Tải bản đầy đủ (.pdf) (135 trang)

36 kiến trúc hà nội (NXB thanh niên 2010) quốc văn, 135 trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.8 MB, 135 trang )

TỦ S Á C H Ĩ I N H HOA T H Ă N G L O N G - HÀ NỘI
#

KIẾN TRÚC
QUỐC VĂN
(Tuyển chọn, biên soan)

NHÀ XUẤT BẢN THANH NIÊN


HÀ NỘI
c ó NHỒU HON MỘT BA SÁU
#

(THAY LỜI GIỚI THIỆU)

uốn sách Hà Nội ba sáu phố phường gắn liền với
tên tuổi nhà văn tài hoa Thạch Lam đã trỏ nên nổi
tiếng và quá đỗi thân thuộc với nhiều lớp bạn đọc người
Việt. Cho đến bây giờ cũng chưa hề có con số thống kê
rằng nó đã được xuất bản bao nhiêu bận, số lượng tới
nay đạt bao nhiêu bản, những nhà xuất bản nào đã từng
in? Chỉ biết rằng, khi nói tới những áng văn đẹp viết về
mảnh đất Kẻ Chợ, không thể lãng quên Hà Nội ba sáu
phố phường, không thể không kể tới Thạch Lam, Nguyễn
Tuân, Vũ Bằng... hay một vài nhà văn tên tuổi khác.
Có thể bạn chưa biết nhiều về Hà Nội, có thể bạn chưa
một lần đặt chân tới Hà Nội, cũng đâu có sao, chỉ cần
bạn có trong tay Hà Nội bd sấu phố phường của Thạch
Lam, Thương nhớ mười hai của Vũ Bằng... thì Hà Nội với
những gì tinh túy nhất, tinh tế nhất, hào hoa thanh lịch


nhất, tựa hổ đã nằm trong tay bạn. Bạn có thể thả hồn
trong một biệt thự tiện nghi sang trọng nào đấy, hoặc
thảy trong một căn hộ ọp ẹp, trên một ghế đá cạnh một
mặt hồ thơ mộng nào đấy, hoặc bất kỳ một chỗ nào đó
tùy bạn chọn lựa ỏ trên khắp miền đất Việt để mà thưởng
những trang viết tưởng không có gì đẹp hơn, không có gì
-

5

-


hay hơn, thú hơn về những nét văn hóa của chốn văn vật
ngàn đời Thăng Long - Kẻ Chợ đã được “cô” cả vào
trong những ngòi bút tài hoa ấy. Vậy thi tới Hà Nội làm gì
cho nhọc xác, cho bụi bặm đường trường, cho tàu xe đấy
bất trắc. Hà Nội vẫn có thể gần bạn hơn qua từng trang
sách nhỏ. Hà Nội bây giờ đã không còn trầm mặc, bình
lặng như cái thời của Thạch Lam, Vũ Bằng hổi tưởng quíi
từng nét bút nữa. Hà Nội bây giờ đã rộn ràng hơn tronc)
thời mở cửa, trong cái thời hội nhập bốn phương tám
hướng. Có thể có chút gì đó hơi xô bồ đã chen vào, đấy
là tôi cứ mạo muội cảm vậy. vẫn rất mong, vẫn hi vọng
mình sai. Hà Nội hiên ngang hơn, hiện đại hơn bởi những
cao ốc chọc trời, bỏi những panô, biển hiệu xanh đỏ đủ
màu, bởi những con phố mới thênh thang dài và rộng,
cho mỗi khi mưa nước lại ngập tràn. Hà Nội dường như
còn ổn ào hơn bởi vô vàn tiếng còi ỏtỏ, xe máy inh ỏi mỗi
khi tắc đường, cũng phong phú gương mặt phố phường

cùng những cô chiêu cậu ấm tóc với đủ màu xanh, đỏ,
vàng, nâu cưỡi những chiếc xe máy đắt tiền lượn vù vù
các phố. Hà Nội khói. Hà Nội bụi. Đủ cả. Không chỉ cỏ
vậy. Hà Nội còn nhiều những mặt trái khác. Ây là tỏi cứ
cả nghĩ vậy. Một lẽ vì Hà Nội là nơi hội tụ của dân tứ
chiếng. Từ Nam chí Bắc, từ xuôi tới ngược. Thảy đểu dồn
về Hà Nội. Như lũ thượng nguồn đổ nơi hạ nguồn. Như
trăm dòng sông xuôi về biển lớn. Có vác xin nào cho Hci
Nội yêu dấu của tôi đây! Này nhé, sau những náo nhiệt,
ồn ào đấy, chỉ dáng vẻ bề ngoài thôi bạn ạ! Hà Nội vẫn
toát lên nét hào hoa thanh lịch, rêu phong trầm măc tự
ngàn đời của mảnh đất Kinh Kỳ xưa - Kinh đô của bao
vương triều phong kiến. Hà Nội biết tự đào thải, biết tự
sàng lọc cho riêng mình những gì tinh túy nhất, tao nhã
nhất để làm nên hai tiếng yêu thương cho ai đã từng đến,
từng đi và cả những ai chưa từng một lần đặt chân tới
-

