Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Luận văn thạc sĩ phát triển hợp tác xã nông nghiệp tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.46 KB, 98 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

TRẦN GIANG NAM

PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
TỈNH TUYÊN QUANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

THÁI NGUYÊN - 2015


TRẦN GIANG NAM

PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
TỈNH TUYÊN QUANG
Ngành: Phát triển nông thôn
Mã số ngành: 60 62 01 16

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

Người hướng dẫn khoa học TS NGUYỄN THỊ MINH THỌ
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam

đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là

trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ học hàm, học vị nào.
Tôi xin cam đoan:


Mọi sự giúp đỡ cho

việc thực hiện luận văn này đã


được cám ơn,

các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã đều được chỉ rõ

nguồn gốc./.

Thái Nguyên, ngày 05 tháng 11 năm 2015 TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Giang Nam

Trong thời

LỜI CẢM ƠN
gian nghiên cứu và thực hiện luận văn “Phát triển

Hợp tác xã

nông nghiệp tỉnh Tuyên Quang” tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân. Tôi
xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các tập thể, cá nhân đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện
nghiên cứu luận văn này.
Trước hết tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Khoa Kinh tế và Phát
triển nông thôn, Phòng Đào tạo cùng các thầy cô giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt quá trình học
tập.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn Cô giáo, Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Thọ, đã trực tiếp chỉ bảo, hướng dẫn khoa
học và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, hoàn thành luận văn này.

Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn Sở Nông nghiệp và PTNT, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài Nguyên và Môi
trường, Cục Thống kê, Chi cục Phát triển nông thôn, Liên minh HTX tỉnh, Phòng Nông nghiệp và PTNT các huyện, Phòng
Kinh tế thành phố và các HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh đã giúp đỡ, cung cấp thông tin, số liệu cho tôi trong suốt quá
trình thực hiện nghiên cứu luận văn.
Xin chân thành

cảm ơn tất các bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, giúp


đỡ nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quý báu để tôi hoàn thành luận văn này.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, luận văn của tôi chắc hẳn không thể tránh khỏi những sơ suất, thiếu sót, tôi rất
mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo cùng toàn thể bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 05 tháng 11 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Trần Giang Nam
MỤC LỤC


5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HTX:

Hợp tác xã

HTX NN:

Hợp tác xã Nông nghiệp


ĐHTV:

Đại hội thành viên

ĐHXV:

Đại hội xã viên

DVNN:

Dịch vụ nông nghiệp

KTHT:

Kinh tế hợp tác

KTTT

Kinh tế tập thể

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

BHYT:

Bảo hiểm y tế

BQ:


Bình quân

UBND:

Ủy ban nhân dân

DT:

Diện tích

SXKD:

Sản xuất kinh doanh

FAO:

Tổ chức Nông lương quốc tế

ICA:

Hiệp hội Hợp tác xã quốc tế

JCCU

HTX tiêu dùng tại Nhật bản

TTCN:

Tiểu thủ công nghiệp


XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

ĐVT:

Đơn vị tính

Tr.đ:

Triệu đồng
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


6


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, khu vực kinh tế tập thể có những chuyển
biến tích cực. Nhiều hợp tác xã mới được thành lập, hoạt động đa dạng về ngành nghề, lĩnh
vực; số tổ hợp tác tiếp tục tăng; phần lớn các hợp tác xã đã cơ bản hoàn thành việc chuyển
đổi theo quy định của Luật. Nhiều hợp tác xã được củng cố, đổi mới về tổ chức và hoạt
động, trong đó xuất hiện một số điển hình tiên tiến, hỗ trợ cho kinh tế hộ thành viên tốt hơn,
tạo việc làm và thu nhập thường xuyên cho người lao động. Liên kết giữa các hợp tác xã
với nhau và với các tổ chức kinh tế khác bước đầu có sự phát triển. Các tổ chức kinh tế tập

thể đã từng bước khẳng định là nhân tố quan trọng góp phần bảo đảm an ninh xã hội, ổn
định chính trị ở cơ sở và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, kinh tế tập thể vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo dài; nhiều
hạn chế, yếu kém của kinh tế tập thể mà Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 18/3/2002, hội
nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày
02/01/2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường lãnh đạo thực hiện Nghị quyết
Trung ương 5 khoá IX đã chỉ ra, đến nay vẫn chưa được khắc phục. Tốc độ tăng trưởng của
khu vực kinh tế tập thể chậm, thiếu ổn định, tỉ lệ đóng góp vào GDP giảm dần, không đạt
được mục tiêu Nghị quyết đề ra. Nhiều họp tác xã chưa tuân thủ nghiêm các quy định
pháp

luật;

sự

liên kết,

của

hợp tác của các hợp tác xã chưa chặt

chẽ, hiệu quả thấp, vai trò của liên hiệp hợp tác xã chưa được phát huy.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc với dân số trên 753 nghìn người sống
tập trung ở khu vực nông thôn (chiếm gần 86%), là một tỉnh có truyền thống về phát triển
kinh tế tập thể, nòng cốt là các HTX, đi đầu trong việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
khoá IX về phát triển kinh tế tập thể... Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ,
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh, các ngành các cấp, các đoàn thể xã hội, các
dân tộc trong tỉnh đã kế thừa và phát huy phong trào phát triển HTX, tiếp tục thực hiện và
vận dụng đưa các Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập
thể vào cuộc sống và đã

thu được những kết quả nhất định, cụ thể như: Số lượng hợp tác xã mới thành lập tăng đáng


