranh chấp Biển Đông
hiện nay trên trường quốc tế. Mọi cách thức giải quyết đều phụ thuộc vào diễn biến
thực tế của tranh chấp. Yếu tố thực tế này khi vận dụng các giải pháp sẽ làm sáng tỏ
các hướng giải quyết tranh chấp.
Tổng kết và phân tích tất cả các vấn đề trình bày để đi kết luận được các giải
pháp mang tính khoa học nhằm vận dụng vào trong vấn đề giải quyết tranh chấp
Biển Đông, một tranh chấp đang diễn ra vô cùng phức tạp.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp lược sử,
Phương pháp biện chứng,
Phương pháp so sánh,
Phương pháp phân tích,
Phương pháp diễn dịch,
Phương pháp quy nạp.

3


3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật quốc tế về tranh chấp quốc tế và cơ chế giải
quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
Phạm vi nghiên cứu: Tranh chấp vùng Biển Đông, đặc biệt là tranh chấp giữa
Việt Nam và Trung Quốc.
4. Ý nghĩa nghiên cứu
Vai trò của nguyên tắc hòa bình trong giải quyết các tranh chấp quốc tế như
thế nào. Tranh chấp Biển Đông cần phải giải quyết, là lựa chọn để xây dựng một
môi trường hòa bình và ổn định, tiến tới thiết lập những cơ chế hợp tác trong khu
vực đối với yêu cầu phát triển kinh tế và toàn vẹn lãnh thổ.

Con đường giải quyết tranh chấp Biển Đông nên là lựa chọn của các giải
pháp pháp lý. Những giải pháp này đối với yêu cầu giải quyết tranh chấp Biển Đông
của Việt Nam là phù hợp. Kiên trì với lựa chọn này là lựa chọn hợp lý để bảo vệ lợi
ích hợp pháp trên Biển Đông.
Đối với học viên, sẽ góp phần tăng cường kiến thức về môn học Luật Quốc
tế và các môn học liên quan, cũng như các kiến thức về chính trị, xã hội. Điều này
có giá trị bổ trợ kiến thức cho định hướng nghề nghiệp trong tương lai. Bên cạnh
đó, góp một phần công sức và chính kiến của mình vào công việc nghiên cứu tranh
chấp Biển Đông của các học giả, qua đó khẳng định sự quan tâm của học viên đến
vấn đề hệ trọng của đất nước.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần: Mở đầu; Kết luận; Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
nội dung của Luận văn được chia thành 3 Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc hòa bình giải quyết
các tranh chấp quốc tế.
Chương 2. Các phương thức cơ bản giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện
pháp hòa bình.
Chương 3. Áp dụng nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp ở Biển Đông.

4


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC HÒA BÌNH
GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP QUỐC TẾ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NGUYÊN
TẮC HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUỐC TẾ
1.1.1. Khái niệm
Hiến chương Liên hợp quốc ra đời, cùng với những quy định cơ bản về
mục đích, nguyên tắc, cơ cấu tổ chức hoạt động của Liên hợp quốc, quy chế

thành viên, các cơ quan chính của Liên hợp quốc, Hiến chương cũng đã xác lập
hệ thống biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Điều 33 Hiến chương
Liên hợp quốc quy định:
Trong mỗi vụ tranh chấp nếu kéo dài có thể đe dọa sự hòa bình và
an ninh quốc tế, các đương sự phải tìm giải pháp bằng con đường đàm
phán, điều tra, trung gian hòa giải, trọng tài, bằng con đường tư pháp,
bằng việc sử dụng những cơ quan hoặc những hiệp định khu vực, hoặc
các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn.
Như vậy, theo Hiến chương Liên hợp quốc, hòa bình giải quyết các tranh
chấp quốc tế là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, là nghĩa vụ pháp lý của tất
cả các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế.
Về phương diện khoa học luật quốc tế, hòa bình giải quyết tranh chấp quốc
tế là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt
buộc chung đối với mọi chủ thể của luật quốc tế trong giải quyết các tranh chấp
quốc tế, bao gồm những cơ chế, biện pháp hoặc phương thức được các chủ thể luật
quốc tế sử dụng nhưng không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
1.1.2. Đặc điểm
Căn cứ khái niệm nêu trên có thể nhận thấy, nguyên tắc hòa bình giải quyết
tranh chấp quốc tế có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế có tính

