Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quy định pháp luật Việt Nam về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.76 KB, 15 trang )

Quy định pháp luật Việt Nam về xử lý hành vi cạnh tranh không lành
mạnh

Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bản của nền
kinh tế thị trường. Đảm bảo cạnh tranh tự do và công bằng thường
được coi là giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo môi trường đầu tư
kinh doanh lành mạnh. Tuy nhiên, cạnh tranh bao giờ cũng là thứ
áp lực rất lớn đối với mỗi doanh nghiệp trên thị trường. Để chống
lại đối thủ cạnh tranh, duy trì sự tồn tại, mở rộng thị trường, thu
nhiều lợi nhuận, doanh nghiệp đôi khi sử dụng các phương pháp
cạnh tranh không lành mạnh, có thể ảnh hưởng, gây thiệt hại cho
người tiêu dùng, cho doanh nghiệp khác và môi trường cạnh tranh
lành mạnh. Do đó, yêu cầu tất yếu là sự ra đời hệ thống pháp luật
cạnh tranh nói chung và các quy định về xử lí hành vi cạnh tranh
không lành mạnh nói riêng để có thể xử phạt nghiêm khắc và tiến
tới xóa bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, công bằng, đẩy nhanh tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Nắm được tầm quan trọng của vấn đề này, em xin
lựa chọn đề bài: “Quy định pháp luật VN về xử lí hành vi cạnh
tranh không lành mạnh” để trình bày những hiểu biết của em
về vấn đề này. Trong quá trình tìm hiểu, em khó tránh khỏi sai sót,
kính mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm của em
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
NỘI DUNG
1. CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÍ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH


1.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1. Khái niệm hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của


doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng (Theo khoản 4, Điều 3
Luật cạnh tranh năm 2004).
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có những đặc điểm cơ bản
sau:
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh do
các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện nhằm mục đích
lợi nhuận.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi có tính
chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức
kinh doanh, có thể hiểu là những quy tắc xử sự chung đã được
chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị
trường.
- Hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc của người tiêu dùng.
1.1.2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh


Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại Điều 39
Luật cạnh tranh bao gồm:
- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
- Xâm phạm bí mật kinh doanh;
- Ép buộc trong kinh doanh;
- Gièm pha doanh nghiệp khác;
- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

- Phân biệt đối xử của hiệp hội;
- Bán hàng đa cấp bất chính;
- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác
định tại khoản 4 Điều 3 của Luật Cạnh tranh năm 2004 do Chính
phủ quy định.
1.1.3. Xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi gây nguy hại cho
xã hội, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, cho các đối thủ cạnh
tranh nói riêng và cho môi trường cạnh tranh nói chung. Vì thế,
Nhà nước áp dụng các chế tài phù hợp là tổng hợp các biện pháp
xử lý buộc các chủ thể đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do
đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho các
chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác. Các chế tài này nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, chống lại
hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp đối
thủ; bảo vệ quyền lợi của cho khách hàng; là công cụ góp phần tạo
lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng,
công bằng.


1.2. Quy định của pháp luật về xử lí hành vi cạnh tranh không lành
mạnh
1.2.1. Thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 49 Luật cạnh tranh và Điều 40
Nghị định 71/2014/NĐ-CP, thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh
không lành mạnh thuộc về cơ quan quản lí cạnh tranh (cụ thể từ
Điều 40 đến Điều 48 Luật cạnh tranh). Căn cứ Nghị định
99/2013/NĐ-CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực sở hữu công nghiệp thì thanh tra Khoa học và Công nghệ có
thẩm quyền xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Riêng hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn
và hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ được quy định ở cả
Luật cạnh tranh và luật sở hữu trí tuệ nên thẩm quyền xử lý thuộc
cả hai cơ quan là cục quản lý cạnh tranh và thanh tra khoa học và
công nghệ. Trường hợp này, chủ thể có quyền có thể lựa chọn một
trong các cơ quan để yêu cầu giải quyết, hoặc nếu đồng thời nộp
đơn yêu cầu nhiều cơ quan có thẩm quyền thì cơ quan thụ lý đầu
tiên có thẩm quyền giải quyết.
1.2.2. Trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
1.2.2.1. Căn cứ xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Thứ nhất, phải có hành vi cạnh tranh không lành mạnh: Hành vi
cạnh tranh có bản chất là hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh,


hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất
hợp pháp hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.
Thứ hai, phải có thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh. Thiệt
hại là một đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và là điểm phân biệt giữa cạnh tranh không lành mạnh với
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việc xác định thiệt hại là một yêu
cầu bắt buộc và cần thiết để bên bị hại có căn cứ đòi bồi thường
và cơ quan có thẩm quyền áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và thiệt hại. Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực tiếp, không phải là sự suy
diễn chủ quan. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi
diễn ra trước, thiệt hại trực tiếp do hành vi đó gây ra xảy ra sau.
Bên thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ phải chịu
trách nhiệm pháp lý và các chế tài tương ứng khi gây ra thiệt hại

nhất định cho đối thủ cạnh tranh, mà nguyên nhân trực tiếp là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh của mình.
Thứ tư, phải có lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh. Lỗi là trạng
thái tâm lý của người có hành vi vi phạm, phản ánh nhận thức của
người đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện.
Hành vi cạnh tranh bị coi là có lỗi và không lành mạnh là hành vi vi
phạm các tập quán nghề nghiệp, phá vỡ quan hệ bình đẳng, công
bằng trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường.
1.2.2.2. Các hình thức xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh


Các hình thức xử phạt hành chính: Theo Điều 3 Nghị định
71/2014/NĐ-CP thì đối với mỗi hành vi vi phạm, tổ chức cá nhân vi
phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính cảnh cáo
hoặc phạt tiền. Mức tiền phạt tối đa đối với hành vi vi phạm quy
định về cạnh tranh không lành mạnh là 100.000.000 đồng đối với
cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức. Mức tiền phạt cụ thể
đối với một hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành
mạnh và vi phạm pháp luật về cạnh tranh khác là mức trung bình
của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó; nếu có tình
tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không
được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết
tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên nhưng không được
vượt quá mức tiền phạt tối đa của khung tiền phạt. (Điều 5 Nghị
định 71/2014). Mục 4 Chương II Nghị định 71/2014 có quy định
từng mức phạt cụ thể đối với từng hành vi cạnh tranh không lành
mạnh từ Điều 28 đến Điều 36 nhằm hướng dẫn chi tiết mức phạt
đối với các hành
vi vi phạm cụ thể.
Các hình thức xử phạt bổ sung: tùy theo tính chất, mức độ vi

phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh còn có
thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung như: Thu
hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề; Tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh bao gồm cả tịch
thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
Các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 3
Nghị định 71/2004, theo đó khi hành vi cạnh tranh không lành
mạnh gây ra những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên có


quyền thì phải bồi thường thiệt hại nhằm khôi phục, đền bù nhằm
bù đắp những tổn thất đó. Khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì dẫn chiếu đến
pháp luật dân sự, cụ thể là áp dụng theo các quy định về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Chương XXI của Bộ
luật Dân sự năm 2005).
Bên cạnh các biện pháp xử lý hành chính và dân sự nói trên, các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự với các tội danh như: Tội sản xuất, buôn bán hàng
giả (Điều 156 BLHS), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương
thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157
BLHS), tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn
nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây
trồng, vật nuôi (Điều 158 BLHS); tội lừa dối khách hàng (Điều 162
BLHS); tội quảng cáo gian dối (Điều 168 BLHS). Các tội danh này
thường có hình phạt là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt
tù có thời hạn. Quy định này của pháp luật đã phần nào thể hiện
tính răn đe mạnh mẽ của Nhà nước.
2. THỰC TIỄN XỬ LÝ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH VÀ

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
2.1. Thực tiễn xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Để tìm hiểu thực tiễn xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
em xin trình bày về tình hình xử lý các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh năm 2013 bởi báo cáo thường niên của Cục quản lý
cạnh tranh năm 2014 chưa được công bố. Theo báo cáo thường
niên của Cục quản lý cạnh tranh năm 2013 thì trong năm 2013,