8
kể; các hợp tác xã đã phát triển đa dạng hơn cả về ngành nghề, quy mô và trình độ; khu vực
kinh

tế tập thể đã khắc phục được một phần tình

trạng yếu kém

trước đây, củng cố một bước về tổ chức quản lý, bước đầu khẳng định là nhân tố quan trọng
góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị ở cơ sở, đóng góp vào phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh.
Tuy nhiên, sự phát triển về chất của hợp tác xã rất chậm, phổ biến vẫn là quy mô
nhỏ, vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật nghèo và lạc hậu, năng lực ngũ cán bộ quản lý điều hành
còn hạn chế, hiệu quả sản xuất - kinh doanh thấp, lợi ích mang lại cho thành viên không
nhiều, ... Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế, yếu kém trên là do nhận thức
về phát triển kinh tế tập thể của nhiều cấp uỷ đảng, chính quyền, cán bộ,
đảng viên, đặc biệt là người đứng đầu HTX chưa đầy đủ, chưa thống nhất; ý thức trách
nhiệm còn thấp; đánh giá về kinh tế tập thể chưa toàn diện, chưa thấy hết vai trò quan trọng
của khu vực kinh tế tập thể trong phát triển kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng.
Năng lực của các tổ chức kinh tế tập thể còn yếu. Công tác quản lý nhà nước về kinh tế tập
thể còn nhiều hạn chế, bộ máy phân tán, hoạt động kém hiệu quả; khung pháp luật và chính
sách phát triển kinh tế tập thể còn nhiều bất cập. Vai trò, trách nhiệm của Liên minh Hợp
tác xã, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân chưa được phát huy.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên, nhằm phát huy vai trò của HTX và các hình
thức kinh tế hợp tác trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hóa hiện đại, công
nghiệp hóa; góp phần xây dựng thành công Chương trình mục tiêu quốc gia về nông thôn
mới trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, việc nghiên cứu đề tài: “Phát triển Hợp tác xã nông

nghiệp tỉnh Tuyên Quang” là cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.

Mục tiêu chung

Đánh giá thực trạng về tình hình tổ chức sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động
của các HTXNN trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang trong những năm qua, trên cơ sở đó đề ra
các giải pháp cụ thể về phát triển Hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Tuyên Quang trong thời gian
tới.
2.2.

Mục tiêu cụ thể


9
-

Đánh giá thực trạng về tổ chức sản xuất kinh doanh và kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của các HTXNN trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang trước và sau khi Luật
Hợp tác xã năm 2012 có hiệu lực thi hành.

-

Đưa ra các giải pháp, định hướng phát triển Hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
phù hợp với đặc điểm, điều kiện và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội
của tỉnh Tuyên Quang đến năm 2020.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.


Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào thực trạng hoạt động của các Hợp tác
xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
3.2.
-

Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề liên quan về lý luận và thực tiễn trong tổ
chức quản lý sản xuất và hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTXNN trên địa
bàn tỉnh Tuyên Quang (Công tác điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh; về vốn,
tài chính; nguồn nhân lực của các HTXNN...).

-

Về không gian: Đề tài thực hiện trong phạm vi toàn tỉnh Tuyên Quang, số liệu phục
vụ nghiên cứu được thu thập từ năm 2012 - 2014.

-

Về thời gian: Đánh giá thực trạng hoạt động của các HTXNN trong thời gian từ
năm 2012 - 2014 trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang. Để từ đó có các định hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của các HTXNN trong giai đoạn 2015 - 2020.

4. Ý nghĩa và những đóng góp của đề tài
4.1.
-


Ý nghĩa khoa học

Đề tài góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển HTX trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

-

Kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ khoa học phục vụ cho sự lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành quản lý của tỉnh và việc thực thực hiện chủ trương về đổi mới, nâng cao
hiệu quả và phát triển bền vững HTX của Đảng và Nhà nước.
4.2.

Ý nghĩa thực tiễn


1
0
-

Đề tài làm cơ sơ lý luận và thực tiễn cho các HTX trong tỉnh tham khảo để đưa ra
những giải pháp phát triển HTX của mình trong thời gian tới. Đồng thời giúp cho
cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp có luận cứ khoa học trong việc xây dựng cơ chế,

chính sách phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn trong giai đoạn 2015 - 2020.
Đề tài góp phần làm thay đổi nhận thức của cán bộ, đảng viên, các tổ
chức chính trị xã hội và nhân dân về HTX kiểu mới trên địa bàn toàn tỉnh.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhất cho phong trào HTX
phát triển và hoạt động có hiệu quả trong giai đoạn xây dựng nông thôn
mới hiện nay.



Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Cơ sở lý luận về kinh tế hợp tác và hợp tác xã

1.1.1.

Khái niệm về kinh tế hợp tác

Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, con người trải các hình thái kinh tế xã
hội khác nhau và ở mỗi hình thái kinh tế xã hội đó sự phát triển của lực lượng sản xuất luôn
đi cùng là một quan hệ sản xuất phù hợp. Chính vì vậy sự hợp tác giữa con người với con
người trong quá trình sản xuất là một tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu của sản xuất,
từ nhu cầu của cuộc sống để nương tựa lẫn nhau, hỗ trợ nhau và bảo vệ nhau trong cuộc
sống cũng như trong sản xuất.
Bởi lẽ, thông qua hợp tác sức lực của các cá nhân sẽ kết hợp lại lớn mạnh hơn để
nhằm thực hiện các công việc mà mỗi cá nhân, đơn vị hoạt động riêng rẽ rất khó khăn mà
thậm trí là không thể làm được. Chính vì vậy, cùng với tiến trình phát triển của xã hội loài
người, quá trình phân công lao động và chuyên môn hoá trong sản xuất cả về chiều sâu lẫn
bề rộng đã thúc đẩy quá trình hợp tác ngày càng tăng. Sự hợp tác không chỉ được giới hạn ở
phạm vi vùng, quốc gia mà còn được mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Minh chứng cụ thể cho
quá trình hợp tác tất yếu phải diễn ra trên phạm vi thế giới đó là quá trình hội nhập ngày
càng sâu rộng của các quốc gia trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội...
đã làm cho sức cạnh tranh ngày càng gay gắt không chỉ diễn ra ở phạm vi quốc gia mà còn
diễn ra trên phạm vi toàn cầu khiến cho các HTX đều phải thay đổi chiến lược sản xuất kinh
doanh của mình cho phù hợp với xu thế mới.
Có thể nói kinh tế hợp tác là phương thức hoạt động kinh tế, tồn tại khách quan và

có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Do vậy, Kinh tế hợp tác là một quan hệ kinh
tế tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế,

kết hợp sức

mạnh

thể giải

của từngthành viên với

ưu

thế sức mạnh

tập

quyết tốt hơn những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên [28],
1.1.2.