5


mệnh lệnh bắt buộc chung, được áp dụng cho mọi mối quan hệ quốc tế cũng như
đối với mọi chủ thể của Luật quốc tế. Tất cả các chủ thể của Luật quốc tế đều phải
tuân thủ triệt để nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế và bất cứ hành vi
vi phạm nào đều là sự vi phạm nghiêm trọng Luật quốc tế.
Thứ hai, nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được xác định là
chuẩn mực, là cơ sở để xây dựng các biện pháp, cách thức giải quyết tranh chấp

quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
Thứ ba, nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế có mối quan hệ
qua lại với nhau với các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế trong một chỉnh thể
thống nhất, chỉ khi tồn tại trong sự tác động qua lại chúng mới có khả năng hoàn
thành các chức năng của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu, giải thích và áp dụng
nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế phải đặt trong mối quan hệ với
các nguyên tắc khác.
Thứ tư, nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế được ghi nhận
trong các văn kiện quốc tế trong đó đầu tiên và quan trọng nhất là Hiến chương
Liên hiệp quốc năm 1945.
1.1.3. Lịch sử hình thành nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
Ngay từ thời sơ khai, khi có tranh chấp đã có nhiều biện pháp hòa bình được
sử dụng như đàm phán, môi giới, trung gian… nhưng việc sử dụng các biện pháp
không phải là nghĩa vụ bắt buộc đối với các chủ thể vì bên cạnh đó còn tồn tại
nguyên tắc quyền chiến tranh, cho phép các chủ thể được sử dụng vũ lực như một
phương thức hiệu quả để giải quyết các tranh chấp quốc tế.
Tháng 8/1898, Vua Czar Nicholas II thuyết phục các quốc gia trên thế giới
rằng cần phải chấm dứt các hoạt động quân sự leo thang và tìm ra một cơ chế linh
động để giải quyết xung đột bằng phương thức hoà bình. Trên tinh thần đó, năm
1899, Hội nghị Hoà bình LaHay đã được nhóm họp và cho ra đời Công ước
LaHay I. Công ước Lahay I trù định việc thành lập một Toà trọng tài với mục đích
“đảm bảo chắc chắn cho tất cả mọi người một nền hoà bình thật sự lâu dài và trên
tất cả có thể ngăn chặn được sự phát triển các xung đột”. Có 26 quốc gia đã tham

6


dự Hội nghị, bao gồm các nhà lãnh đạo từ phía Đông và Bắc Mỹ, Vua Nam Tư,
Hoàng đế của Ottoman, Quốc vương Thái Lan và Trung Quốc... Công ước Lahaye
năm 1899 về hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế kêu gọi các quốc gia ngăn

ngừa việc sử dụng vũ lực thông qua sử dụng các biện pháp trung gian, hòa giải
trước khi dung vũ khí.
Hiệp ước Paris năm 1928 về khước từ chiến tranh đã tuyên bố cấm chiến tranh
xâm lược và nêu rõ trách nhiệm của các quốc gia chỉ giải quyết tranh chấp bằng
phương pháp hòa bình. Điều 2 Hiệp ước khẳng định các bên “công nhận rằng điều
chỉnh hoặc giải quyết mọi tranh chấp hoặc xung đột phát sinh với bất kỳ tính chất và
nguyên nhân nào chỉ có thể bằng các phương pháp hòa bình”. Năm 1945 Hiến
chương Liên hợp quốc ra đời đã trịnh trọng tuyên bố “Tất cả các thành viên của Liên
hợp quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hòa bình, sao cho
không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế và công lý”, khẳng định giải quyết các
tranh chấp quốc tế là một nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia.
Ngày nay với sự ra đời của nhiều tổ chức quốc tế toàn cầu và tổ chức khu
vực, nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế được ghi nhận trong
nhiều văn kiện quốc tế quan trọng như Hiến chương Liên hợp quốc, trong bản
Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị và
hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc năm 1970; trong
văn kiện bế mạc của Hội nghị an ninh và hợp tác Châu Âu năm 1975; Định ước
Henxiki năm 1975… Nguyên tắc giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế nghiêm
cấm các quốc gia sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp với nhau, một mặt xác
lập nghĩa vụ của các bên trong tranh chấp giải quyết bằng các biện pháp hòa bình,
mặt khác cũng quy định các bên tham gia vào tranh chấp có quyền lựa chọn các
biện pháp hòa bình thích hợp để giải quyết. Pháp luật quốc tế không quy định một
công thức giải quyết bắt buộc, cứng nhắc cho mỗi loại hình tranh chấp nhất định,
việc sử dụng một phương thức cụ thể nào hoàn toàn do các bên liên quan thỏa thuận
lựa chọn, chỉ với điều kiện đó phải là những biện pháp hòa bình. Tại Điều 33 Khoản
2 Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định cụ thể các biện pháp hòa bình mà các
bên tranh chấp có thể lựa chọn như: đàm phán, trung gian, hòa giải, trọng tài, bằng