6

-


mảnh đất thiêng này cũng không khỏi rưng rưng xúc
dộng cõi lòng khi nhắc đến hai tiếng: Hà Nội!
IHà Nội có trong tỏi, trong bạn, trong tất cả chúng ta. Bởi
IHà Nội là Thủ đô của cả nước. Hà Nội mang trong mình
vinh quang và trọng trách lớn lao. Tôi, bạn, cũng như tất
tô đẹp thêm Hà Nội của mình, bằng những việc làm dù là

nhỏ nhất, đôi khi ch ia ý nghĩ đẹp cũng đã đủ lắm rồi,
cũng đáng quý, đánc trân trọng xiết bao. Thủ đô nghìn
năm tuổi, còn sẽ thèm nhiều tuổi nữa. Ý thức trách
nhiệm, tấm lòng của một người con đất Việt mong muốn
góp chút gì để mừng cho Thủ đô ta trường thọ đã khiến
Tủ sách tinh hoa Thăng Long - Hà Nội được hình thành;
đã khiến Hà Nội giờ đây không chỉ dừng ỏ Hà Nội ba sáu
phố phường như tiền nhân Thạch Lam phóng bút. Hà Nội
đã có nhiều hơn môt ba sáu, với: 36 kiến trúc Hà Nội, 36
bài thơ Hà Nội, 36 nghệ nhân Hà Nội, 36 phóng sự Hà
Nội, 36 làng nghề Hà Nội, 36 lễ hội Hà Nội, 36 đình - đền
- chùa Hà Nội, 36 truyện ngắn Hà Nội, 36 danh thắng Hà
Nội, 36 đoản văn Hà Nội, 36 tạp văn tùy bút Hà Nội, 36
ngôi nhà Hà Nội, 36 món ngon Hà Nội, 36 gương mặt Hà
Nội... 36 và 36. 36 đã trở thành phiếm chỉ chứ không đơn
thuần về mặt số học. ở tủ sách này, người biên soạn,
tuyển chọn vẫn muốn ân định con sô 36 cho các bài viết
trong các tập của tủ sách như một sự nhắc nhủ, tri ân
cùng Thủ đô về một thời Kẻ Chợ - Thăng Long - Hà Nội
36 phô' phường ngàn xưa. Tầm vóc của Hà Nội ngàn
năm tuổi, ấy cũng chỉ tính từ vua Lý Thái Tổ hạ chiếu dời
đô nơi cố đô Hoa Lư chật hẹp tới chốn rồng cuộn hổ ngồi
- để mưu nghiệp lớn muôn đời cho con cháu về sau.
Chứ thực ra mảnh đất mấy nghìn nãm tuổi này đã có
-

7

-



từ thuở hồng hoang của lịch sử, từ khi Nữ Oa đội đá vá
trời, từ buổi Lạc Long Quân - Âu Cơ kết duyên Tiên
Rồng để khai thiên mở cỏi dựng gây dòng giống Lạc
Hồng. Mà thôi, kể làm chi những điều xa xưa ấy. Khi
mà Thăng Long - Hà Nội trường tồn cùng lịch sử như
một lẽ tiền định. Chỉ biết rằng mỗi thời khắc qua đi,
mảnh đất thiêng lại thêm nhiều sự tích, nhiều huyền
thoại và kỳ tích mà thôi.
Sự ghi nhắc của những trang sách trong tủ sách này
chắc sẽ là khiên cưỡng, chưa thể đủ đầy với vóc dáng
Phù Đổng thiên vương ndi Thủ đô ngàn tuổi. Song
hy vọng, đây sẽ là nốt ruồi son tô đẹp thêm nhan sắc
nàng thiêu nữ Hà Nội yểu điệu duyên dáng yêu kiều của
mỗi chúng ta.

