Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Đánh giá sự suy thoái và khả năng phục hồi hệ sinh thái đầm phá Tam Giang Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.26 MB, 125 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-----------------

Đỗ Văn Mười

ĐÁNH GIÁ SỰ SUY THOÁI VÀ KHẢ NĂNG PHỤC HỒI HỆ SINH
THÁI ĐẦM PHÁ TAM GIANG - CẦU HAI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
-------------------------------

Đỗ Văn Mười

ĐÁNH GIÁ SỰ SUY THOÁI VÀ KHẢ NĂNG PHỤC HỒI HỆ SINH THÁI
ĐẦM PHÁ TAM GIANG - CẦU HAI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60 42 01 20


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Văn Quân
PGS.TS. Lê Thu Hà

Hà Nội - 2015




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn
Văn Quân, phó viện trưởng Viện Tài nguyên và Môi trường Biển - Vi ện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam và PGS.TS. Lê Thu Hà, phó chủ nhiệm Khoa Sinh
học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội, những người đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên cứu, tôi nhận được sự giúp
đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi của Lãnh đạo Viện Tài nguyên và Môi trường
Biển, sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của cán bộ, viên chức Phòng B ảo t ồn v à Đa d ạng
Sinh học biển, cán bộ và nhân viên phòng Thí nghiệm Sinh thái học và Sinh học Môi
trường - Khoa Sinh học, trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Qu ốc gia Hà
Nội. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học
và công nghệ trọng điểm cấp nhà nước mã số KC.08.25/11-15 đã cho phép sử dụng
nguồn số liệu của đề tài và hỗ trợ kinh phí để hoàn thành công trình này.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cơ quan, gia đình, bạn bè v à
đồng nghiệp đã động viên, tạo mọi điều kiện học tập và nghiên cứu trong suốt th ời
gian qua.
Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Học viên cao học

Đỗ Văn Mười


MỤC LỤC

NỘI DUNG


TRANG

LỜI CẢM ƠN

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
BOD
COD
DO
FAO
IMOLA
nnk
NXB
QCVN
STT
TVNM
UB KH&KT
UBND
WWF

Nội dung
Nhu cầu ôxy sinh hóa
Nhu cầu ôxy hóa học
Lượng ôxy hòa tan trong nước
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc
Dự án Quản lí tổng hợp hoạt động đầm phá Thừa Thiên Huế

nhiều người khác
Nhà xuất bản
Quy chuẩn Việt Nam
Số thứ tự
Thực vật ngập mặn
Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật
Ủy ban nhân dân
Tổ chức Bảo tồn Động vật hoang dã thế giới

5


DANH MỤC BẢNG

6


DANH MỤC HÌNH

7


MỞ ĐẦU
Phá (coastal lagoon) là một loại hình thủy vực ven b ờ, phía ngo ài ng ăn
cách với biển bởi một hệ thống các doi cát chắn (sand barrier) d ọc b ờ v à thông
với biển bởi một hoặc vài cửa [12].
Các đầm phá ven biển là một loại hình thủy vực rất tiêu biểu ở dải ven bờ
miền Trung nước ta. Ở đây có tất cả 12 đầm phá với tổng diện tích khoảng 447,8
km2, lớn nhất là hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai rộng t ới h ơn 216 km 2, nhỏ
nhất là đầm Nước Mặn với khoảng 2,8 km2.

Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai là một hệ thống các đầm nối v ới nhau t ừ
Bắc xuống Nam là phá Tam Giang, đầm Sam, đầm Hà Trung, đầm Thủy Tú,
đầm Thanh Lam, đầm An Truyền và đầm Cầu Hai chạy dài qua địa phận năm
huyện, thị xã của tỉnh Thừa Thiên Huế gồm Phong Điền, Qu ảng Điền, Hương
Trà, Phú Vang và Phú Lộc. Giữa đầm phá và biển ngăn cách bởi các đồi cát
cao, có nơi cao đến trên 20m. Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai nằm cách cố đô
Huế khoảng 7 km về phía Đông Bắc, ở tọa độ địa lý 16 °42′ - 16°14′ B và
107°22′ - 107°57′ Đ, kéo dài gần 70 km dọc từ huyện Phong Điền đến huyện
Phú Lộc với tổng diện tích khoảng 21.620 ha, nơi rộng nhất có thể đạt đến 10
km và hẹp nhất dưới 1km. Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai được nối liền v ới
Biển Đông bởi cửa Thuận An ở phía Bắc và cửa Tư Hiền ở phía Nam. Tại đây
chứa đựng hàng trăm loài động vật, thực vật có giá trị kinh tế, tạo ra hàng
nghìn tấn sản phẩm góp phần nuôi sống trên 500.000 người dân sống ở 5 huyện
xung quanh đầm phá [16]. Sự khai thác các nguồn lợi tự nhiên và tiến hành nuôi
trồng thủy, hải sản trong không gian đầm phá phục vụ cho sự phát tri ển kinh tế xã hội là điều hiển nhiên. Nhưng sự khai thác quá mức hoặc khai thác không
theo một kế hoạch quản lý phù hợp dẫn đến cạn kiệt một số loài sinh vật có giá
trị kinh tế cao như: cua bùn, cá mú, cá dìa, tôm he,… là vấn đề cần bàn đến.
Những hậu quả của các tác động đó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của dân cư ven đầm phá, không những thế, nó còn tác động ngược trở lại với sự
phát triển của các nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản trong đầm. Mặt khác,
việc khai khác các nguồn lợi thủy, hải sản cùng với ô nhiễm môi tr ường vùng đầm phá

8


Tam Giang - Cầu Hai do tác động của con người cũng ảnh hưởng rất lớn môi tr ường
sống của nhiều loài thủy sinh vật, ảnh hưởng đến tính chất các hệ sinh thái.
Với mục đích đóng góp cho công tác bảo tồn các hệ sinh thái vùng đầm phá
Tam Giang - Cầu Hai cũng như đề xuất một số giải pháp phục hồi nguồn lợi thủy sản
khu vực này, đề tài “Đánh giá sự suy thoái và khả năng phục hồi hệ sinh thái đầm phá

Tam Giang - Cầu Hai, tỉnh Thừa Thiên Huế” đã được thực hiện. Mục tiêu của đề tài:
- Đánh giá sự suy thoái của hệ sinh thái đầm phá Tam Giang - Cầu Hai thông qua sự
biến động về diện tích phân bố, nguồn lợi một số nhóm sinh vật chủ đạo.
- Đánh giá được khả năng phục hồi hệ sinh thái thông qua một số mô hình phục hồi
đã và đang thực hiện.
- Bước đầu đề xuất một số giải pháp phục hồi nguồn lợi sinh vật.