7



con đường tài phán pháp, sử dụng những cơ quan hoặc những hiệp định khu vực,
hay các biện pháp hòa bình khác do họ lựa chọn. Hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế là nghĩa vụ bắt buộc đối với mọi quốc gia, cần phải nỗ lực giải quyết tranh
chấp một cách nhanh chóng và công bằng nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, phương pháp đàm phán là phương pháp thường được các quốc
gia sử dụng để giải quyết các tranh chấp hoặc bất đồng, đây là phương pháp tốt để
giải quyết nhanh chóng tranh chấp quốc tế, bảo đảm quyền bình đẳng của các bên,
dễ đi đến thỏa thuận nhượng bộ lẫn nhau. Ngoài ra, biện pháp thông qua tổ chức
quốc tế, tổ chức khu vực để giải quyết tranh chấp cũng được cộng đồng quốc tế
quan tâm trong những năm gần đây như WTO, EU, ASEAN.
Hành vi tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế sẽ làm hạn chế
đáng kể sự xuất hiện của những tranh chấp. Mặt khác, điều này cũng góp phần giải
quyết nhanh chóng, hiệu quả tranh chấp nếu chúng nảy sinh trong đời sống quốc tế.
Việc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình chiếm một vị trí và vai trò
hết sức quan trọng góp phần ổn định quan hệ quốc tế, duy trì và bảo vệ hòa bình, an
ninh thế giới, tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển.
1.2. PHÂN LOẠI CÁC BIỆN PHÁP HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP QUỐC TẾ
Căn cứ vào bản chất, thẩm quyền và thủ tục giải quyết tranh chấp, các biện
pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế quy định tại Điều 33 Hiến chương Liên
hợp quốc có thể được chia thanh hai nhóm cơ bản sau đây:
Nhóm 1: Các biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính ngoại giao, gồm
các biện pháp đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, giải quyết trước các tổ chức
quốc tế bằng các hiệp định khu vực, với đặc điểm cơ bản là giải quyết tranh chấp
bằng đối thoại, thương lượng thông qua các diễn đàn, Hội nghị quốc tế do các bên
tranh chấp hoặc bên thứ ba tổ chức (có thể là các tổ chức quốc tế liên chính phủ như
ASEAN, Liên minh châu Âu- EU, Liên minh châu Phi-AU hoặc các quốc gia
khác…) kết quả giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp ngoại giao thường là các
nghị quyết, khuyến cáo của các tổ chức quốc tế hoặc các cam kết và các điều ước

quốc tế được các bên tranh chấp ký kết.

8


Nhóm 2: Các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán (Tòa án công lý
quốc tế và Trọng tài quốc tế) với đặc điểm cơ bản là giải quyết tranh chấp theo trình
tự, thủ tục tố tụng tư pháp thông qua hoạt động xét xử với kết quả giải quyết tranh
chấp là các phán quyết của Toàn án quốc tế hoặc Trọng tài quốc tế có giá trị chung
thẩm, bắt buộc các bên liên quan phải tuân thủ và thực hiện.
* Các biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính ngoại giao
- Biện phán đàm phán
Có thể nói rằng, đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế thực chất là diễn đàn
ngoại giao do các bên tranh chấp hoặc bên thứ ba tổ chức để các bên tranh chấp
thương lượng, thỏa thuận tìm kiếm giải quyết hòa bình các tranh chấp có liên quan.
Thực tiễn quan hệ quốc tế tồn tại nhiều loại hình đàm phán quốc tế như tư
vấn, tham vấn, tham khảo ý kiến, trao đổi ý kiến, hội nghị. Luật quốc tế không quy
định quy tắc tiến hành đàm phán, giải quyết tranh chấp mà tất cả các vấn đề liên
quan đến đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế sẽ do các quốc gia là các bên tranh
chấp chủ động xây dựng hoặc dựa vào sự tư vấn, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế
hoặc các quốc gia khác.
Mục đính, thành phần, cấp tham gia cũng như hình thức của đàm phán do
chính các quốc gia hữu quan thỏa thuận với nhau. Tuy nhiên, việc tiến hành đàm
phán, kết quả của đàm phán phải hoàn toàn theo nguyên tắc bình đẳng giữa các
quốc gia, không dùng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực, không can thiệp vào công
việc nội bộ của các nước. Đàm phán có thể được tiến hành theo mô hình đàm phán
song phương, có thể trực tiếp hoặc thông qua việc trao đổi công hàm.
Đàm phán có thể diễn ra ở cấp các Nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu
chính phủ, đại diện toàn quyền của các nhà nước hoặc thong qua các Hội nghị ngoại
giao, các cơ quan đại diện ngoại giao của các quốc gia ở nước ngoài… Trong đó,

các cuộc đàm phán cấp cao thường thảo luận các vấn đề cơ bản làm phát sinh tranh
chấp giữa các quốc gia hữu quan và có vai trò quyết định. Kết quả đàm phán trực
tiếp phụ thuộc rất nhiều vào uy tín, trình độ, kiến thức chuyên môn sâu rộng và
uyên bác của những người thay mặt các quốc gia tham gia đàm phán. Đàm phán