Mùa Đông Kỷ Sửu

Quốc Văn


QỢđnCẢCiổíí - ('Suiđ'crCử<^Ịiám

Văn Miếu - Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng
và phong phú hàng đầu cùa thành phố Hà Nội, nằm ở phía
nam kinh thành Thăng Long thời nhà Lý. Là tổ hợp gồm
hai di tích chính: Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền
triết cùa Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn
An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo
dục Việt Nam; và Quốc Tử Giám trường Quốc học cao cấp

đầu tiên của Việt Nam, với hơn 700 năm hoạt động đã đào
tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu
- Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và
ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh
xuất sắc và nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm
tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến
"cầu may" trước mỗi kỳ thi.
Lịch sử
Văn Miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần
Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông (Đại Việt sử ký toàn thư.
-

9

-


Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội 1972, Tl, tr.234) chép: "Mùa
thu tháng 8, làm Vãn Miếu, đắp tượne Khổng Tử, Chu
Công và Tứ phối, vè tượnẹ Thất thập nhị hiền, bôn mùa
cúng tế. Hoàng thái từ đến đấy học.".
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử
eiám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học
đầu tiên ở Việt Nam. Ban đầu, trườne chỉ dành riêng cho
con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quôc
Tử). (Việt sử thông giám cương mục. Nxb. Văn sử địa.
1957) chép: "Bính Thìn, năm Anh Vũ Chiêu Thẳng thứ I
tháng 4... lập nhà Quốc Tử Giám; tuyên trong các văn thân
lấy những người có văn học, bô vào đó". Năm 1156, Lý
Anh Tông cho sửa lại Văn Miếu và chỉ thờ Khổng Tử.

Năm 1253, vua Trần Thái Tông đổi Quốc Tử Giám
thành Quốc Học Viện cho mở rộng và thu nhận cả con cái
các nhà thường dân có sức học xuất sắc. Chức năng trường
Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế
lề "Quý Sửu năm thứ ba(1253)... Tháng 6 lập Quốc Học
Viện tô tượng Khổng Tử, Chu công và Á Thánh, vẽ tượng
72 người hiền để thờ... Tháng 9 xuống chiếu cho các nho sĩ
trong nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư, lục kinh"
(ĐVSKTT).
Đời Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan
Quốc Tử giám Tư nghiệp (hiệu trưởng) và thầy dạy trực
tiếp cùa các hoàng tử. Năm 1370 ông mất, được vua Trần
Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm
-

10-


1484, Lê Thánh Tôrm cho dựne bia tiến sT của những người
thi đỗ tiến sT từ khoa thi 1442 trờ đi (chú trươnn đã đề ra
năm 1442 nhưng chưa thực hiện được). Mồi khoa, một tấm
bia đật trên lưng rùa. Tới năm đó, nhà Lê đà tô chức được
12 khoa thi cao cấp, {Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã tổ
chức đều đặn cứ ba năm một lần, đúng 12 khoa thi}.
Khôntí phải khoa thi nào tiến hành xong đều được khẳc
bia ngay, không phải bia đà dựna thì vĩnh tôn, không hư
hỏng, không mất mát. Từng thời có những đợt dựng, dựng
lại lớn, như năm 1653 (Thịnh Đức năm thứ nhất, năm 1717
(VTnh Thịnh năm thứ 13).

Cuối triều Lẽ, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều
đặn. Dù không còn giữ được đủ bia, nhà bia Trường Giám
đã lưu lại về sau rất nhiều những cône trình điêu khẳc giá
trị và tư liệu lịch sử quý báu.
Năm 1762, Lê Hiển Tông cho sửa lại là Quốc Từ Giám
- cơ sở đào tạo và giáo dục cao câp của triều đình.
Đời nhà Nguyễn, Quốc Tử Giám lập tại Huế. Năm
1802, vua Gia Long ấn định đây là Vãn Miếu - Hà Nội và
cho xây thêm Khuê Văn Các, với một chức nàng duy nhất
là nơi thờ tự Thánh hiền. Trường Giám cũ ở phía sau Văn
Miếu lấy làm nhà Khải thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử.
Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn
nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghicn đá. Ngày
nay, ngôi nhà này đã được phục dựng theo kiến trúc cùng
thời với quần thể các công trình còn lại.
-11-


Kiến trúc
Nhà Thái học sinh đời Lý - Trần quy mô thế nào, hiện
chưa khảo cứu được, vì các tư liệu lịch sử đã bị quân Minh
khi xâm chiếm nước ta đốt hoặc đưa hết về Yên Kinh, túc
Bắc Kinh ngày nay.
Tuy nhiên, nhà Thái học sinh thời nhà Lê đã được Lê
Quý Đôn miêu tả trong "Kiến văn tiểu lục" thì : "Nhà Thái
học có ba gian, có tường ngang, lợp bang ngói đồng. Nhà
giảng dạy ở phía đông và tây hai dãy đểu 14 gian. Phòng
học của học sinh tam xá đều ba dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi
gian 2 người". Toàn bộ kiến trúc Văn Miếu hiện nay đều là
kiến trúc thời đầu nhà Nguyễn. Khuôn viên được bao bọc