9


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát về đầm phá ven biển Việt Nam
Đầm phá là một loại hình thủy vực đặc sắc về mặt địa chất cũng như
sinh thái học, một trong 4 loại hình thủy vực của đới ven bờ (coastal zone) bao
gồm: vũng biển ven bờ (bay), đầm phá ven biển (coastal lagoon), c ửa sông châu
thổ (delta) và cửa sông hình phễu (estuary) [25].
Đầm phá ven biển được hình thành ở những vùng bờ có động lực mạnh,
đặc biệt là động lực sóng, với các dòng bồi tích dọc bờ, thủy triều và sóng gây
nên hiện tượng dịch chuyển vật chất trong khu vực, trong quan h ệ t ương tác
giữa lục địa và biển. Về hình thái chung, đầm phá thường có dạng m ột thủy
vực kéo dài dọc bờ, ngăn cách với biển bởi hệ cồn cát kéo dài, một mặt thu
nhận lượng nước sông từ phía lục địa đổ vào qua các cửa sông, mặt khác thông
với khối nước biển qua một hay nhiều cửa về phía biển.
Tuy nhiên, do vị trí của mỗi thủy vực ở từng khu vực có điều ki ện địa
chất, thủy văn, chế độ động lực phát triển khác nhau đã tạo nên các ki ểu đầm
phá khác nhau với độ lớn, hình thái cấu trúc, xu thế phát tri ển, ti ến hóa khác
nhau, dẫn đến các điều kiện sinh thái - sinh học khác nhau. Việc phân chia các
kiểu đầm phá dựa trên sự phân dị của các đặc điểm trên, trên c ơ s ở s ự thống
nhất tương đối của tính chất chung của thủy vực đầm phá, trong đó đặc đi ểm
chủ yếu là chế độ thủy văn của đầm phá phụ thuộc vào khả năng trao đổi

nước giữa đầm phá và biển, vào cân bằng nước diễn ra trong đầm phá gi ữa
khối nước sông và khối nước biển, liên quan tới vị trí độ lớn c ủa cửa m ở đầm
phá ra biển và các cửa sông đổ vào đầm phá [8,9].
Dải ven biển Việt Nam có một hệ thống đầm phá tập trung chủ yếu ở ven biển
miền Trung, phân bố từ vĩ độ 16 °B tới 11°B, từ Thừa Thiên - Huế tới Bình Thuận. Các
đầm phá tiêu biểu là Tam Giang - Cầu Hai, Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), Trường Giang,
An Khê, Nước Mặn (Quảng Ngãi), Trà Ổ, Nước Ngọt, Thị Nại (Bình Định), Cù Mông, Ô
Loan (Phú Yên), Thủy Triều (Khánh Hoà), Nại (Ninh Thuận) [11,24].

10


Việc phân loại các đầm phá ở Việt Nam chỉ mới được đề cập tới trong những
nghiên cứu gần đây (Trần Đức Thạnh và nnk, 1995) [24,28]. Kết hợp giữa các tiêu
chuẩn lý luận và thực tiễn, vận dụng các phương pháp đã được sử dụng trên thế giới
(Nichols và Allen, 1981), chú trọng đặc điểm, trạng thái cửa m ở và chế độ thủy văn
đầm phá, bước đầu có thể phân chia các đầm phá ven biển miền Trung nước ta

thành hai loại (bảng 1.1).
Bảng 1.. Vị trí phân loại đầm phá miền Trung Việt Nam trong hệ thống
phân loại đầm phá ven biển của thế giới
Phân loại chung đầm phá

Tên đầm phá

ven biển thế giới
Kiểu đầm phá gần kín

Kiểu đầm phá kín


Tam Giang - Cầu Hai, Trường Giang, Thị Nại,
Cù Mông, Thủy Triều, Trà Ô và Đầm Nại
Lăng Cô, An Khê, Ô Loan, Nước Ngọt,
Nước Mặn.
(Nguồn: Đặng Ngọc Thanh, 2009)[25]

Kiểu I: Đầm phá kín, cửa mở rất hẹp, chế độ nước mặn - lợ, độ mặn có thể tới trên
35‰. Thuộc kiểu loại này có các đầm: Lăng Cô, An Khê, Ô Loan, Nước Mặn, Nước
Ngọt. Riêng đầm Trà Ổ cửa rất hẹp, nhưng độ mặn ở mức nhạt lợ, thường dưới
5‰.
Kiểu II: Đầm phá gần kín, cửa mở rộng, chế độ nước lợ - lợ nhạt, độ mặn th ường
chỉ thấp dưới 30‰. Thuộc kiểu loại này có các đầm: Tam Giang - Cầu Hai, Trường
Giang, Thị Nại, Cù Mông, Thủy Triều, Đầm Nại.

Việc phân chia trên đây chỉ mang ý nghĩa tương đối, trên thực t ế có thể
thay đổi theo từng thời gian, trong quá trình biến động, phát tri ển, ti ến hóa c ủa
thủy vực. Với các đặc điểm chế độ thủy văn - trạng thái cửa mở liên quan đến
chế độ nước ngọt - lợ - mặn đã tạo cho mỗi đầm phá một khu h ệ sinh thái
riêng biệt [8].

