Tải bản đầy đủ (.doc) (134 trang)

Nghiên cứu các mối liên kết chủ yếu trong nuôi, chế biến và tiêu thụ tôm ở huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 134 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Với lợi thế là quốc gia biển, Việt Nam có chiều dài bờ biển hơn 3.260
km. Tổng diện tích vùng nội thuỷ và lãnh hải rộng 226 nghìn km 2, diện tích
vùng biển đặc quyền kinh tế hơn 1 triệu km 2, gấp 3 lần diện tích đất liền.
Ngoài ra trong vùng biển có 4 nghìn hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có những đảo
lớn có dân cư như Vân Đồn, Cát Bà, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc…, có
nhiều vịnh, vũng, eo ngách, các dòng hải lưu, vừa là ngư trường khai thác hải
sản thuận lợi, vừa là nơi có nhiều điều kiện tự nhiên để phát triển nuôi trồng
và xây dựng các khu căn cứ hậu cần nghề cá. Bên cạnh điều kiện tự nhiên
vùng biển, Việt Nam còn có nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt ở trong 2.860 con
sông lớn nhỏ, nhiều triệu héc ta đất ngập nước, ao hồ, ruộng trũng, rừng ngập
mặn, đặc biệt là ở lưu vực sông Hồng và sông Cửu Long v.v… Như vậy có
thể nói đây là nơi có đủ các điều kiện tạo nên thế mạnh cho phát triển ngành
kinh tế thủy sản [4].
Hội nhập WTO đã tạo ra cho ngành thủy sản có nhiều cơ hội về thị trường,
lợi thế cạnh tranh... Tuy nhiên một thực tế là hội nhập cũng nảy sinh nhiều
thách thức đối với thủy sản Việt Nam, đó là sự cạnh tranh khốc liệt về giá cả,
chất lượng sản phẩm, thị trường với những quy định ngặt nghèo mới. Do đó
tăng cường hợp tác liên kết để hỗ trợ, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường
là một xu thế tất yếu.
Huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh có nhiều thế mạnh về tự nhiên để phát
triển nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở cả vùng nước mặn, nước lợ và nước ngọt,
đặc biệt là phù hợp cho phát triển nuôi tôm. Tính đến thời điểm năm 2008
huyện Yên Hưng có diện tích nuôi tôm đạt 6.330,6 ha, chiếm 60,05% diện
tích nuôi của tỉnh, trong khi sản lượng đạt 21.252 tạ chỉ bằng 30,36%. Tuy

1


nhiên một thực tế cho thấy ngành nuôi trồng thủy sản ở Yên Hưng vẫn còn


chưa phát triển đúng với tiềm năng, mà nguyên nhân là do vấn đề về vốn, tiếp
cận thông tin, áp dụng khoa học kỹ thuật của hộ nuôi trồng, chế biến và tiêu
thụ còn nhiều hạn chế, giá bán không ổn định, chất lượng chưa cao, cách thức
làm ăn còn đơn giản. Các hộ nông dân tự đắp đê, đập, xây cống đầm, lấy
nước vào đầm theo thủy triều, nguồn giống dựa vào tự nhiên, thức ăn có sẵn
trong môi trường nước[9]… Một hạn chế được cho là quan trọng trong phát
triển NTTS là các mối quan hệ liên kết giữa hộ nông dân nuôi trồng với các
công ty chế biến, tiêu thụ chưa hiệu quả, các mối quan hệ liên kết giữa doanh
nghiệp với hộ sản xuất không bền vững, ràng buộc và trách nhiệm giữa các
bên tham gia liên kết chưa được rõ ràng, còn khó hiểu dẫn đến tình trạng phá
vỡ hợp đồng, thiếu nguyên liệu… Bên cạnh đó, là vai trò của Nhà nước, chính
quyền địa phương và các nhà khoa học chưa thật sự rõ nét trong quá trình sản
xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Việc tìm hiểu và nghiên cứu sự hợp tác,
các mối quan hệ liên kết cũng là một trong những biện pháp góp phần giải quyết
các hạn chế trên.
Xuất phát từ những nhận định trên, tôi lựa chọn chuyên đề “Nghiên cứu
các mối liên kết chủ yếu trong nuôi, chế biến và tiêu thụ tôm ở huyện Yên
Hưng tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài thực tập tốt nghiệp của mình.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Từ việc phân tích đánh giá các mối liên kết trong nuôi, chế biến
và tiêu thụ tôm ở huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh, đề xuất các giải pháp
phát triển tốt các mối liên kết đó.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về liên
kết trong nuôi, chế biến và tiêu thụ tôm.

2



- Đánh giá thực trạng liên kết trong nuôi, chế biến và tiêu thụ tôm qua 3
năm 2006 - 2008 ở Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến đến sự phát triển mối quan hệ
liên kết nuôi, chế biến và tiêu thụ tôm ở huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển các mối quan hệ liên kết trong
nuôi, chế biến và tiêu thụ sản phẩm tôm của huyện thời gian tới.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Các vấn đề lý luận, thực tiễn về các mối quan hệ liên kết trong phát
triển nuôi, chế biến và tiêu thụ, với chủ thể là các hộ nuôi tôm, các công
ty chế biến và các hộ thu gom tôm trên địa bàn huyện Yên Hưng, tỉnh
Quảng Ninh.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu lý luận, thực trạng, yếu tố ảnh hưởng và
giải pháp để phát triển các mối quan hệ liên kết trong nuôi, chế biến và tiêu
thụ tôm.
Về không gian: Đề tài chỉ đi vào nghiên cứu tại các hộ nuôi, cơ sở chế
biến và thu gom tôm có quy mô tương đối lớn (không tìm hiểu tình hình sản
xuất ở các cơ sở, hộ nuôi tôm nhỏ lẻ). Đề tài được thực hiện trên địa bàn
huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh.
Về thời gian: Đề tài nghiên cứu một số nội dung trong thời gian từ năm
2006 - 2008, tập trung nghiên cứu khảo sát năm 2008, phần phương hướng
đến năm 2015.

