Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Nghiên cứu quy hoạch lũ chi tiết cho sông trà lý tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1011.71 KB, 87 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU...........................................................................................4
I. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................4
II. Mục đích nghiên cứu....................................................................................7
III. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................7
IV. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu............................................7

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN...........................................................9
1.1 TỔNG QUAN VỀ LƯU VỰC NGHIÊN CỨU..........................................9
1.1.1 Đặc điểm địa lý tự nhiên............................................................................9
1.1.2 Đặc điểm khí tượng thủy văn...................................................................15
1.2 HIỆN TRẠNG KINH TẾ XÃ HỘI VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT
TRIỂN................................................................................................................34
1.2.1 Hiện trạng kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình.................................................34
1.2.2 Xu thế biến đổi các quá trình tự nhiên và xu thế phát triển kinh tế xã hội
.............................................................................................................................39
1.3 QUAN ĐIỂM MỤC TIÊU QUY HOẠCH PHÒNG CHỐNG LŨ.........44
1.3.1 Quan điểm quy hoạch...............................................................................44
1.3.2 Mục tiêu quy hoạch..................................................................................45
1.3.3 Các chỉ tiêu tính toán thiết kế phòng chống lũ........................................45
1.3.4 Mức đảm bảo phòng chống lũ tuyến sông...............................................46

CHƯƠNG 2: TÍNH TOÁN LŨ THIẾT KẾ CHO SÔNG TRÀ
LÝ 49
2.1 CƠ SỞ LÝ THUYẾT MÔ HÌNH MIKE 11.............................................49
2.2 ỨNG DỤNG MÔ HÌNH TÍNH TOÁN THỦY LỰC CHO HỆ THỐNG
SÔNG TRÀ LÝ .................................................................................................54
2.2.1 Phạm vi nghiên cứu của mô hình thủy lực..............................................54
2.2.2 Biên tính toán mô hình thủy lực...............................................................55
2.2.3 Tài liệu địa hình mạng lưới sông.............................................................56


2.2.4 Tài liệu thuỷ văn.......................................................................................57
2.2.5 Tính toán mô phỏng thủy lực hệ thống sông...........................................58
2.3 TÍNH TOÁN LŨ THIẾT KẾ TUYẾN SÔNG TRÀ LÝ ........................65
2.3.1 Tính toán biên mạng thủy lực hệ thống sông...........................................65
2.3.2 Nội dung các trường hợp tính toán lũ thiết kế.........................................68
2.3.3 Kết quả tính toán thủy lực mạng sông.....................................................69
2.3.4 Lựa chọn phương án lũ thiết kế cho sông Trà Lý....................................72

CHƯƠNG 3: XÁC ĐỊNH PHƯƠNG ÁN THOÁT LŨ CHO

1


TUYẾN SÔNG TRÀ LÝ...............................................................74
3.1 TIÊU CHÍ TÍNH TOÁN HÀNH LANG THOÁT LŨ.............................74
3.1.1 Tiêu chí kỹ thuật ......................................................................................74
3.1.2 Tiêu chí về kinh tế xã hội.........................................................................74
3.2 TÍNH TOÁN THỦY LỰC DÒNG CHẢY LŨ SỬ DỤNG CÁC BỐI BÃI
ỨNG VỚI LŨ THIẾT KẾ ................................................................................75
3.2.1 Phương pháp tính toán thủy lực dòng chảy lũ thiết kế sông Trà Lý.......75
3.2.2 Vị trí các bối dọc sông Trà Lý.................................................................77
3.3 TÍNH TOÁN VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN PHỤC VỤ QUY HOẠCH
TUYẾN THOÁT LŨ CHO SÔNG TRÀ LÝ ..................................................80
3.3.2 Kết quả tính toán thủy lực tuyến thoát lũ.................................................81
3.3.3 Phân tích kết quả......................................................................................83

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................86

2



DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ

3


MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài
Lưu vực sông Trà Lý nằm trọn trong đồng bằng Bắc Bộ, thuộc hạ lưu hệ
thống sông Hồng tiếp giáp với biển Đông. Sông Trà Lý có hướng chung là Tây Đông. Bắt đầu từ xã Hồng Minh, huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình, chảy quanh co,
uốn khúc qua Quyết Chiến, Đồng Phú, Đông Phù của huyện Đông Hưng, Thành
Phố Thái Bình, Đông Huy rồi đến Thái Hà, Thái Phúc của huyện Thái Thụy đổi
hướng Bắc-Nam đến Thái Thành, Thái Thọ cuối cùng tới Định Cư rồi đổ ra Vịnh
Bắc Bộ tại cửa Trà Lý. Sông dài 64 km, và là một con sông tự nhiên, mới chỉ chịu
tác động của con người là việc đắp đê hai bên bờ và ngăn các sông nhỏ bằng các
cống. Sông Trà Lý chảy dọc theo vùng kẹp giữa sông Hồng và sông Hóa, chia vùng
này thành hai hệ thống thủy lợi tách biệt: hệ thống bắc và hệ thống nam. Là vùng
đồng bằng ở hạ du sông Hồng lại ở ven biển nên hệ thống sông ngòi ở đây đều chịu
ảnh hưởng của chế độ thủy triều. Mặt khác chế độ thủy văn của sông này cũng chịu
ảnh hưởng của nguồn nước thượng lưu. Mùa lũ tăng dần từ tháng V đến tháng VIII
và hạ dần từ tháng IX.
Phòng chống lũ là chương trình ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế của
tỉnh Thái Bình nói riêng và của cả nước nói chung. Hệ thống công trình chống lũ
dọc theo sông Trà Lý chủ yếu là hệ thống đê sông, đê cửa sông, ngoài ra còn có
hàng chục km các tuyến đê bối, hàng trăm công trình dưới đê. Hệ thống đê đã phát
huy hiệu quả rất tốt, đảm bảo an toàn cho các vùng dân sinh kinh tế xã hội ven sông
trong suốt thời gian dài.

Tuy nhiên do sức ép của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, việc khai thác
các khu vực bãi sông, lòng sông bừa bãi, không có quy hoạch cụ thể, thiếu sự kiểm
soát và đã ở mức đáng báo động: các đê bối ngày càng lấn ra phía lòng sông và
được tôn tạo cao hơn, dân cư vùng bãi sông trở nên đông đúc và bùng phát việc xây
dựng nhà cửa, lấn chiếm bờ làm co hẹp lòng sông, bãi sông... Mặt khác, diễn biến lũ
trong những năm gần đây ở đồng bằng Bắc bộ rất phức tạp do các nguyên nhân
chính như thay đổi khí hậu, phá rừng, triều cường, bão, nước biển dâng. Xu thế biến

4


đổi khí hậu toàn cầu ngày càng bất lợi, lũ lụt thường xuyên và lớn hơn, nạn thiếu
nước, xâm nhập mặn do nước biển dâng, lũ quét, lũ ống làm cản trở quá trình phát
triển kinh tế trên lưu vực nhất là đối với tỉnh Thái Bình.
Bên cạnh các yếu tố bất lợi trên thì tại đầu nguồn những hồ chứa lớn đã và
đang được xây dựng phục vụ công tác cắt lũ và điều tiết lũ cho đồng bằng Bắc bộ
như Hồ thác Bà, Hồ Hoà Bình, Hồ Tuyên Quang, Hồ Sơn La. Khi hồ Sơn La đi vào
hoạt động việc điều tiết liên hồ sẽ làm thay đổi cơ bản chế độ thuỷ văn thuỷ lực hạ
du đặc biệt là vùng sông chịu ảnh hưởng thuỷ triều.
Song song với những thách thức của lũ lụt đồng bằng Bắc bộ cũng chịu ảnh
hưởng không nhỏ trước sự gia tăng của thiên tai và sự khai thác lưu vực sông gia
tăng, ngày 21/6/2007 Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số
92/2007/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phòng, chống lũ hệ thống sông Hồng, sông
Thái Bình. Quy hoạch này nhằm mục tiêu: xác định mức bảo đảm phòng, chống lũ
cho hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình; xác định lũ thiết kế của tuyến sông gồm
lưu lượng lũ thiết kế và mực nước lũ thiết kế; xác định giải pháp công trình, phi
công trình để phòng, chống lũ đối với từng địa phương thuộc hệ thống sông Hồng,
sông Thái Bình; làm cơ sở để lập quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch phòng, chống lũ
chi tiết thuộc phạm vi quản lý của địa phương; quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch
xây dựng và các quy hoạch khác liên quan của các Bộ, ngành, địa phương.