11


Có thể lấy các đầm phá là Tam Giang - Cầu Hai v à Ô Loan nh ư hai đại
diện của hai kiểu loại đầm phá phổ biến ở ven biển miền Trung Việt Nam. Đây
cũng là hai thuỷ vực được nghiên cứu tương đối nhiều trong thời gian v ừa qua
[25].
1.2. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội khu vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
1.2.1. Cảnh quan vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
Kết hợp giữa các kết quả thu thập được từ nhiều nghiên cứu trước v ới

kết quả thu được từ hai đợt khảo sát bổ sung và kiểm tra từ 2013 - 2014 cho
thấy môi trường tự nhiên hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có thể chia thành 4
khu vực chính có đặc trưng môi trường thuỷ hoá và trầm tích khác nhau, t ạo
nên sự phân bố và phát triển khác nhau cho các hệ sinh thái trong toàn đầm phá.
- Khu vực phá Tam Giang: với diện tích 5200 ha với các lạch triều sâu dần v ề
phía cửa Thuận An và cồn cát nhỏ hai bên bờ. Đó là các bãi c ỏ nước, c ỏ bi ển
tuy không lớn (chỉ vài chục ha) song có chất lượng tốt như các khu v ực Cồn Sáo,
Cồn Đĩnh, Cồn Đâu, Cồn Tè, Hải Tiến, Hải Dương. Cùng với các thảm cỏ biển,
các đầm nuôi trồng thủy sản được xây dựng trên vùng triều ven đầm phá và các
lạch nước dưới triều.
- Khu vực đầm Sam: địa hình tương đối bằng phẳng với diện tích khoảng
1620 ha, sâu 1,5 m ở phía Hoà Duân, 0,5 m phía Phú An, Phú Thuận, Phú H ải và
lạch triều ngầm sâu 4-5m phía cửa Thuận An. Tr ầm tích nền đáy chủ y ếu l à
bùn cát cùng với độ muối từ 7-10‰ trong mùa mưa và 18-20‰ trong mùa khô, ổn
định hơn các khu vực khác đã tạo điều kiện cho c ỏ bi ển phát tri ển th ành các
thảm khá lớn tới hàng trăm ha. Trên vùng triều rộng l ớn khu Đầm Sam - C ồn
Hợp Châu là các khu đầm nuôi trồng thủy sản dày đặc.
- Khu vực đầm Thuỷ Tú: có diện tích khoảng 3600 ha, là một lạch triều ngầm
sâu trung bình 2m, tạo ra thảm cỏ biển khá lớn tại các khu v ực Phú Xuân, Vinh
Xuân, Vinh Thanh. Ven đầm Thủy Tú là hệ thống dày đặc các đầm nuôi tr ồng
thủy sản và các ruộng lúa, hoa màu trồng vào mùa mưa và trở thành các bãi
chăn thả gia súc vào mùa khô.

12


- Khu vực đầm Cầu Hai: có hình bán nguyệt, cung tròn hướng về phía huyện
Phú Lộc, với diện tích tới 11.200 ha, và độ sâu trung bình 1 - 1,5 m. Trong đầm
Cầu Hai có các khu vực Ba Cồn, Cồn Lậy các bãi triều ven đầm thuộc Lộc Bình,
Đá Bạc,... đáy cát bùn đều có các thảm cỏ biển và cỏ nước phân b ố thành các

thảm có diện tích từ vài chục đến hàng trăm ha. Những vùng tri ều thấp ven
đầm Cầu Hai là các đầm nuôi trồng thủy sản [23,24].
Trong hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, có thể chia thành các ti ểu hệ
sinh thái với các yếu tố môi trường và sinh vật đặc trưng: hệ sinh thái c ỏ bi ển,
hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rừng trồng, hệ sinh thái bãi tri ều đá
gốc, hệ sinh thái đầm lầy, hệ sinh thái đầm nuôi thủy sản, hệ sinh thái cửa sông,
hệ sinh thái nông nghiệp và hệ sinh thái đô thị. Các hệ sinh thái đều có xu
hướng biến đổi từ hệ sinh thái tự nhiên sang hệ sinh thái nhân tạo do có s ự tác
động sâu sắc bởi các hoạt động của con người.
1.2.2. Đặc điểm tự nhiên.
1.2.2.1. Vị trí địa lý, địa hình

Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai nằm cách cố đô Huế khoảng 7
km về phía Đông Bắc, ở tọa độ địa lí 16°42′ - 16°14′ B và 107°22′ đến
107°57′ Đ, kéo dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam dọc ven biển tỉnh
Thừa Thiên Huế, bao gồm một chuỗi các đầm là phá Tam Giang - Đầm
Sam - An Truyền - Hà Trung - Thuỷ Tú - Cầu Hai được nối với nhau và dài
gần 70 km dọc vùng ven biển thuộc 5 huyện, thị xã gồm: Phong Điền Quảng Điền - Hương Trà - Phú Vang - Phú Lộc [50]. Phá Tam Giang dài
khoảng 24 km từ cửa sông Ô Lâu đến cửa biển Thuận An với chiều rộng
trung bình 2,5 km, diện tích 52 km2 và độ sâu trung bình 1,5 – 2,0m.
Đầm Sam, An Truyền và Thủy Tú chạy trên quãng đường khoảng 33km,
từ cửa biển Thuận An đến đầm Cầu Hai, chiều rộng trung bình 1 km và
độ sâu trung bình 1,5 – 2,5m với diện tích khoảng 60 km 2. Đầm Cầu Hai
có dạng lòng chảo, hình bán nguyệt, dài khoảng 13 km, t ừ c ửa sông Tru ồi
đến chân núi Vĩnh Phong, nơi rộng nhất đạt đến 10,5 km (t ừ Đá Bạc đến

13


Vinh Hiền), độ sâu từ 1,0 – 1,5m, có diện tích lớn nhất trong các đầm

phá (104 km2)[19].
Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai tỉnh Thừa Thiên Huế có diện tích
thủy vực đạt 21.620 ha, chiếm khoảng 4,3% diện tích toàn tỉnh Thừa
Thiên Huế. Có 32 xã, thị trấn nằm trên bờ của hệ đầm phá với số dân
khoảng trên 500.000 người. Mặc dù có diện tích rộng, hình thái lạ kéo dài
nhưng hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai chỉ thông với biển qua một cửa
chính là cửa Thuận An, còn cửa Tư Hiền thường đóng m ở theo điều kiện
địa động lực - thuỷ hải văn, thêm vào đó hệ đầm phá này nhận nguồn
nước ngọt từ các con sông như sông Ô Lâu, sông H ương, Sông B ồ, sông Bù
Lu, sông Đại Giang và rất nhiều suối, lạch nhỏ khác bắt nguồn từ dãy núi
Bạch Mã đổ ra. Lưu lượng của các con sông, suối, lạch này mang tính
mùa nên các yếu tố môi trường ở đây rất phức tạp. Điều này có ảnh
hưởng rất lớn đến tính đa dạng sinh học và nguồn lợi động, thực vật của
hệ đầm phá [15]. Địa hình vùng thủy vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
được thể hiện trên hình 1.1.