3


2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ THỰC TIỄN VỀ
LIÊN KẾT KINH TẾ TRONG NUÔI, CHẾ BIẾN VÀ
TIÊU THỤ TÔM

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về liên kết kinh tế trong nuôi, chế biến
và tiêu thụ tôm
2.1.1.1 Một số khái niệm

 Các khái niệm về liên kết
Liên kết (tiếng Anh là “integration”) trong hệ
thống thuật ngữ kinh tế nó có nghĩa là sự hợp nhất, sự phối hợp hay sáp nhập
của nhiều bộ phận thành một chỉnh thể. Trước đây khái niệm này được biết
đến với tên gọi là nhất thể hoá và gần đây mới gọi là liên kết. Sau đây là một
số quan điểm về liên kết kinh tế:
♦ Trong Từ điển Kinh tế học hiện đại (David. W. Pearce) cho rằng
liên kết kinh tế chỉ tình huống khi mà các khu vực khác nhau của một nền
kinh tế thường là khu vực công nghiệp và nông nghiệp hoạt động phối hợp
với nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau, là một yếu tố của quá
trình phát triển. Điều kiện này thường đi kèm với sự tăng trưởng bền vững[3].
♦ Trong các văn bản của Nhà nước mà cụ thể là trong quy định ban
hành theo Quyết định số 38-HĐBT ra ngày 10/04/1989 thì liên kết kinh tế là
những hình thức phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tiến hành để cùng
nhau bàn bạc và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc
sản xuất kinh doanh của mình nhằm thúc đẩy sản xuất theo hướng có lợi nhất.
Sau khi bàn bạc thống nhất, các đơn vị thành viên trong tổ chức liên kết kinh tế
cùng nhau ký hợp đồng về những vấn đề có liên quan đến phần hoạt động của
mình để thực hiện[7].

4


♦ Theo ThS. Hồ Quế Hậu thì Liên kết
kinh tế trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế là sự chủ động nhận thức

và thực hiện mối liên hệ kinh tế khách quan giữa các chủ thể kinh tế trong nền
kinh tế xã hội, nhằm thực hiện mối quan hệ phân công và hợp tác lao động để
đạt tới lợi ích kinh tế xã hội chung[6].
♦ Tổng hợp những khái niệm trên có thể kết tóm lược “Liên kết kinh tế là
các quan hệ kinh tế giữa hai hay nhiều chủ thể kinh tế với mục đích đạt được
lợi ích kinh tế xã hội của các bên, dựa trên những hợp đồng đã ký kết với
những thoả thuận nhất định, những giấy tờ bằng chứng có tính ràng buộc bằng
pháp luật, những cam kết trong hoạt động sản xuất kinh doanh”.

 Phương thức liên kết kinh tế
Liên kết theo chiều dọc (Liên kết giữa các tác nhân trong cùng một ngành
hàng mà trong đó mỗi tác nhân đảm nhận một bộ phận hoặc một số công đoạn
nào đó) là liên kết được thực hiện theo trật tự các khâu của quá trình sản xuất
kinh doanh (theo dòng vận động của sản phẩm). Kiểu liên kết theo chiều dọc
toàn diện nhất bao gồm các giai đoạn từ sản xuất, chế biến nguyên liệu đến
phân phối thành phẩm. Trong mối liên kết này, thông thường mỗi tác nhân
tham gia vừa có vai trò là khách hàng của tác nhân kề trước đó, đồng thời bán
sản phẩm cho tác nhân kế tiếp của chuỗi hàng. Kết quả của liên kết dọc là
hình thành nên chuỗi giá trị của một ngành hàng và có thể làm giảm đáng kể
chi phí vận chuyển, chi phí cho khâu trung gian[13].
Liên kết theo chiều ngang (Liên kết diễn ra giữa các tác nhân hoạt động
trong cùng một ngành) là hình thức liên kết giữa các chủ thể nhằm mục đích
làm chủ thị trường sản phẩm. Hình thức này được tổ chức dưới nhiều dạng, có
thể thông qua các hội nghề nghiệp hoặc hiệp hội, ví dụ như Hiệp hội Mía
đường… Các cơ sở liên kết với nhau là những cơ sở độc lập nhưng có quan
hệ với nhau và thông qua một bộ máy kiểm soát chung. Với hình thức liên kết

5



này có thể hạn chế được sự ép giá của các cơ sở chế biến nhờ sự làm chủ thị
trường [12].
Như vậy liên kết kinh tế có thể diễn ra trong mọi ngành sản xuất kinh
doanh, thu hút sự tham gia của tất cả các chủ thể kinh tế có nhu cầu của mọi
thành phần kinh tế và không bị giới hạn bởi phạm vi địa lý, mỗi loại hình liên
kết có những đặc điểm riêng cũng như những ưu điểm riêng của nó.

 Mục tiêu của liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế nhằm tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định thông qua các
hợp đồng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động của từng tổ chức liên kết để tiến
hành phân công sản xuất chuyên môn hoá và hiệp tác hoá, nhằm khai thác tốt
hơn tiềm năng của từng đơn vị tham gia liên kết, góp phần nâng cao sản
lượng, chất lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh tế, nâng cao thu nhập của
các bên liên kết, cũng như tăng thu ngân sách Nhà nước.
Liên kết để cùng nhau tạo thị trường chung, phân định hạn mức sản
lượng cho từng đơn vị thành viên, giá cả cho từng loại sản phẩm để bảo vệ lợi
ích kinh tế của nhau, tạo cho nhau có khoản lợi nhuận cao nhất.
Liên kết kinh tế giúp đỡ nhau về kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh và
quản lý, giúp đỡ nhau về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản
lý, công nhân kỹ thuật, cũng như thực hiện cho nhau các công việc cung ứng
vật tư, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ vận chuyển, thông tin, xử lý thông tin v.v...
Các hoạt động này được ghi thành hợp đồng kinh tế [7].

 Các nguyên tắc cơ bản của liên kết kinh tế
- Tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh: Đây chính là mục tiêu của mọi
hoạt động sản xuất của các cơ sở, việc mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi các
phương thức sản xuất của từng thành viên khi ra nhập tổ chức kinh tế hợp tác
nói riêng hay khi thiết lập các mối quan hệ với các đối tác khác phải đạt mục tiêu
hiệu quả.


6


- Tự nguyện: Việc liên kết kinh tế phải xuất phát từ nhu cầu của mỗi
thành viên, không có sự gò ép mới thực sự có hiệu quả
- Bình đẳng và công bằng trong phân phối lợi nhuận và rủi ro: nguyên
tắc này sẽ là động lực thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế [12][7].

 Nội dung liên kết kinh tế
Từ những quan điểm về liên kết, các hình thức và mục tiêu của liên kết
kinh tế cho thấy các liên kết trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các tác
nhân rất đa dạng và gồm cả liên kết dọc và liên kết ngang, đan xen lẫn nhau.
Cơ chế liên kết cũng rất đa dạng, thể hiện sự phát triển của cung cách sản xuất
từ sản xuất đơn lẻ, manh mún sang dạng hàng hoá và mức độ phức tạp của việc
cung cấp tiếp cận thị trường, cung cấp nguồn lực và công tác tổ chức quản lý
sản xuất kinh doanh và để đánh giá mức độ liên kết, mức độ quan hệ chặt chẽ
giữa các tác nhân khi tham gia liên kết nuôi, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

Hình thức liên kết kinh tế
- Liên kết theo chiều dọc
- Liên kết theo chiều ngang

Khâu liên kết


sở
A

- Vốn, cơ sở vật chất
- Tiêu thụ

- Kỹ thuật, giống, vật tư
- Cơ chế chính sách, hỗ trợ...