Phạm vi quy hoạch bao gồm các tỉnh, thành phố có đê thuộc hệ thống sông
Hồng, sông Thái Bình là Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hoà Bình, Phú Thọ, Hà Nội, Thái
Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Hải Phòng,
Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Hà Nam và các tỉnh thượng nguồn của hệ thống
hai sông này. Tiêu chuẩn phòng, chống lũ giai đoạn 2007-2010 bảo đảm chống lũ
có chu kỳ 250 năm (tần suất 0,4%), lưu lượng tương ứng tại Sơn Tây 42.600 m 3/s;
giai đoạn 2010-2015 bảo đảm chống lũ có chu kỳ 500 năm (tần suất 0,2%), lưu
lượng tương ứng tại Sơn Tây 48.500 m3/s. Tiêu chuẩn phòng lũ đối với hệ thống đê:
tại Hà Nội bảo đảm chống được lũ tương ứng với mực nước sông Hồng tại trạm
Long Biên là 13,4 m và thoát được lưu lượng tối thiểu là 20.000 m 3/s; tại Phả Lại

5


bảo đảm chống được lũ tương ứng với mực nước sông Thái Bình tại trạm Phả Lại là
7,2 m. Đối với hệ thống đê điều các vùng khác bảo đảm chống được lũ tương ứng
với mực nước sông Hồng tại trạm Long Biên là 13,1 m, phần lưu lượng vượt quá
khả năng trên được sử dụng các giải pháp khác như: điều tiết hồ chứa, phân lũ,
chậm lũ, cải tạo lòng sông thoát lũ... Các giải pháp phòng, chống lũ hệ thống sông
Hồng, sông Thái Bình bao gồm: điều tiết các hồ chứa cắt giảm lũ; trồng rừng phòng
hộ đầu nguồn; củng cố và nâng cấp hệ thống đê điều; cải tạo lòng dẫn tăng khả năng
thoát lũ; thực hiện phân lũ, chậm lũ, tràn qua các đường tràn cứu hộ và có giải pháp
bảo đảm an toàn đê trong trường hợp tràn toàn tuyến; tổ chức cứu hộ đê.
Sông Trà Lý hiện tại chưa có quy hoạch phòng chống lũ chi tiết cho tuyến
sông, nên việc tổ chức quản lý và khai thác hợp lý các khu vực bãi sông kết hợp hài
hoà giữa đảm bảo phòng, chống lũ và phát triển kinh tế trung hạn và dài hạn còn
nhiều hạn chế, các công trình dự kiến xây dựng không triển khai được do chưa có
quy hoạch, do thiếu cơ sở pháp lý: Nhiều đoạn đê chưa bảo đảm yêu cầu thiết kế,
nhiều công trình dưới đê bị xuống cấp cần bổ sung, nâng cấp; Vấn đề vi phạm hành
lang thoát lũ sông trục và hành lang bảo vệ đê điều vẫn xảy ra thường xuyên; Việc

xác định chỉ giới thoát lũ cho các tuyến sông này cần được thực hiện.
Vì những lý do nêu trên việc xây dựng Quy hoạch phòng chống lũ chi tiết
cho sông Trà Lý để làm cơ sở cho việc lập và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất,
quy hoạch xây dựng ở khu vực ngoài bãi sông đáp ứng nhu cầu phát triển của các
ngành kinh tế xã hội và đảm bảo thoát lũ, an toàn đê điều và phòng, chống lụt, bão
là cần thiết và cấp bách. Đây cũng là lý do dẫn đến sự hình thành của luận văn:
“Ngiên cứu quy hoạch lũ chi tiết cho sông Trà Lý tỉnh Thái Bình”. Kết quả nghiên
cứu sẽ là một phương án tham khảo cho việc đưa ra các phương án sử dụng các bối
trong quá trình định hướng hoàn thiện các giải pháp phòng, chống lũ phù hợp với
các quy hoạch khác về phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo an ninh quốc phòng;
chiến lược phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai của tỉnh trong giai đoạn mới.

6


II. Mục đích nghiên cứu
Quy hoạch phòng chống lũ nhằm xác định giải pháp thực hiện đảm bảo tháo
lũ cho hệ thống sông Hồng – Thái Bình, đảm bảo an toàn phòng chống lũ cho toàn
bộ hệ thống vùng đồng bằng Bắc Bộ và tỉnh Thái Bình, đảm bảo khai thác hợp lý tài
nguyên nước, tài nguyên đất phục vụ phát triển bền vững kinh tế -xã hội.
Các mục tiêu cụ thể:
1. Xác định mức bảo đảm phòng, chống lũ cho tuyến sông Trà Lý tỉnh Thái
Bình.
2. Xác định lũ thiết kế của tuyến sông Trà Lý gồm lưu lượng lũ thiết kế và
mực nước lũ thiết kế.
3. Xác định phương án sử dụng các bối bãi trong quá trình thực hiện quy
hoạch phòng chống lũ cho tuyến sông Trà Lý.
III. Phạm vi nghiên cứu
Không gian nghiên cứu: Tính toán trên toàn bộ hệ thống lưu vực sông Trà
Lý tỉnh Thái Bình.

Đối tượng nghiên cứu: Đường quá trình mực nước và lưu lượng tại các
trạm trên hệ thống lưu vực sông Trà Lý tỉnh Thái Bình.
IV. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Hướng tiếp cận: Căn cứ vào tình hình thu thập tài liệu, nghiên cứu trên lưu
vực, tác giả lựa chọn hướng tiếp cận vừa mang tính kế thừa vừa đảm bảo tính sáng
tạo trong nghiên cứu.
Tổng hợp hệ thống, xem xét các thành phần tương tác lẫn nhau như: địa
hình, địa chất, thổ nhưỡng, khí hậu, nước, sinh vật, con người, điều kiện kinh tế xã
hội, đặc điểm tình hình lũ lụt và những tác hại do lũ lụt gây ra...
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đây đã sử dụng mô hình 1

7


chiều và sử dụng mô hình 1 chiều tìm ra được phương án sử dụng các bỗi bãi
trong quá trình quy hoạch lũ cho sông Trà Lý tỉnh Thái Bình.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp mô hình thủy lực mô phỏng quá
trình thủy động lực học trên hệ thống sông Trà Lý.