14


Hình 1.. Lược đồ địa hình hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
(Nguồn: Nguyễn Văn Quân, 2015)[23]

1.2.2.2. Khí hậu
Việt Nam nằm trong vùng nội chí tuyến, là nơi giao lưu c ủa các loại hình th ời
tiết nên khí hậu chịu sự tác động của cả khối không khí cực đới khô hanh từ phía Bắc
di chuyển xuống và khối không khí nóng ẩm từ xích đạo đi lên. Khí h ậu v ề c ơ b ản
mang tính nhiệt đới gió mùa nhưng cũng có khi biểu hiện c ủa khí hậu mi ền ôn đới do
tác động của các hệ thống thời tiết phía Bắc. Mặt khác, nước ta vừa tiếp giáp với đại lục
châu Á, vừa nối liền với Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương nên vừa mang tính ch ất l ục
địa khô nóng, vừa mang tính chất đại dương nóng ẩm [15].

Vùng biển ven bờ tỉnh Thừa Thiên Huế cũng mang những đặc điểm chung c ủa
vùng biển Việt Nam, nhưng do ảnh hưởng của địa hình bờ biển chạy theo h ướng Tây
Bắc - Đông Nam có các dãy núi cao tiến sát ra biển nên có những nét riêng biệt của một
vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với một mùa hè khô nóng và mùa mưa muộn [50].
Lượng mưa hàng năm vào mùa mưa chiếm 78% cả năm, các tháng m ưa nhiều
là tháng 9, 10, 11 chiếm 62% lượng mưa cả năm. Biến trình năm trung bình của lượng

15


mưa có hai cực đại: chính vào tháng 10 (740mm, bằng 25% t ổng lượng mưa năm) và
phụ vào tháng 6 (126mm); cực tiểu vào tháng 3 hoặc tháng 4 (50mm).
Thừa Thiên Huế nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nên chịu sự chi ph ối c ủa 2
trường gió chính: gió mùa Đông Bắc và gió mùa Tây Nam, đồng thời c ũng chịu các quy
luật của miền duyên hải như các hoạt động của gió biển và gió đất liền thổi luân
phiên trong chu kỳ ngày đêm. Vùng ven bờ Thừa Thiên Huế do ảnh hưởng của địa
hình, gió mùa Đông Bắc thường bị lệch về Tây Bắc, Bắc. Tốc độ trung bình đạt 3m/s,
cực đại đạt 15 – 20m/s.

- Gió. Đầm phá Tam Giang - Cầu Hai chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa,
gió Đông Bắc (mùa đông) và gió Tây Nam (mùa hè).
- Bão. Vùng bờ biển Bình - Trị - Thiên hàng năm thường có từ 0 tới 4 c ơn
bão với tốc độ gió 20 - 40 m/s. Tính trung bình trong 98 n ăm g ần đây thì đạt
tới 0, 8 trận bão/năm. Bão thường kéo theo mưa lớn ( với lượng mưa tới 260mm)
và dài ngày (2-3; 5-6 ngày), rất dễ gây ra lũ và úng lụt nghiêm trọng toàn khu vực
đầm phá. Mùa bão thường từ tháng 6 tới tháng 11 hàng năm, tập trung chủ y ếu
vào các tháng 7, tháng 8 và tháng 9, 10 với tần suất tương ứng 37 và 27% [40].
- Nắng, nhiệt độ không khí, bốc hơi, khô hạn . Tổng số giờ nắng trong
năm thuộc loại cao, đạt 1.900 - 2.000 giờ do nhiệt độ trung bình năm cao
(25,2°C). Về mùa hè, lượng mây thấp chiếm 4/10 bầu trời, đạt trung bình 170 240 giờ /tháng, số giờ nắng cao tập trung vào các tháng 5 - 8, tương ứng v ới thời

kỳ có nhiệt độ cao, thậm chí có thể đạt đến 39°C hoặc 40°C.
Vào mùa đông
do lượng mây nhiều và thời gian chiếu sáng trong ngày ngắn nên số giờ nắng ít, trung
bình 100 – 110 giờ/tháng, thấp nhất vào tháng 12 [15,23].

1.3.1.3. Chế độ thủy văn biển
Dao động triều trong đầm phá có nguyên nhân do cảm ứng triều ngo ài biển
thông qua các cửa biển. Vùng cửa Thuận An và phá Tam Giang chịu ảnh hưởng của chế
độ bán nhật triều đều, vùng đầm phá Cầu Hai chịu ảnh hưởng c ủa chế độ bán nh ật
triều không đều. Do biên độ triều nhỏ (35 – 50cm tại cửa Thuận An và 50 – 100cm
tại cửa Tư Hiền), các lạch cửa lại có hướng gần vuông góc v ới tr ục đầm nên n ăng
lượng triều giảm mạnh khi vào đầm phá, động lực trong đầm phá vì thế rất yếu. Mực
nước biển động rất phức tạp theo thời gian và không gian do chịu sự chi phối c ủa dao
động mực nước biển, dòng nước sông và đặc biệt lũ trên các hệ thống sông vào mùa
mưa. Biên độ dao động mực nước tăng dần từ Tam Giang đến Cầu Hai. Vào mùa khô,