Khái niệm về hợp tác xã

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Đại hội liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA) lần thứ 31


tổ chức tại Manchester - Vương quốc Anh đã định nghĩa về hợp tác xã như sau: "Hợp tác xã
là hiệp hội hay là tổ chức tự chủ của cá nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện nhằm
đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế,
hóa thông qua một




hội



văn

tổ chức kinh tế cùng nhau làm chủ

chung và kiểm tra dân chủ"[18]
Ở Việt Nam, Luật hợp tác xã năm 1996 định nghĩa về hợp tác xã như sau: "Hợp tác
xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện
cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể
và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”[20].
Luật hợp tác xã năm 2003 đã kế thừa quy định của Luật hợp tác xã năm 1996, tiếp
tục khẳng định vai trò của kinh tế hợp tác xã, là một tổ chức kinh tế mang tính cộng đồng và
xã hội sâu sắc. Việc thành lập nên hợp tác xã dựa trên nhu cầu, lợi ích chung của các thành
viên nhằm phát huy sức mạnh tập thể, cùng giúp nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh,
nâng cao đời sống vật chất cho xã viên và góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy
nhiên, so với Luật hợp tác xã năm 1996, thì ở Luật hợp tác xã năm 2003 đã mở rộng hơn về
đối tượng tham gia hợp tác xã đó là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân và được coi như một
loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ
tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo
quy định của pháp luật. Điều này cũng tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác xã phát triển về số
lượng và mở rộng thêm nguồn vốn đầu tư, tham gia vào hợp tác xã.
Luật Hợp tác xã 2012 đã khẳng định rõ Hợp tác xã không phải là Doanh nghiệp,
điều này cũng đã có những tranh luận gay gắt giữa các nhà làm Luật Việt Nam với các

chuyên gia trong và ngoài nước trước khi Luật được thông qua.
Như vậy ta có thể hiểu: “Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở
hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và
hợp tác

tương trợ lẫn nhau trong

nhằm đáp ứng

hoạt động sản xuất, kinh doanh,

nhu cầu chung của thành viên, trên

cơ sở tự chủ, tự chịu trách

nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”[22].
1.1.3.

tạo việc làm

Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã


Đối với việc tổ chức hoạt động của HTX nhiều quan điểm của các nhà kinh tế và
chính trị đều tập trung vào một số nguyên tắc cơ bản như sau:
Đầu tiên, là nguyên tắc dân chủ và tự nguyện, đây là nguyên tắc quan trọng nhất vì
dựa trên tinh thần tự nguyện các hộ nông dân cá thể nhận thấy lợi ích của việc gia nhập vào
các HTX họ sẽ quyết định tham gia và nhiệt tình đóng góp để xây dựng phát triển HTX,
không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn vì lợi ích của các thành viên khác. Vì thế Các Mác,
Ăng-ghen cũng như Lênin đã nhấn mạnh rằng: “Tuyệt đối không được cưỡng ép nông dân

mà phải để cho người nông dân tự suy nghĩ, thấy rõ lợi ích thiết thực của mình và tự nguyện
hợp tác với nhau”. Tuy vậy, để đảm bảo duy trì nguyên tắc này thì điều cần thiết là phải
thực hiện dân chủ trong quản lý và phân chia lợi ích[14].
Thứ hai, việc xây dựng và phát triển HTX: Theo quan điểm của Các Mác và Ăngghen thì “Hợp tác xã phải tiến hành từng bước có tính đến bước đi và sự chờ đợi và cần phải
lôi cuốn được nông dân, cùng với giai cấp công nhân đi lên chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó,
việc xây dựng các hợp tác xã phải có sự giúp đỡ của Nhà nước chuyên chính vô sản để đảm
bảo tính pháp lý cho sự ra đời của kinh tế hợp tác xã. Đồng thời, Nhà nước sẽ giúp đỡ các
hợp tác xã về tài chính, khoa học kỹ thuật, lao động... thông qua các chính sách phát triển
kinh tế, xã hội”.
Thực tiễn hiện nay cho thấy, địa phương nào được cấp ủy quan tâm lãnh đạo, chính
quyền quan tâm hỗ trợ, cán bộ HTX nhiệt tình, có tâm huyết, có năng lực quản lý, các
nguyên tắc tự nguyện dân chủ trong HTX được phát huy... thì địa phương đó có phong trào
HTX phát triển mạnh và có hiệu quả rõ rệt.
Thứ ba, về cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh: Theo quan điểm của Các Mác và
Ăng-ghen thì “Hình thức và biện pháp thực hiện hợp tác phải thiết thực cụ thể, hết sức tránh
những biện pháp và hình thức thiếu thực tế, mơ hồ. Hợp tác được thực hiện ở nhiều lĩnh
vực, hình thức và biện pháp, trong mỗi lĩnh vực lại khác nhau. Trong lĩnh vực nông nghiệp,
loại hình đất đai khác nhau, cây trồng, vật nuôi khác nhau, quan hệ thị trường khác nhau...
ngoài ra phải tính đến nhiều yếu tố khác như phong tục, tập quán của mỗi vùng”. Vì vậy,
biện pháp và hình thức hợp tác phải thiết thực, cụ thể phù hợp với điều kiện cụ thể.
Khâu cuối cùng, của trong hoạt động của các HTX là phân phối thành quả cho các
thành viên. Theo

tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Sản xuất được


nhiều, đồng thời phải chú ý phân phối cho công bằng, cán bộ phải chí công, vô tư thậm chí
có khi cán bộ vì lợi ích chung mà phải chịu thiệt thòi phần nào. Chớ nên cái gì tốt thì giành
về cho mình, xấu để người khác”. Người cũng đưa ra nguyên tắc trong thực hiện phân phối:
“Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”. Đó là một trong những phương pháp quản lý

kinh tế hiệu quả, vì theo khoa học quản lý hiện nay thì yếu tố đảm bảo sự công bằng trong
phân phối là một trong những động lực giúp cho người lao động gắn bó và nhiệt tình với
công việc. Chính điều đó làm cho các HTX nói riêng và các tổ chức khác nói chung vận
hành hiệu quả và ngày càng phát triển[27].
Theo Luật Hợp tác xã năm 2012 quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
HTX cụ thể như sau: [22]
Một là: Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi hợp
tác xã. Hợp tác xã tự nguyện thành lập, gia nhập, ra khỏi liên hiệp hợp tác xã.
Hai là: Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã
thành viên.
Ba là: Thành viên, hợp tác xã thành viên có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang
nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp
tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt
động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy
định của điều lệ.
Bốn là: Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động
của mình trước pháp luật.
Năm là: Thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có
trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ. Thu
nhập của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản
phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc theo công sức lao động đóng góp
của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm.
Sáu là: Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng cho
thành viên, hợp tác xã thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã và thông tin về bản chất, lợi ích của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.
Bảy là: Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chăm lo phát triển bền vững cộng đồng


thành viên, hợp tác xã thành viên và hợp tác với nhau nhằm phát triển phong trào hợp tác xã
trên quy mô địa phương, vùng, quốc gia và quốc tế.