bởi bốn bức tường xây bằng gạch Bát Tràng.
Quần thể kiến trúc Văn Miếu - Quổc Tử Giám được bố
cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô
phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử ở
quê hương ông tại Khúc Phụ, Sơn Đông, Trung Quốc. Tuy
nhiên, quy mô ở đây đơn giản hơn, kiến trúc đơn giản hơn
và theo phương thức truyền thống nghệ thuật dân tộc.
Phía trước Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn
Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò ICim
Châu, trước đây có lầu để ngắm cảnh.
Ngoài cổng chính cỏ tứ trụ, hai bên tả hữu có bia "Hạ
Mã", xung quanh khu vực xây tường cao bao quanh, cổng
Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ "Văn Miếu
Môn" kiểu chữ Hán cổ xưa.
Trong Văn miếu chia làm 5 khu vực rõ rệt, mỗi
-

12

-


khu vực đều có tường ngăn cách và cổng đi lại liên hệ

với nhau:
Khu thứ nhất: bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn
đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành
Đức Môn và Đạt Tài Môn.
Khu thứ hai: từ Đại Trung Môn vào đến khuê Văn Các
(do Đức Tiền Quân Tổng trấn Bẳc Thành Nguyễn Văn

Thành cho xây năm 1805). Khuê Văn Các là công trình
kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt.
Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85 CIĨ1 X 85 cm) bên dưới
đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp. Tầng
trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ
mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp
tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phang. Gác
là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn
hình mặt trời toả tia sáng. Hình tượng Khuê Văn Các mang
tất cả những tinh tú của bầu trời toả xuống trái đất và trái
đất nơi đây được tượng trưng hình vuông của giếng Thiên
Quang. Công trình mang vẻ đẹp sao Khuê, ngôi sao sáng
tượng trưng cho văn học. Đây là nơi thường được dùng làm
nơi thường thức các sáng tác văn thơ từ cổ xưa tới nay. Hai
bên phải trái Khuê Văn Các là Bi Văn Môn và Súc Văn
Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sỹ.
Khu thứ ba: gồm hồ nước Thiên Quang Tình («énia là
giểng soi ánh mặt trời), có hình vuông. H»* °èn hô là 2 khu
nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia đ ư ơ ' ' b ă n g đá, khăc tên các
vị thi đỗ Trạng nguyên. Bàng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp,
Tiến sĩ. Bia đặt trôn lưng một con rùa. Hiện còn 82 tấm bia
-

13

-


tiến sĩ về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779(có tài
liệu cho rằng 1484-1780), chia đều cho hai khu tả và hữu.

Trong đó, 12 bia đầu tiên (cho các khoa thi những năm
1442-1514) được dụng vào thời Lê sơ, 2 bia (cho các khoa
1518, 1529) được dựng vào triều nhà Mạc, còn 68 bia cưôi
cùng (các khoa thi nhữns năm 1554-1779) được dựng vào
thời Lê trung hung. Mồi khu nhà bia gồm có 1 Bia đình
nam ờ chính giữa và 4 nhà bia (mồi nhà 10 bia) xếp thành
hai hàng, nàm hai bên Bia đình. Bia đình khu bcn trái
Thiên Quang Tỉnh chứa bia tiến sĩ năm 1442, còn Bia đinh
khu bên phải chứa bia tiến sĩ năm 1448.
Khu thứ tư: là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu
cùa Văn Miếu, gồm hai công trinh lớn bố cục song song và
nổi tiêp nhau. Toà ngoài nhà là Bái đường, toà trong là
Thượng cung.
Khu ĩhứ năm: là khu Thái Học, trước kia đã có một
thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ bố mẹ Khổng Tử,
nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được xây
dựng lại năm 2000.
Trong Văn Miếu có tượng Khổng Tử và Tứ phối
(Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Từ). Ỏ điện thờ Khồng
Tử có hai cặp hạc cưỡi trên lưng rùa. Đây là hình tượng rất
đặc trưng tại các đền, chùa, lăng tẩm, miếu mạo ở Việt
Nam. Hình ảnh hạc chầu trên lung rùa trong nhiều ngôi
chùa, miếu..., hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài
hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm - dương. Hạc là
con vật tượng trung cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo
truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa
-

14


-


tirựnụ trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng
trưniĩ cho con vật sônu trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa
lữ, neập ínm ca một vùng rộnti lớn, hạc khônc thể sốna
dưới nước nên rùa đă giúp hạc vượt vùng nước ngập úng
đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được
hạc ụiúp đưa đến vùng có nươc. Điều này nói lên lòng
chune thuỷ và sự tương trợ uiúp đờ nhau trong lúc khó
khăn, hoạn nạn aiừa những nựười bạn tốt.
Ngày nay. Khuê Văn Các ờ Văn Miếu - Quốc Tử Giám
đà được công nhận là biêu tượng cua thành phố Hà Nội.