Cơ chế liên kết


sở
B

- Hợp đồng kinh tế
- Hợp đồng miệng
- Mua bán tự do
Sơ đồ 2.1: Các hình thức, các khâu và cơ chế liên kết
giữa các tác nhân
Sự thoả thuận hay cam kết giữa các tác nhân trong quá trình nuôi, chế

7


biến và tiêu thụ sản phẩm thể hiện sự hợp tác giúp đỡ nhau vì lợi ích chung
cho cả hai bên, dựa trên nguyên tắc tự nguyện bình đẳng và sự phát triển của
cả hai bên.
Các cam kết, thoả thuận phải có các điều kiện ưu đãi, các ưu đãi này phải
được xây dựng thông qua bàn bạc, thống nhất vì lợi ích của cả hai bên và dựa
trên các quan hệ cung cầu thị trường.
Các thoả thuận, cam kết phải thể hiện trách nhiệm của mỗi bên khi thực
hiện cam kết và các hình thức phạt nếu một bên không thực hiện đúng, đủ
theo thoả thuận, cam kết. Các mối liên kết này thể hiện thông qua các hình
thức liên kết như sau:
- Hợp đồng bằng văn bản: Theo Eaton and Shepherd (2001), hợp đồng là

sư thoả thuận giữa nông dân và các cơ sở chế biến hoặc tiêu thụ nông sản về
việc tiêu thụ sản phẩm trong tương lai và thường với mức giá đặt trước. Liên
kết theo hợp đồng là quan hệ mua bán chính thức được thiết lập giữa các tác
nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản phẩm.
Theo Michael Boland (2002) Liên kết dạng hợp đồng là hình thức một
công ty mua hàng hoá từ một nhà sản xuất với một mức giá được xác định
trước khi mua. Mối quan hệ hợp đồng giữa nhà sản xuất và nhà chế biến chỉ
sự điều chỉnh của những văn bản thoả thuận cá nhân mang tính pháp lý,
những giao dịch này có thể là giá mua bán, thị trường, chất lượng và số lượng
nguyên vật liệu đầu vào, các dịch vụ kỹ thuật, cung cấp tài chính… được thoả
thuận trước khi bán. Liên kết hợp đồng tạo ra sự linh hoạt trong việc chia sẻ
rủi ro và quyền kiểm soát giữa các chủ thể tham gia hợp đồng [33][34]
Hợp đồng được ký kết giữa các doanh nghiệp, tổ chức, ngân hàng, tín
dụng, trung tân khoa học kỹ thuật.. và hộ theo các hình thức:
+ Ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và mua lại nông sản
hàng hoá.

8


+ Bán vật tư mua lại sản phẩm
+ Trực tiếp tiêu thụ sản phẩm, thuê mướn tư vấn kỹ thuật, mua vật tư,
thiết bị, nguyên liệu đầu vào, vay vốn...
+ Liên kết sản xuất bằng việc góp vốn cổ phần, liên doanh liên kết với
các doanh nghiệp hoặc cho doanh nghiệp thuê đất, diện tích mặt nước, sau đó
hộ được sản xuất trên diện tích đó hoặc cho thuê và bán lại sản phẩm cho
doanh nghiệp tạo sự gắn kết bền vững giữa hộ và doanh nghiệp [30].
- Hợp đồng miệng (thoả thuận miệng): Là các thoả thuận không được thể
hiện bằng văn bản giữa các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện một số hoạt
động, công việc nào đó. Hợp đồng miệng cũng được hai bên thống nhất về số

lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn và địa điểm. Cơ sở của hợp đồng là niềm
tin, độ tín nhiệm, trách nhiệm cam kết thực hiện giữa các tác nhân tham gia
hợp đồng. Hợp đồng miệng thường được thực hiện giữa các tác nhân có quan
hệ thân thiết (họ hàng, anh em ruột thịt, bạn bè,…) hoặc giữa các tác nhân đã
có quá trình hợp tác, liên kết sản xuất kinh doanh với nhau mà trong suốt thời
gian hợp tác luôn thể hiện nguồn lực tài chính, khả năng tổ chức và trách
nhiệm, giữ chữ tín với các đối tác. Tuy nhiên, hợp đồng miệng thường chỉ là
các thoả thuận trên nguyên tắc về số lượng, giá cả, điều kiện giao nhận hàng.
Hợp đồng miệng cũng có thể hoặc không có đầu tư ứng trước về tiền vốn, vật
tư, cũng như các hỗ trợ giám sát kỹ thuật. So với hợp đồng văn bản thì hợp
đồng miệng lỏng lẻo và có tính chất pháp lý thấp hơn.
Tóm lại nội dung liên kết kinh tế là sự thể hiện cụ thể mối quan hệ phân
công và hợp tác lao động giữa hai chủ thể tham gia một liên kết kinh tế. Nó
qui định những hoạt động, trách nhiệm, chức năng, việc làm cụ thể về kinh tế
- kỹ thuật mà mỗi bên phải thực hiện để cùng nhau hợp tác, tạo ra thành quả
lao động chung của liên kết kinh tế. Nội dung liên kết kinh tế bao gồm: Liên
kết hợp tác trong tiêu thụ nông sản phẩm, chuyển giao tiến bộ kĩ thuật cho

9


nông dân, huy động vốn phục vụ nhiệm vụ sản xuất kinh doanh [6].

 Hình thức liên kết kinh tế
- Liên kết sản xuất: Là hình thức hợp tác giữa các chủ thể nhưng không
thay đổi tư cách pháp nhân cũng như hình thức tổ chức của từng chủ thể.
Thường thì việc liên kết chỉ thực hiện ở một số khâu hay lĩnh vực nào đó của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Ví dụ liên kết giữa nông dân trồng mía và nhà
máy đường phải có nghĩa vụ mua, bán số mía theo như hợp đồng đã ký kết dù
cho thị trường có biến động như thế nào đi nữa [12].