1.1.4.

Vai trò Hợp tác xã trong phát triển nông thôn [4]

Ở những nước nông nghiệp như nước ta thì HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế hợp
tác của các hộ gia đình, cá nhân có hoạt động sản xuất kinh doanh, các dịch vụ cung
ứng đầu vào,

đầu ra phục vụ sản xuất trong các lĩnh vực trồng trọt,

chăn nuôi, thủy sản, lâm nghiệp, diêm nghiệp ... vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có
tác động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông nghiệp, nông dân. Nhờ có hoạt
động của HTX các yếu tố đầu vào và các khâu dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp
được cung cấp kịp thời đầy đủ đảm bảo chất lượng, các khâu sản xuất tiếp theo được đảm
bảo làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được nâng lên. Thông qua hoạt động dịch
vụ vai trò điều tiết của HTX nông nghiệp được thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được
thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên
môn hoá. Ví dụ dịch vụ làm đất,
đòi

hỏi

dân phải được thực hiện thống

dịch vụ thuỷ lợi,
sản xuất

dịch vụ bảo vệ

thực


vật...

của hộ nông

nhất trên từng cánh đồng và chủng loại giống, về

thời vụ gieo trồng và chăm sóc.
HTX là nơi tiếp nhận những trợ giúp của Nhà nước tới hộ nông dân, vì vậy hoạt
động của HTX có vai trò làm cầu nối giữa Nhà nước với hộ nông dân một cách có hiệu quả
trong một số trường hợp, khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân
hoạt động của HTX là đối trọng buộc các đối tượng phải phục vụ tốt cho nông dân.
1.2.

Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển hợp tác xã nông nghiệp [28]
Sự hình thành và phát triển HTX là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường

nói chung và kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia
hoặc trong từng vùng, từng ngành cụ thể kinh tế HTX có những đặc điểm riêng cả về vai
trò, vị trí, mục tiêu, phương thức hoạt động cũng như quá trình hình thành và phát triển. Sự
khác biệt đó

được quy định bởi đặc điểm của

chế độ

chính trị xã hội, đường lối, chính sách của Đảng cầm quyền, sự tác động giúp đỡ của nhà
nước, các tổ chức xã hội có liên quan và điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Đó chính là
những nhân tố ảnh hưởng đến sự ra đời, hình thành và phát triển HTX.



Dưới góc độ này, có thể chia các nhân tố ảnh hưởng đến việc phát triển mô hình
HTX thành hai nhóm chính: Nhóm các yếu tố bên trong và nhóm các yếu tố bên ngoài. Việc
nghiên cứu các yếu tố này được đặt trong yêu cầu nghiên cứu trong tính chỉnh thể, thống
nhất, tương tác biện chứng giữa chúng với nhau. Cụ thể:
1.2.1.

Các nhân tố bên trong

1.2.1.1.

Nguồn nhân lực trong HTX

-

Trưởng ban quản trị (Chủ tịch HĐQT): Với tính chất và thực trạng về nhân sự,
thành viên, công tác tổ chức, quản lý của mô hình HTX hiện nay ở nước ta, việc
pháp luật quy định Trưởng Ban quản trị là chủ thể có tư cách đại diện theo pháp luật
đối với HTX trong cả hai trường hợp thành lập một bộ máy vừa quản lý, vừa điều
hành, hay thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành là phù hợp. Với vị
trí, vai trò này, Trưởng ban quản trị có tầm ảnh hưởng, đặc trưng, yêu cầu

đối với tư cách “lãnh đạo” HTX.
-

Thành viên khác trong Ban quản trị (HĐQT): Có vai trò cùng Trưởng Ban quản trị
hoặc HĐQT thực hiện các chức năng, quyền và nhiệm vụ của Ban quản trị. Tuy
không yêu cầu phải có đặc trưng của lãnh đạo, nhưng thành viên ban quản trị có
đóng góp quan trọng trong vấn đề đưa ra quyết sách và triển khai thực hiện các
chiến lược kinh doanh của HTX; vậy, yêu cầu các thành viên khác trong ban quản trị

cũng phải là những chủ thể có tầm nhìn chiến lược, có tri thức kinh doanh. Đây cũng
là cơ sở cho sự chỉ đạo triệt để, quyết liệt, sáng tạo, hiệu quả và phù hợp quyết sách
trên thực tiễn.

-

Chủ nhiệm (Giám đốc) HTX: Nếu xét riêng chức danh Chủ nhiệm HTX

(không gắn với Trưởng ban quản trị), thì Chủ nhiệm HTX là chủ thể có trách nhiệm điều
hành hoạt động của HTX. Vai trò của Chủ nhiệm HTX là trực tiếp đảm bảo các quyết sách,
kế hoạch, quyết định của các chủ thể có thẩm quyền trong HTX được triển khai thực hiện
một cách toàn

diện, triệt để, hiệu quả trên thực tiễn. Do đó, nếu chủ

nhiệm HTX không có đủ năng lực, không phát huy được vai trò của mình, thì những quyết
định, chính sách, kế hoạch của Đại hội thành viên, hay Ban quản trị HTX sẽ đơn thuần chỉ
là “những trang giấy”.
-

Thành viên Ban kiểm soát - Trưởng ban kiểm soát: Là chủ thể trực tiếp


thực hiện chức năng giám sát, kiểm tra các hoạt động trong HTX. Hoạt động kiểm tra, giám
sát về mặt hình thức là đảm bảo tuân thủ đúng Điều lệ HTX, Nghị quyết của Đại hội thành
viên; kịp

thời phát hiện, ngăn chặn và khắc phục mọi sai phạm, đảm bảo

quyền làm chủ HTX và lợi ích của thành viên.