16


mực nước đầm phá luôn thấp hơn đỉnh triều ngoài biển, chẳng hạn ở Cầu Hai là 25 –
30cm và ở Tam Giang là 5 – 15cm. Vào mùa lũ, mực nước đầm phá luôn cao hơn mực
nước biển do ảnh hưởng mạnh của nước sông đổ ra. Biên độ dao động thủy triều
trong đầm phá luôn nhỏ hơn so với biển và trong sông. Giá tr ị biên độ ở Tam Giang
bằng 30 – 50cm, ở Cầu Hai bằng 10 – 20cm.
Sóng trong đầm phá yếu và được hình thành, phát triển trong chính th ủy v ực.
Các đặc trưng sóng ở đây phụ thuộc chủ yếu vào hướng v à t ốc độ gió tác động ở bên
trên vùng nước. Sóng có điều kiện phát triển trong đầm phá, nhất là đầm Cầu Hai, là
sóng hướng Bắc và Tây Bắc vào mùa đông. Khi đó thời gian gió thổi tương đối dài, ổn
định và đà gió khá dài trên mặt thoáng 7 – 10km tạo điều kiện cho sóng phát triển
đến độ cao khoảng 0,3 đến 0,5m, trong giông có thể tới 0,7m. Trong gió bão ở đầm

Cầu Hai sóng có đủ điều kiện phát triển đến độ cao 1m [15].
Hệ thống dòng chảy trong đầm phá rất phức tạp do sự tương tác của dòng triều,
dòng chảy biển ven bờ, dòng nước sông, dòng chảy gió, địa hình đáy v à hình dạng
đường bờ,… làm cho bức tranh dòng chảy tổng cộng rất khác nhau trên không gian vùng
nước. Tại cửa Thuận An, dòng triều toàn nhật khoảng 15 – 16cm/s, dòng triều bán nhật
20 – 26cm/s. Ở cửa Tư Hiền dòng bán nhật khoảng 25 – 30cm/s, có lúc đạt tới 35cm/s.
Vào trong đầm phá, dòng chảy chủ yếu là dòng triều truyền qua các c ửa v à dòng ch ảy
gió. Ảnh hưởng của dòng chảy sông trong đầm phá không lớn và chỉ đáng kể trong mùa
mưa. Dòng chảy phát triển mạnh ở các cửa tạo điều kiện trao đổi nước giữa đầm phá
và biển, tạo nên động lực di chuyển vật chất và các khối nước trong đầm phá. Chế
độ dòng chảy thay đổi theo mùa quy định đặc tính khối nước trong th ủy v ực: t ừ l ợ
mặn vào mùa khô sang lợ vào mùa mưa. Trong mùa lũ, dòng chảy rất m ạnh ở các c ửa
quyết định đến việc thoát nước cho thủy vực, nhưng cũng gây ra biến đổi địa hình
đáy và hình dáng các cửa [40].

1.2.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội
1.2.3.1. Dân số
Theo ước tính, số lượng cư dân mặt nước ở đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
trước đây cũng như hiện nay là khá lớn. Dân cư ở đây tăng khá nhanh và có nhiều
biến động. Sự gia tăng nhanh dân số này là do nguyên nhân muốn sinh đông con, nhất
là con trai để có lực lượng sản xuất, có con trai để nối dõi tông đường. Mặc dù t ỉ su ất
sinh (TFR - là số con sinh sống bình quân của một người phụ nữ trong su ốt cả cuộc

17


đời) của cả nước đã giảm đáng kể (trung bình 2 con/phụ nữ) nhưng TFR của dân c ư
thủy diện còn khá cao (từ 2,86 – 3,52 con)[10]. Tỉ suất sinh cao v à trình độ dân trí
thấp là một trong những bài toán khó giải quyết nhất của chính quyền địa phương.
Theo thống kê, cách đây khoảng 10 - 20 năm, dân c ư m ặt nước có mức sinh r ất

cao so với toàn tỉnhThừa Thiên Huế và cả nước, nhưng gần đây mức sinh này giảm rõ
rệt. Nguyên nhân là do một phần dân thủy diện đã lên bờ định c ư, có sự tác động c ủa
chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình và sự quản lí chặt ch ẽ c ủa chính quy ền
địa phương.
Sự phân bố của các điểm dân cư mặt nước thường nhỏ hơn so với cư dân làm
nông nghiệp định cư trên bờ. Đặc biệt, sau khi thực hiện chủ trương tái định cư trên
bờ, các điểm cư dân thủy diện định cư tăng lên và có quy mô lớn hơn so v ới dân ch ưa
định cư còn sống trên thuyền [10].

Bảng 1.. Một số đặc điểm về hành chính và dân số của các huyện vùng
đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
Số xã đầm

Huyện

Phong Điền
Quảng
Điền
Hương Trà
Phú Vang
Phú Lộc
Tổng cộng

phá/tổng số

Diện tích các xã đầm

Dân số đầm

xã, thị tr ấn


phá/diện tích toàn

phá/tổng dân số (%)

thuộc huyện

huyện, ha (%)

2004

(tỉ lệ %)
2/16 (13%)

2.660/95.400 (3%)

10.038/105.685 (9%)

8/11 (73%)

12.184/16.307 (75%)

63.046/92.228 (68%)

2/16 (13%)
13/20 (65%)
7/18 (39%)
32/81 (40%)

2.596/52.089 (5%)

20.636/28.031 (74%)
29.062/72.809 (40%)
67.138/264.636 (25%)

19.029/116.066 (16%)
127.970/181.149 (71%)
61.468/149.875 (41%)
281.551/645.003 (44%)

(Nguồn: Niên giám thống kê Thừa Thiên Huế, 2004) [4].
Tỉ lệ thất nghiệp trong vùng còn ở mức khá cao, đặc bi ệt ở nhóm thanh
niên. Năng suất lao động thấp, ở mức khoảng 67,5% so với mức trung bình c ủa
toàn quốc. Kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội giai đo ạn 2006 - 2010 đã ghi
nhận vấn đề thất nghiệp và đặt ra chỉ tiêu tạo công ăn việc làm thông qua việc
tăng tỉ lệ lao động được đào tạo lên khoảng 40% mỗi năm. Thêm v ào đó, c ơ