9


giải quyết tranh chấp quốc tế thường kết thúc bằng việc các bên tranh chấp sẽ ký kết
một trong các loại văn kiện quốc tế như Bản ghi nhớ (l‟aide mesmoire), Nghị quyết
(la resvolution, la descision); Hiệp ước, Hiệp định (le traité depaix, l‟accord)…
Có thể khẳng định rằng, đàm phán quốc tế trong giải quyết tranh chấp quốc
tế là một biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế lâu đời, được áp dụng
phổ biến và hiệu quả nhất. Bởi lẽ, đàm phán là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để
các bên tranh chấp trực tiếp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn
đề tranh chấp cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết.
Mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng đàm phán trực tiếp sẽ hạn chế được
sự can thiệp từ bên ngoài, có khả năng làm phức tạp thêm vụ việc tranh chấp.
Đàm phán có thể được áp dụng là biện pháp khởi đầu và cũng có thể là biện pháp
sau cùng để các bên giải quyết tranh chấp sau khi các bên đã giải quyết bằng các
biện pháp khác.
Thực tiến các tranh chấp mà Việt Nam là một bên liên quan, từ trước đến nay,
chúng ta luôn xác định đàm phán là biện pháp được áp dụng đối với mọi tranh chấp
về biên giới lãnh thổ. Từ khi chưa gia nhập ASEAN, Việt Nam đã tuyên bố ủng hộ
Tuyên bố của các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao các nước ASEAN ngày 18/3/1995. Trong
tuyên bố của mình, Việt Nam khẳng định: “mọi tranh chấp chủ quyền đối với các
quần đảo ngoài biển Đông cần phải được giải quyết thong qua thương lượng hòa
bình; kêu gọi các bên liên quan kiềm chế, cam kết không sử dụng hoặc đe dọa sử
dụng vũ lực”. Đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc, Việt Nam luôn thể hiện lập
trường thông qua thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới,

lãnh thổ giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
ngày 19/10/1993 tại Hà Nội, với những nguyên tắc cơ bản sau:
- Thông qua thương lượng giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới lãnh thổ
giữa hai nước trên cơ sở năm nguyên tắc: tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau; không xâm phạm lẫn nhau; không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau; bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hòa bình.
- Hai bên căn cứ vào tiêu chuẩn và nguyên tắc luật pháp quốc tế được công
nhận và tham khảo thực tiễn quốc tế để giải quyết các vấn đề biên giới, lãnh thổ.

10


- Hai bên đồng ý đẩy nhanh tiến trình đàm phán, sớm giải quyết những vấn
đề biên giới, lãnh thổ bao gồm trên biển và trên bộ… trong quá trình đàm phán giải
quyết vần đề, hai bên đều không tiến hành các hoạt động làm phức tạp thêm tranh
chấp, không dùng vũ lực hoặc đe dọa vũ lực.
Với tinh thần đó, đến nay Việt Nam và Trung Quốc đã giải quyết xong vấn
đề lãnh thổ, biên giới trên đất liền bằng Hiệp ước biên giới trên đất liền ngày
30/12/1999 và phân định vịnh Bắc Bộ bằng Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và
hợp tác nghề cá ngày 26/12/2000.
- Biện pháp môi giới
Môi giới là biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế không được đề
cập cụ thể trong Điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc nhưng được áp dụng rất nhiều
lần trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế. Theo đó, các cá nhân có uy tín lớn
trong quan hệ quốc tế như Nguyên thủ, cựu Nguyên thủ quốc gia, Tổng thư ký hoặc
nguyên Tổng thư ký Liên hợp quốc hoặc những người đứng đầu các tổ chức quốc tế
liên chính phủ khác tự nguyện hoặc được các bên tranh chấp đề nghị đứng ra thuyết
phục các bên tranh chấp gặp gỡ, tiếp xúc để giải quyết tranh chấp. Ví dụ, vai trò
môi giới của Tổng thư ký Liên hợp quốc trong vấn đề Trung Đông những năm 1973
- 1974; vai trò của Liên Xô làm môi giới cho Ấn Độ và Pakixtan gặp nhau để đàm

phán giải quyết tranh chấp tại Tátxken nhằm chấm dứt xung đột giữa hai nước; hoặc
trong cuộc chiến tranh giữa Nga và Ucraina tháng 8/2008, Tổng thống Pháp Nicola
Sarkosy đã tự nguyện đứng ra làm môi giới đồng thời làm trung gian hòa giải giữa
hai nước để chấm dứt cuộc chiến tranh này.
- Biện pháp trung gian hòa giải
Trung gian hòa giải là một trong những biện pháp hòa bình giải quyết tranh
chấp quốc tế có sự tham gia của bên thứ ba nhằm giúp các bên tranh chấp giải quyết
có hiệu quả các tranh chấp giữa họ với nhau. Bên trung gian hòa giải có thể là các
quốc gia, các tổ chức quốc tế hoặc cá nhân có uy tín lớn trên trường quốc tế làm
trung gian hòa giải với sự tự nguyện hoặc do một trong các bên tranh chấp đề nghị.
Cùng với biện pháp môi giới, biện pháp trung gian hòa giải đã được đề cập