8


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN

1.1 TỔNG QUAN VỀ LƯU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1.1 Đặc điểm địa lý tự nhiên
a. Vị trí địa lý
Sông Trà Lý có hướng chung là Tây - Đông. Bắt đầu từ xã Hồng Minh,
huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình, chảy quanh co, uốn khúc qua Quyết Chiến của
huyện Đông Hưng, Thành Phố, TP Thái Bình, Đông Mỹ, Đông Huy rồi đến Thái

Hà, Thái Phúc của huyện Thái Thụy đổi hướng Bắc-Nam đến Thái Thành, Thái Thọ
cuối cùng tới Định Cư rồi đổ ra Vịnh Bắc Bộ tại cửa Trà Lý. Sông dài 64 km, là
một con sông tự nhiên, mới chỉ chịu tác động của con người là việc đắp đê hai bên
bờ và ngăn các sông nhỏ bằng các cống.
+ Bờ hữu sông Trà Lý gồm các huyện Vũ Thư, Thành phố Thái Bình, Kiến
Xương, Tiền Hải
+ Bờ tả sông Trà Lý gồm các huyện Hưng Hà, Đông Hưng, TP. Thái Bình,
Thái Thụy
b. Đặc điểm địa hình
Địa thế chung của khu vực: Nằm dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Từ
sông Hồng ra đến biển cửa Ba Lạt, từ cửa vào sông Trà Lý đến cửa ra sông Trà Lý
(biển). Từ ven sông Luộc ra tới biển cũng thoải dần theo hướng chảy của các sông
Hoá, sông Diêm Hộ (Diêm Điền), sông Tiên Hưng, Sa Lung 1, Sa Lung 2.
Phía Bắc sông Trà Lý hay (phía bờ tả) có các sông ngang, kênh nội đồng
chảy nhập vào. Khi lấy nước tưới, lợi dụng lúc thuỷ triều lên, một số cống trên sông
nội đồng mở, lúc này mực nước sông Trà Lý cao hơn mực nước sông trong đồng và
hướng chảy có chiều ngược lại (từ sông Trà Lý vào sông, kênh trong đồng). Khu
này gọi chung là Bắc Thái Bình.
Phía Nam Thái Bình hay còn gọi là phía hữu sông Trà Lý cũng có địa hình
chung là dốc thoải dần về phía đông nam ra biển. Các sông tự nhiên và kênh đào

9


cũng dựa vào hướng đó mà tạo ra các trục sông tiêu thoát nước và lấy nước tưới
ngang dọc chằng chịt mà vẫn đảm bảo hướng chung Tây Bắc – Đông Nam.
Đây là vùng phù sa châu thổ sông Hồng, được bồi tụ phù sa sau nhiều triệu
năm. Sau hàng ngàn năm sinh sống, nhân dân đã xây dựng nên hệ thống đê sông
Hồng, sông Luộc, Trà Lý .. và nhiều hệ thống thuỷ lợi, tạo ra vùng đất phì nhiêu
như ngày nay. Đồng thời hệ thống đê sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý, sông

Hoá… đã chia cắt đồng bằng nói chung và tỉnh Thái Bình ra thành nhiều ô riêng
biệt, có những vùng trũng úng và cũng có những cồn cát cao 2-3 mét. Giữa sông
Trà Lý và sông Hồng có khoảng 25 dải song song tạo thành vùng đất cồn rộng 30
km, cao hơn mặt ruộng 1-2 m, có các làng mạc ở trên đó. Cũng do quá trình khai
hoang lấn biển, qua nhiều năm đất đai đã được mở rộng ra phía biển theo hướng
Đông và Đông Nam.
Cao trình mặt đất trung bình phía bắc tỉnh Thái Bình khoảng +1 ÷ +2.5m
Cao trình mặt đất trung bình phía nam tỉnh Thái Bình khoảng: +0.5 ÷ +1.75m.
Các đường giao thông có cao độ từ +1.75 - +2.5 m.
c. Hệ thống sông ngòi
Diện tích lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình là 169.020 km 2, trong đó
phần lưu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam là 86.720 km 2, tức chiếm 51%. Riêng lưu
vực sông Hồng tính đến Sơn Tây là 143.700 km 2, sông Thái Bình là 12.680 km 2,
vùng đồng bằng gồm cả sông Tích, sông Bôi là 12.640 km 2. Hệ thống sông Hồng,
sông Thái Bình được hợp thành bởi các lưu vực sông sau đây:
• Sông Thao (dòng chính sông Hồng) bắt nguồn từ dãy Ngụy Sơn - Trung
Quốc có diện tích lưu vực 51.800 km2, tổng chiều dài 843 km. Thuộc
lãnh thổ Việt Nam có diện tích 12.000 km2 và chiều dài tới Việt Trì 332
km.
• Sông Đà, chi lưu bên phải cũng bắt nguồn từ dãy Nguỵ Sơn chảy vào
Việt Nam theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và song song với sông Thao.
Sông Đà có diện tích lưu vực là 52.900 km 2, chiều dài 1010 km. Trên
lãnh thổ Việt Nam có diện tích 26.800 km2 và chiều dài 570 km.

10


• Sông Lô bắt nguồn từ cao nguyên Vân Quý Trung Quốc, đầu nguồn cũng
chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, tới thị xã Hà Giang thì chuyển
hướng Bắc Nam và nhập vào sông Hồng ở gần Việt Trì, sông Lô có diện

tích lưu vực 39.000 km2, chiều dài 470 km, diện tích thuộc lãnh thổ Việt
Nam 22.600 km2 với chiều dài 275 km. Sông Lô có phụ lưu là sông Gâm,
sông Chảy và sông Phó Đáy.
• Sông Thái Bình có diện tích lưu vực 12.680 km 2 gồm sông Cầu
(6.030)km2, sông Thương (3.580 km2) và sông Lục Nam (3.070 km 2).
Toàn bộ lưu vực sông Thái Bình nằm trên lãnh thổ Việt Nam trên vùng
đồi núi thấp vùng Đông Bắc.
Mạng lưới sông hạ du thuộc địa phận vùng nghiên cứu
• Sông Hồng phân nước qua sông Thái Bình qua hai phân lưu lớn là sông
Đuống (dài 64 km), sông Luộc (dài 72,4km). Sông Hồng còn phân nước
sang sông Đáy qua sông Nam Định (dài 31,5 km) và chảy thẳng ra biển
(Vịnh Bắc Bộ) ở cửa Ba Lạt và hai phân lưu nữa là sông Trà Lý (dài 64
km) và sông Ninh Cơ (dài 51,8 km). Ở đây dòng chính và các phân lưu
đều có đê chống lũ, nên đồng ruộng ít được bồi đắp thêm, lượng phù sa
chủ yếu của sông Hồng đều đổ ra biển, đã bồi đắp và kéo dài vùng cửa
sông. Sông Hoá nối sông Luộc (ở Chanh Chử) với sông Thái Bình ở
Thuỵ Tân gần biển.
• Sông Luộc: Bắt đầu từ Hạ Lão huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình, đổ vào
sông Thái Bình ở làng Quý Cao, huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương (sông
Luộc dài 72,4 km). Trước kia sông Luộc có tên là sông Phổ Đà, sông Đa
Lỗ. Sông Luộc chảy theo hướng Tây – Đông, hướng thấp dần của đồng
bằng Bắc Bộ. Cửa vào ở độ cao trung bình +4 ÷ +6m, xuống Quý Cao,
Vĩnh Bảo chỉ còn +1 ÷ 0m. Sông Luộc ít dốc và chảy quanh co, độ rộng
lòng sông trung bình từ 300 – 400 m. Thời gian gần đây ở cửa sông đã
bồi lắng tương đối nghiêm trọng, lòng sông chỉ còn lại một lạch chính
không rộng và không sâu lắm, chảy quanh co giữa các bãi bồi, tàu bè đi