18


cấu sản xuất cũng được thay đổi và công nghiệp, du lịch, d ịch v ụ s ẽ l à động
lực chính để phát triển kinh tế, xã hội [42].
Như vậy có thể thấy dân số tập trung rất đông ở các khu v ực đầm phá ở
các huyện Quảng Điền, Phú Vang và Phú Lộc. Dân số sống ven đầm phá chi ếm
tới 41-71% tổng dân số mỗi huyện.
Đến 2014, ở các huyện ven đầm phá mật độ dân số vẫn khá cao. Huy ện
Phú Vang có 181.495 người và mật độ dân số khá đông tới 648,4 người/km2 [6],
huyện Phú Lộc có 10.515 người với mật độ dân số trung bình 379,6 người/km 2
và huyện Phong Điền dân số trung bình 84.450 người, mật độ dân số 518,1
người/km2 [5]. Hơn nữa đời sống của dân cư nhóm nghề đánh bắt và nuôi trồng
thủy sản trên đầm phá đã ổn định và phát triển tốt hơn sau nhi ều dự án c ải

thiện sinh kế và phục hồi các hệ sinh thái và nguồn lợi trên đầm phá [23].
1.3.2.2. Trình độ dân trí
Trên mặt nước đầm phá có một cộng đồng dân cư đặc biệt với số lượng khá
lớn, họ lấy những con đò làm nhà, nghề nghiệp duy nhất là khai thác th ủy sản bằng
phương tiện nhỏ (tiểu nghệ), dân địa phương gọi họ là dân thủy diện hay dân v ạn đò.
Trình độ dân trí của cộng đồng này khá thấp: khoảng 90% dân v ạn đò mù ch ữ. Đa s ố
trẻ em không có điều kiện học tiếp các bậc học cao hơn sau khi tốt nghi ệp b ậc ti ểu
học [10].
Các điều tra ở các xã Phú Thuận, Phú Tân và Phú An huyện Phú Vang cho thấy
trên 80% trẻ em các xã này không biết đọc và viết. Kết quả điều tra v ề lao động ở xã
Phú Tân cho thấy trình độ học vấn cao nhất của lao động nữ không vượt quá lớp 4.
Đây là một vấn đề xã hội rất lớn có ảnh hưởng bất lợi đến việc tuyên truyền bảo v ệ
môi trường, bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ các thảm cỏ biển [42].
1.3.2.3. Cơ cấu nghề nghiệp

Cư dân thuộc các xã ven đầm phá Tam Giang - Cầu Hai l àm đủ ngh ề để
kiếm sống như: nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản, thu mua
và chế biến thủy sản, dịch vụ vận chuyển, du lịch, … trong đó đánh b ắt v à nuôi
trồng thủy sản là những nghề chủ yếu.
Người dân sử dụng các ngư cụ khai thác thủy hải sản trong đầm phá d ựa trên
tập tính của các loài động vật. Các ngư cụ được sử dụng gồm ngư cụ khai thác cố

19


định (nò sáo, đáy, rớ giàn, rờ bà, dạy chuôm) và ngư cụ khai thác di động (l ừ, giã c ào,
lưới vét, cần câu, le, xiếc điện,…), trong đó nhiều lo ại ngư c ụ đã bị c ấm sử d ụng do
tính chất khai thác hủy diệt [10].
Những năm gần đây, nghề nuôi thủy sản phát triển mạnh trên đầm phá, trở
thành một trong những nguồn thu nhập chính của ngư dân. Trên đầm phá, nhiều diện

tích sử dụng để nuôi cá lồng, hoặc xây dựng các ao ươm nuôi thủy sản (tôm, cua, cá,
…). Trong đó, nhiều mô hình nuôi góp phần phục hồi các hệ sinh thái ở đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai. Ngoài ra, các nghề khác cũng hình thành và phát triển ở khu v ực
đầm phá như trồng trọt, vận chuyển hàng hóa, du lịch,…

1.3. Tổng quan về chất lượng môi trường nước vùng Tam Giang - Cầu Hai
1.3.1. Nhiệt độ nước
Do ảnh hưởng của dòng nước lạnh từ bờ Tây vịnh Bắc Bộ, đường đẳng nhiệt
trong khu hệ đầm phá song song với đường bờ và nhiệt độ nước tăng về phía biển
(Lưu Văn Diệu, 2007). Các tháng 1 và 2 có nhiệt độ thấp nhất và tháng 8 có nhiệt độ
cao nhất. Kết quả quan trắc tháng 6/2008 ghi nhận kho ảng dao động c ủa nhi ệt độ
nước biển là từ 30,5 – 33,5oC, trung bình là 31,6oC (Nguyễn Hữu Cử, 2009) [40].

1.3.2. Giá trị pH

Tính trung bình toàn hệ đầm phá về mùa khô, giá trị pH của nước
tầng mặt đạt 7,6 [7,3 - 8,1] và tầng đáy đạt 7,9 [7,8 - 8,0]. Về mùa m ưa,
pH giảm xuống, đạt 7,0 [6,2 - 8,2] ở tầng mặt và 7,2 [6,1 - 8,1] ở tầng đáy.
Tương tự với biến đổi về độ muối, pH của các vùng cửa sông thấp nhất
và vùng cửa đầm phá nơi tiếp giáp nước biển có giá trị cao nhất.
Kết quả quan trắc tháng 6 năm 2008 cho thấy pH trong n ước khu h ệ
đầm phá dao động mạnh từ 6,71 đến 8,64. Khu v ực cửa sông Ô Lâu có giá
trị pH thấp, cửa Thuận An, pH có giá trị cao, trung bình 8,14. Khu v ực đầm
Thuỷ Tú, pH đạt 8,39 và khu vực đầm Cầu Hai, pH có giá tr ị cao nh ất,
trung bình 8,52 do ảnh hưởng của cửa Tư Hiền [40].
Độ pH của đầm phá phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mùa trong năm, thủy
triều, lưu lượng nước từ các sông đổ vào đầm phá, … Vào mùa khô, đầm phá chịu tác

20



động mạnh của thủy triều qua 2 cửa (Thuận An và Tư Hiền), nên pH thường cao và ổn
định hơn mùa mưa.