11


trong Công ước La Haye 1899 và Công ước bổ sung La Haye 1907. Theo đó, các
quốc gia là các bên ký kết có quyền đề nghị môi giới hoặc trung gian hòa giải ngay cả
trong thời kỳ chiến tranh. Công ước cũng buộc các bên tranh chấp, trong trường hợp
có thể, phải áp dụng biện pháp môi giới, trung gian hòa giải trước khi sử dụng vũ lực.
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có rất nhiều vụ tranh chấp đã được giải
quyết với sự đóng góp rất lớn của bên trung gian hòa giải, điển hình như nhóm “Bộ
tứ” bảo trợ cho tiến trình hòa bình Trung Đông gồm Liên hợp quốc, Liên minh châu
Âu, Cộng hòa Liên bang Nga và Mỹ; hoặc năm 1963-1964 tranh chấp lãnh thổ biên
giới giữa Angiêri với Ma Rốc, các nước láng riềng là Ma Li và Êtiôpia là hai quốc
gia làm trung gian hòa giải để giải quyết tranh chấp này. Đồng thời, tiếp đó hai quốc
gia này còn đóng vai trò là quan sát viên giám sát việc ngừng bắn giữa hai nước
Angiêri và Ma Rốc; hoặc cuộc khủng hoảng vùng vịnh caribe năm 1962 giữa Mỹ và
Liên Xô có khả năng đe dọa an ninh cho Cuba, và thế giới, Liên Xa đã đề nghị
Tổng thư ký Liên hợp quốc lúc bấy giờ là ông U Than người Myanma đóng vai trò
trung gian hòa giải, kết quả là vụ việc đã được Mỹ và Liên Xô giải quyết một cách

hòa bình, nguy cơ xung đột, chiến tranh hạt nhân đã được tháo gỡ kịp thời.
Về bản chất, bên trung gian hòa giả thực chất là bên đứng ra hòa giải, vì vậy
họ không có thầm quyền quyết định các biện pháp giải quyết tranh chấp. Mặt khác,
những giải pháp do bên trung gian hòa giải đưa ra chỉ có giá trị tham khảo, không
mang tính chất bắt buộc vè bên trung gian hòa giải không phải là cơ quan tài phán
quốc tế có thầm quyền giải quyết tranh chấp của các quốc gia.
Thực tế, bên trung gian hòa giải có thể đóng vai trò là nước chủ nhà để các
bên tranh chấp tổ chức hội nghị. Ví dụ, năm 1982, tại trại David, Mỹ đã làm trung
gian hòa giải cho Ixraen và Ai Cập giải quyết tranh chấp về bán đảo Sinai mà Ixraen
đã chiếm đóng của Ai Cập trong cộc chiến tranh sáu ngày năm 1967. Theo đó,
Ixraen đã cam kết trả lại bán đảo Sinai cho Ai Cập với điều kiện Ai Cập cũng phải
cam kết phi quân sự hóa của bán đảo này. Hoặc từ năm 1968 đến năm 1973, Cộng
hòa Pháp là quốc gia chủ nhà của Hội nghị Pari giữa các bên liên quan trong cuộc
chiến tranh Việt Nam gồm Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ cách mạng lâm

12


thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa và Mỹ đàm phán chấm
dứt chiến tranh, lập lại hòa bình tại Việt Nam (Hội nghị Pari ngày 27/1/1973).
Bên trung gian hòa giải đóng vai trò chủ tọa trong các cuộc đàm phán, đưa ra
giải pháp giúp các bên lựa chọn giải quyết tranh chấp. Thế nhưng, dù với tư cách
nào, bên trung gian hòa giải cũng phải tuân thủ vai trò trung gian hòa giải của mình,
không thiên vị bất cứ bên nào trong vụ tranh chấp cũng như không được lợi dụng để
can thiệp vào vụ tranh chấp.
- Biện pháp thành lập các ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế
Thực tiễn quan hệ quốc tế, từ đầu thế kỷ XX đến nay, các quốc gia đã bắt
đầu sử dụng rộng rãi các ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải để giải quyết tranh chấp
quốc tế. Cụ thể, vào năm 1904, Anh và Nga đã thành lập ủy ban điều tra gồm đại
diện của Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Áo để điều tra về việc Anh cho rằng hải quân của