-

Cán bộ chuyên môn HTX: Cán bộ chuyên môn trong HTX, bao gồm: Kế toán
trưởng và nhân viên kế toán; thủ quỹ; nhân viên kinh doanh, bán hàng; nhân viên
hành chính, pháp lý và nhân sự; nhân viên kỹ thuật; nhân viên văn phòng... Bên
cạnh vai trò có tính quyết định của các chủ thể quản lý đối với sự phát triển của mô
hình HTX, cán bộ chuyên môn HTX là một vấn đề không thể thiếu để HTX có thể
hoạt động. Trong kinh tế thị trường, thì những cán bộ thực hiện chức năng chuyên
môn lại càng có vai trò quan trọng; ở Tuyên Quang nhiều HTX tuy có người lãnh
đạo có tâm, có kế hoạch kinh doanh, phương án kinh doanh nhưng do thiếu nguồn
nhân lực cho hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ nên không thể tiến hành triển khai
có hiệu quả phương án sản xuất kinh doanh.

-

Thành viên (xã viên) trong HTX: Thành viên là chủ của HTX, là đối tượng phục vụ
của HTX, đồng thời cũng là đối tác của HTX. Vai trò của nhân tố thành viên đối với
sự phát triển của HTX được thể hiện thông qua việc thực hiện ba tư cách như:
+ Với tư cách là chủ của HTX: Thành viên HTX là “nguồn cung cấp tài chính” chủ

yếu để đảm bảo hoạt động của HTX thông qua việc đóng góp vốn điều lệ (cổ phần) để tiến
hành tổ chức và hoạt động có hiệu quả các quyết sách của Nghị quyết đại hội thành viên
nhằm phát triển HTX; “đề ra yêu cầu ” về mục tiêu trước mắt và chiến lược lâu dài của
HTX; “đề xuất ý kiến ” đối với mọi vấn đề trong HTX, đảm bảo phát huy tối đa tính dân
chủ, trí tuệ, tinh thần sáng tạo của tập thể để có những phương án, giải pháp cụ thể, hiệu
quả, sát thực tiễn, phù hợp nhằm phát triển HTX; “quyết định tối cao ” đối với những vấn
đề quan trọng của HTX, những vấn đề mà Ban giám đốc HTX không thể giải quyết trong
phạm vi thẩm quyền được giao. Ngoài ra, thành viên HTX còn thực hiện việc “đôn đốc
thực hiện nhiệm vụ phát triển HTX, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động” của HĐQT (BQT)
HTX, đảm bảo tuân thủ đúng Điều lệ, phục vụ cho lợi ích của thành viên, sự phát triển

chung của HTX.
+ Với tư cách là đối tượng phục vụ của HTX: Thành viên HTX là lực lượng đảm


bảo cho “đầu ra ” của các hàng hóa, dịch vụ mà HTX sản xuất, ung ứng luôn được ổn định,
thường xuyên; thông qua việc ưu tiên sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX, thành viên là
đối tượng đề ra các yêu cầu về “chất lượng, số lượng” hàng hóa dịch vụ, “cung cách phục
vụ” và “định hướng chiến lược thị trường, cung cấp thông tin thị trường” cho HTX, từ đó
góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng thương hiệu cho HTX.
+ Với tư cách là đối tác của HTX: Thành viên HTX là “thị trường nội địa” cho yêu
cầu nâng cao “lợi thế cạnh tranh” cho HTX; Thành viên còn là “môi trường thông tin, kênh
quảng quá hàng hóa - dịch vụ, quảng bá thương hiệu HTX” từ việc trực tiếp
dụng,

giới

thiệu sử dụng

sử

và giới thiệu nhu cầu hàng hóa - dịch

vụ của HTX.
1.2.12. Nhân tố tài chính trongHTX
Các yếu tố thuộc về nhân tố tài chính có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của
HTX gồm các vấn đề về: Vốn (lượng vốn, nguồn vốn, hình thức vốn); điều phối và sử dụng
vốn; thu hút, huy động vốn; cơ chế quản lý tài chính; chiến lược tài chính; quyết sách thu
chi tài chính; phân phối lãi và trích lập các quỹ trong HTX. 12.1.3. Nguồn vật lực trongHTX
Nguồn vật lực trong HTX gồm các yếu tố về: Máy móc, thiết bị, phương tiện hoạt
động, nhà xưởng, sân bãi, kho bãi, bến bãi, nhà cửa, văn phòng, hội trường, đất đai, vật tư,

nguyên nhiên vật liệu và những vật thể khác nhằm mục đích sử dụng vào hoạt động của
HTX. Vai trò của nguồn vật lực đối với sự phát triển của HTX được thể hiện qua các mặt
sau: là điều kiện tiên quyết để HTX có thể tiến hành hoạt động; là điều kiện để cắt giảm chi
tiêu, nâng cao hiệu quả và tính chủ động mọi hoạt động của HTX; là điều kiện để HTX có
thể mở rộng quy mô hoạt động, đa dạng hóa lĩnh vực hoạt động từ sự dồi dào của các yếu tố
vật lực; là điều kiện để HTX có thể nâng cao chất lượng hoạt động; là yếu tố thuộc vốn hoạt
động và là cơ sở để tiến hành vay vốn và thu hút vốn của HTX; là cơ sở để tìm kiếm đối tác,
thu hút khách hàng; là điều kiện để thu hút lao động.
1.2.1.4.

Ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh - hoạt động của HTX

Ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh của HTX là vấn đề đầu tiên phải xác định khi
quyết định thành lập HTX. Đây là bước khởi đầu có vai trò quyết định đến khả năng tồn tại,
phát triển của HTX sau này. Do đó, việc lựa chọn ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh phù
hợp là tiền đề để phát triển HTX.


1.2.1.5.
-

Quyết sách kinh doanh, kế hoạch hoạt động, hiệu quả kinh doanh

Quyết sách kinh doanh của HTX: Quyết sách kinh doanh là quá trình hoạch định và
lựa chọn phương án kinh doanh bao gồm mục tiêu kinh doanh, phương châm kinh
doanh, sách lược kinh doanh. Phương án kinh doanh là hình thức biểu hiện của
quyết sách kinh doanh, sự ảnh hướng của quyết sách kinh doanh đến sự phát triển
của HTX biểu hiện qua sự ảnh hưởng của phương án kinh doanh đối với HTX. Ảnh
hưởng của phương án kinh doanh đến sự phát triển của HTX thể hiện qua ảnh hưởng
của mục tiêu kinh doanh, phương châm kinh doanh, sách lược kinh doanh của HTX.


