Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

BÁO cáo CHUYẾN THAM QUAN THỰC tế CHUYÊN môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.15 KB, 12 trang )

BÁO CÁO CHUYẾN THAM QUAN THỰC TẾ CHUYÊN MÔN
KHOA THIẾT KẾ THỜI TRANG

Tour du lịch: Hà Nội – Huế - Đà Nẵng – Quảng Bình – Hà Nội
Độ dài tour: 6 ngày 5 đêm
Thời gian: 8-13/5/2016

Bài báo cáo gồm 3 phần:
Mô tả tổng quát về chuyến đi
Cảm nhận về chuyến đi
Đánh giá về chuyến đi


1. MÔ TẢ TỔNG QUẤT VỀ CHUYẾN ĐI
1.1.
Giới thiệu về đoàn:

Đoàn gồm 200 sinh viên của khoa Thiết kế thời trang, và các thầy cô giáo của
khoa thuộc trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương
1.2.

Mục đinh của chuyến đi:

Chuyển đi nhằm cung cấp cho sinh viên những kiến thức thực tế, so sánh với
những lý thuyết đã được học trên giảng đường trong 3 năm học nhằm có cái
nhìn chi tiết hớn về mỹ thuật và con người ở nơi đây.
Chuyến tham quan thực tế cũng là cơ hội để củng cố tình đồn kết của tập thể
lớp, là dịp để giao lưu tình cảm thầy trị, giúp cho sinh viên mở rộng tầm mắt
và khám phá được tài nguyên du lịch và vẻ đẹp, văn hóa của Việt Nam, đây
chính là cơ sở bước đầu cho hoạt động của sinh viên trong ngành thiết kế thời
trang khi ra trường.


1.3.

Lịch trình chuyến tham quan thực tế:

Ngày 1: Hà Nội – Tp Huế
Ngày 2: Tp Huế
Ngày 3-4: Huế - Đà Nẵng- Hội An
Ngày 5: Đà Nẵng – Quảng Bình
Ngày 6: Quảng Bình – Hà Nội

2. CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN ĐI:
Nhìn chung chuyến đi mang lại nhiều kiến thức bổ ích, rất thiết thực, hoạt
động tổ chức tốt, tuyến điểm hấp dẫn, hoạt động vui chơi ăn uống và nghỉ
ngơi tương đối hợp lý.
2.1 Hoạt động tổ chức
- Công tác chuẩn bị tốt: phương tiện vận chuyển đảm bảo sự an toàn, rộng
rãi, các đồ dung, thực phẩm đầy đủ


- Cơng tác điều hành tốt: khoa học, nhiệt tình, hào hứng trong chuyến tham
quan, thời gian được bố trí hợp lý.

2.2. Các điểm tham quan:


Huế - di sản văn hóa thế giới

Trong gần 400 năm (1558-1945), Huế đã từng là Thủ phủ của 9 đời chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, là Kinh đô của triều đại Tây Sơn, rồi đến Kinh đô của
quốc gia thống nhất dưới 13 triều vua Nguyễn. Cố đơ Huế ngày nay vẫn cịn

lưu giữ trong lịng những di sản văn hóa vật thể và phi vật thể chứa đựng
nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt Nam. Suốt
mấy thế kỷ, bao nhiêu tinh hoa của cả nước được chắt lọc hội tụ về đây hun
đúc cho một nền văn hóa đậm đà bản sắc để hồn chỉnh cho một bức cảnh
thiên nhiên tuyệt vời sẵn bày sông núi hữu tình thơ mộng. Bởi vậy, nói đến
Huế, người ta nghĩ ngay đến những thành quách, cung điện vàng son, những
đền đài miếu vũ lộng lẫy, những lăng tẩm uy nghiêm, những danh lam cổ tự
trầm tư u tịch, những thắng tích thiên nhiên thợ trời khéo tạc...