11



lại khó khăn trong mùa kiệt. Sông Luộc có nguy cơ bị bồi lấp dần nếu
không được cải tạo liên tục (sông Luộc là một sông ngang, sông Thái
Bình đang bị bồi lắng rất mạnh ở nhiều đoạn, đặc biệt đoạn Quý Cao).
Hướng nước sông Thái Bình đang chuyển dần sang sông Văn Úc qua các
sông ngang: sông Gùa, sông Mía, sông Mới. Vì vậy, đoạn cửa sông Thái
Bình gần biển có nguy cơ bị lắng đọng và chết dần.
Từ khi có hệ thống đê hoàn chỉnh và sau đó là các cống dọc theo đê, một
số cửa sông chỉ còn được thông nước khi mở cống lấy hoặc khi tiêu nước.
• Sông Trà Lý: Sông Trà Lý là phân lưu của dòng chính sông Hồng,
chuyển tải một lượng nước khá lớn trong năm, tham gia quá trình ngọt
hoá vùng ven biển của tỉnh Thái Bình, tiêu thoát bớt một lượng lũ đáng
kể của sông Hồng ra biển, làm giảm sự căng thẳng cho đoạn đê cuối sông
Hồng. Sông Trà Lý có hướng chung là Tây – Đông. Bắt đầu từ xã Hồng
Minh, huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình, chảy quanh co, uốc khúc qua
Quyết Chiến, Đồng Phú, Đồng Phú của huyện Đông Hưng, TP. Thái
Bình, Đông Mỹ, Đông Huy rồi đến Thái Hà, Thái Phúc của huyện Thái
Thuỵ đột ngột đổi hướng Bắc – Nam đến Thái Thành, Thái Thọ cuối
cùng tới Định Cư rồi đổ ra Vịnh Bắc Bộ tại cửa Trà Lý. Sông dài 64 km.
Sông Trà Lý vẫn là sông thiên nhiên, mới chỉ có tác động của con người
là đê được đắp hai bên bờ và ngăn các sông nhỏ bằng các cống.
Sông Trà Lý chảy qua vùng đất thấp, cốt đất đoạn cửa vào phổ biến là
khoảng (+1,0)m và đoạn cửa ra khoảng trên dưới (+0,75m). Riêng vùng
Bắc Thái Bình có 24200 ha ruộng có cốt đất thấp dưới (+1,00m) về vụ
mùa thường hay bị ngập úng; có 15100 ha ruộng có cốt đất nhỏ hơn
(+0,75)m. Vùng Nam Thái Bình cũng ở tình trạng như vậy (hướng dốc ra
cửa Lân).
Ngày nay đê sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý, sông Hoá đã hình thành
khá hoàn chỉnh, căn bản ngăn được lũ hạ lưu sông Hồng. Tuy còn một số đoạn đê
chất lượng nền móng kém, nhưng thân đê ngày càng được kiên cố hơn.


12


Hệ thống đê và các cống lấy nước phía bờ hữu sông Luộc, tả sông Hồng, hữu
sông Hoá và hai bên tả, hữu sông Trà Lý đã ngăn cách nước lũ sông ngoài bao
quanh vận hành chống lũ tiêu thoát nước nội đồng và lấy nước cấp cho nội đồng
phục vụ sản xuất, sinh hoạt, đẩy và rửa mặn, thau chua… khi được phép mở cống,
đặc biệt trong các tháng mùa kiệt. Các hệ thống thuỷ nông các sông nội đồng đã
được hình thành, tạo thành hai khu thuỷ lợi chính của tỉnh Thái Bình: khu Bắc Thái
Bình và khu Nam Thái Bình.
a. Trong khu Bắc Thái Bình có các trục dẫn nước có hướng chung phù hợp
với thế đất và địa hình nội đồng là từ Tây Bắc chảy xuống Đông Nam ra Vịnh Bắc
Bộ.
* Sông Tiên Hưng chảy từ Nhâm Lang, bờ hữu sông Luộc, thuộc huyện
Hưng Hà chảy quanh co nhưng hướng chung là Tây Bắc – Đông Nam, đến Cổ
Dũng rồi đổi hướng Tây – Đông gặp sông Diêm Hộ theo hướng Đông chảy ra Vịnh
Bắc Bộ.
Các hệ thống sông ngang, dọc trong khu Bắc Thái Bình đều có hướng từ Tây Bắc
và Bắc, chảy từ sông Luộc vào đồng rồi thoát ra sông Trà Lý, sông Diêm Hộ rồi đổ
ra biển.
- Các cống đầu: Lão Khê, Nhâm Lang, Hiệp, Đại Nẫm (sông Luộc).
- Các cống cuối: Sa Lung, Thiên Kiều (sông Trà Lý); cống Trà Linh I, Trà
Linh II (cuối sông Diêm Hộ)…
b. Các sông trục trong đồng khu Nam Thái Bình cũng chảy theo hướng dốc
địa hình, thế đất từ Tây Bắc xuống Đông Nam, sát biển đất đai lại bị nâng cao tạo
thành hình yên ngựa. Hai huyện Vũ Thư và Kiến Xương có những dải đất chạy dọc
theo sông Kiến Giang tạo thành hình sống Trâu bất lợi cho cả tưới và tiêu.
* Sông Kiến Giang chạy dọc khu Nam Thái Bình, chia khu này thành hai
phần đất tương đối đều nhau. Các sông ngang đổ vào sông Kiến Giang tạo thành
một hệ thống thuỷ nông khá phức tạp nhưng tương đối hoàn chỉnh. Sông Kiến

Giang được liên hệ với sông Trà Lý, sông Hồng nhờ có các cống lấy nước qua đê
hữu sông Trà Lý, để tả sông Hồng và các đoạn sông kênh ngang hình xương cá.

13


Các cống lấy nước tưới ở dọc bờ đê hữu sông Trà Lý: Cự Lâm, Nang, Ô Mễ,
Tam Lạc, Vũ Đông, Ngữ, Dục Dương. Các cống lấy nước tưới ở dọc bờ đê tả sông
Hồng: Tân Đệ, Ngô Xá, Thái Hạc, Cù Là, Nguyệt Lâm.
Các cống tiêu chính là Lãng Đông, Ngũ Thôn, Tam Đồng, Ngặt Kéo, Định
Cư (sông Trà Lý), Bồng He, Doãn Đông, Khổng, Sáu (sông Hồng), An Long, Nho
Lâm, Hoàng Môn, Cống Lân I, Lân II (Cửa Lân ra Vịnh Bắc Bộ).
c. Đặc điểm hình thái và diễn biến sông Trà Lý
Sông Trà lý dài khoảng 64 km, sông quanh co uốn khúc, nhiều đoạn sông có
bán kính cong khá nhỏ khoảng trên dưới 500m, nhưng cũng có đoạn bán kính cong
lớn khoảng một vài nghìn mét. Bề rộng của sông cũng biến thiên lớn, nhiều đoạn
sông có bề rộng chỉ khoảng hơn trăm mét, nhiều đoạn rộng đến vài trăm mét.
Bảng 1. Các thông số lòng dẫn sông Trà Lý
TT

Đoạn sông cong

1
2
3
4
5
6
7
8


K1+460 tả TL
K2+830 hữu TL
K14 tả TL
K22+160 tả TL
K36 hữu TL
K39+620 hữu TL
K4+30 đê biển 7
K13+130 đê biển 7

Bc
(m)
125
135
130
175
150
182
115
255

Rc
(m)
800
770
900
1060
4500
960
1000

1650

Sông Trà Lý có xu thế gia tăng lượng nước về mùa lũ làm gia tăng nguy cơ
mất ổn định đê, đe dọa an toàn dân sinh, kinh tế xã hội.
Lòng sông Trà Lý nhìn chung không ổn định, dễ biến động. Kết quả tính
toán cho thấy chỉ số ổn định theo chiều ngang φ' h và φb dao động trong khoảng nhỏ
hơn 1.0
d. Khả năng thoát lũ của sông Trà Lý
Sông Trà Lý đóng vai trò quan trọng trong thoát lũ hệ thống sông Hồng. Nếu
lấy coi lượng lũ thoát qua Sơn Tây là 100% thì lượng lũ phân qua sông Trà Lý dao
động trong khoảng 8% -11% tùy theo trận lũ và tùy địa hình lòng dẫn của sông Trà
Lý tương ứng với lòng dẫn của hệ thống sông Hồng.