-

Mục tiêu hoạt động của HTX: Mục tiêu hoạt động của HTX chính là mục đích mà
HTX hướng đến, mong muốn đạt được khi tiến hành hoạt động. Mục tiêu hoạt động
của HTX có vai trò định hướng cho toàn bộ các hoạt động khác của HTX, của từng
chủ thể trong HTX; là tiêu chuẩn để đánh giá, phán xét hành vi, hoạt động của các
chủ thể trong HTX cũng như của HTX; là căn cứ để đưa ra các quyết sách, quyết
định, sách lược trong HTX; là động lực thúc đẩy các chủ thể trong HTX tiến hành
hoạt động. Tùy vào ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh cụ thể mà HTX tiến hành xác
định mục tiêu kinh doanh.

-

Kế hoạch kinh doanh của HTX: Kế hoạch hoạt động là một trong những văn bản
quản lý chính thức của HTX, thể hiện chủ yếu qua các chỉ tiêu được nêu cụ thể trong
văn bản kế hoạch; biểu hiện sự chọn lựa của HTX về phương hướng, mục tiêu và
hoạt động kinh doanh; đề ra chỉ tiêu, yêu cầu cụ thể để xét tính hiệu quả, đúng đắn
của quyết sách kinh doanh. Kế hoạch kinh doanh của HTX thường bao gồm kế
hoạch kinh doanh dài hạn (thông thường là kế hoạch 3, 5 năm) và kế hoạch ki nh
doanh hàng năm.

1.2.1.6.

Hiệu quả kinh doanh - hoạt động của HTX

Xét từ góc độ bản chất vốn có của HTX là phục vụ thành viên, phục vụ cộng đồng,
thì

hiệu quả hoạt động của HTX không thể chỉ căn cứ vào vấn đề lỗ lãi, lợi


nhuận để đánh giá, mà quan trọng hơn, cơ sở chủ yếu để tiến hành đánh giá hiệu quả kinh
doanh của HTX là thực tiễn góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết vấn đề thất nghiệp,
tạo công ăn việc làm, thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của thành viên trong sản xuất và
đời sống, là nguyên nhân chủ yếu cho việc tiến lên làm giàu của thành viên, kết quả tham


gia vào hoạt động phúc lợi, an sinh xã hội, phát triển cộng đồng, bảo vệ môi trường sống và
những hoạt động vị xã hội khác của HTX. 1.2.17. Tổ chức và quản lý trong HTX
-

Nhân tố tổ chức trong HTX: Vai trò của nhân tố tổ chức đối với yêu cầu phát triển
của HTX được thể hiện: đảm bảo đủ bộ phận đáp ứng các yêu cầu quản lý, hoạt
động, xây dựng và thực thi các chiến lược của HTX; phối hợp và phát huy mọi
nguồn lực để phát triển HTX; chế ước đảm bảo không phát sinh vấn đề lạm quyền,
đi ngược lại lợi ích của thành viên và của HTX; đảm bảo cung cấp thông tin, truyền
bá thông tin kịp thời cho tổ chức và hoạt động của HTX; tổ chức chặt chẽ và có hệ
thống giúp tạo lập niềm tin với đối tác.

-

Nhân tố quản lý trong HTX: Vấn đề quản lý là thiết yếu trong HTX. Để vấn đề quản
lý trong HTX được giải quyết hài hòa, HTX cần phát huy tinh thần đoàn kết, đồng
sức đồng lòng, tương thân tương ái trong thành viên cũng như người lao động trong
HTX. Bên cạnh đó, cũng cần hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, quy định rõ ràng
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp cụ thể giữa các cơ quan, chủ thể trong

HTX; phát huy tinh thần dân chủ với thiết chế giám sát hiệu quả của thành viên, tăng cường
hoạt động của ban kiểm soát...
1.2.1.8. Điều lệ HTX

Điều lệ HTX do Đại hội thành viên thống nhất xây dựng, là văn bản pháp lý nội bộ
có hiệu lực tối cao trong nội bộ HTX. Điều lệ HTX là nơi chứa đựng tất cả những vấn đề
quan trọng của HTX, từ ngành nghề kinh doanh, mục tiêu và phương châm hoạt động, tư
cách thành viên, tổ chức bộ máy, cơ chế giám sát, quản lý, thiết chế tổ chức, văn hóa ứng xử
và nhiều vấn đề trọng yếu khác đối với yêu cầu tồn tại và phát triển HTX. Đây là một trong
những cơ sở đầu tiên cho sự thành công của HTX.
1.2.2.

Nhân tố bên ngoài

1.2.2.1.

Quản lý nhà nước đối với HTX

Quản lý nhà nước có vai trò ảnh hưởng rất lớn tới quá trình hình thành và phát triển
HTX. Sự tác động của nhân tố này được thực hiện thông qua khuôn khổ pháp lý, hệ thống
chính sách vĩ mô và quá trình hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đối với HTX từ trung
ương đến cơ sở, cũng như quá trình tổ chức, triển khai trong thực tiễn của bộ máy này.
Hiện nay, chủ trương, chính sách về chiến lược phát triển kinh tế, xã hội có ảnh


hưởng mạnh đến yêu cầu phát triển HTX gồm: chiến lược phát triển bền vững và chương
trình xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt, chủ trương xây dựng nông thôn mới đã đặt ra yêu
cầu bức thiết cho chính quyền cơ sở trong việc phải phát triển ít nhất mỗi xã có 01 HTX
hoạt động có hiệu quả để đạt tiêu chí số 13 về hình thức tổ chức sản xuất theo Quyết định số
491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc
gia về nông thôn mới.
1.2.2.2.

Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế


Hội nhập kinh tế quốc tế với phạm vi mức độ liên kết ngày càng sâu và đa dạng sẽ
hỗ trợ tích cực cho tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và có được các lợi thế ở cả trong nước,
ngoài nước khi tiếp cận thị trường để thúc đẩy xuất khẩu và tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài.
Tuy nhiên, những thách thức phải đối diện trong quá trình này cũng không hề đơn giản. Các
đối tác trong các FTA không chỉ yêu cầu mức độ cam kết sâu hơn
đối với những nội dung truyền thống như hàng hóa và dịch vụ mà còn yêu cầu cam kết cả
những nội dung phi truyền thống như mua sắm chính phủ, lao động, môi trường, thương
mại điện tử, doanh nghiệp nhà nước...
Mức độ hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế, là những vấn đề liên quan đến
biến động giá cả, dòng vốn, khủng hoảng tài chính, thị trường hiện nay bị đánh giá là kém
cạnh tranh hơn so với các thị trường trong khu vực. Từ những yếu tố như vậy, việc hỗ trợ
phát triển HTX nông nghiệp của các địa phương gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất kinh doanh, do chưa nắm được nhiều những KHCN tiên tiến, hiện đại từ các nền kinh tế thế
giới, việc thực hiện tốt chuyển giao công nghệ, hợp tác quốc tế và học hỏi kinh nghiệm từ
các quốc gia khác chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập.
1.3. Cơ sở thực tiễn, quá trình phát triển của kinh tế hợp tác và hợp tác xã trên thế giới và ở
Việt Nam
1.3.1.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nông nghiệp nông thôn nói chung, kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp nói riêng là
một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Trong suốt quá trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị cho đến
nay, vấn đề kinh tế hợp tác và HTX trong nông nghiệp là chủ đề nghiên cứu được nhiều cơ


quan khoa học, nhiều nhà nghiên cứu và các cán bộ chỉ đạo thực tiễn quan tâm. Đến nay, đã
có nhiều công trình được công bố, như:

-

Naoto Imagawa, Chu Thị Hảo (2003), Lý luận về HTX- Quá trình phát triển HTX
nông nghiệp ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Các tác giả đã khái quát toàn
bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý các HTX trong nông thôn
Việt Nam giai đoạn trước khi chuyển sang kinh tế thị trường, phân tích thực trạng
mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu và đề ra một số
phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho
các loại hình hợp tác xã.

-

Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001), “Kinh tế hợp tác, HTX
ở Việt Nam - Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb nông nghiệp, Hà Nội. Các
tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các loại hình kinh tế hợp tác,
HTX trên thế giới và ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, nêu lên định hướng phát triển HTX
phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta.

-

Ngô Thị Cẩm Linh (2008), “Một số giải pháp nhằm phát triển kinh tế hợp tác xã
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh phúc”, Luận văn thạc sỹ Kinh tế nông nghiệp,
Trường Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh. Tác giả đã làm rõ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn và đề xuất giải pháp hỗ trợ phát triển phát triển hợp tác xã nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.

-

Bùi Giang Long (2009), “Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển hợp tác xã nông
nghiệp ở tỉnh thái nguyên trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế,

Trường Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh Thái Nguyên. Tác giả luận văn đã
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ phát triển

nghiệp, đề ra được

HTX nông

phương hướng và một số giải pháp hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát

triển HTX trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới.
-

Thạch Phú Thành (2010), “Phát triển hợp tác xã nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang đến năm 2020”, Luận văn Thạc sỹ Kinh tế, Trường Đại học nông nghiệp I.
Tác giả luận

văn đã làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về hỗ trợ

phát triển HTX nông nghiệp trong và ngoài nước hiện nay, đề ra được phương hướng và
một số giải pháp hỗ trợ nhằm thúc đẩy phát triển HTX trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đến năm


2020.
Các công trình nói trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan đến hỗ trợ của Nhà
nước nhằm phát triển HTX ở nước ta, trong đó có HTX nông nghiệp. Tuy nhiên, cho đến
nay, về hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang thì chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt và hệ thống.
1.3.2.

Vai trò phát triển Hợp tác xã nông nghiệp trên thế giới


Hợp tác xã là một loại hình kinh tế tập thể khá phổ biến, hoạt động trên nhiều lĩnh
vực đời sống xã hội và hiện diện ở các nền kinh tế có trình độ phát triển khác nhau. Kinh
nghiệm thế giới cho thấy, đến nay hợp tác xã vẫn tỏ ra là mô hình hoạt động hiệu quả, phù
hợp với điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt.

Và quan trọng

hơn nữa,

thông qua hợp tác xã, các hộ nông dân, các doanh nghiệp nhỏ hợp tác với nhau, tăng sức
mạnh để đối phó với khó khăn và tránh các nguy cơ thua lỗ cao. Cụ thể:
1.3.2.1.

Vai trò của hợp tác xã tại một số nước phát triển

Châu âu có gần 290.000 hợp tác xã (HTX) với 140 triệu thành viên và khoảng 4,9
triệu người làm thuê. Liên minh châu Âu (EU) có khoảng 30.000 HTX nông nghiệp với
doanh số khoảng 210 tỷ ơrô. Các HTX nông nghiệp lớn nhất hoạt động trong các ngành chế
biến bơ sữa, thịt và thương mại nông nghiệp. Lĩnh vực ngân hàng
nơi

các HTX có thị

phần

cũng




lớn (Ví dụ Rahobank của Hà Lan,

Credit Agricole của Pháp và các ngân hàng Raiffsisen của các nước nói tiếng Đức). Các
HTX bán lẻ rất mạnh ở các nước Bắc Âu (SGroup và Scandinavian Coop Norden của Phần
Lan) và Thụy sỹ [16].
Một trong những chiếc nôi đầu tiên của mô hình kinh tế ở Châu Âu xuất hiện ở
CHLB Đức. Hiện nay các HTX nông nghiệp của Đức đang nắm thị phần cao đối với rất
nhiều sản phẩm nông nghiệp quan trọng: 70% thị phần sản phẩm thịt chế biến, hơn 60% thị
phần của các sản phẩm sữa, hơn 30% thị phần rượu nho. HTX nông nghiệp chủ yếu cung
cấp các dịch vụ mang tính hỗ trợ cho các thành viên của mình, thường đảm nhận các dịch
vụ “đầu vào” của sản phẩm nông nghiệp như: Thủy lợi, điện, hạt giống, cây giống, con
giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn gia s ú c . . t ư vấn, hỗ
kỹ thuật,

công nghệ

mới

(cây, con

trợ,

chuyển

giao

giống mới, kỹ thuật

chăm bón, nuôi dưỡng, sử dụng máy móc thiết bị hiện đại.), nhà kho, bảo quản đông lạnh,



hỗ trợ cung cấp các dịch vụ tài chính (vay vốn, bảo hiểm). Bên cạnh đó còn có các HTX
cung