-

15

-


éĩăngtịch oý€đ'&hí o winh

Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay Lăng Hồ Chù tịch,
Lăng Bác, là nơi đặt thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công
ngày 2 tháng 9 năm 1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa
Quảng trường Ba Đình, nơi Người đã từng chù trì các cuộc
mít tinh lớn.
Lăng được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm

1975. Lăng gồm 3 lớp với chiều cao 21,6 mét, lớp dưới tạo
dáng bậc thềm tam cấp, lớp giữa là kết rin trung tâm cùa
lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, những cầu
thang lên v u ó i i g . Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông
oàng đá hoa cương, lớp trên cùng là mái lăng hỉnh tam câp.
Ở mặt chính có dòng chữ: "Chủ tịch Hồ-Chí-Minh" bằng
đá hồng màu mận chín. Lăng được xây theo kiểu kiến trúc
hiện thực xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên bản của Lăng Lênin.
Xây dựng lăng
Lăng được xây dựng trên nền cũ của tòa lễ đài giữa
- 16-


Quảng trường Ba Đình, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì
các cuộc mít tinh lớn và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sau khi Chủ
tịch Hồ Chí Minh qua đời Nhà nước đã chính thức khởi
công xây lăng vào 2 tháng 9 năm 1973. Cát được lấy từ
suối Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình do người dân tộc Mường đem
về; đá cuội được chuyển từ các con suối vùng Sơn Dương,
Chiêm Hoá, Ngòi Thia, Tuyên Quang...; đá chọn xây lăng
từ khắp các nơi: đá Nhồi ở Thanh Hoá, đá Hoa (Chùa
Thầy), đá đỏ núi Non Nước...; nhân dân dọc dãy Trường
Sơn còn gửi ra 16 loại gồ quí. Các loài cây từ khắp các
miền được mang về đây như: cây chò nâu ở Đen Hùng, hoa
ban ở Điện Biên - Lai Châu, tre từ Cao Bằng... Thanh thiếu
niên còn tổ chức buổi tham gia lao động trong việc mài đá,
nhổ cỏ, trồng cây. Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng, thiết
kế xây lăng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các
chuyên gia Liên Xô đảm nhiệm.

Trên đình lăng là hàng chữ "Chủ tịch Hồ Chí Minh"
ghép bằng đá ngọc màu đỏ thầm. Cửa lăng làm từ các cây
gỗ quý từ Tây Nguyên. Tiền sảnh có dòng chữ "Không có
gì quý hơn Độc lập Tự do" và chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được dát bàng vàng. Hai bên cửa là hai cây hoa đại.
Phía trước và phía sau lăng trồng 79 cây vạn tuế tượng
trưng cho 79 năm trong cuộc đời của Hồ Chủ tịch. Hai bên
phía nam và bắc của lăng là hai rặng tre, loại cây biểu
tượng cho nước Việt Nam. Trước cửa lăng luôn có hai
chiến sĩ cảnh vệ đứng gác.
Chính giữa lăng là thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt
-

17-


trong hòm kính khung bàng gồ quý điêu khấc hoa văn các
đám mây, đặt trên một bục đá. Qua lớp kính trong suốt, thỉ
hài Chủ tịch Hô Chí Minh trong bộ quân áo ka ki, dưới
chân có đặt một đôi dép cao su.
Lăng có hình vuông, mồi cạnh 30 m, cửa quay sang
phía Đông, hai phía Nam và Bắc có hai lễ đài dài 65 m
dành cho khách trong những dịp lễ lớn. Trước lăng là
Quảng trường Ba Đình với một đường dành cho lễ diễu
binh, duyệt binh, và một thảm cò dài 380 m chia thành 240
ô vuông cỏ xanh tươi suốt bốn mùa. Trước mặt lãng là cột
cờ, lá Quốc kỳ được kéo lên vào lúc 6 giờ sáng và hạ xuống
lúc 9 giờ tối hàng ngày. Thẳng tiếp qua sân cỏ là đường
Bắc Sơn, có trồng hoa hồng đỏ và hoa đào. Tận cùng
đường Bắc Sơn là đài Liệt sỹ.