Ngọ Mơn nhìn từ điện Thái Hòa

Trên nền tảng vật chất và tinh thần đã được hình thành ở Huế từ đầu thế kỷ
XIV (khi vua Chăm là Chế Mân dâng hai Châu Ơ, Rí cho nhà Trần để làm sính
lễ cưới cơng chúa Huyền Trân), các chúa Nguyễn (thế kỷ XVI-XVIII), triều đại
Tây Sơn (cuối thế kỷ XVIII) và 13 đời vua Nguyễn (1802-1945) đã tiếp tục
phát huy và gây dựng ở vùng Huế một tài sản văn hóa vơ giá. Tiêu biểu nhất
là Quần thể di tích của Cố đơ đã được sánh ngang hàng với các kỳ quan hằng


ngàn năm tuổi của nhân loại trong danh mục Di sản Văn hóa thế giới của
UNESCO.
Nằm giữa lịng Huế, bên bờ Bắc của con sông Hương dùng dằng chảy xuyên
qua từ Tây sang Đông, hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ
trung ương tập quyền Nguyễn vẫn đang sừng sững trước bao biến động của
thời gian. Đó là Kinh thành Huế, Hồng thành Huế, Tử cấm thành Huế, ba tịa
thành lồng vào nhau được bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên suốt từ
mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở
đây là một mẫu mực của sự kết hợp hài hòa
nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và
Tây, được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên kỳ tú với nhiều yếu tố biểu

tượng sẵn có tự nhiên đến mức người ta mặc nhiên xem đó là những bộ phận
của Kinh thành Huế - đó là núi Ngự Bình, dịng Hương Giang, cồn Giã Viên,
cồn Bộc Thanh... Nhìn từ phía ngược lại, những cơng trình kiến trúc ở đây
như hịa lẫn vào thiên nhiên tạo nên những tiết tấu diệu kỳ khiến người ta
quên mất bàn tay con người đã tác động lên nó.
Hồng thành giới hạn bởi một vịng tường thành gần vuông với
mỗi chiều xấp xỉ 600m với 4 cổng ra vào mà độc đáo nhất thường
được lấy làm biểu tượng của Cố đơ: Ngọ Mơn, chính là khu vực hành
chính tối cao của triều đình Nguyễn. Bên trong Hồng thành, hơi dịch
về phía sau, là Tử cấm thành - nơi ăn ở sinh hoạt của Hoàng gia.
Xuyên suốt cả ba tịa thành, khi thì lát đá cụ thể khi thì mang tính
ước lệ, con đường Thần đạo chạy từ bờ sơng Hương mang trên mình
những cơng trình kiến trúc quan yếu nhất của Kinh thành Huế: Nghinh
Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Mơn, điện Thái Hịa, điện Cần Chánh,
điện Càn Thành, cung Khôn Thái, lầu Kiến Trung... Hai bên đường Thần đạo
này là hàng trăm cơng trình kiến trúc lớn nhỏ bố trí cân đối đều đặn, đan xen
cây cỏ, chập chờn khi ẩn khi hiện giữa những sắc màu thiên nhiên, luôn tạo
cho con người một cảm giác nhẹ nhàng thanh thản.
Xa xa về phía Tây của Kinh thành, nằm hai bên bờ sông Hương,
lăng tẩm của các vua Nguyễn được xem là những thành tựu của nền
kiến trúc cảnh vật hóa. Lăng vua đơi khi lại là một cõi thiên đường
tạo ra cho chủ nhân hưởng thú tiêu dao lúc cịn sống, rồi sau đó mới
trở thành cõi vĩnh hằng khi bước vào thế giới bên kia. Hàm nghĩa
như vậy nên kiến trúc lăng tẩm ở đây mang một phong thái hoàn
toàn riêng biệt của Việt Nam.
Mỗi lăng vua Nguyễn đều phản ánh cuộc đời và tính cách của vị chủ nhân
đang yên nghỉ: lăng Gia Long mộc mạc nhưng hoành tráng giữa núi rừng
trùng điệp khiến người xem cảm nhận được hùng khí của một chiến tướng
từng trải trăm trận; lăng Minh Mạng uy nghi bình chỉnh đăng đối giữa rừng



núi hồ ao được tơn tạo khéo léo, hẳn có thể thấy được hùng tâm đại chí của
một chính trị gia có tài và tính cách trang nghiêm của một nhà thơ quy củ;
lăng Thiệu Trị thâm nghiêm, vừa thâm trầm u uẩn giữ chốn đồng không
quạnh quẽ, cũng thể hiện phần nào tâm sự của một nhà thơ siêu việt trên văn
đàn song khơng nối được chí tiền nhân trong chính sự; lăng Tự Đức thơ mộng
trữ tình được tạo nên chủ yếu bằng sự tinh tế của con người, phong cảnh nơi
đây gợi cho du khách hình ảnh của một tao nhân mang nặng nỗi niềm trắc ẩn
bởi tâm huyết của một nhà vua không thực hiện được qua tính cách yếu ớt
của một nhà thơ...