cấp các dịch vụ khác như: làm đất, cung cấp máy nông

nghiệp, dụng cụ lao động, vật tư chuồng trại, xăng dầu, chất đốt, .[16].
Tại Phần Lan, nơi được xem là “quê hương” của HTX, mô hình kinh tế nay đóng
vai trò quan trọng trong việc kết nối người dân nông thôn và nghề nghiệp của họ với kinh tế
thị trường và quá trình công nghiệp hóa được diễn ra nhanh chóng. Phạm vi hoạt động của
HTX rất rộng, trải rộng gần như trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đến mức hiện nay hầu
như mỗi người dân Phần Lan đều có quan hệ với HTX trong một hay nhiều lĩnh vực của đời
sống. Các HTX ở Phần Lan thường giữ thị phần cao trong các lĩnh vực then chốt, đặc biệt là
trong các ngành công nghiệp lương thực, ngân hàng - bảo hiểm, thương mại nông nghiệp và
bán lẻ [16].
Tại nước Mỹ có gần 50.000 HTX với khoảng 150 triệu thành viên. Các HTX nông
nghiệp (3.500 HTX) đóng vai trò quan trọng, đảm nhận gần 1/3 công việc thu hoạch, chế
biến và thương mại nông nghiệp. Tổng doanh thu của các HTX này vào khoảng 100 tỷ ơ-rô,
trong đó 1/3 thuộc về 100 HTX lớn nhất. HTX ở Mỹ rất mạnh trong ngành công nghiệp sản
xuất bơ sữa, ví dụ như Dairy Farmers of America (DFA) với doanh số khoảng 10 tỷ ơ-rô
[16].
Ở Nhật Bản, HTX là nhân tố tích cực, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế.
Các loại hình tổ chức HTX ở Nhật Bản bao gồm: HTX nông nghiệp và HTX tiêu dùng.
Năm 1972, Liên hiệp các HTX quốc gia Nhật Bản (BEN-NOH) chính thức được thành lập
và được Chính phủ giao thực hiện các mục tiêu về phát triển nông nghiệp, nông thôn. Các
HTX nông nghiệp Nhật Bản có mặt hầu hết các làng mạc, thành phố, thị
trong

những


đặc

điểm

trấn. Một

nổi bật nhất của HTX

nông nghiệp Nhật Bản là hợp tác trong phân phối chứ không hợp tác trong sản xuất. HTX
nông nghiệp thực hiện hai nhiệm vụ chính: một là, cung cấp cho nông dân các yếu tố “đầu
vào” phục vụ sản xuất nông nghiệp, như phân bón, hóa chất nông nghiệp, trang thiết bị, kỹ
thuật trồng trọt và chăn nuôi gia súc... ; hai là, giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm bằng cách
thu gom, bảo quản, dự trữ, bán các nông sản, vật tư dựa váo mạng lưới tiêu thụ sản phẩm
quốc gia và quốc tế. HTX nông nghiệp là kênh tiêu thụ nông sản chính: 90% lúa gạo; trên
50% rau, hoa quả, sữa tươi. Nông dân Nhật Bản chủ yếu mua hàng qua HTX[16].


Tại Phần Lan, nơi được xem là “quê hương” của HTX, mô hình kinh tế nay đóng
vai trò quan trọng trong việc kết nối người dân nông thôn và nghề nghiệp của họ với kinh tế
thị trường và quá trình công nghiệp hóa được diễn ra nhanh chóng. Phạm vi hoạt động của
HTX rất rộng, trải rộng gần như trên các lĩnh vực của đời sống xã hội đến mức hiện nay hầu
như mỗi người dân Phần Lan đều có quan hệ với HTX trong một hay nhiều lĩnh vực của đời
sống. Các HTX ở Phần Lan thường giữ thị phần cao trong các lĩnh vực then chốt, đặc biệt là
trong các ngành công nghiệp lương thực, ngân hàng - bảo hiểm, thương mại nông nghiệp và
bán lẻ [16].
Tại nước Mỹ có gần 50.000 HTX với khoảng 150 triệu thành viên. Các HTX nông
nghiệp (3.500 HTX) đóng vai trò quan trọng, đảm nhận gần 1/3 công việc thu hoạch, chế
biến và thương mại nông nghiệp. Tổng doanh thu của các HTX này vào khoảng 100 tỷ ơ-rô,
trong đó 1/3 thuộc về 100 HTX lớn nhất. HTX ở Mỹ rất mạnh trong ngành công nghiệp sản
xuất bơ sữa, ví dụ như Dairy Farmers of America (DFA) với doanh số khoảng 10 tỷ ơ-rô

[16].
1.3.1.2.

Vai trò của HTX tại một số nền kinh tế mới

Ãn Độ là nước công nghiệp, nền sự phát triển nền kinh tế của quốc gia này phụ
thuộc rất lớn vào phát triển nông nghiệp. Ở Ản Độ, HTX đã ra đời từ rất lâu và trở thành lực
lượng vững mạnh, tham gia hầu hết các hoạt động kinh tế của đất nước. Người nông dân coi
HTX là phương tiện để tiếp nhận tín dụng, các yếu tố “đầu vào” và các dịch vụ cần thiết cho
sản xuất nông nghiệp. Khu vực HTX có phạm vi hoạt động rất rộng, trong các lĩnh vực tín
dụng, chế biến nông sản, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ và xây dựng nhà ở với
tổng vốn hoạt động khoảng 18,33 tỷ USD. Nổi bật nhất là các HTX tín dụng nông nghiệp,
chiếm tới 43% tổng số tín dụng trong cả nước; các HTX sản xuất
chiếm

tới

62,4% tổng

đường

sản lượng đường trên cả nước; HTX

sản xuất phân bón chiếm 34% tổng sản lượng phân bón được sản xuất trong nước. Một
trong những Liên hiệp HTX hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhất ở Ản Độ là Liên hiệp
HTX sản xuất sữa Amul (bang Gujaza) được thành lập từ năm 1953. Đây là một liên hiệp
sản xuất sữa lớn nhất của Ản Độ, có tới gần 2 triệu cổ phần và chiếm khoảng 42,6% thị
trường sữa trong cả nước.
Nhận rõ vai trò của các HTX trong nền kinh tế quốc dân, Chính phủ Ản Độ đã



×