- Liên doanh sản xuất: Là hình thức hùn vốn giữa các bên tham gia.
Các bên tham gia hùn vốn sẽ là các thành viên của doanh nghiệp liên doanh,
có quyền hạn trong quản lý doanh nghiệp, được hưởng lợi nhuận và chịu rủi
ro theo số vốn đóng góp. Sau khi hùn vốn liên doanh, có thể có những thay
đổi sau: Thường thì dẫn đến hình thành các doanh nghiệp mới nhưng cũng có
thể không hình thành doanh nghiệp mới mà chỉ đổi mới phương thức hoạt động
của doanh nghiệp cũ [13].
- Liên hiệp hoá sản xuất: Là kiểu liên kết ở mức độ cao theo
chiều dọc, chiều ngang theo một tổ chức thống nhất. Nói cách khác, sự liên
kết này vừa làm chủ thị trường, vừa làm chủ dây chuyền sản xuất ở mức độ
cao, được thể hiện như.
+ Xí nghiệp liên hiệp ngành: Là hình thức liên kết dọc giữa hai khâu
sản xuất nguyên liệu và chế biến thành một tổ chức thống nhất hoặc liên kết
giữa sản
xuất với vận chuyển để tiêu thụ sản phẩm.
+ Liên hiệp các xí nghiệp ngành là kiểu quản lý ngành ở phạm vi
vùng hay
toàn quốc. Nó là kiểu liên kết ngang nhằm liên kết các xí nghiệp độc lập trong
toàn ngành. Các liên hiệp xí nghiệp có chức năng vừa quản lý kinh tế vừa

10


quản lý kỹ thuật. Hình thức này có tác dụng lớn trong phối hợp phát triển
ngành hay vùng và giải quyết các vấn đề mà mỗi xí nghiệp không tự giải
quyết được như quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng hay các công trình đầu
tư…[12]

 Một số phương thức NTTS
Nuôi quảng canh truyền thống: là hình thức nuôi trong đó, con giống,

thức ăn dựa hoàn toàn vào tự nhiên, không đòi hỏi kỹ thuật hay trang thiết bị.
Điều kiện tự nhiên khác nhau sẽ có những loại hải sản khác nhau, thường có
các loại hải sản như tôm sú, tôm tự nhiên, cá tự nhiên, rong câu và cua biển.
Diện tích các đầm nuôi thường rất lớn, thường trên 20 ha /đầm. Việc thay
nước cũng như thu hoạch sản phẩm là dựa vào chế độ thuỷ triều.
Nuôi quảng canh cải tiến: Là hình thức nuôi dựa trên nền tảng của mô
hình nuôi quảng canh truyền thống nhưng có bổ sung thêm giống và thức ăn.
Giống thường là tôm sú hay cua biển, tôm sú thường nuôi ở mật độ 2-3
con /m2. Việc thay nước cũng chủ yếu dựa vào chế độ thuỷ triều nhưng có thể
trang bị thêm máy bơm để chủ động trong việc điều chỉnh mức nước, do phải
đầu tư thêm trong quá trình nuôi nên diện tích các đầm nuôi thường nhỏ hơn.
Nuôi bán thâm canh: Là hình thức nuôi trồng có áp dụng các tiến bộ
của khoa học kỹ thuật trong quá trình sản xuất con giống, sản xuất thức ăn
cũng như quản lý và chăm sóc hàng ngày. Mức độ này đã bắt đầu hình thành
nuôi chuyên canh một loại hải sản nhất định. Diện tích của từng đầm nuôi
thường nhỏ, khoảng 5-10 ha/đầm. Đây là hình thức nuôi được sử dụng rộng
rãi ở Việt Nam hiện nay vì nó phù hợp với khả năng đầu tư cũng như kiến thức
nuôi của người dân.
Nuôi thâm canh hay còn gọi là
nuôi công nghiệp: Là hình thức nuôi trong đó có người chủ động hoàn toàn về
số lượng và chất lượng con giống, dùng thức ăn nhân tạo, mật độ thả giống

11


cao. Diện tích đầm nuôi thường nhỏ dưới 2 ha/đầm. Máy móc thiết bị đầy đủ,
kỹ thuật viên có trình độ và được trang bị đầy đủ các dụng cụ để quản lý.
Hình thức này đòi hỏi đầu tư lớn về vốn và kiến thức. Đây là hình thức nuôi
độc canh.
Nuôi siêu thâm canh: Là hình thức nuôi hiện đại, sử dụng một tập hợp

các máy móc và thiết bị để tạo ra cho đối tượng nuôi có những điều kiện sống
khá tối ưu. Nuôi siêu thâm canh thường có diện tích nhỏ, mật độ giống cao,
chu kỳ nuôi ngắn. Các máy móc được trang bị trong hình thức nuôi này gồm:
hệ thống làm sạch nước (có bể lọc sinh vật, tháp lọc sinh vật, tháp ôxy hoá,
thiết bị lọc nước...), hệ thống làm tăng dưỡng khí (máy phun nước và sục khí)
hệ thống chế nhiệt độ (các thiết bị điều chỉnh nhiệt độ tự động), hệ thống cung
cấp thức ăn hợp với từng giai đoạn sinh trưởng của vật nuôi [11].
2.1.1.2 Vai trò vị trí của ngành hàng tôm
- Vai trò của ngành thuỷ sản trong việc mở rộng quan hệ thương mại
quốc tế: Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về
mở rộng quan hệ thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế
giới. Năm 1996, ngành thuỷ sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước
và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến năm 2001, quan hệ này đã được mở rộng
ra 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2003 là 75 nước và vùng lãnh thổ, trong đó
sản phẩm chủ yếu là tôm xuất khẩu.
- Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành
thuỷ sản đã tạo dựng được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như
Mỹ, Nhật và các nước trong khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và
thường xuyên của ngành. Năm 2003, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào
bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc chiếm trên 75%
tổng giá trị kim ngạch, phần còn lại trải rộng ra gần 60 nước và vùng lãnh thổ.
- Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của

12


ngành thuỷ sản đã góp phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều
bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng
hơn vào khu vực và thế giới.
- Vai trò của ngành hàng tôm trong an ninh lương thực quốc gia, tạo

việc làm, xoá đói giảm nghèo: Tôm được đánh giá là nguồn cung cấp chính
đạm động vật cho người dân. Cũng giống như một số nước châu Á khác, thu
nhập tăng đã khiến người dân có xu hướng chuyển sang tiêu dùng nhiều hơn
mặt hàng tôm. Có thể nói ngành hàng tôm có đóng góp không nhỏ trong việc
bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Ngành thuỷ sản nói chung và ngành tôm nói riêng với sự phát triển
nhanh của mình đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu hút một lực lượng lao
động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm giảm sức ép
của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước.
Số lao động của ngành thuỷ sản tăng liên tục từ 3,12 triệu người (năm
1996) lên khoảng 3,8 triệu người năm 2001 (kể cả lao động thời vụ), như vậy,
mỗi năm tăng thêm hơn 100 nghìn người. Tỷ lệ tăng bình quân số lao động
thường xuyên của ngành thuỷ sản là 2,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân
của cả nước (2%/năm).
Với diện tích nuôi tôm liên tục tăng đến năm 2008 đạt khoảng 636,2
nghìn ha, cung cấp cho thị trường trong và ngoài nước khoảng 388.359 tấn
tôm các loại và đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu cả nước khoảng
794.753.535 USD. Có thể nói tôm có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
Đặc biệt do sản xuất của nhiều lĩnh vực như nuôi trồng thuỷ sản chủ
yếu là ở quy mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút mọi lực lượng lao
động, tạo nên nguồn thu nhập quan trọng góp phần vào sự nghiệp xoá đói
giảm nghèo. Các hoạt động phục vụ như cung cấp thực phẩm, tiêu thụ sản

13


phẩm… chủ yếu do lao động nữ thực hiện, đã tạo ra thu nhập đáng kể, cải
thiện vị thế kinh tế của người phụ nữ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền
núi. Riêng trong các hoạt động bán lẻ thuỷ sản, nữ giới chiếm tỉ lệ lên đến

90% [10] .