Phố cổ Hội An:

Hội An là một thị xã cổ của người Việt, nằm ở vùng hạ lưu ngã ba sông Thu
Bồn thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà
Nẵng khoảng 30km về phía nam. Hội An từng được biết đến trên thương
trường quốc tế với nhiều tên gọi khác nhau như Lâm Ấp, Faifo, Hoài Phố và
Hội An.
Là một kiểu cảng thị truyền thống Đông Nam Á duy nhất ở Việt Nam, hiếm có
trên thế giới, Hội An giữ được gần như nguyên vẹn hơn một nghìn di tích kiến
trúc như phố xá, nhà cửa, hội quán, đình, chùa, miếu, nhà thờ tộc, giếng cổ,
mộ cổ... Các kiến trúc vừa có sắc thái nghệ thuật truyền thống của Việt Nam,
vừa thể hiện sự giao lưu hội nhập văn hố với các nước phương Đơng và
phương Tây. Trải qua nhiều thế kỷ, những phong tục tập quán, nghi lễ, sinh
hoạt văn hố, tín ngưỡng cũng như các món ăn truyền thống vẫn lưu giữ, bảo
tồn cùng với bao thế hệ người dân phố cổ. Hội An cịn có một môi trường
thiên nhiên trong lành, êm ả với những làng nhỏ ngoại ơ xinh xắn, có nghề
thủ cơng như mộc, làm đồ đồng, gốm…
Các nhà nghiên cứu cho rằng kiến trúc cổ ở Hội An hầu hết được làm lại mới

từ đầu thế kỷ 19, mặc dù năm khởi dựng có thể xưa hơn nhiều. Kiến trúc cổ
thể hiện rõ nhất ở khu phố cổ. Nằm trọn trong địa bàn của phường Minh An,
Khu phố cổ có diện tích khoảng 2km², tập trung phần lớn các di tích nổi tiếng
ở Hội An. Đường phố ở khu phố cổ ngắn và hẹp, có độ uốn lượn, chạy ngang
dọc theo kiểu bàn cờ. Địa hình khu phố cổ có dạng nghiêng dần từ bắc xuống
nam. Các cơng trình kiến trúc trong khu phố cổ được xây dựng hầu hết bằng
vật liệu truyền thống: gạch, gỗ và khơng có nhà q hai tầng. Du khách dễ
nhận ra dấu vết thời gian không chỉ ở kiểu dáng kiến trúc của mỗi cơng trình
mà có ở mọi nơi: trên những mái nhà lợp ngói âm dương phủ kín rêu phong
và cây cỏ; những mảng tường xám mốc, xưa cũ; những bức chạm khắc về một
con vật lạ hay diễn tả một câu chuyện cổ... Nơi đây hẳn đã thu hút được các