Nga đã bắn chết một số ngư dân của họ. Sau khi xem xét toàn bộ hồ sơ, chứng cứ,
ủy ban điều tra đã đi đến kết luận, hải quan của Nga đã bắn vào tàu thuyền đánh cá
của ngư dân Anh và cuối cùng phía Nam Nga đã chấp nhận kết luận điều tra nói
trên và hợp tác cùng với Anh để giải quyết vụ việc. Hoặc từ ngày 9 đến ngày
14/8/1990, theo đề xuất của Tổng thư ký Liên hợp quốc, Hội nghị quốc tế Pari đã
nhất trí cử phái đoàn tìm hiểu tình hình Campuchia mà thực chất đây chính là ủy
ban điều tra. Hoặc để giải quyết tranh chấp về đảo Jan Mayen giữa Axiơlen và Na
Uy, hai bên tranh chấp đã thỏa thuận thành lập ủy ban hòa giải. Trên cơ sở tính đến
quyền lợi kinh tế của các bên ủy ban này đã tìm hiểu tình hình và đề xuất giải pháp
thành lập khu phát triển chung giữa hai nước
Về phương diện pháp lý quốc tế, các ủy ban điều tra và hòa giải quốc tế là
các cơ quan đặc biệt được thành lập và hoạt động trên cơ sở thỏa thuận của các bên
hữu quan để góp phần giải quyết tranh chấp quốc tế. Theo đó, các quốc gia là các
bên tranh chấp sẽ tiến hành ký kết các điều ước quốc tế để thành lập các ủy ban này.
Về nguyên tắc, số lượng thành viên của các ủy ban điều tra và hòa giải luôn luôn là
số lẻ, trong đó mỗi quốc gia tranh chấp sẽ cử một số lượng thành viên ngang nhau
tham gia vào các ủy ban này, sau đó các ủy viên được chọn sẽ tiến hành lựa chọn và

13


mời một số công dân của nước thứ ba làm Chủ tịch ủy ban để đảm bảo tính khách
quan trong việc ra các quyết định liên quan.
Nhiệm vụ của ủy ban điều tra hẹp hơn so với nhiệm vụ của ủy ban hòa giải.
Cụ thể, ủy ban có nhiệm vụ chủ yếu là điều tra, tìm kiếm, xác minh, thu thập tất cả
các thông tin, nhằm xác định và làm sáng tỏ có yếu tố, tình tiết, sự kiện tạo nên
tranh chấp. Trong khi đó, ủy ban hòa giải lại có nhiệm vụ đưa ra các dự thảo nghị
quyết hoặc những kết luận để phân tích, trình bày với các bên tranh chấp. Để giúp
các ủy ban điều tra hỏa giải hoạt động có hiệu quả, các bên tranh chấp có nhiệm vụ
tạo điều kiện thuận lợi và cung cấp tài liệu cần thiết cho các ủy ban này hoàn thành

nhiệm vụ của mình. Tuy vậy, các quyết định, kết luận của ủy ban điều tra và ủy ban
hòa giải không có tính bắt buộc đối với các bên tranh chấp.
* Các biện pháp giải quyết tranh chấp bằng tài phán
- Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án quốc tế
Có thể nói rằng, trong pháp luật quốc gia cũng như pháp luật quốc tế, biện
pháp giải quyết tranh chấp mang tính pháp lý cao, áp dụng theo trình tự, thủ tục tố
tụng tư pháp có hiệu quả nhất là giải quyết tại Tòa án.
Quá trình tồn tại và phát triển của hệ thống pháp luật quốc tế từ thập niên 20
của thế kỷ XX đến nay, một trong những Tòa án quốc tế điển hình có thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp quốc tế là Tòa Pháp viện thường trực quốc tế được Hội
quốc liên thành lập và hoạt động theo quy định của Hiến ước Hội quốc liên từ năm
1921. Kế thừa Tòa Pháp viện thường trực quốc tế, Tòa án công lý quốc tế của Liên
hợp quốc là cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia, được
thành lập và hoạt động trên cơ sở Hiến chương Liên hợp quốc và Quy chế Tòa án
công lý quốc tế. Tòa án này có thẩm quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh giữa
các quốc gia kể cả các quốc gia không phải là thành viên của Liên hợp quốc nếu các
quốc gia này chấp nhận thẩm quyền và giá trị phán quyết của Tòa án.
Về tổ chức quốc tế khu vực, hiện nay chỉ có Tòa án công lý của Liên minh
châu Âu được thành lập theo các hiệp ước thành lập Liên minh châu Âu (như Hiệp
ước Maastricht năm 1992, Hiệp ước Amsterdam năm 1977, Hiệp ước Nice năm

14


2001) là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành
viên châu Âu và các tranh chấp khác trong nội bộ cộng đồng châu Âu.
Đối với các tranh chấp quốc tế về biển, Công ước quốc tế của Liên hợp quốc
về Luật biển quốc tế năm 1982 đã thành lập nên Tòa án quốc tế về Luật biển và hoạt
động theo Phụ lục VI. Tòa án quốc tế về Luật biển có thẩm quyền các tranh chấp
phát sinh trong quá trình giải thích và thực hiện Công ước 1982