TÔM CÀNG XANH – SCAMPI
Tên tiếng Anh : Giant river prawn, Scampi, Giant freshwater Shrimp
Tên khoa học : Macrobrachium rosenbergii

Tôm nước ngọt

TÔM SÚ - BLACK TIGER SHRIMP
Tên khoa học : Penaeus monodon
Tên Tiếng Anh : Black tiger shrimp; Giant tiger shrimp; Jumbo tiger shrimp

Tôm biển

Hình 2.1 Một số hình ảnh về sản phẩm tôm nuôi phổ biến ở Yên Hưng
2.1.1.3 Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của nghề NTTS
♦ Đặc điểm kỹ thuật của nghề thuỷ sản
Môi trường khắt khe: Nuôi trồng hải sản là quá trình khai thác khả năng
sinh trưởng của các loại sinh vật dưới tác động hỗn hợp của các yếu tố tự
nhiên như đất đai, nguồn nước, lượng mưa, độ mặn, độ pH, nhiệt độ, dưỡng
khí, độ kiềm... Các yếu tố này phải luôn ổn định, nếu một trong các yếu tố đó
dao động mạnh sẽ làm cho vật nuôi bị sốc và chết hàng loạt, ảnh hưởng đến
hiệu quả kinh tế trong nuôi trồng.

14


Thời gian nuôi trồng giữa các loài là không đồng nhất: Với các hình
thức nuôi trồng quảng canh truyền thống, quảng canh cải tiến hay bán thâm
canh trên một diện tích nhất định thường nuôi nhiều loại hải sản, mỗi loại có

một thời gian sinh trưởng và phát triển khác nhau. Ví dụ: tôm sú có thể nuôi 2
vụ trong một năm, vụ 1 từ tháng 3 đến tháng 7, vụ 2 từ tháng 9 đến tháng 12
(riêng ở miền Bắc thì vụ 1 là chính). Với cua biển, có thể nuôi quanh năm
nhưng chủ yếu là nuôi từ tháng 8 đến tháng 12. Do vậy, làm thế nào để có thể
có được mô hình nuôi hợp lý, tận dụng được đặc điểm sinh trưởng và phát
triển để đạt hiệu quả kinh tế cao là việc làm rất khó.
Khả năng lan truyền dịch bệnh nhanh: Nuôi trồng thuỷ hải sản thường
là trong môi trường nước rộng, hình thức nuôi trồng hiện nay là phải thường
xuyên thay nước trong đầm nuôi, nguồn nước lấy vào, thải ra chủ yếu từ sông,
kênh mương, cửa biển thường ít có sự kiểm soát chặt chẽ, trong khi đó khả
năng phòng và chữa bệnh cho đối tượng nuôi trồng này là rất khó và kém hiệu
quả, khả năng lan truyền các bệnh dịch rất nhanh và khó kiểm soát, làm ảnh
hưởng đến cả một vùng nuôi trồng rộng lớn.
Chịu tác động lớn của môi trường phía bên ngoài: Vị trí các đầm nuôi
phần lớn là ở các bãi triều cửa sông, cửa biển nên nguồn nước thường bị ảnh
hưởng do ô nhiễm từ các dòng sông chảy ra, cũng như các chất thải (nguy
hiểm nhất là váng dầu) từ các tàu thuyền hoạt động từ ngoài khơi đưa vào.
Điều đó cho thấy việc kiểm soát các yếu tố gây bệnh trong nuôi trồng thuỷ hải
sản không chỉ giới hạn trong nội bộ ngành thuỷ hải sản[21].
♦ Đặc điểm kinh tế
Các đối tượng vật nuôi rất dễ cho việc thâm canh tăng năng suất: Theo
kết quả nghiên cứu của các chuyên gia cho thấy nuôi trồng thủy hải sản rất dễ
thâm canh đặc biệt là nuôi tôm sú, khi bảo đảm đủ các yếu tố như thức ăn,
lượng ôxi hoà tan trong nước, độ mặn....nếu mật độ nuôi từ 5- 10 con/m 2 sẽ

15


cho năng suất từ 1-1,5 tấn/ha/vụ, từ 20-35 con/m 2 sẽ cho năng suất khoảng 3
tấn/ha/vụ. Mặt khác khi đầu tư đủ và hợp lý sẽ rút ngắn thời gian nuôi trồng

tạo điều kiện cho thâm canh tăng vụ.
Sản phẩm có giá trị kinh tế cao: Do giá trị của các loài thuỷ hải sản có giá
trị dinh dưỡng rất cao nên được đông đảo người tiêu dùng ưa chuộng. Phần lớn
các nước trên thế giới đều có nhu cầu tiêu dùng thuỷ hải sản, trong khi đó các
nước có điều kiện nuôi trồng không nhiều, điều đó làm cho cán cân cung - cầu
luôn mất thăng bằng, điều đó có lợi cho người sản xuất. Hiện nay giá cổng trại của
1 kg tôm sú loại 25 - 30 con/kg sống khoảng 170.000 đồng cao hơn khoảng 34 lần
so với 1 kg lúa. Đặc biệt đối tượng mua của thị trường thuỷ hải sản là những
người có mức sống cao, thường sống ở thành phố hay các nước đang phát triển,
những người sản xuất cũng như những người có mức sống trung bình khó có cơ
hội mua những hải sản này vì giá quá đắt. Điều đó cũng thúc đẩy nghề nuôi trồng
thuỷ hải sản phát triển vì không những nó tạo công ăn việc làm tăng thu nhập cho
người dân mà còn là mặt hàng xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước[13]
2.1.2 Liên kết kinh tế trong nuôi, chế biến và tiêu thụ tôm
2.1.2.1 Ngành hàng tôm
Nuôi tôm đòi hỏi quy trình kỹ thuật, trình độ lao động cao, rủi ro trong
nuôi tôm cũng lớn hơn so với loại hình nuôi khác.
Yêu cầu chặt chẽ về điều kiện sản xuất như nguồn nước, thời tiết, con
giống, thức ăn và tổ chức lao động trong sản xuất..., đặc điểm sản xuất này
gây nên cho người sản xuất, cung ứng khó chủ động hoàn toàn về chất lượng
và số lượng tôm cung ứng. Điều này dẫn đến sự dao động về giá cả, số lượng
và chất lượng tôm trên thị trường.
Nuôi tôm là ngành sản xuất mang tính hàng hoá cao, sản phẩm yêu cầu
tươi sống, khó bảo quản và vận chuyển. Mức độ đầu tư phụ thuộc vào hình
thức nuôi.