nghệ nhân tài hoa về nghề mộc, nề, gốm sứ của người Hoa, người Nhật,
người Việt, người Chăm... cho nên mỗi cơng trình để lại hơm nay cịn in dấu
ấn văn hoá khá đa dạng, phong phú của nhiều dân tộc.
Trong nhiều thế kỷ, Hội An đã từng là nơi gặp gỡ, giao lưu của nhiều nền văn
hoá khác nhau trên thế giới. Bên cạnh những phong tục tập quán bản địa của
người Việt cịn có thêm những tập tục của cộng đồng cư dân nước ngoài đến
định cư như tục thờ đá; thờ Cá Ông của cư dân ven biển Trung bộ; thờ các
hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, sấm, sét hay vật thiêng (cây cổ thụ),...
Cộng đồng người Hoa ở Hội An có tục thờ các vị thần bảo trợ như Thiên Hậu,
Quan Công, Bảo Sinh Đại Đế, Quan Âm Bồ Tát. Họ thường xuyên tổ chức các
kỳ lễ hội hay sinh hoạt văn hố tín ngưỡng khác trong các ngày vía thần như
tết Nguyên Tiêu (16/1 âm lịch), Thanh Minh (tháng 3 âm lịch), Đoan Ngọ
(5/5 âm lịch), Trung Thu (15/8), Trùng Cửu (9/9 âm lịch), Hạ Nguyên (15/10
âm lịch).
Những yếu tố về mặt xã hội cũng như văn hoá đa dạng này tạo nên nét riêng
cho cộng đồng cư dân ở Hội An.
Người Hội An vốn giàu truyền thống văn hoá lại sớm giao lưu với thế giới bên

ngồi, khơng biết tự bao giờ đã hình thành một bản sắc văn hố độc đáo
riêng và được giữ gìn, bảo tồn qua bao thế hệ cho đến hôm nay. Cuộc sống
của con người nơi đây thiên về nội tâm, phảng phất nét trầm lắng. Với họ đơ
thị Hội An như một mái nhà lớn cổ kính mà trong đó đang chung sống một
đại gia đình đơng đúc con cháu với những người thị dân hiền hoà gần gũi và
hiếu khách; những chủ gia đình ân cần, thân thiện; những phụ nữ dịu dàng,
khéo tay, nhân hậu; những trẻ em lễ độ, ngoan ngoãn... tạo nên một cộng
đồng cư dân hồ thuận sống bình dị, êm đềm bên nhau qua bao thế hệ và cứ
như vậy tiếp nối.
Sự phong phú, đa dạng về tâm hồn giàu bản sắc văn hố của người Hội An
cịn được biểu hiện ở các món ăn truyền thống như cao lầu, hồnh thánh,
bánh tổ, bánh ít gai... từ bao đời nay vẫn được lưu truyền để hôm nay thực
khách bốn phương vẫn có cơ may được thưởng thức. Cuộc sống đã bao đổi
thay qua năm tháng nhưng người Hội An không bị mất đi những điệu hò
quen thuộc, những lễ hội văn hố đã có từ ngàn xưa, tất thảy vốn cổ ở đây
đều được trân trọng giữ gìn... Một đêm hội được tổ chức hằng tháng vào tối
14 âm lịch và đây cũng là dịp du khách khắp nơi được sống trong bầu khơng
khí mang đậm bản sắc truyền thống của Hội An.


Tại kỳ họp thứ 23 từ ngày 29/11 đến 4/12/1999 ở Marrakesh (Maroc), Tổ
chức Văn hoá - Khoa học - Giáo dục Liên hiệp quốc (UNESCO) đã ghi tên Hội
An vào danh mục các Di sản Văn hố Thế giới.



Chùa Linh Ứng

Chùa Linh Ứng Sơn Trà được xem là cõi Phật giữa chốn trần gian. Chùa nằm
trên đỉnh núi thuộc Bãi Bụt, bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng (nhiều người gọi là