Cục QLCT đã tiến hành điều tra và xử lý 24 vụ việc liên quan đến
hành vi cạnh tranh không lành mạnh (trong đó có 03 vụ việc được
khởi xướng trong năm 2013 và kết thúc điều tra 21 vụ việc được
khởi xướng trong năm 2012) cụ thể như sau:
- Đối với 03 vụ việc được khởi xướng điều tra trong năm 2013, có
02 vụ việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh do Cục QLCT khởi xướng và 01 vụ liên quan đến
hành vi bán hàng đa cấp bất chính. »
- Đối với 21 vụ việc được khởi xướng trong năm 2012, có 17 vụ
việc liên quan đến hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành
mạnh; 03 vụ liên quan đến hành vi bán hàng đa cấp bất chính và
01 vụ liên quan đến hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khác.
Trong tổng số 24 vụ việc đã kết thúc điều tra trong năm 2013, Cục
đã ra quyết định xử lý đối với 20 vụ việc, thu về ngân sách nhà
nước tổng số tiền phạt và án phí xử lý vụ việc cạnh tranh tổng
cộng 650.000.000 đồng (Sáu trăm năm mươi triệu đồng).
Bảng thống kê điều tra vụ việc cạnh tranh không lành mạnh
Các loại hành vi cạnh tranh không lành mạnh 2009 2010 2011
2012 2013
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành 5 20 33 17 2

Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh 2 2
Gièm pha doanh nghiệp khác 4 1 2
Chỉ dẫn gây nhầm lẫn 1
Bán hàng đa cấp bất chính 3 4 1 3 1
Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác

1


Tổng số 14 28 36 21 3
So những năm trước, số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh do
Cục QLCT xử lý trong năm 2013 giảm mạnh do gặp vướng mắc về
cơ sở pháp lý liên quan đến thẩm quyền xử phạt hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Trước đây Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính 2002 sửa đổi bổ sung năm 2008 đã quy định thẩm quyền
phạt tiền tối đa của Cục trưởng Cục QLCT (thủ trưởng cơ quan
quản lý cạnh tranh) là 70 triệu đồng. Tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm
hành chính có hiệu lực từ tháng 7/2013 đã không quy định thẩm
quyền của Cục trưởng Cục QLCT. Điều này khiến cơ quan quản lý
cạnh tranh gặp vướng mắc về thẩm quyền xử lý và phải tạm
ngừng công tác xử lý các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh để
tập trung hoàn thiện cơ sở pháp lý. Hiện nay, Nghị định số
71/2014/NĐ-CP đã có hiệu lực và thay thế Nghị định số
120/2005/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh
tranh đã làm rõ vấn đề thẩm quyền xử lý, xử phạt hành vi cạnh
tranh không lành mạnh của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh
tranh.
Qua thực tiễn các hoạt động kinh doanh diễn ra trên thị trường, có
thể thấy, số lượng vụ việc do Cục Quản lý cạnh tranh xử lý còn
chưa nhiều so với thực tế các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh

đã xảy ra ảnh. Số lượng các vụ việc liên quan đến cạnh tranh
không lành mạnh do các cơ quan khác xử lý cũng hạn chế, các
biện pháp xử phạt hành chính vẫn chưa đủ tác dụng răn đe doanh
nghiệp. Nhà nước chỉ coi những hành vi xâm hại quyền lợi của
người tiêu dùng là tội phạm và áp dụng chế tài hình sự khi hành vi
đó có tính chất nguy hiểm cao, gây tổn hại nghiêm trọng cho tính
mạng, sức khoẻ và tài sản của viười tiêu dùng. Để có thể áp dụng


chế tài hình sự cho người vi phạm, buộc phải chứng minh được các
yếu tố cấu thành tội phạm, điều đó không phải là đơn giản. Trong
khi đó, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại xảy ra khá phổ
biến và đã gây ra không ít tổn hại cho người tiêu dùng. Do đó,
quyền lợi của người tiêu dùng cần thiết phải có sự bảo vệ của các
chế tài hình sự, nhằm tránh sự xâm hại của các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
2.2. Đánh giá và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2.2.1. Ưu điểm
- Pháp luật về xử lý cạnh tranh không lành mạnh đã tương đối toàn
diện. Điều 9 Luật Cạnh tranh đã liệt kê 9 hành vi cạnh tranh bị coi
là không lành mạnh và quy định cấu thành pháp lý của chúng
cũng như các biện pháp, trình tự xử lý cụ thể, ngoài ra khoản 10
Điều 39 Luật cạnh tranh còn có quy định: “Các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại khoản 3 Điều 4
của Luật này do Chính phủ quy định” để pháp luật có thêm những
quy định nhằm ngăn chặn, xử lý thích hợp trong trường hợp thực
tiễn thương mại xuất hiện các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh mới.
- Các chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính

đa dạng bao gồm hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ
sung, các biện pháp khắc phục hậu quả, chế tài bồi thường thiệt
hại… giúp cơ quan xử lý có thể lựa chọn những hình thức xử lý phù
hợp để áp dụng vào những vụ việc cụ thể đồng thời đạt được
những mục đích khác nhau của việc áp dụng chế tài.


- Chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính cụ
thể. Hình thức phạt tiền đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh được áo dụng theo quy định của pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính, theo đó mức tiền được ấn định trước và được
quy định theo khung tiền phạt. Quy định về mức tiền phạt cụ thể
như thế này có ưu điểm là dễ áp dụng trên thực tế, khi có hành vi
vi phạm, cơ quan nhà nước chỉ cần đưa ra mức phạt tiền trong
phạm vi khung tiền phạt đó.
2.2.2. Hạn chế và các một số kiến nghị nhằm nângcao hiệu quả
trong xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật.
- Chế tài phạt tiền còn nhiều bất cập, tuy đã được sửa đổi trong
Nghị định 71/2014/NĐ-CP nhưng quy định khung tiền phạt thường
nhanh chóng lạc hậu theo thời gian và không mang nhiều tính răn
đe với các đối tượng vi phạm bởi có thể thấy, trên thực tế, những
hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể mang lại lợi ích cho
doanh nghiệp nhiều hơn số tiền phạt họ phải gánh chịu. Bên cạnh
đó, còn tồn tại sự không thống nhất mức phạt giữa các quy định
pháp luật đối với cùng hành vi vi phạm. Ví dụ, liên quan đến hành
vi quảng cáo gian dối, sai sự thật về chất lượng hàng hóa đã đăng
kí (có thể nhằm cạnh tranh không lành mạnh) có 2 văn bản quy
định về xử phạt vi phạm hành chính với chủ thể có hành vi vi
phạm. (i) Hành vi quảng cáo đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm

lẫn cho khách hàng bị xử lý theo Điều 33 Nghị định 71/2014/NĐ-CP
với mức phạt tiền 80.000.000 đến 140.000.000 đồng. (ii) Hành vi
quảng cáo lừa dối, gây nhầm lẫn cho công chúng, người tiêu dùng,


khách hàng hoặc lừa dối, gây nhầm lẫn về tính năng, công dụng
của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo thì bị xử phạt
theo Điều 51 Nghị định 158/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo
với mức phạt từ 50.000.000 đến 70.000.000 đồng. Sự khác biệt về
mức tiền phạt có thể tạo nên sự thiếu công bằng khi áp dụng các
văn bản pháp luật khác nhau để xử lý cùng một hành vi có mức độ
như nhau, do đó cần phải có được sự thống nhất giữa các lĩnh vực
pháp luật khác nhau khi xử lý các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh.
- Bên cạnh sự thống nhất đó, cũng cần đảm bảo tính toàn diện,
thống nhất trong hệ thống pháp luật để tạo cơ sở cho việc xử lý
hành vi vi phạm. Như: việc liệt kê các hành vi hạn chế cạnh tranh
và thêm điều khoản mở tại khoản 10 Điều 39 Luật cạnh tranh như
phân tích ở trên tuy có những ưu điểm nhưng cũng còn những hạn
chế trong việc thực thi. Bởi, trên thực tế, khi có hành vi đáp ứng đủ
các tiêu chí tại khoản 3 Điều 4 có thể xác định là hành vi cạnh
tranh không lành mạnh nhưng hành vi đó lại chưa được Chính phủ
quy định thì việc xử lý lại gặp khó khăn. Do đó, theo em, nên bỏ
cụm từ “do Chính phủ quy định” để những hành vi cạnh tranh
không lành mạnh phát sinh mới trên thực tế pháp luật chưa kịp
thời điều chỉnh thì vẫn bị xử phạt theo quy định của luật cạnh
tranh. Tiếp nữa, cần bổ sung các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh vi phạm nhãn hiệu hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp vào
nhóm hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn; làm rõ các dấu hiệu nhận