Bên phía tây của quảng trường là khu lưu
tịch Hồ Chí Minh. Tại đây có Viện bảo tàng Hồ
ngôi nhà sàn nơi Người từng sống và làm việc.
tịch Hồ Chí Minh thường có nhiều đoàn khách
thành phố và nước ngoài đến thăm viếng.

niệm Chủ
Chí Minh,
Lăng Chủ
ở các tỉnh

Khách tham quan
Mỗi tuần có hơn 15.000 người đến viếng thăm Lăng
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều cá nhân và đoàn thể đến
viếng lăng vào các ngày lễ, các ngày kỷ niệm quan trọng
của đất nước. Chúng ta có thể cảm nhận được không khí


trang nghiêm ở đây và cả sự tôn kính của nhân dân đối với

Người khi vào lãng viếng Bác.
-

18

-


Hoạt động
Lăne Chủ tịch Hô Chí Minh mờ cửa 5 ngày một tuần,

vào các buổi sántĩ thứ Ba, thứ Tư, thứ Năm, thứ Bảy và
Chủ nhật. Mùa nỏniỉ (từ 1-4 đến 3 ỉ -10): Từ 7h30 đến
i0h30; mùa lạnh (từ 1-ỉ 1 đến 31-3 năm sau): Từ 8h00 đến
1 IhOO; ngàv lễ. thư Bảy, Chủ nhật mở cửa thêm 30 phút.
Hàng năm Lăng đóng cứa để làm nhiệm vụ tu bổ định kỳ
vào 2 tháng: tháng 10 và tháng ỉ 1.
Khách viếng thăm phải tuân theo những yêu cầu như
án mặc chinh tề, không đem máy ảnh tắt máy điện thoại di
động, các chất gây cháy nô... đê đảm bảo công tác an ninh
và giữ trật tự trong lăng.

-

19-


&

đ
m

t ũ &

Q

ý 6

à

&


C



đ i

Cột cờ Hà Nội hay còn gọi Kỳ đài Hà Nội là một kêt
cấu dạng tháp được xây dựng cùng thời với thành Hà Nội
dưới triều nhà Nguyễn (bất đầu năm 1805, hoàn thành năm
1812). Kiến trúc cột cờ bao gồm ba tầng đế và một thân
cột, được coi là một trong những biểu tượng cùa thành phố.
Các tầng đế hình chóp vuông cụt, nhỏ dần, chồng lên
nhau, xung quanh xây ốp gạch.
Tầng 1: Mỗi chiều 42,5 m; cao 3,1 m
Tầng 2: Mỗi chiều 27 m; cao 3,7 m; có 4 cửa, trừ cửa
Bấc, 3 cửa còn lại đều có đẳp 2 chữ tuỳ theo từng hướng:
Cửa Đông - Nghênh Húc (đón nắng ban mai)
Cửa Nam - Hướng Minh (hướng về ánh sáng)
Cửa Tây - Hồi Quang (ánh sáng phản hồi)
Tầng 3: Mỗi chiều 12,8 m; cao 5,1 m
Từ tầng 1 đến tầng 3 đều có cầu thang xoắn dẫn lên.
-

20

-


Trên tầng 3 là thân cột Cờ hình trụ có 8 cạnh thon dần

lên phía trên, mỗi cạnh 2,13 m với thân cao 18,2 m. Trụ
hình thang xoáy trôn ốc gồm 54 bậc; được rọi sáng (và
thông hơi) bằng 39 ô cửa sô hình hoa thị và 6 ô cửa sổ hình
rẻ quạt. Những ô cửa này được đặt dọc các cạnh, mỗi cạnh
có tới 5 hoặc 6 cửa sổ.
Đinh cột
• cờ được
# cấu tạo
« thành một
<* cái lầu hình bát
giác, cao 3,3 m có 8 cửa sổ tương ứng 8 cạnh. Giữa lầu là
một trụ tròn, đường kính 0,4 m và cao đến đỉnh lầu, là chỗ
để cắm cán cờ (cao 8 m).
Toàn phần xây từ đế đến trụ này cao 33,4 m gồm 3
tầng đế cao 12 m, cột cao 18,2 m, lầu 3,3 m. Nếu kể cả trụ
treo cờ thì trên 40 m.
Khi người Pháp phá thành Hà Nội, họ định phá luôn
cột cờ, may mắn là họ không tiến hành việc này, lý do vì họ
muốn biến nó thành đài xem đua ngựa.
Hiện Cột cờ Hà Nội nàm trong khuôn viên của Bảo
tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam (trước đây là Bảo tàng
Quân đội), trên đường Điện Biên Phù, quận Ba Đình. Dưới
chân cột cờ hiện đang được khai thác bởi Highland Cafe
phục vụ khách vào tham quan bảo tàng và du lịch.