16


Nuôi mang tính thời vụ, do vậy khả năng cung cấp dồi dào ở chính vụ,

nhưng lại khan hiếm ở thời điểm giáp vụ. Song nhu cầu tiêu dùng thì ở bất kỳ
thời điểm nào trong năm. Tiêu thụ tôm còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố thu
nhập và thói quen tiêu dùng. Hiên nay nhu cầu tiêu dùng hàng tươi sống của
người dân càng ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng, chủng loại sản
phẩm. Các định mức kỹ thuật nuôi xem ở (phần phụ lục 1).
2.1.2.2 Các tác nhân
Tác nhân là một tế bào sơ cấp với các hoạt động kinh tế, độc lập và tự
quyết định hành vi của mình. Có thể hiểu rằng, tác nhân có thể là các đơn vị,
tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế, hộ gia đình và cá nhân tự
nguyện cùng tham gia một hoạt động nào đó để đạt được lợi ích chung và lợi ích
riêng cho mình, trong ngành hàng tôm các tác nhân tham gia liên kết có thể chia ra
làm 3 nhóm
- Tác nhân là các hộ (hộ nuôi tôm, hộ kinh doanh tôm (hộ buôn), người
tiêu thụ).
- Tác nhân là đơn vị kinh tế tham gia nuôi, chế biến và tiêu thụ tôm, hỗ trợ
ngành hàng tôm (các doanh nghiệp, xí nghiệp, công ty, nhà máy…)
- Tác nhân là các tổ chức (tổ chức tín dụng, ngân hàng, thương mại khác…).
- Tác nhân là các Trung tâm Khoa học, Nhà nước (các cơ chế chính sách
tác động, hỗ trợ)
2.1.2.3 Mối quan hệ liên kết giữa các tác nhân
Với các hoạt động kinh tế riêng của mình, các tác nhân này thực hiện
từng nội dung trao đổi, hợp tác với nhau thông qua mối quan hệ liên kết qua
lại, dựa trên các ràng buộc cụ thể và được thể hiện trong hợp đồng đôi bên, từ
đó tạo lên sự gắn kết trách nhiệm hỗ trợ phát huy thế mạnh của các tác nhân,
đồng thời cùng chia sẻ những rủi ro trong kinh doanh.
Các tác nhân có các mối quan hệ liên kết với nhau ở mọi khâu của quá
trình nuôi, chế biến, tiêu thụ và có thể mô phỏng các quan hệ đó trên sơ đồ

17



2.2

Hộ nuôi
tôm

Tiêu
thụ
NHÀ NƯỚC
TỔ CHỨC NGÂN
HÀNG, TÍN
DỤNG
NHÀ KHOA
HỌC

CS. Chế
biến tôm
Sơ đồ 2.2 Mối quan hệ liên kết giữa các tác nhân
trong nuôi, chế biến và tiêu thụ thuỷ sản
Hộ nuôi trồng liên kết với nhà khoa học, doanh nghiệp để ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật phục vụ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm (nhà khoa học có thể là
các trung tâm nghiên cứu, các nhà khoa học trong ngành nuôi trồng thuỷ sản,
trường đại học...), hộ vay vốn của các tổ chức tín dụng, cá nhân, ngân hàng để
đáp ứng vốn cho sản xuất, hộ được sử dụng vốn, diện tích mặt nước, các dịch
vụ khác từ Nhà nước hay các từ các chính sách của Nhà nước, như chính sách
khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ sản, hộ được các cơ sở chế biến, hộ
buôn ứng trước vốn, ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm.
Các cơ sở chế biến đặt hàng, hợp đồng sử dụng các sản phẩm của hộ
nuôi trồng, của các hộ thu gom, bằng công nghệ, kỹ thuật… để tạo ra sản
phẩm mới đáp ứng nhu cầu, thị hiếu đa dạng của người tiêu dùng, xuất khẩu.


18


Các cơ sở chế biến trong quá trình hoạt động cũng cần có vốn, có kỹ thuật và
cần có thị trường tiêu thụ ổn định và tiềm năng. Do đó trong quá trình sản
xuất các cơ sở cũng có các quan hệ với các tổ chức tín dụng, ngân hàng, các
nhà khoa học, nhà cung cấp công nghệ, với mạng lưới tiêu thụ và quan hệ dựa
trên các cơ chế chính sách của Nhà nước…
Các cơ sở, hộ tiêu thụ thu mua và tiêu thụ sản phẩm. Tác nhân này huy
động vốn từ Nhà nước, các tổ chức, ngân hàng, tín dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu vốn trong kinh doanh. Thông qua các kỹ năng, các phương thức riêng sẽ
lưu thông và tiêu thụ các sản phẩm, từ đó thu được lợi nhuận, các cơ sở, hộ
tiêu thụ trong quá trình lưu thông cũng cần nhận được hỗ trợ về kỹ thuật,
công nghệ, cách thức tiêu thụ có hiệu quả.
Nhà khoa học, khuyến nông: xác định những khó khăn, vướng mắc mà
hộ gặp phải để nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Nhà Bank: cung cấp ngắn hạn, trung hạn và dài hạn tín dụng cho nhà
nông và doanh nghiệp.
Nhà nước: ra các chính sách, khung pháp lý giám sát, kiểm tra, cung
cấp thông tin thị trường.
Các mối quan hệ liên kết trên trong thực tế rất đa dạng, đan xen nhau
có thể một cơ sở, một hộ nuôi trồng là tác nhân của nhiều mối quan hệ, cũng
có thể một mối quan hệ song lại có liên quan đến nhiều tác nhân, có thể là
quan hệ một chiều, cũng có thể là hai chiều, đa chiều [2].
2.1.2.4 Lợi ích của các tác nhân
Liên kết kinh tế xảy ra khi một trong các bên tham gia liên kết không thể
tự mình hoạt động hoặc nếu có hoạt động thì hiệu quả hoạt động không cao
nên cần phải có sự tham gia cùng hành động của nhều bên, khi đó liên kết
kinh tế sẽ đem lại lợi ích chắc chắn cho các bên liên quan.