diện đối với biểu tượng, khẩu hiệu kinh doanh; cần có văn bản
hướng dẫn, quy định các dấu hiệu nhận diện hành vi nói xấu, gièm
pha doanh nghiệp khác để phân biệt và xác định ranh giới với
quyền tự do ngôn luận, tự do phê bình; bổ sung quy định về hành


vi bán hàng hóa hoặc dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm cạnh
tranh không lành mạnh (bán phá giá) vào nhóm hành vi cạnh
tranh không lành mạnh... bởi pháp luật cạnh tranh còn chưa quy
định cụ thể, rõ ràng nên việc xử lý các hành vi này chưa có hiệu
quả
- Quy định rõ chế tài bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh
không lành mạnh gây ra, bởi quy định dẫn chiếu sang dân sự như
hiện hành khiến cơ quan có thẩm quyền xử lý gặp khó khăn trong
giải quyết, khiến các chủ thể có quyền cũng gặp khó khăn trong
việc xác định chính xác lợi ích chính đáng của mình. Theo đó, cần
quy định rõ về chủ thể và mức bồi thường thiệt hại cũng như cách
xác định thiệt hại một cách cụ thể, rõ ràng.
- Theo em, cũng cần áp dụng hòa giải trong giải quyết các vụ việc
cạnh tranh để phù hợp với thực tế, có thể đạt hiệu quả cao hơn
dùng các chế tài mạnh mẽ.
Thứ hai, cần nâng cao năng lực của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Cụ thể như tăng cường công tác đào tạo cán bộ chuyên
trách giải quyết các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh, nhất là
các điều tra viên để bổ sung lực lượng cho cơ quan quản lý cạnh
tranh, bồi dưỡng cho đội ngũ Thẩm phán những kiến thức, kinh
nghiệm cần thiết cho việc xử lý các vụ kiện về cạnh tranh không
lành mạnh, xây dựng các chương trình trao đổi, hợp tác với các
nước có nền kinh tế thị trường phát triển và có nhiều kinh nghiệm
trong lĩnh vực đấu tranh chống cạnh tranh không lành mạnh. Trên

thực tế, số cán bộ chuyên trách giải quyết các vụ việc cạnh tranh
không lành mạnh không nhiều, so với những hành vi cạnh tranh
không lành mạnh vẫn là con số quá ít ỏi, hơn nữa, thời gian tối đa


quy định cho việc xử lý cũng không nhiều nên cần có những quy
định cụ thể hơn về thời gian tối đa cho phù hợp để việc xử lý các
hành vi được thực hiện có hiệu quả hơn.
Thứ ba, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng
cao văn hóa pháp lý cho các chủ thể tham gia cạnh tranh và người
tiêu dùng. Đối tượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về
cạnh tranh không lành mạnh trước hết là cộng đồng doanh nghiệp
và các hiệp hội ngành nghề kinh tế, sau đó là người tiêu dùng
trong toàn xã hội. Nhà nước cũng cần có những hình thức tuyên
truyền, phổ biến những quy định liên quan đến trình tự, thủ tục
khiếu nại, khởi kiện đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh;
tổng kết kinh nghiệm xử lý các vụ khiếu nại, khiếu kiện; công khai
những vụ việc đã được xử lý và các chế tài đã áp dụng đối với các
doanh nghiệp vi phạm trên các phương tiện truyền thông để giáo
dục, răn đe các doanh nghiệp khác.
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay
về xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có thể thấy quy định
của pháp luật đã khá hoàn thiện và bao quát được hầu hết các vấn
đề liên quan. Tuy nhiên, cũng còn thể hiện một số bất cập do chưa
theo kịp và dự liệu được hết các trường hợp có thể xảy ra trên thực
tế. Do đó, yêu cầu đặt ra là hoàn thiện quy định pháp luật một
cách toàn diện hơn và để các quy định đó được thực hiện có hiệu
quả trên thực tế, yêu cầu phải nâng cao trình độ cán bộ có thẩm
quyền trong xử lý cũng như nâng cao hiểu biết cũng như ý thức

của các doanh nghiệp và người tiêu dùng để có được môi trường
cạnh tranh hoàn hảo, thúc đẩy phát triển kinh tế.




×