-21

-



c

Hhả hát ếàỷn oý€à &CỢỈ
«

Nhà hát Lớn Hà Nội là một nhà hát của Thù đô Hà
Nội, tọa lạc trên Quảng trường Cách mạng tháng Tám, ở
ngã 6 của đường Tràng Tiền, Phan Chu Trinh và Lý Thái
Tổ - Lê Thánh Tông eần hồ Hoàn Kiếm và Bảo tàng lịch sử
Việt Nam. Nhà hát này là một phiên bản nhỏ hơn cua
Opéra Gamier ở Paris và được xây dựng từ 1901 đến 1911.
Đây là một trong các trung tâm văn hóa cùa Thủ đô Hà
Nội, nơi diễn ra thường xuyên các hoạt động văn hóa, biểu
diễn nghệ thuật, ca múa nhạc, hòa nhạc, giao lưu...
Vào năm 1995, Nhà hát Lớn Hà Nội được Chính phủ
đầu tư kinh phí tu bổ lại để chuẩn bị cho Hội nghị Thượng
đỉnh Cộng đồng Pháp ngừ được tổ chức tại Việt Nam vào
năm 1998. vốn của đợt tu bổ này là 156 tỷ đồng. Chù
nhiệm dự án là kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, phương án
kiến trúc của kiến trúc sư Hồ Thiệu Trị.


«1

Kiến trúc
Nhà hát Lớn được khởi công xây dụng ngày 7 tháng 6
-

22-



năm 1901, hoàn thành nãm 1911 theo kiêu thiêt kê nhà hát
ở Châu Âu của các kiên trúc sư ncười Pháp Broyer và
thanh tra đô thị, kiến trúc sư Harlay mang đậm phong cách
kiến trúc cổ điên Châu Âu (thời Phục hưng). Phụ trách thi
cônu chính là Travary và Savelon.
Nhà hát Lớn chiếm diện tích 2600m2, chiều dài 87m,
chiều rộng 30m, đỉnh so với mặt đường ỉà 34m, phòng
khán giả chính có diện tích 24x24m. c ầ u thang giữa lên
tầng hai là một sảnh chính rộng, cầu thang phụ và hành
lang chạy vòng ở hai bên. Đăng sau sân khấu là phòng
quản trị, 18 buồng hoá trang, 2 phòng tập hát, 1 thư viện và
] phòng họp.

Hiện tại sức chứa của nhà hát là 900 ghế, xếp thành 3
tầng được thiết kế theo phong cách cổ điển Pháp thế kỷ
XIX. Trần bên trên phòng khán giả do các hoạ sỹ Pháp vẽ.
Đèn chùm đựợc dát một lớp vàng theo công nghệ mới. Đèn
gấn tròn tường làm bàng đong theo kiểu cổ.
Sành chính: Được lát đá Italy, có màu sắc tạo cảm giác
như được trải tấm thảm lớn, dọc hai bên tường là hệ thống
đòn chùm nhỏ mạ đồng, đèn chùm ở giữa mạ vàng.
Phòng khán giả: Lát gạch chất lượng cao và trải thảm
chống cháy. Tường và trần trang trí bằng các hình vẽ cầu
kỳ của các hoạ sĩ Pháp.
Nhà gương: Là phòng lễ nghi quan trọng thường xuyên
đón tiếp các lãnh đạo cao cấp của Đảng và Nhà nước, các
nguyên thủ quốc gia, được lát bang đá từ Italia.
Hệ thống âm thanh: Dựa trên sự kết hợp với các vật
-


23

-


liệu đã được sử dụng trang trí trên mặt tường, trần, ban
công tạo ra trường âm đồng đều tại mọi vị trí, triệt tiêu
tiếng dội, âm thanh trung thực.
Hệ thống chiếu sáng: Được lấp đặt bàng hệ điều khiển
tự động hoàn toàn, kết hợp với hệ thống tạo khói, nước, lửa
theo thiết kế của hãng Philips, Singapore.
Hệ thống cơ khí sân khấu: Được thiết kế, lắp đặt bởi
hãng AMG của Pháp, bao gồm thiết bị nâng hạ sân khẩu
từng phần, toàn phần, các thiết bị di chuyển phông màn,
hố nhạc
Hệ thống điều hoà không khí: Được lắp đặt sử dụng
thiết bị của hãng Carrier của Mỹ.
Ngoài ra, Nhà hát Lớn Hà Nội còn được bố trí hệ thống
thiết bị an toàn, thông tin nội bộ và phòng cháy chữa cháy
khá hiện đại.

-

24-


íchảnh 6¥éỉaa

Cổ Loa là kinh đô của nhà nước phong kiến Âu Lạc,

dưới thời An Dương Vương vào khoảng thể kỷ thứ 3 trước
Công nguyên và của nhà nước Vạn Xuân dưới thời Ngô
Quyền thế kỷ 10 sau Công nguyên.
Hiện nay, c ổ Loa là một xã thuộc huyện Đông Anh,
Hà Nội.
Bối cảnh địa lý
Vào thời Âu Lạc, c ổ Loa nằm vào vị trí đinh của tam
giác châu thổ sông Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của
đường thủy và đường bộ. Từ đây có thể kiểm soát được cả
vùng đồng bằng lẫn vùng sơn địa. c ổ Loa là một khu đất
đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua
nhiều thế kỷ bị phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con
lạch nhỏ, nhưng xưa kia sông Hoàng là một con sông
nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông Hồng
-25