14


-

Trong thời đoạn 1972 ÷ 1987 lưu lượng đỉnh lũ bình quân ở Sơn Tây là
17.540m3/s (coi 100%) thì phân lưu lượng lũ bình quân vào sông Trà Lý
1.380m3/s chiếm 8,6% lưu lượng sông Hồng ở Sơn Tây.

-

Lũ tháng VIII năm 1971 lớn nhất ở sông Hồng sau khi đã vỡ đoạn đê
Cống Thôn ở sông Đuống thì Qmax Hà Nội còn đạt 22.200m 3/s và lưu
lượng max qua sông Trà Lý 2.610m3/s.

-


Lũ tháng VIII năm 1969: Hà Nội 17.800m 3/s, thì lưu lượng qua Quyết
Chiến sông Trà Lý 2.440m3/s.

-

Lũ năm tháng VIII/1996 lưu lượng Hà Nội là 14.800m 3/s thì lưu lượng
qua Quyết Chiến là 2180 m3/s.

Qua đó có thể thấy rằng sông Trà Lý là một phân lưu quan trọng trong thoát lũ của
hệ thống sông Hồng và đồng bằng Bắc Bộ.
1.1.2 Đặc điểm khí tượng thủy văn
a. Đặc điểm khí hậu
Vùng nghiên cứu có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa, với chế độ gió mùa
thể hiện sự tương phản rõ rệt giữa hai mùa. Mùa hè trùng với gió mùa Tây nam kéo
dài từ tháng V tới tháng IX có thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều. Mùa đông trùng với
gió mùa Đông bắc kéo dài từ tháng XI tới tháng III có thời tiết lạnh và ít mưa.
Tháng IV và tháng X là những tháng giao thời ngắn giữa 2 mùa nhưng mang tính
chất mùa hè nhiều hơn mùa Đông.
Mùa hè: Vào tháng V và tháng VI gió mùa tây nam hoạt động mạnh khi xâm
nhập vào Bắc bộ tràn xuống vùng đồng bằng mang thời tiết khô nóng. Nhiệt độ cao
nhất thường xảy ra vào các tháng này với nhiệt độ trung bình tháng 27-28 0C, nhiệt
độ cao nhất tuyệt đối đạt 40-41 0C. Ban ngày trời nắng gắt, độ ẩm cao không khí oi
bức, chiều tối hay có giông. Lượng mưa tháng trung bình đạt 160-240mm. Có năm
gió mùa tây nam hoạt động mạnh gây ra những đợt nắng hạn kéo dài có khi lấn
sang cả tháng VII và chỉ chấm dứt khi có bão và áp thấp ở biển đông lấn vào.

15


Vào tháng VII, VIII khi giải hội tụ nhiệt đới di chuyển từ nam lên bắc nằm

vắt ngang qua đồng bằng Bắc bộ. Những áp thấp và bão phát triển dọc theo dải hội
tụ này gây lên những đợt mưa lớn có khi bao trùm toàn bộ vùng đồng bằng. Lượng
mưa trong vùng nghiên cứu đạt từ 250-350mm những năm do ảnh hưởng của bão
lượng mưa tháng VIII, IX tại Thái Bình đạt tới 924.7mm (1975), 963.7mm (2003),
tại Thụy Anh đạt 863.5mm (1975), 834.7mm (1973)
Tuy vậy thời tiết của những tháng này biến động rất mạnh mẽ tùy theo tần số
xuất hiện hàng năm của những nhiễu động thời tiết gây mưa lớn như bão và áp thấp
nhiệt đới. Năm ít mưa thì nắng nóng kéo dài lượng mưa chỉ đạt dưới 100mm. Tại
Thái Bình lượng mưa trung bình tháng nhỏ nhất đạt 43.8mm (VII/1968).
Sang tháng X gió mùa đông bắc từ lưỡi áp cao Trung Quốc bắt đầu tràn về
từng đợt làm nhiệt độ giảm và gây ra mưa rải rác ở các vùng. Lượng mưa trung bình
tháng chỉ đạt 9 -10% lượng mưa năm.
Mùa đông: bắt đầu từ tháng XI tới tháng III , gió mùa đông bắc đã ngự trị
hoàn toàn trong vùng nghiên cứu với trung bình từ 2 tới 4 đợt gió mùa Đông bắc
tràn về, nhiệt độ giảm xuống nhanh chóng và đạt thấp nhất vào tháng I. Nhiệt độ
trung bình tháng I đạt 16-16,8 0C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối đạt 4,5 tới 7,0 0C.
Lượng mưa trung bình tháng XII, I chỉ bằng 1,2 -1,5% lượng mưa năm.
Vào cuối mùa đông từ tháng II tới tháng IV áp cao Nam Trung Hoa dịch
chuyển sang phía đông gió mùa có hướng lệch sang đông bị biến tính khi thổi qua
biển Nam Hải nhiệt độ không khí cao hơn và độ ẩm tương đối đạt 90-91% bầu trời
u ám mây thấp và mưa phùn ẩm ướt, số ngày mưa lên đến 15-20 ngày mỗi tháng,
lượng bốc hơi piche giảm chỉ còn 30-40mm/tháng.
* Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm vùng nghiên cứu đạt 23,3 0C tại Thái Bình. Nhiệt độ
trung bình tháng cao nhất vào tháng VII đạt 29,2 0C, thấp nhất vào tháng I đạt
16,30C. Nhiệt độ tối cao đạt 39,20C vào tháng 5/VII/1967, nhiệt độ tối thấp đã quan
trắc được 4,10C vào 2/I/1974.
Bảng 2. Đặc trưng khí hậu tại trạm Thái Bình

16



Trạm
Nhiệt độ (oC)
Nắng (giờ)
Độ ẩm (%)
Bốc hơi Piche
(mm)
Tốc độ gió

I
II
III
IV
V
VI VII VIII IX
X
XI XII Năm
16.3 17.1 19.6 23.3 26.9 28.7 29.2 28.3 27.0 24.5 21.3 17.8 23.3
72
41
42
91 194 181 205 172 174 169 143 120 1604
85
89
91
89
86
84
82

87
87
84
83
83
86
59

43

42

51

82

102

115

76

70

84

86

76


886

2.4

2.4

2.2

2.4

2.3

2.3

2.5

1.8

1.8

2.1

2.1

2.1

2.2

* Nắng
Vùng nghiên cứu có số giờ nắng hàng năm khoảng 1600 giờ, tháng có số giờ

nắng nhiều nhất là từ tháng V đến tháng VII, tháng nhiều nhất là tháng VII trong
năm, đạt 205 giờ/tháng, 6,6giờ/ ngày. Tháng có số giờ nắng ít nhất là từ tháng I đến
tháng III có từ 40 ÷ 70 giờ/ tháng đạt bình quân 1 đến 2 giờ/ ngày. Nhìn chung số
giờ nắng các tháng trong năm thuận lợi cho phát triển của cây trồng, đặc biệt là các
tháng mùa hè.
* Bốc hơi
Độ ẩm tương đối trung bình trong các tháng phổ biến đều vượt trên 80%. Độ
ẩm tháng này so với tháng khác biến đổi rất ít, giữa tháng ẩm nhất và tháng khô
nhất chỉ chênh nhau từ 5% đến 10%. Những ngày mùa đông khô hanh, độ ẩm có thể
giảm xuống dưới 20%. Trong những ngày mưa phùn, không khí có thể tăng lên đến
trên 90%.
*Gió, bão
Khí hậu miền Bắc Việt Nam thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, khí hậu
trong năm hình thành hai mùa rõ rệt:
-Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều
-Mùa đông lạnh, khô, ít mưa.
Sự tác động của hoàn lưu khí quyển tới địa hình lưu vực tạo nên chế độ khí
hậu riêng cho lưu vực sông.
Về mùa hè, khi giải áp thấp xích đạo vượt qua chí tuyến Bắc thì toàn bộ áp
thấp này phát triển rộng ra bao trùm cả Ấn Độ Dương, mặt khác nó tăng cường cho
áp thấp xích đạo. Thời điểm nay áp cao Xiberi đã yếu và tan đi, nhưng vùng cận