♦ Đối với các doanh nghiệp chế biên khi tham gia liên kết kinh tế

19


- Tạo điều kiện để tiết kiệm chi phí đầu tư không hiệu quả trong hoạt động SXKD
Mỗi doanh nghiệp đều có một hoặc vài lĩnh vực hoạt động chủ đạo,
mang tính đặc thù, chuyên biệt. Bên cạnh đó, là một loạt các hoạt động phụ,
mà bản thân doanh nghiệp không thể thực hiện được, hoặc nếu thực hiện thì
sẽ phải mở rộng quy mô và chi phí nhưng không đem lại hiệu quả cho doanh
nghiệp, nhưng nó lại không thể thiếu đối với dây chuyền sản xuất chính. Do
đó liên kết giúp cho doanh nghiệp có thể giải quyết được nhu cầu đó. Ví dụ
trong cơ sở chế biến tôm thì hoạt động chế biến tôm là hoạt động chủ đạo,
nuôi tôm để cung cấp nguyên liệu cho chế biến là hoạt động phụ song không
thể thiếu nguyên liệu.
- Liên kết giúp doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, tiếp cận, phản ứng
nhanh hơn với thay đổi của thị trường
Thực hiện liên kết thông qua hợp đồng giúp cho các cơ sở chế biến, xuất
khẩu có điều kiện để mở rộng quy mô hoạt động do có sự bảo đảm ổn định về
số lượng, chất lượng và tiến độ của nguyên liệu nông sản cung cấp cho sản
xuất, doanh nghiệp không phải lo đến sự thất thường của thị trường, cũng như
nâng cao được sức cạnh tranh sản phẩm trên thị trường.
Nhu cầu của thị trường luôn thay đổi, điều đó buộc các doanh nghiệp
vừa phải luôn thay đổi mẫu mã của các sản phẩm hiện có, nâng cao chất
lượng, hạ giá thành sản phẩm. Để có được những thay đổi phù hợp với nhu
cầu của thị trường, doanh nghiệp cần phải có thông tin và có đủ khả năng
triển khai nhanh các phương án sản xuất mới. Chính sự liên kết kinh tế sẽ
giúp cho doanh nghiệp đạt được điều đó.
Liên kết của hệ thống các nhà thương mại thông qua hình thức đại lý bán

hàng. Với hình thức liên kết này, các cửa hàng kinh doanh sẽ nhận làm đại lý
bán buôn hay bán lẻ sản phẩm cho doanh nghiệp sản xuất, nhờ đó sản phẩm
của doanh nghiệp sẽ được đưa vào thị trường một cách nhanh chóng hơn, kịp

20


thời hơn.
Khi liên kết sản xuất các bên tham gia liên kết có thể chuyển giao công
nghệ kỹ thuật mới cho nhau, với những chi phí hợp lý và thời gian nhanh
chóng, do sự tin cậy lẫn nhau, giúp sản xuất có hiệu quả hơn
Khi những thay đổi của thị trường vượt ra ngoài khả năng đáp ứng của
doanh nghiệp, thì buộc doanh nghiệp phải liên kết với các đối tác khác để tìm
kiếm sự hỗ trợ về vốn và công nghệ, khắc phục những hạn chế về quy mô,
nâng cao sức cạnh tranh.
Liên kết giúp doanh nghiệp dễ dàng chinh phục những thị trường mới do
khả năng tài chính, tận dụng lợi thế chi phí thấp (hợp đồng cung cấp sản
phẩm...)
Liên kết kinh tế thông qua hợp đồng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
chế biến có nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định, có thể tiếp cận với công
nghệ khoa học tiên tiến, có thêm cơ hội đầu tư theo chiều sâu, giải phóng sức
lao động từ đó phấn đấu giảm giá thành, nâng cao được khả năng cạnh tranh
đối với sản phẩm của mình trên thị trường trong nước và quốc tế [1].
- Liên kết giúp doanh giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh
Khi tham gia liên kết, rủi ro sẽ được phân bổ cho các đối tác tham gia,
chứ không phải chỉ tập trung vào một chủ thể, khi đó khả năng vượt qua khó
khăn sẽ cao hơn.
Trước một dự án sản xuất vượt quá khả năng sản xuất của doanh nghiệp,
nếu doanh nghiệp bỏ sẽ mất cơ hội làm ăn, nhưng nếu doanh nghiệp đơn độc
một mình triển khai thực hiện dự án, nhiều khi, do không kham nổi, sẽ dễ dẫn

đến hiệu quả thấp, thậm chí thua lỗ. Để tránh được hiện tượng này buộc
doanh nghiệp liên kết với doanh nghiệp khác cùng tham gia thực hiện dự án,
mỗi doanh nghiệp đảm nhận một phần công việc, tuỳ theo năng lực. Như vậy,
mỗi doanh nghiệp tham gia dự án chỉ phải chịu một phần rủi ro (nếu có).

21


Liên kết để giảm thiểu rủi ro do cạnh tranh nhờ vào sự thoả hiệp để phân
chia thị trường, kể cả việc sát nhập để tạo nên độc quyền nhóm [1][5].

♦ Đối với hộ nuôi thì việc tham gia liên kết sẽ có các lợi ích như
+ Bảo đảm được thị trường tiêu thụ và giảm rủi ro về giá cả đối với nông
sản sản xuất ra.
+ Được hỗ trợ về giống, kỹ thuật và các thông tin về thị trường nên khắc
phục được nhiều hạn chế của hộ nông dân, đồng thời tạo điều kiện cho hộ tiếp
cận được với công nghiệ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến.
+ Ổn định và phát triển được sản xuất, tăng thu nhập, xóa đói giảm
nghèo cho bộ phận hộ nông dân ở các vùng khó khăn.

♦ Đối với cơ sở, hộ tiêu thụ
Việc tham gia liên kết sẽ bảo đảm được lượng hàng cần thiết, có chất
lượng, ngoài ra khi liên kết sẽ có nhiều cơ hội về vốn, công nghệ, kĩ thuật, cơ
hội mở rộng kênh tiêu thụ, mở rộng phạm vi, đối tác tiềm năng mới đem lại
hiệu quả cao trong kinh doanh.

♦ Đối với các tổ chức ngân hàng, tín dụng, TT khoa học kỹ thuật, khuyến nông
Khi tham gia liên kết sẽ mang lại một phần thu cho đơn vị, đồng thời
hoàn thành tốt nhiệm vụ của Nhà nước giao phó, góp phần thúc đẩy nuôi
trồng thuỷ sản theo định hướng phát triển bền vững.


♦ Lợi ích của các mối liên kết kinh tế trong sự phát triển kinh tế - xã hội
Loại bỏ được vai trò của tầng lớp mua bán trung gian nên trực tiếp bảo
vệ được người sản xuất, nhất là người nghèo khi bán sản phẩm, khuyến khích
phát triển sản phẩm cung cấp cho tiêu dùng và nguyên liêu cho các ngành chế
biến, xuất khẩu.
Liên kết giữa doanh nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản và hộ nông dân
cung cấp nguyên liệu cho phép xóa bỏ độc quyền đối với các doanh nghiệp ép
cấp, ép giá khi mua sản phẩm của người nông dân.