-


với sông Cầu, con sông lớn nhất trone hệ thône sông Thái
Bình. Như vậy, về phươnti diện tỉiao thông đường thủy, c ổ
Loa có một vị trí vô cùne thuận lợi hơn bât kỳ ờ đâu tại
đồng băng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí noi liền mạng
lưới đường thủy của sông Hônc cùng với mạng lưới đường
thuy của sôna Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này
chi phối toàn bộ hệ thống đườnsĩ thùy tại Bẳc bộ Việt Nam.
Qua con sông Hoàng, thuyền bò có thể tỏa đi khắp nơi. nếu
ngược lên sông Hông là có thê thâm nhập vào vùng Băc
hay Tây Bẳc cùa Bấc Bộ, nêu xuôi sông Hồng, thuyền cỏ
thê ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bac

bộ thì dùng sông cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái
Binh đến tận sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một
vùng đồng bàng trù phú có xóm làng, dân chúng đông đúc,
sổng bằng nghề làm ruộng, đánh cá và thủ công nghiệp.
Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn
phát triển cùa dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển
trung tâm quyền lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định
cư tại vùng đồng bàng. Việc định cư tại đông băng chứng
tỏ một bước tiến lớn trong các lĩnh vực xã hội, kinh tế trong
giao tiêp, trao đôi; con người dề dàng đi lại bằng đường bộ
hay bằng đường thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng
kê về kỹ thuật trồng lúa nước, mức độ dân cư cũng đông
đúc hơn.
Trung tâm quyền lực của các cư dân Việt ở đồng bằng
sông Hồng cũng thể hiện sự phát triển về chiều rộng của
Văn hóa Đông Sơn.
-

26

-


Kiến trúc T hành c ổ Loa
Thành c ồ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là
"tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng
thuộc loại độc đáo nhât trontỉ lịch sử xây dựng thành lũy
cùa nsười Việt cô".
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và

khéo léo các địa hình tự nhiên. Họ tận dụng chiêu cao của các
đoi, gò, đắp thêm đât cho cao hơn đê xây nên 'nai bức tường
thành phía ngoài, vì thế hai bức tườna thành nay có đường
nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường
thane như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây
thành bên cạnh con sông Hoàng đê dùng sông này vừa làm
hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp nước cho toàn bộ
hệ thong hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả
rộng lớn nam ờ phía Đông cũng được tận dụng biến thành
bến cang làm nơi tụ họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yêu dùng để xây thành là đất, sau đó là
đá và gốm vờ. Đá được dùng để kè cho chân thành được
vững chac. Các đoạn thành ven sông, ven đầm được kè
nhiều đá hơn các đoạn khác. Đá kè là loại đá tàng lớn và đá
cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là
những lớp gốm được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là
ờ chân thành và rìa thành đê chống sụt lở. Các cuộc khai
quật khào cô học đã tìm thấy một số lượng gốm không lồ
gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều
loại với độ nung khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ
thấp, có cái được nung rất cao gần như sành. Ngói được
trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
-

27-


T hành c ổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy
trôn ốc, nhưng căn cứ trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa
học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó vòng thành nội rât

có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi ngoài
8 km, vòng giữa 6,5 km, vòng trong 1,6 km, diện tích trung
tâm lên tới 2 km2. Thành được xây theo phương pháp đào
đất đến đâu, khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu, lũy xây
đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong xoài đề
đánh vào thì khó, trong đánh ra thi dề. Lũy cao trung bình
từ 4 m-5 m, có chỗ cao đến 8 m -12 m. Chân lũy rộng 20 m30 m, mặt lũy rộng 6 m-12 m. Khối lượng đất đào đắp ước
tính 2,2 triệu mét khối.
T hành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5 m so với
mặt đất, mặt thành rộng từ 6 m -12 m, chân rộng từ 20 m30 m, chu vi 1.650 m và có một cửa nhìn vào tòa kiến trúc
Ngự triều di quy.
T hành trung là một vòng thành không có khuôn hỉnh
cân xứng, dài 6.500 m, nơi cao nhất là 10 m, mặt thành
rộng trung bình 10 m, có năm cửa ở các hướng đông, nam,

bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông với
sông Hoàng.
Thành ngoài cũng không có hình dáng rõ ràng, dài
hơn 8.000 m, cao trung bình 3 m-4 m (có chồ tới hơn 8 m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài,
hào rộng trung bình từ lOm đến 30m, có chỗ còn rộng hơn.
Các vòng hào đều thông với nhau và thông với sông
-

28

-



×