17


phía Nam bán cầu lại là vùng áp cao. Do vậy các khối khí đoàn ở đây bị hụt bởi áp
thấp và di chuyển sang Bắc bán cầu. Cơ chế gió mùa mùa hè được hình thành và
mang theo nhiều hơi ẩm từ biển vào lục địa, hệ quả cho mưa lớn.
Gió Tây Nam hoạt động mạnh từ tháng 5 đến tháng 8 và phân làm hai luồng
đi tới Bắc Việt Nam:

- Một luồng vượt qua Vịnh Thái Lan theo hướng Tây Nam qua Lào sang Bắc
Bộ, đặc điểm thời tiết khô nóng.
- Một luồng theo bờ biển Việt Nam có hướng đông nam thổi vào đất liền, đặc
điểm thời tiết mát mẻ, độ ẩm cao. Tùy theo hình thế thời tiết mà hai luồng gió này
thay thế nhau ngự trị ở Bắc Bộ.
Tới tháng 9, áp cao Thái Bình Dương xuất hiện và hoạt động đồng thời với
gió mùa Tây Nam. Đây là thời kỳ giao thời giữa hai mùa nóng lạnh.
Đến tháng 10, gió tây nam yếu và tan đi, áp cao phía Bắc hoạt động mạnh
dần lên và đi về phía đông, bắt đầu hình thành hoàn lưu gió mùa mùa đông.
Gió mùa mùa đông cũng được chia làm hai thời kỳ khác nhau:
- Đầu mùa đông từ tháng 10 đến tháng 1 năm sau là thời kỳ lạnh và khô.
Nguyên do áp cao Xiberi tràn qua lục địa Trung Quốc từ phía Bắc xuống Việt Nam.
- Giai đoạn cuối mùa đông từ tháng 1 đến tháng 4, không khí lạnh biến tính
qua biền tới Bắc Bộ cho thời tiết lạnh ẩm, có mưa phùn kèm theo.
Vào mùa đông, luôn có sự tranh giành ảnh hưởng của tín phong và gió mùa cực đới,
do đó thể hiện tính biến động mạnh mẽ: xen kẽ thời tiết lạnh khác thường của gió
mùa cực đới và thời tiết ấm áp của tín phong. Mùa hạ cũng xảy ra sự tranh giành
ảnh hưởng của gió mùa mùa hạ và tín phong xảy ra ở dãy hội tụ- đó là nguyên nhân
gây mưa mùa hạ.
Trong vùng không có sự phân hóa đáng kể từ nơi này qua nơi khác.
Bão là nhiễu động thời tiết mạnh mẽ nhất trong cơ chế gió. Bản chất của bão
là vùng áp thấp khá sâu phát triển trên rãnh nội chí tuyến vùng biển nhiệt đới phía
đông nước ta. Bão gây mưa lớn kéo dài vài ngày, lượng mưa lớn từ 100-300 mm
(hoặc hơn) trên diện rộng 100-200 km2 xung quanh tâm bão.

18


Theo kết quả thống kê 403 trận bão đổ bộ vào Việt Nam trong vòng 100 năm
thì có 126 trận (tức 31%) đổ bộ vào vùng biển từ Quảng Ninh đến Ninh Bình.

Trong đó xảy ra vào tháng IX có 37 trận, tháng VII có 35 trận và tháng VIII có 26
trận (cũng là những tháng xảy ra lũ lớn).
Tốc độ gió mạnh làm dâng mực nước biển. Trong 101 trận bão gây nước
dâng thống kê được từ Cửa Ông đến Cửa Đáy, thì có 35 trận gây nước dâng thấp
hơn 0,50 m, 38 trận gây nước dâng từ 0,5÷1,0 m, 17 trận gây nước dâng 1,00 ÷ 1,50
m, 8 trận gây nước dâng từ 1,50-2,00 m, 3 trận gây nước dâng 2,0-2,5 m và không
có trận gây nước dâng cao hơn 2,5 m.
Thời gian nước dâng từ 12-13 giờ, thời gian duy trì mực nước cao nhất
khoảng 3 giờ. Nước dâng gây ảnh hưởng lớn tới việc tiêu thoát nước ra biển và
vùng cửa sông, có khi gây ra tràn và vỡ đê biển làm đất vùng ven biển ngập nước
mặn (Theo đánh giá trong Báo cáo thủy văn Dự án Quy hoạch sử dụng Tổng hợp
nguồn nước lưu vực sông Hồng – sông Thái Bình 2006).
* Chế độ mưa
- Mưa năm: Nếu coi thời gian mùa nhiều mưa bao gồm những tháng có
lượng mưa lớn hơn lượng mưa bình quân tháng trong năm và đạt trên 50% tổng số
năm quan trắc thì mùa nhiều mưa ở lưu vực sông vùng nghiên cứu là từ tháng V đến
tháng X, mùa ít mưa từ tháng XI đến tháng IV năm sau.
Thành phần lượng mưa trong mùa nhiều mưa chiếm 80 ÷ 85% lượng mưa cả
năm, thành phần lượng mưa trong mùa ít mưa chỉ chiếm 15-20% lượng mưa cả
năm. Tuy nhiên thời kỳ mưa lớn nhất vùng nghiên cứu thường tập trung vào 3 tháng
là từ tháng VII đến tháng IX, thành phần lượng mưa trong các tháng này đều đạt từ
200÷300mm/tháng.
Thời kỳ ít mưa nhất trong vùng nghiên cứu thường tập trung vào 3 tháng, từ
tháng XII đến tháng II lượng mưa trong các tháng này chỉ đạt từ 15-30mm/tháng .
Lượng mưa trung bình nhiều năm vùng nghiên cứu từ 1500 -1700mm, tại
Thái Bình đạt 1683 mm.

19



- Mưa tháng: Tháng có lượng mưa nhỏ nhất là tháng 12 và tháng 1, chỉ đạt
khoảng 20 mm đến 30 mm. Lượng mưa ngày lớn nhất (xem Bảng 3. ) trong thế kỷ
trước (thế kỷ 20) và mấy năm đầu thế kỷ 21 đã xuất hiện lượng mưa 1 ngày lớn
nhất đạt tới trên 400 mm ở trong vùng nghiên cứu của dự án và ngoài vùng nghiên
cứu thuộc Đồng Bằng Bắc Bộ. Tháng 7 năm 2004 cũng xuất hiện một đợt mưa diện
rộng toàn tỉnh Thái Bình, nhiều nơi đã xuất hiện lượng mưa 1 ngày lớn nhất năm
đạt vài trăm mm.
Bảng 3. Lượng mưa 1 ngày max và 3 ngày max vùng nghiên cứu
Tên Trạm
TP. Thái Bình
Tiền Hải
Kiến Xương
Tiên Hưng
Thái Thuỵ
Thuyền Quan
Phủ Dực
Bến Hiệp

Mưa 1 ngày max
300,0 mm (1990)
353,5 mm (1990)
313,3 mm (1982)
428,0 mm (1975)
408,5 mm (1963)
317,3 mm (1966)
379,2 mm (1978)
357,5 mm (1978)

Mưa 3 ngày max
454,0 mm (1990)

555,6 mm (1966)
460,7 mm (1968)
462,7 mm (1975)
436,0 mm (1963)
472,8 mm (1978)
427,7 mm (1978)
426,6 mm (1978)