Chùa Linh Ứng Bãi Bụt hoặc là Chùa Linh Ứng Sơn Trà - vì Đà Nẵng có đến 3
Chùa Linh Ứng) hướng nhìn ra biển Đơng, một bên là đảo Cù lao Chàm, phía
bên kia là ngọn Hải Vân phía cịn lại là dịng sơng Hàn n ả đang đổ về cửa
biển.
Chùa Linh Ứng - Bãi Bụt sừng sững trên khu đất rộng 20 ha của núi Sơn Trà
với những hạng mục chánh điện, nhà tổ, giảng đường, tăng đường, thư viện,
nhà ăn, nhà cầu, vườn tượng các vị A-la-hán và hiện cịn xây dựng cơng trình
chưa hồn tất. Ngôi chùa mang một phong cách hiện đại kết hợp với tính
truyền thống vốn có của chùa chiền Việt Nam.
Ngơi chánh điện được lợp ngói mái uốn cong có hình rồng, những cột trụ to,
vững chắc bao quanh bởi những con rồng uốn lượn rất tinh xảo. Đây là một
biểu tượng truyền thống muôn đời nay của dân tộc ta. Điện chính có sức chứa
lớn, là nơi trang nghiêm và thanh tịnh nhất. Chính giữa thờ tượng Phật Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni, bên phải thờ Quan Thế Âm Bồ Tát, và bên trái thờ Địa
Tạng Vương Bồ Tát, cả ba pho tượng đều được làm bằng đồng. Bốn vị Thần
Long Hộ pháp cùng 18 vị La Hán được sắp xếp thành hai hàng hai bên đường
theo một quy luật, bảo vệ cho chính điện. Mỗi vị là một hiện thân của những
cung bậc cảm xúc khác nhau "hỉ, nộ, ái, ố" của con người khiến khung cảnh ở
đây trở nên sinh động vô cùng. Đây là một trật tự mang tính quy củ và ý
nghĩa tâm linh. Du khách nào từng đặt chân đến chùa Linh Ứng đều không
khỏi trầm trồ khi chiêm ngưỡng những pho tượng La Hán được khắc họa
tinh tế, sắc cạnh nhưng không kém phần mềm mại này. Hồ thượng Thích
Thiện Nguyện cho biết sau lễ khánh thành sẽ tiếp tục xây dựng thêm tượng
Phật nhập Niết bàn dài 108m; "Tứ trọng tâm" (gồm "Vườn Lâm Tỳ Ni" khi
Phật đản sanh; "Bồ Đề đạo tràng" khi Phật thành chính quả; "Vườn Lộc uyển"
khi Phật thuyết pháp và Phật nhập Niết bàn) và giảng đường cho hàng ngàn
tăng chúng phật tử tu tập. Dự kiến sẽ kéo dài trong 4 năm nữa mới hoàn
nguyện. Đây là cơng trình in đậm dấu ấn phát triển của Phật giáo Việt Nam
thế kỷ 21. Điểm nổi bật của ngôi chùa này là tượng Phật Bà Quan Âm lộ thiên
tọa lạc trên ngọn đồi cao hơn 100 m, nhìn về Tổ đình Linh Ứng Ngũ Hành

Sơn.


Điểm nhấn quan trọng của Chùa Linh Ứng Bãi Bụt là tượng Phật Quán Thế
Âm được xem là cao nhất Việt Nam (67m)Tượng đứng tựa lưng vào núi mặt
hướng ra biển, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lộ như
rưới an bình cho những ngư dân đang vươn khơi xa, mang theo bao lời cầu
mong về một vụ mùa sóng yên biển lặng và quốc thái dân an.

Phật Quan Thế Âm Bồ Tát

Cơng trình hồnh tráng này do điêu khắc gia Thụy Lam và điêu khắc gia Châu
Viết Thạnh thi công. Trên mão tượng Quán Thế Âm có tượng Phật Tổ cao 2m.
Có đường kính tịa sen rộng 35m. Đường kính trong lịng tượng rộng 17m,
chiều cao có 17 tầng và mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật
với hình dáng vẻ mặt tư thế khác nhau gọi là "Phật trung hữu Phật". Ngồi
các cửa thơng gió, tầng 17 trên cùng có cầu thang thơng lên đỉnh đầu tượng.
Dưới chân đài sen của bức tượng luôn thu hút rất đông du khách và phật tử
tới lễ Phật và thưởng ngoạn nét đẹp từ bi của bức tượng có một khơng hai
này. Cảnh quan gian chính điện kết hợp với bức tượng Phật Quan Thế Âm tạo
nên một bức tranh toàn cảnh linh thiêng, thanh tịnh mà tao nhã như chốn
bồng lai. Từ trên các toà tháp của tượng, du khách thập phương có thể nhìn
được tồn bộ cảnh thành phố, núi rừng và biển đảo Sơn Trà một cách hoàn
hảo nhất. Phóng tầm mắt ra xa hơn, núi Ngũ Hành Sơn cùng bãi biển bao
quanh bởi bờ cát dài trắng mịn đã hiện ra tỏ tường. Sáng sớm khi nắng lên
hay lúc chiều về, bầu trời xanh trong cùng gió trời mát mẻ sẽ mang lại cho du
khách một ấn tượng tuyết vời mà hiếm nơi nào có thể có được. Về đêm, đứng
từ cổng chùa nhìn xuống du khách cịn nhìn thấy một vệt sáng dài của của
ánh đèn thành phố hệt như một vệt sao băng trên bầu trời đêm, đẹp tuyệt vời.
Đặc biệt, dù đứng bất cứ ở góc nào trên quần thể này cũng có thể chiêm bái

được tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát với phong cảnh sơn thủy hiển linh,


trong lúc đang thi cơng tơn tượng đã có nhiều lần nhận được ánh hào quang
chiếu rọi phía sau, trên đầu tơn tượng.
• Thành Cổ Quảng Trị
Thành Cổ Quảng Trị một tịa thành nằm bên dịng sơng Thạch Hãn, được biết
đến qua cuộc chiến 81 ngày đêm giữ thành đầy khốc liệt trong lịch sử dân tộc.
Ngày nay Thành Cổ là một điểm tham quan gây nhiều xúc động, đây được coi
là nghĩa trang không nấm mồ, là ngôi mộ chung của những người lính Thành
Cổ đã ngã xuống vì q hương vì sự hịa bình thống nhất đất nước.
Phía tây Thành Cổ, song song con đường từ cửa hữu của thành ra thẳng bờ
sông Thạch Hãn ngày nay là một công viên, quảng trường rộng lớn, nối liền
quần thể di tích Thành Cổ - sơng Thạch Hãn; gồm các hạng mục chính như
tháp chng, nhà thả hoa đăng hai bên bờ sông.

Tháp chuông Thành Cổ
Tháp chuông được khánh thành vào ngày 29-4-2007; chuông được đánh vào
các ngày lễ, ngày rằm... vọng tưởng linh hồn các liệt sĩ. Quả chuông đồng có
chiều cao 3,9 mét, đường kính 2,15 mét, trọng lượng gần 9 tấn, được treo
trên tháp có chiều cao gần 10 mét.
Nhà tưởng niệm, Bến hoa đăng


Quảng trường Thành Cổ nối liền không gian giữa thành cổ với sơng Thạch
Hãn. Nơi đây có nhà tưởng niệm liệt sĩ nằm ven bờ hữu ngạn sông Thạch
Hãn.

bến hoa đăng bờ Nam Thạch Hãn


Bến hoa đăng bờ Bắc, đối diện với quảng trường Thành Cổ

Sông Thạch Hãn, cũng là nơi hy sinh của không biết bao nhiêu chiến sĩ từ phía
Nhan Biều, Ái Tử vượt sơng để vào Thành Cổ để tiếp tế và chiến đấu. Vào các
ngày lễ lớn hàng năm, đặc biệt vào Ngày Thương binh - Liệt sĩ (27/7), chính
quyền địa phương tổ chức lễ thả đèn, thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng
niệm liệt sĩ đồng thời ở hai bên bờ sông.
Thành cổ Quảng Trị là địa chỉ đỏ để giáo dục truyền thống yêu nước và là
điểm thu hút hấp dẫn khách tham quan trong nước và bè bạn quốc tế. Để
hiểu rõ và trực quan hơn đến với thành cổ quảng trị du khách sẽ được hướng
dẫn thăm nhà bảo tàng nơi đây trưng bày những di vật và tái hiện lại tất cả
lịch sử về Thành Cổ Quảng Trị từ khi xây dựng đến ngày đất nước thống nhất.




Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường
quốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm
tỉnh lỵ (thị xã Đông Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở
đoạn thị trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc.

Nghĩa trang liệt sĩ
quốc gia Trường Sơn

Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tọa lạc trên khu đồi Bến Tắt, cạnh đường
quốc lộ 15, thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh; cách trung tâm
tỉnh lỵ (thị xã Đơng Hà) khoảng 38km về phía Tây bắc; cách quốc lộ 1A (ở
đoạn thị trấn huyện lỵ Gio Linh) chừng hơn 20km về phía Tây bắc.