Đặc điểm chung của biện pháp giải quyết tranh chấp tại các Tòa án quốc tế là
tranh chấp được giải quyết theo trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp rất chặt chẽ và
chính xác bằng hoạt động xét xử;
Kết quả của việc giải quyết tranh chấp bằng Tòa án quốc tế thể hiện bằng các
phán quyết của Tòa án (bản án và quyết định) có giá trị chung thẩm và bắt buộc các
bên liên quan tuân thủ và thực hiện;
Phán quyết của Tòa án quốc tế thường bảo đảm tính công bằng và khách
quan. Tranh chấp quốc tế thường được giải quyết triệt để;
Cơ chế thực thi tuân thủ các phán quyết của Tòa án quốc tế cao hơn các biện
pháp khác vì các phán quyết của Tòa án thường đảm bảo thực hiện bằng các cơ
quan có thẩm quyền của tổ chức quốc tế thành lập nên nó. Ví dụ, phán quyết của
Tòa án công lý quốc tế sẽ được đảm bảo thực hiện bằng sự can thiệp của Hội đồng
bảo an Liên hợp quốc nếu một bên không thực thi, tuân thủ phán quyết của Tòa này.
Tuy nhiên, giải quyết tranh chấp quốc tế tại Tòa án quốc tế cũng có một vài
hạn chế như thời gian giải quyết một vụ tranh chấp thường kéo dài, quy trình tố
tụng cứng nhắc, tính chủ động của các quốc gia tại Tòa án không cao. Mặt khác,
Tòa án thường xét xử công khai nên khổng bảo đảm được bí mật cho các bên tranh
chấp đặc biệt là bên thua kiện. Chính vì vậy, thực tiễn không có nhiều các vụ tranh
chấp giữa các quốc gia được giải quyết tại các Tòa án quốc tế.
- Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế
Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế là phương thức giải quyết tranh
chấp quốc tế theo đó, các quốc gia là các bên tranh chấp sẽ thỏa thuận trao cho một hoặc
một số cá nhân (Trọng tài viên) thẩm quyền giải quyết các tranh chấp có liên quan.

15


Trong thực tiễn quan hệ quốc tế và giải quyết tranh chấp quốc tế, hình mẫu
Trọng tài hiện đại được ghi nhận lần đầu tiên là Tòa trọng tài quốc tế được thành lập
theo Hiệp ước JAY (Hiệp định hữu nghị về thương mại và hàng hải) giữa Anh và

Mỹ, ký ngày 19/11/1974 để giải quyết các vấn đề liên quan giữa hai nước sau cuộc
chiến tranh giành độc lập của nước Mỹ. Theo hiệp định này, Hội đồng trọng tài
được thành lập gồm 3 thành viên nhằm xác định đường biên giới trên song Sainte
Croix, và xem xét những kiến nghị của từng quốc gia phát sinh trong thời kỳ chiến
tranh giành độc lập của Mỹ. Từ đó đến nay, có rất nhiều Tòa trọng tài được thành
lập để giải quyết tranh chấp như Trọng tài hành chính của tổ chức lao động thế giới,
Trọng tài hành chính của ngân hàng thế giới, Trọng tài về Li Bi, Tòa trọng tài Luật
biển, Trọng tài về truy cứu trách nhiệm về tội ác chiến tranh ở Ruanda; Tòa trọng
tài thường trực La Haye…
Nghiên cứu mô hình tổ chức hoạt động, thẩm quyền của các Trọng tài quốc
tế, có thể phân loại Trọng tài quốc tế thành các loại sau đây:
Thứ nhất, căn cứ vào số lượng trọng tài viên, Trọng tài quốc tế được phân
thành Trọng tài cá nhân và trọng tài tập thể hay còn gọi là Hội đồng trọng tài (từ 3
thành viên trở lên).
Thứ hai, căn cứ vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp, Trọng tài quốc tế
được phân thành Trọng tài có thẩm quyền chung như Trọng tài thường trực quốc tế
La Haye và Trọng tài có thẩm quyền chuyên môn như Trọng tài về Luật biển, Trọng
tài của tổ chức thương mại thế giới WTO…
Thứ ba, Căn cứ vào tính chất hoạt động, Trọng tài quốc tế được phân thành
Trọng tài vụ việc (Ad Hoc) và Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế).
Tuy nhiên, so với Tòa án công lý quốc tế học viên cho rằng, Trọng tài quốc
tế không tạo ra một thực tiễn xét xử ổn định như Tòa án công lý quốc tế vì nó chỉ
được thành lập ra hoặc thừa nhận để giải quyết các vụ việc cụ thể theo sự thỏa thuận
của các bên tranh chấp. Trọng tài quốc tế không có chức năng đưa ra kết luận tư vấn
pháp lý và chi phí Trọng tài do các bên tranh chấp gánh chịu.
Về thẩm quyền, cũng giống như Tòa án công lý quốc tế, trọng tài quốc tế