Bảng 4. Tổng lượng mưa trung bình tháng và năm vùng nghiên cứu
Đơn vị: mm

Thái
Bình

X(mm)
K%

Tiền Hải

X(mm)
K%

Kiến
Xương

X(mm)
K%

Tiên
Hưng


X(mm)
K%

25.
5
1.5
1
22.
4
1.3
7
20.
7
1.3
1
21.
8
1.4

26.
7
1.5
8
28.
7
1.7
5
25.
7

1.6
3
25.
1
1.6

45.
0
2.6
8
40.
4
2.4
7
44.
3
2.8
1
49.
5
3.2

75.
8
4.5
1
61.
3
3.7
4

73.
5
4.6
6
75.
7
4.8

167.
8
151.
0

188.
1
11.1
8
154.
8

9.21

9.45

149.
4

162.
1
10.2

9
184.
7
11.9

9.97

9.49
156.
8
10.1

20

224.
6
13.3
4
200.
7
12.2
5
191.
7
12.1
7
200.
7
12.9


299.
7
17.8
0
320.
8
19.5
8
294.
2
18.6
8
302.
5
19.5

331.
1
19.6
7
353.
2
21.5
6
356.
2
22.6
1
282.
1

18.2

202.
9
12.0
5
221.
7
13.5
3
177.
3
11.2
6
162.
0
10.4

70.
5
4.1
9
66.
9
4.0
8
62.
9
3.9
9

62.
1
4.0

25.
5
1.5
2
16.
6
1.0
2
17.
2
1.0
9
25.
3
1.6

1683.1
100
1638.6
100
1575.2
100
1548.1
100



Tên trạm

Thái
Thụy
Thuyền
Quan
Bến
Hiệp

Đặc
trưng
X(mm)
K%
X(mm)
K%
X(mm)
K%
X(mm)

Phụ Dực
K%

I

II

III

IV


V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

1
24.
6
1.5
0
23.
8
1.4
4
23.
3
1.4
8
25.

7
1.6
5

2
24.
3
1.4
8
28.
9
1.7
5
24.
8
1.5
8
27.
9
1.7
9

0
42.
1
2.5
6
44.
3
2.6

8
47.
9
3.0
5
53.
1
3.4
1

9
66.
1
4.0
2
72.
1
4.3
6
81.
1
5.1
6
69.
7
4.4
7

3
163.

4

3
190.
5
11.5
8
190.
6
11.5
2
186.
5
11.8
6
193.
3
12.4
0

6
227.
9
13.8
6
211.
7
12.8
0
228.

0
14.5
1
220.
4
14.1
4

4
326.
9
19.8
7
315.
5
19.0
7
294.
5
18.7
4
293.
5
18.8
3

2
319.
8
19.4

4
319.
8
19.3
3
276.
5
17.5
9
283.
1
18.1
6

6
176.
0
10.7
0
193.
6
11.7
0
166.
6
10.6
0
159.
1
10.2

1

1
62.
0
3.7
7
69.
1
4.1
8
58.
7
3.7
4
59.
6
3.8
2

4
21.
2
1.2
9
23.
3
1.4
1
23.

5
1.5
0
22.
8
1.4
7

9.94
161.
6
9.77
160.
5
10.2
1
150.
3
9.64

* Các nhiễu động thời tiết gây mưa lớn
Các tác nhân gây mưa lớn là các nhiễu động trong cơ chế gió mùa gồm các
nhiễu động kiểu front, kiểu hội tụ, rãnh, xoáy hoặc dông nhiệt. Nhiễu động có
cường độ biến đổi càng lớn thì tác động gây mưa càng lớn. Nhiễu động có tác động
lớn đến mùa lũ ở sông Hồng là hội tụ nhiệt đới - tức hội tụ nội chí tuyến.
Từ cuối tháng 4, trục của rãnh hội tụ nội chí tuyến hướng theo gần vĩ tuyến và
chuyển theo chuyển động biến kiến của mặt trời và vượt qua xích đạo. Đồng thời áp
thấp lục địa Châu Á cũng phát triển nhanh chóng về phía Nam và Đông Nam còn làn
gió Tây Nam thì tràn qua Đông Dương đâỷ lùi áp cao Thái Bình Dương về phía Bắc và
phía Đông. Vì vậy rãnh của nội chí tuyến trong khi tiến lên vĩ độ cao thì quang dần sang

hướng Tây Bắc - Đông Nam thậm chí hướng Bắc Nam.
Tuỳ thuộc vào sự tương quan giữa 3 khối không khí mà vị trí và tốc độ di
chuyển của trục đó có vị trí khác nhau trong từng năm. Thông thường trong các
tháng này, ít khi rãnh nội chí tuyến kéo dài về phía tây đến lục địa Đông Nam Á,

21

Năm
1644.8
100
1654.1
100
1571.8
100
1558.6
100


toàn bộ lãnh thổ Việt Nam nằm trong lòng khối không khí gió mùa hoặc là Bắc Ấn
Độ Dương hoặc là Thái Bình Dương.
Từ tháng 8 gió mùa Tây Nam bắt đầu suy yếu, lưới áp cao Thái Bình Dương phát
triển về phía lục địa tạo ra sự quay hướng nhanh chóng của rãnh nội chí tuyến. Rãnh
hẹp lại và lùi về vĩ độ thấp đồng thời kéo dài đến lục địa Đông Nam Á . Vì vậy thường
từ tháng 8 mới thấy có hoạt động nội chí tuyến trên lãnh thổ Việt Nam. Trong tháng này
vị trí của nó thường vắt ngang eo biển Basy tới Nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam với
hướng Tây - Tây - Bắc, Đông - Đông - Nam.
Tới đầu tháng 9 trục của rãnh hướng dần theo vĩ tuyến và có vị trí trung bình ở
khoảng Trung Bộ.
Sang tháng 10 vị trí trung bình của trục rãnh ở các vĩ độ thấp và nhanh chóng
lùi về phía Nam bán cầu.

Hội tụ nội chí tuyến hoạt động rõ nét nhất trong tháng 8 đặc biệt ở lưu vực
sông Thái Bình, sông Lô, Trung hạ lưu sông Thao và hạ lưu sông Đà.
Tuy nhiên có những năm gió mùa Tây Nam mạnh như năm 1964, 1990, 1991
thì ngay trong tháng 8 hội tụ nội chí tuyến cũng không thâm nhập được vào Bắc Bộ.
ngược lại năm 1992 gió mùa Tây Nam yếu nên ngay trong tháng 7 giải hội tụ nhiệt
đới đã xâm nhập nhiều lần vào lãnh thổ của các lưu vực sông Thái Bình, sông Lô,
và Thao.
Bão là nhiễu động thời tiết mạnh mẽ nhất trong cơ chế gió mùa. Bản chất của
bão là vùng áp thấp khá sâu phát triển trên rãnh nội chí tuyến vùng biển nhiệt đới
phía đông nước ta trên Thái Bình Dương.
b. Đặc điểm thủy văn
*Dòng chảy năm
Nguồn nước trong vùng nghiên cứu bao gồm nguồn nước sinh tại chỗ và
nguồn nước ngoại lai chảy vào vùng từ các sông suối của hệ thông sông Hồng –
Thái bình ở phần hạ lưu.
Nước do mưa trong vùng: Với tổng lượng mưa năm trung bình nhiều năm
trong vùng là 1610mm, nhưng vì Thái Bình là vùng đồng bằng ven biển không có

22


điều kiện xây dựng các hồ chứa nên lượng nước này phần lớn chảy ra biển chỉ tích
lại một phần nhỏ trong các lòng sông, ao hồ vùng trũng.
Lượng nước ngoại lai chảy vào vùng nghiên cứu: Nguồn nước chảy vào
vùng nghiên cứu là nguồn nước từ các phân lưu ở châu thổ sông Hồng –Thái Bình
gồm
Nguồn nước từ sông Hồng phân qua sông Luộc; nguồn nước sông Hồng
phân qua sông Trà Lý và nguồn nước hạ lưu sông Hồng.
Kết quả nghiên cứu về lượng nước phân lưu của các nhánh sông ở hạ du
châu thổ sông Hồng và Thái Bình cho thấy như sau:

- Do tác động của thủy triều nên ở vùng châu thổ các sông đều phân nhiều
nhánh rất phức tạp.
- Chế độ dòng chảy ở các vùng sông chịu ảnh hưởng của thủy triều thường
rất phức tạp và do chế độ triều chi phối.
- Sự dao động của thủy triều có tác động tích cực đối với các cống lấy nước
ở đỉnh triều và tiêu nước ở chân triều, cũng nhờ dao động triều mà lượng nước
ngọt trong các vùng cửa sông được giữ lại.
Tác động tiêu cực của thủy triều làm cho nước biển có độ mặn cao lấn sâu
vào vùng châu thổ. Trong phần này chỉ xem xét sự phân phối dòng chảy ở các
nhánh sông vùng châu thổ sông Hồng - sông Thái Bình.
•Sông Hồng (ở Sơn Tây): 100%
- Phân sang sông Đuống 28 ÷ 30% vào mùa lũ và 25 ÷ 25,2% vào mùa cạn
(tỷ lệ này đã tăng lên từ năm 1985).
- Phân sang sông Luộc: 10 ÷ 14% (mùa lũ); 7 ÷ 8% (mùa kiệt).
- Phân sang sông Trà Lý: 12 ÷ 17% (mùa lũ); 9 ÷ 11% (mùa kiệt).
- Phân sang sông Đào Nam Định: 29÷31% (mùa lũ); 27÷35% (mùa kiệt).
- Phân sang sông Ninh Cơ: 6 ÷ 9% (mùa lũ); 7 ÷ 10% (mùa kiệt).
- Đổ ra cửa Ba Lạt: 25 ÷ 30%.
•Phân phối ở hạ lưu sông Thái Bình: Tại Phả Lại 100%
- Phân qua sông Kinh Thày: 51%.

23


- Phân qua sông Gùa: 39%; còn 10% tiếp tục theo sông Thái Bình.
- Sau khi nhận thêm nước từ sông Luộc tiếp tục phân qua Văn Úc 43%.
- Phân qua sông Rạng ở Quảng Đạt: 9,6% sau đó phân sang sông Lạch Tray
5,6%.
•Phân phối dòng chảy dọc sông Kinh Thày
- Phân sang Kinh Môn ở An Phụ: 22%.

Từ 1988 tới nay do có sự vận hành của hồ chứa lớn Hòa bình và từ năm 2006
có thêm sự vận hành của hồ Tuyên Quang nên tỷ lệ phân dòng chảy mùa lũ và mùa
cạn từ sông Hồng sang sông Đuống tăng lên đạt trung bình là 29% về mùa cạn và
30% về mùa lũ và lượng nước sông Hồng qua mặt cắt Hà Nội cũng giảm về mùa lũ
và mùa cạn chỉ còn 76% về mùa cạn và 72% về mùa lũ. Do sự thay đổi tỷ lệ trên
nên lượng nước qua sông Kinh Thày, Văn Úc có tăng lên khi nhận lượng nước của
sông thái Bình và sông Hồng qua sông Đuống và lượng nước sông Văn Úc nhận từ
sông Luộc qua sông Mới và lượng nước của sông Luộc qua sông Hóa sẽ giảm đi do
sự giảm tỷ lưu của dòng chính sông Hồng.
Bảng 5. Phân phối lưu lượng mùa lũ, mùa cạn trước và sau khi có hồ chứa lớn Hòa
Bình.
Tháng
Sơn
Tây
11
12
1
2
3
4
5
6
7
8

(m3/s)
2762
1679
1283
1072

905
1072
1899
4619
7658
9004

Thời kỳ (1956-1987)
%Q

Thượn
Sơn
Nội
g Cát
Tây
(m3/s) (%) (m3/s)
2187 79,2
688
1371 81,6
368
1043 81,3
237
887 82,7
186
763 84,3
154
906 84,5
197
1490 78,5
397

3464 75,0 1138
5577 72,8 1978
6603 73,3 2368

24

%Q
Sơn
Tây
(%)
24,9
21,9
18,5
17,3
17,0
18,4
20,9
24,6
25,8
26,3

Thời kỳ 1988-2007
%Q
Sơn

Thượn
Sơn
Tây
Nội
g Cát

Tây
(m3/s) (m3/s) (%) (m3/s)
2206 1669 75,7
664
1432 1090 76,1
435
1296
967 74,6
368
1217
924 75,9
339
1302
988 75,9
367
1467 1135 77,3
419
2258 1680 74,4
654
4699 3263 69,4 1362
8627 6257 72,5 2679
7457 5433 72,9 2289

%Q
Sơn
Tây
(%)
30,1
30,4
28,4

27,8
28,2
28,6
29,0
29,0
31,1
30,7


Tháng
Sơn
Tây
9
10
Năm
Mùa cạn
Mùa lũ
3 tháng
kiệt
(II,III,IV)

(m3/s)
6604
4125
3557
1525
6402
1016

Thời kỳ (1956-1987)

%Q

Thượn
Sơn
Nội
g Cát
Tây
(m3/s) (%) (m3/s)
4968 75,2 1786
3130 75,9 1077
2699 79
881
1235 82
318
4748 74
1669
852

84

179

Thời kỳ 1988-2007
%Q
%Q
Sơn

Thượn
Sơn
Sơn

Tây
Nội
g Cát
Tây
Tây
(%) (m3/s) (m3/s) (%) (m3/s)
27,0 4475 3309 73,9 1350
26,1 3432 2505 73,0 1001
22 3322 2435 74
994
20 1597 1208 76
464
26 5738 4153 72
1736
18

1329

1016

76

375

%Q
Sơn
Tây
(%)
30,2
29,2

29
29
30
28

*Chế độ thủy văn mùa lũ và phân tích dòng chảy lũ
Đặc điểm nước lũ ở hạ du sông Hồng
- Hạ du sông Hồng có 5 phân lưu như đã trình bày ở mục mạng lưới sông
ngòi: Lượng lũ phân vào sông Đuống, sông Luộc là 37% tổng lượng lũ của
Sơn Tây qua sông Thái Bình, gấp 5 lần tổng lượng lũ sông Thái Bình tại Phả
Lại, nên lượng lũ đó đã quyết định chế độ lũ ở hạ du sông Thái Bình.
- Lượng lũ phân qua sông Nam Định đến 22% lượng lũ Sơn Tây làm thay
đổi hẳn chế độ lũ sông Đáy nói chung và hạ du sông Đáy nói riêng.
- Lượng lũ phân thẳng ra biển qua 2 sông: Trà Lý khoảng 8% và sông Ninh
Cơ khoảng 6%. Như vậy lượng lũ sông Hồng ở Phú Hào dưới cửa sông Nam
Định còn khoảng 32,5%, đến cửa Ba Lạt còn khoảng 25%.
- Từ 1988 ÷ 2008 là giai đoạn nước vừa, chịu ảnh hưởng của vận hành hồ
Hoà Bình và từ 2007 tới 2008 có sự vận hành của hồ chứa lớn Tuyên Quang
trên sông Lô. Có trận lũ 1996 cũng xảy ra vào tháng VIII khá lớn.
- Trong thời đoạn 1972 ÷ 1987 lưu lượng đỉnh lũ bình quân ở Sơn Tây là
17.540m3/s (coi 100%) thì phân lưu lượng lũ bình quân vào sông Đuống ở
Thượng Cát là 4.580m3/s chiếm 29,1%, vào sông Luộc 1360m3/s chiếm 8,6%
vào sông Nam Định 3570m3/s chiếm 23%, vào sông Trà Lý 1.380m3/s chiếm
8,6% vào sông Ninh Cơ 5,7%, ở Phú Hào còn 29% lưu lượng sông Hồng ở

25


×