Sau ngày đất nước thống nhất, Trung ương Đảng và Bộ Quốc phòng đã phê
chuẩn dự án xây dựng nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn tại địa bàn tỉnh Quảng
Trị làm nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của tổ quốc đã
anh dũng hy sinh xương máu của mình trên các nẻo đường Trường Sơn vì
sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nghĩa trang được khởi cơng xây dựng vào
ngày 24/10/1975 và hồn thành vào ngày 10/4/1977. Chỉ huy xây dựng là
Bộ tư lệnh sư đoàn 559 với sự tham gia của hơn 40 đơn vị bộ đội chủ lực và
bộ đội địa phương. Ngồi ra cịn có tổ cơng nhân chun khắc chữ vào bia đá
xã Hồ Hải, huyện Hịa Vang, tỉnh Quảng Nam.
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của các liệt sỹ;
có tổng diện tích 140.000m2; trong đó, diện tích đất mộ là 23.000m2, khu
tượng đài 7.000m2, khu trồng cây xanh 60.000m2, khu hồ cảnh 35.000m2 và
mạng đường ô tô rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000m 2. Phần đất
mộ được phân thành 10 khu vực chính.
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn là nơi an nghỉ đời đời của các chiến sĩ đã hy
sinh trên tuyến đường mịn Hồ Chí Minh trong thời kì chống Mỹ cứu nước.
Đây là một cơng trình đền ơn đáp nghĩa đồ sộ nhất, quy mơ nhất có tính
nghệ thuật cao, thể hiện lịng thương nhớ sâu sắc, niềm biết ơn và sự tơn
vinh thầm kín của tồn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đối với những người


con yêu quý trên mọi miền đất nước đã không tiếc máu xương cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng và thống nhất đất nước.
Nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập binh đoàn Trường Sơn (19/5/1959 –
19/5/1999), Đảng và Nhà nước đã quyết định cho nâng cấp, tôn tạo lại
nghĩa trang Trường Sơn bao gồm nhiều hạng mục: Cổng vào nghĩa trang
Trường Sơn, hệ thống đường và tường bao quanh, mơ hình sở chỉ huy, biểu
tượng của các địa phương, các cụm tượng, hệ thống thoát nước, điện nội bộ,
trồng cây xanh xung quanh nghĩa trang và nhà khánh tiết, đài Tổ quốc ghi
công...Đến nay tất cả các hạng mục của các cơng trình về cơ bản đã được

hồn tất.
Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn ngày nay không chỉ là nơi an nghỉ của các
anh hùng liệt sỹ mà còn là nơi suy tôn, là biểu tượng sáng ngời của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, của tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và
khát vọng hịa bình của nhân dân ta. Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn không
chỉ là nơi để các gia đình liệt sỹ, các đồn đại biểu của Đảng và Nhà nước,
chính quyền các địa phương đến viếng thăm và thực hiện công việc đền ơn
đáp nghĩa mà còn là nơi hành hương của nhân dân khắp mọi miền đất nước
và bạn bè quốc tế theo truyền thống đạo lý cao đẹp của dân tộc Việt Nam:
uống nước nhớ nguồn.
Hiện nay, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn có 24 cán bộ, nhân viên thường
xuyên chăm lo việc coi sóc, tu bổ và tiếp đón các gia đình liệt sỹ, các đồn
khách trong và ngồi nước đến thăm viếng

3.

ĐÁNH GIÁ CHUYẾN ĐI DỰA VÀO KIẾN THỨC ĐÃ HỌC:

Lý thuyết học tại trường giúp cho sinh viên có cái nhìn tổng quang, cơ bản
về văn hóa, con người, các phong tục tập quán của con người nơi đây.
Chuyến tham quan thực tế giúp cho sinh viên có cái sát thực hơn.
Đánh giá tổng quan về chuyến đi
Chuyến đi nhìn chung là tốt, an tồn, các hoạt động ăn uống, tham quan
tốt, sinh viên đều được giữ sức khỏe, vui vẻ và thu được nhiều kiến thức và
thông tin thực tế bổ ích. Chuyến đi dù thời gian ngắn nhưng đã tham quan
được nhiều nơi, đem đến cảm giác thú vị và nhiều kỉ niệm đẹp.




×