1.3.3. Độ mặn (SAL)
Độ mặn là một trong những thông số ảnh hưởng đến những thông số khác v à
quyết định tính đa dạng sinh học của đầm phá Tam Giang - Cầu Hai . Các kết quả

quan trắc các thông số thuỷ lý, thuỷ hoá trong nước biển khu vực đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai trong năm 2009 cho thấy độ mặn là một thông s ố r ất quan
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của các thực vật thuỷ sinh. Trong ngày,
độ mặn của nước biển thường thay đổi theo sự lên xuống của thuỷ triều. Ngoài
ra, độ mặn còn thay đổi theo mùa, theo không gian[14].
Độ mặn của nước biển khu vực đầm phá qua hai đợt quan tr ắc chênh
lệch khá rõ nét. Vào tháng 4 trùng với mùa ít mưa nên nước bi ển có độ m ặn
cao, dao động từ 15 - 30‰, trung bình các vùng l à 23,4‰. Độ m ặn cao nh ất ghi
nhận được tại khu vực Hải Tiến (30‰), tiếp đến là khu vực Cồn Tè và Cồn Lậy
(27‰), khu vực Cồn Nổi, Cồn Mắm (23 - 24‰), thấp nhất là tại Ba C ồn (15‰).
Vào tháng 9, do ảnh hưởng của chế độ mưa trong khu vực nên nước bi ển bị
ngọt hoá do đó độ mặn giảm mạnh, chỉ còn từ 1 - 4‰, trung bình các khu v ực l à
2,5‰. Độ mặn của nước biển vào mùa mưa thấp nhất là tại Cồn Tè, Hải Ti ến
(1‰), các khu vực khác (Cồn Nổi, Cồn Mắm, Ba Cồn, Cồn Lậy) có giá tr ị 2 - 4‰.
Sự ngọt hoá của nước biển vào mùa mưa cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự
phân bố của thảm cỏ biển trong vùng [40].
1.3.4. Độ đục
Giá trị độ đục trong nước tại các khu vực thảm cỏ bi ển trong đợt quan
trắc năm 2009 nằm trong khoảng 17-30mg/l. Độ đục của nước đầm phá có xu
hướng tăng cao so với các đợt quan trắc trước đó. Các giá tr ị quan tr ắc độ đục
của nước tại khu vực vào tháng 6/2004, tháng 9/2005 và tháng 6/2008 cho thấy
độ đục trung bình toàn vùng tương ứng là 16mg/l, 12mg/l và 22mg/l. Như v ậy,

có thể kết luận độ đục trong nước khu vực đầm phá gia tăng theo thời gian, v à
điều này cần phải được đặc biệt chú ý vì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát
triển của thảm cỏ biển, các động vật đáy kèm theo [42].

21


1.3.5. Đặc điểm dinh dưỡng

- Amoni trong nước
Theo Quy chuẩn quốc gia về chất lượng nước biển ven bờ (QCVN
10:2008/BTNMT), nồng độ amoni trong nước biển cho bãi tắm là 500 μg/l,
dùng cho nuôi trồng thuỷ sản là 100 μg/l [3]. Hàm lượng amoni trong nước
khu hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai dao động từ 54,8 đến 133,2μg/l,
trung bình là 86,1μg/l trong mùa mưa (tháng 9/2005)và từ 37,0 đến
161,5μg/l, trung bình 70,3μg/l trong mùa khô (tháng 4/2006).Vào mùa m ưa,
hàm lượng amoni tăng cao hơn so với mùa khô khoảng 1,2 lần. Hàm lượng
amoni trong nước khu vực thấp hơn giới hạn cho phép trong QCVN 10:
2008/BTNMT đối với nước dùng cho bãi tắm nhưng một số khu vực có giá
trị lớn hơn so với tiêu chuẩn dùng cho nuôi trồng thủy sản như cửa Thuận
An, đầm Thuỷ Tú (phía sát cửa Thuận An) trong mùa khô, phía Bắc đầm
Cầu Hai vào mùa mưa [40].
- Nitrit trong nước
Nitrit là một chất dinh dưỡng đối với thực vật nhưng lại l à chất
độc đối với động vật. Giới hạn cho phép về hàm lượng nitrit trong n ước
biển ven bờ dùng cho nuôi trồng thuỷ sản theo đề xuất của đề tài
KT.03.07 là 2μg/l [1,7]. Giới hạn cho phép đối với nước mặt theo QCVN
08:2008/BTNMT là 10 μg/l [3]. Hàm lượng nitrit trong nước đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai khá cao, năm 2004 dao động từ 5,74 -20,6μg/l, năm 2005
dao động từ 4,99-9,81 (Nguyễn Hữu Cử, 2004-2005). Khu vực Hải Dương,

Cầu Hai, Ô Lâu, hàm lượng nitrit trung bình từ 12,12-18,21μg/l, vượt giới
hạn cho phép đối với nước mặt (theo TCVN 5942 – 1995 là 10 μg/l), (Đỗ
Công Thung, 2005). Kết quả khảo sát tháng 6/2008, hàm lượng nitrit có xu
hướng tăng dần theo thời gian với hàm lượng dao động từ 14,4621,22μg/l, trung bình toàn vùng 17,33 μg/l, lớn hơn giới hạn cho phép