16



không có thẩm quyền đương nhiên giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Chính vì
vậy, các quốc gia là các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận xây dựng thủ tục Trọng
tài để giải quyết tranh chấp bằng việc ký kết các điều ước quốc tế song phương hoặc
đa phương về Trọng tài (compromise d‟arbitrage obligatoire) hoặc các điều khoản về
Trọng tài (clauses compromissoires). Nội dung các điều ước quốc tế hoặc các điều
khoản về thành lập trọng tài Ad Hoc phải chứa đựng các nội dung cơ bản sau:
+ Các bên tranh chấp;
+ Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài;
+ Đối tượng tranh chấp;
+ Trình tự, thủ tục tố tụng giải quyết tranh chấp;
+ Nguồn luật áp dụng giải quyết tranh chấp;
+ Phương thức thi hành phán quyết của Trọng tài.
Cũng như Tòa án công lý quốc tế, phán quyết của Trọng tài có giá trị chung
thẩm,bắt buộc thi hành đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, phán quyết của Trọng
tài có thể được xem xét lại khi có những tình tiết, điều kiện mới làm ảnh hưởng đến
nội dung của phán quyết mà trước đó Tòa trọng tài chưa biết đến.
Mặt khác, phán quyết Trọng tài sẽ bị coi là vô hiệu nếu điều ước quốc tế hoặc
điều khoản về Trọng tài mà các bên ký kết vô hiệu hoặc Trọng tài giải quyết vượt quá
thẩm quyền được các bên thỏa thuận hoặc thành viên hội đồng Trọng tài bị mua
chuộc hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc, Trọng tài đã vi phạm thủ tục tố tụng.
Qua nghiên cứu biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế bằng trọng tài quốc
tế chúng ta có thể rút ra một số ưu điểm và hạn chế sau đây:
Về ưu điểm, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng Trọng tài quốc tế là biện
pháp giải quyết tranh chấp linh hoạt và mềm dẻo. Bởi lẽ, biện pháp này cho phép
các bên tranh chấp có quyền lựa chọn trọng tài viên, thỏa thuận xây dựng quy chế
trọng tài và các vấn đề liên quan khác trong quá trình chấp nhận giải quyết tranh
chấp bằng Trọng tài quốc tế (đặc biệt là Trọng tài Ad Hoc)
Mặt khác, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quốc tế sẽ tiết kiệm thời gian
và chi phí cho các bên tranh chấp. Thời gian giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài


17


nhanh hơn so với Tòa án quốc tế nên sẽ tránh được những tác động chủ quan và
khách quan từ bên ngoài. Với cơ chế “giải quyết bí mật”, Trọng tài quốc tế sẽ giữ
được bí mật cho các bên tranh chấp. Do đó, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài
quốc tế sẽ bảo đảm được danh dự và uy tín của các bên tranh chấp (đặc biệt là các
bên thua kiện)
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật nói trên, biện pháp giải quyết tranh chấp
quốc tế bằng Trọng tài cũng có điểm hạn chế về cơ chế đảm bảo thực thi, tuân thủ
phán quyết của Trọng tài không mạnh như cơ chế thực thi, tuân thủ phán quyết của
Tòa án công lý quốc tế. Thực tế cho thấy, việc thực thi, tuân thủ phán quyết của
trọng tài quốc tế hoàn toàn tùy thuộc vào sự tận tâm, thiện chí của các bên tranh
chấp. Bởi lẽ, trọng tài quốc tế không phải là cơ quan tư pháp của Liên hợp quốc nên
Hội đồng bảo an Liên hợp quốc sẽ không thể bảo đảm việc thực thi các phán quyết
của Trọng tài quốc tế, đặc biệt là các phán quyết của các Trọng tài Ad Hoc.
1.3. VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT HÒA BÌNH CÁC
TRANH CHẤP QUỐC TẾ
Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế có giá trị bắt buộc chung, chúng
thực hiện hai chức năng quan trọng là ổn định quan hệ quốc tế và ấn định khuôn
khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc tế, qua đó tạo điều kiện cho quan
hệ quốc tế phát triển. Trong các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế, nguyên tắc
hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện ở
một số nội dung sau:
Thứ nhất, đây là cơ sở để xây dựng các quy phạm pháp luật về hòa bình giải
quyết tranh chấp quốc tế.
Thứ hai, là nguyên tắc khái quát hóa, cơ sở để giải quyết các xung đột, mâu
thuẫn về lợi ích của các chủ thể luật quốc tế, nhằm ổn định các quan hệ quốc tế và
duy trì hòa bình, an ninh quốc tế.
Thứ ba, nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là vũ khí pháp lý

để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể, nhất là các quốc gia đang phát triển khi tham
gia quan hệ pháp lý quốc tế.

18


×