22


Tăng cường liên minh công nông: việc chuyển đổi phương thức sản
xuất nông nghiệp từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá thì việc liên minh
công nông có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó giúp cho quá trình sản xuất chế
biến tiêu thụ được hiệu quả hơn.
Thực hiện quan hệ hợp tác: qua liên kết tăng cường quan hệ hợp tác
giữa các bên, giúp cho quan hệ cung cầu phù hợp và hiệu quả hơn.
Giải quyết quan hệ phân phối: thông qua liên kết vấn đề phân phối thu
nhập, trách nhiệm quyền hạn của các bên tham gia liên kết được cụ thể hơn,
sản phẩm đến với người tiêu dùng nhanh hơn.
Thúc đẩy nhanh tiến bộ khoa học - kỹ thuật: liên kết giúp cho việc vận
dụng, sử dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất sẽ đem lại hiệu quả cao
hơn, chất lượng sản phẩm làm ra tốt hơn.
Tạo sự gắn kết “4 nhà” (nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp,
nhà nông), khi các nhà cùng tham gia vào liên kết thì hiệu quả thu được sẽ
cao hơn đồng bộ hơn trong thực hiện. Với việc tham gia của nhà nước (Nhà
quản lý) tình trạng chồng chéo về cơ chế chính sách sẽ được hạn chế tối đa
thay vào đó là một chính sách đồng bộ trong sản xuất. Với sự có mặt của các

nhà khoa học kỹ thuật, tiến bộ kỹ thuật được cập nhật và áp dụng thường
xuyên trong sản xuất thay thế cho những kỹ thuật lạc hậu không hiệu quả,
giống giống cây, giống con cho năng suất và hiệu quả thấp. Còn với các
doanh nghiệp và người dân thông qua liên kết giúp cho họ yên tâm hơn trong
sản xuất, mạnh dạn đầu tư trong sản xuất, ổn định yếu tố đầu vào và thị
trường đầu ra, giảm thiểu rủi ro cũng như được chia sẻ rủi ro trong sản xuất
và với sự liên kết như vậy sẽ đạt được hiệu quả cao nhất trong quá trình sản
xuất, kinh doanh (Phụ lục 2).
Nâng cao hiệu quả kinh tế trong trong sản xuất và lưu thông hàng hoá,
giúp cho nền kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng ngày một phát

23


triển bền vững phù hợp với quá trình hội nhập và phát triển của nền kinh tế
nước nhà theo định hướng XHCN.
Như vậy tham gia liên kết trong sản xuất kinh doanh không chỉ có ý
nghĩa quan trọng về mặt kinh tế mà nó còn có ý nghĩa về mặt xã hội, nó giúp
nâng cao hiệu quả trong sản xuất kinh doanh, phân phối xã hội được công
bằng, sự đoàn kết hợp tác trong kinh doanh, giá cả, sản lượng, thị trường cung
cầu sản phẩm và thu nhập người dân ổn định. Thông qua liên kết giúp cho nền
kinh tế nói chung và nền nông nghiệp nói riêng ngày càng phát triển bền vững
phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển của kinh tế thế giới.
Từ lợi ích nhiều mặt của liên kết kinh tế đem lại do vậy cần phải nghiên
cứu, duy trì và phát triển các loại hình liên kết là một xu thế, là tất yếu của hội
nhập phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
2.1.2.5 Các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ liên kết
Môi trường tự nhiên gồm các yếu tố về điều kiện tự nhiên, thời tiết, môi
trường nước... điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến hình thức và mức độ tham gia liên kết kinh tế.

Môi trường sản xuất kinh doanh gồm các yếu tố đầu vào, đầu ra, các
yếu tố hỗ trợ trong quá trình sản xuất cụ thể như giống tôm, thức ăn cho nuôi
tôm, giá cả vật tư, khoa học kỹ thuật, giá tôm thương phẩm, cạnh tranh...
Điều kiện về vốn gồm các ngân hàng, các tổ chức tín dụng, cho thuê tài
chính... đây chính là điều kiện tiên quyết để cho các dự án đầu tư được thực
hiện, duy trì và phát triển, nhờ đó mới có các mối quan hệ liên kết.
Cơ chế chính sách của Nhà nước gồm các chính sách về đất đai, vốn
sản xuất, thuế, xuất nhập khẩu, các chế tài, luật định... nếu là lĩnh vực Nhà
nước cấm hay không khuyến khích phát triển thì sẽ không tồn tại hay rất ít
các mối quan hệ liên kết vì sẽ không đem lại hiệu quả trong sản xuất.
Ngoài ra còn các yếu tố như trình độ quản lý, trình độ của hộ sản xuất

24


kinh doanh, điều kiện kinh tế...
2.1.2.6 Những vấn đề phát sinh trong liên kết đối với ngành hàng tôm
Trong thực tế để duy trì và phát triển các mối quan hệ liên kết luôn là
một vấn đề khó và chịu nhiều yếu tố tác động bởi nhiều những mâu thuẫn, bất
cập trong qua trình triển khai thực hiện giữa tác nhân cung cấp với tác nhân
thu mua.
Mục tiêu lựa chọn đối tác mua là phải thuận tiện, giá cả phải cao, ổn
định song thực tế trong liên kết kinh tế muốn ràng buộc trách nhiệm hai bên
thì các tác nhân phải có hợp đồng ký kết, số lượng thường cố định, giá cả
thường không được như mong đợi.
Mục tiêu lựa chọn đối tác cung cấp đầu vào là sản phẩm
phải có chất lượng tốt, giá cả phải chăng, ổn định về số lượng. Trong thực tế,
mặt hàng tôm lại chịu tác động bởi nhiều yếu tố, nên chất lượng số lượng
thường không ổn định, giá cả các yếu tố đầu vào, đầu ra thường xuyên biến
động.

Các hợp đồng thường là mẫu in sẵn thể hiện trên hợp đồng là những
cam kết chặt chẽ, có đôi chỗ gây khó hiểu đối với trình độ của hộ, trong khi
người ký hợp đồng thường không giải thích rõ ràng gây hiểu nhầm. Mặt khác
vai trò hướng dẫn hộ hiểu, tự lập hợp đồng chưa có gây khó khăn cho hộ.
Do không có ý thức, chưa hiểu biết nhiều nên tình trạng thực hiện
không tuân thủ theo như hợp đồng đã ký kết về chất lượng, gây phiền hà,
thiếu sự tôn trọng sau khi đã ký được hợp đồng vẫn còn nhiều.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình nuôi, chế biến và tiêu thụ tôm trên thế giới
2.2.1.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ tôm nói chung
Trên thế giới, Tôm được đánh giá là một loại hải sản bổ dưỡng, ăn ngon
dễ chế biến, nên đã trở thành một loại hải sản có giá trị kinh tế cao và sản lượng
tiêu thụ khá lớn. Tôm được nhiều nước nuôi, với nhiều chủng loại khác nhau và

25


×