22


khoảng 1,7 lần. Nhìn chung nước vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai bị ô
nhiễm bởi nitrit khá cao, tỉ lệ số mẫu có nồng độ tr ên 2 μg/l rất lớn, vượt
giới hạn cho phép đối với nước nuôi trồng thuỷ sản. Nhiều mẫu có nồng
độ trên 10μg/l, vựợt giới hạn cho phép đối với nước mặt [40].
- Phosphat (PO43-) trong nước
Mức độ ô nhiễm nước bởi phosphat trong vùng thuộc loại thấp, các
mẫu đã phân tích từ năm 2004 đến 2006 đều có hàm lượng thấp hơn giới
hạn cho phép theo quy chuẩn Việt Nam - QCVN 08: 2008/BTNMT (100
μg/l) đối với nước mặt [3].
Hàm lượng PO43- và NO3- trong nước đầm phá thấp, dao động trong khoảng
dưới 0,05 – 0,26 mg N-NO3-/l và dưới 0,01 – 0,10 mg P - PO43-/l. Mặc dù nồng độ NNO3- thấp, nhưng giá trị nitơ tổng số (TN) một vài nơi cao hơn 1mg/l. Theo tiêu chu ẩn
Mỹ (TN nhỏ hơn 0,9 mg/L cho nước ven bờ), tiêu chu ẩn Trung Qu ốc (TN nh ỏ h ơn 0,5
– 1 mg/l cho nước nuôi cá) và tiêu chuẩn Nhật Bản (TN nhỏ hơn 0,03 – 0,05 mg/l cho
nước ven bờ), nồng độ TN trong nước đầm phá nhiều khi vượt mức quy định đối với
mục đích bảo tồn thủy sinh và tiềm tàng gây ra sự phú dưỡng.
Việc gia tăng hàm lượng các muối dinh dưỡng có thể dẫn đến hiện tượng phú
dưỡng, cùng với muối nitơ thì muối phosphat cũng là một yếu tố quyết định sự phú
dưỡng (yếu tố tới hạn). Theo WHO (1992), “yếu tố giới hạn” được xác định dựa trên tỉ
lệ TN/TP (TP: Phospho tổng số), tỉ số TN/TP của đầm phá Tam Giang - Cầu Hai dao
động trong khoảng rộng 0,8 – 173, trung bình 4,9 – 65. Tỉ số TN/TP của đầm C ầu
Hai (trung bình dao động trong khoảng 20 – 65) cao hơn đầm Thủy Tú (trung bình 11
– 61) và phá Tam Giang (trung bình 5 – 25) [14].


1.3.6. Hàm lượng oxy hòa tan, BOD, COD
Các kết quả quan trắc năm 2009 cho thấy có sự giảm hàm lượng oxy hoà
tan trong nước đầm phá. Mặc dù số lượng mẫu và tr ạm v ị lấy trong đợt quan
trắc năm 2009 không nhiều, tuy nhiên đây là các khu vực thảm c ỏ bi ển phát
triển, nước khá trong và sạch, nhưng lại có dấu hiệu thi ếu hụt lượng oxy hoà

23


tan. So với các kết quả quan trắc trước đây, sự giảm hàm lượng oxy hoà trong
nước tại khu vực là khá lớn.
Sự gia tăng hàm lượng chất hữu cơ có khả năng phân huỷ sinh h ọc trong
nước biển khu vực khá rõ. Theo số liệu từ các đợt khảo sát từ năm 2004 tr ở l ại
đây bao gồm: đợt khảo sát tháng 6/2004, tháng 9/2005, tháng 5/2006, tháng
12/2006, tháng 6/2008 (Nguyễn Hữu Cử và nnk, 2005, 2006, 2008) cho thấy có sự
gia tăng hàm lượng BOD trong nước. Hàm lượng BOD đo được trong tháng
9/2009 đã bằng 4,5 mg/l gấp 3 lần tháng 9/2005 (hình 1.2). Đây có thể là một
dấu hiệu cho thấy sự suy giảm chất lượng nước và cũng là nguyên nhân d ẫn
đến suy giảm nguồn lợi sinh vật [7,8].

Hình 1.. Diễn biến hàm lượng BOD trong nước khu vực đầm phá
Tam Giang - Cầu Hai theo thời gian
(Theo: Cao Thu Trang, 2009) [40].

Có sự tăng cao hàm lượng COD trong nước biển khu v ực đầm phá Tam
Giang - Cầu Hai theo thời gian từ sau 2005. Sự gia t ăng hàm lượng chất h ữu c ơ
trong nước đặc biệt rõ trong giai đoạn 2008 - 2009. Nếu so sánh cùng thời đi ểm
thì hàm lượng COD trong nước năm 2009 lớn gấp 1,6 lần so v ới thời gian n ăm
2005 và 2006 (hình 1.3). Điều này cho thấy có sự gia tăng nguồn thải chất hữu

cơ trong nước biển khu vực nghiên cứu vượt quá khả năng l àm sạch c ủa thu ỷ
vực dẫn đến gia tăng hàm lượng chất hữu cơ trong nước.

24


Hình 1.. Diễn biến hàm lượng COD trong nước khu vực đầm phá
Tam Giang - Cầu Hai theo thời gian
(Theo: Cao Thu Trang, 2009) [40].

Như vậy có thể thấy cùng với sự biến động cao của độ muối có s ự t ăng
cao độ đục hay tăng hàm lượng các chất rắn lơ lửng. Thêm vào đó là chất
lượng môi trường nước bị giảm sút khi hàm lượng DO giảm, BOD và COD tăng
khoảng 2 lần so với trước đây 5 năm. Tất cả là yếu tố môi trường gây bất l ợi,
góp phần làm cho thảm cỏ biển và các hệ sinh thái khác bị suy thoái [42].
1.4. Tổng quan về những nghiên cứu đã có tại đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
Những nghiên cứu về các hệ sinh thái tiêu biểu đầm phá Tam Giang - Cầu
Hai thường tập trung chủ yếu vào các thảm cỏ biển, rừng ngập mặn. Các hệ
sinh thái khác như bãi triều, đầm lầy, hệ sinh thái nhân tạo (đầm nuôi thủy sản,
nông nghiệp, đô thị,…) thưởng chỉ được đề cập trong các nghiên cứu ở dạng
tản mạn các thành phần (đặc điểm môi trường vật lí, hóa học hoặc một số sinh
vật điển hình).
1.4.1. Tình hình nghiên cứu hệ sinh thái rừng ngập mặn
Với đường bờ khoảng 127 km và trên 22.000 ha mặt nước đầm phá, Thừa
Thiên Huế được xem là một trong những vùng đất ngập nước ven biển có tính đa
dạng sinh học cao. Thảm TVNM ở Rú Chá - Hương Phong, khu du l ịch Tân M ỹ, c ửa
sông Bù Lu, Ô Lâu,… đã cấu thành nên một hệ TVNM ở vùng ven biển Thừa Thiên Huế

25



×