Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ PHÁT TRIỂN hợp tác xã NÔNG NGHIỆP TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.27 KB, 98 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Hợp tác xã

HTX

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC
13

1.1.



XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH PHÚ THỌ
Những vấn đề chung về hợp tác xã và hợp tác xã

13

1.2.

nông nghiệp
Quan niệm, nội dung, các yếu tố tác động đến phát

25

Chương 2

triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG

40

2.1.

NGHIỆP Ở TỈNH PHÚ THỌ THỜI GIAN QUA
Thành tựu, hạn chế trong phát triển hợp tác xã nông

40

2.2.

nghiệp ở tỉnh Phú Thọ

Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt
ra từ thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở

Chương 3

tỉnh Phú Thọ
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

55

HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TỈNH PHÚ
63

3.1.

THỌ THỜI GIAN TỚI
Quan điểm phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh

63

3.2.

Phú Thọ thời gian tới
Giải pháp phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh
Phú Thọ thời gian tới

71
91
92
97


KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
2


Lịch sử nền kinh tế thế giới cho thấy, HTX đóng vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều quốc gia. Ở những nước có
nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Thụy Điển, Canada, Nhật
Bản, Hàn Quốc…, vai trò của HTX ngày càng quan trọng với những đóng
góp rất tích cực cho nền kinh tế.
Ở Việt Nam, HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt
động, mô hình HTX nông nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn, hiệu quả sản
xuất kinh doanh chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Phát triển HTX nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng không chỉ là
vấn đề phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mà
còn là vấn đề cấp thiết, đảm bảo cho kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước
ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Phú Thọ là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam với 1,31
triệu người, trong đó có khoảng 85% dân số sinh sống ở nông thôn, vùng núi
và là một tỉnh có điều kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp. Do đó, phát triển HTX nông nghiệp luôn được Tỉnh quan tâm đầu tư
thích đáng. Quá trình tồn tại và phát triển, HTX nông nghiệp đã ngày càng
khẳng định vị trí, vai trò to lớn, bước đầu hoạt động có hiệu quả, tạo động lực

không nhỏ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, nhất là giải
quyết việc làm, cải thiện đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, sự phát triển của HTX nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ còn bộc lộ những bất cập, hạn chế như: HTX nông nghiệp chưa thật sự
vững mạnh, nội lực còn yếu kém, quy mô dịch vụ nhỏ, năng lực cạnh tranh
yếu; hầu hết các HTX nông nghiệp còn gặp khó khăn về nguồn lực, kinh
nghiệm tham gia thị trường, sự gắn kết của các thành viên với HTX nông
nghiệp ở một số nơi còn hạn chế; một số cấp ủy, chính quyền địa phương

3


chưa quan tâm đúng mức đến công tác đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả kinh tế tập thể… Hiện nay, khó khăn lớn nhất đối với HTX nông nghiệp
là lựa chọn mô hình phát triển như thế nào, đặc biệt từ khi Luật Hợp tác xã
năm 2012 có hiệu lực. Những hạn chế, khó khăn đó đã làm cho HTX nông
nghiệp chưa phát huy được vị thế, tiềm năng, đóng góp chưa xứng đáng vào
phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh.
Điều đó cho thấy, để phát triển HTX nông nghiệp thì những khó khăn,
hạn chế trên phải được khắc phục. Đó là vấn đề đặt ra cần nghiên cứu giải
quyết để HTX nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ phát triển. Bởi vậy, việc nghiên
cứu làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển HTX nông nghiệp
ở tỉnh Phú Thọ là cần thiết, cấp bách hiện nay. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề
tài: “Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ” làm đề tài luận văn
chuyên ngành Kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển kinh tế tập thể, trong đó nòng cốt là phát triển HTX nông
nghiệp đã được nhiều đề tài nghiên cứu, công bố trên các góc độ tiếp cận và
chuyên ngành khác nhau, điển hình trong số đó là:
* Các công trình nghiên cứu liên quan đến hợp tác xã, phát triển hợp tác xã

Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng (2001), Kinh tế
hợp tác, hợp tác xã ở Việt Nam – Thực trạng và định hướng phát triển, Nhà
xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Nhóm tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình
thành và phát triển các loại hình kinh tế hợp tác, HTX trên thế giới và Việt
Nam, đánh giá những thành công và tồn tại, chỉ rõ nguyên nhân, từ đó nêu lên
định hướng phát triển HTX ở Việt Nam theo đường lối đổi mới. Với mục đích
nghiên cứu như vậy, nên ở công trình này, những vấn đề lý luận về HTX,
HTX nông nghiệp chưa được đề cập nghiên cứu.
Chu Thị Hảo (2003), Lý luận hợp tác xã, quá trình phát triển hợp tác
4


xã nông nghiệp ở Việt Nam, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội. Tác giả đi
sâu nghiên cứu về nguồn gốc tư tưởng HTX cùng quá trình hình thành và phát
triển HTX trên thế giới, từ đó khái quát quá trình hình thành và phát triển
HTX ở Việt Nam. Đây là một tác phẩm đề cập khá đầy đủ những vấn đề lý
luận về HTX ở nước ta.
Vũ Văn Phúc (2003), Đổi mới hợp tác xã và nhu cầu hợp tác của người
lao động hiện nay ở nông thôn Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội. Với mục đích đi sâu phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn và tính
cấp thiết phải đổi mới HTX, trên cơ sở đó khái quát những nhu cầu cần hợp
tác của lao động nông thôn Việt Nam, vì vậy ở công trình này tác giả không
đề cập đến lý luận HTX và phát triển HTX.
Ngô Văn Lương - chủ nhiệm đề tài (2004), Các hình thức kinh tế hợp
tác trong nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng ở nước ta hiện
nay, thực trạng, xu hướng và giải pháp phát triển, Đề tài khoa học cấp Bộ,
Phân viện Báo chí và Tuyên truyền – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội. Đề tài đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận về hợp tác và các
hình thức kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn, từ đó đề xuất một số
phương hướng và giải pháp phát triển các hình thức kinh tế hợp tác vùng đồng

bằng sông Hồng đến năm 2010. Có thể nói đây là một công trình có nội dung
nghiên cứu khá toàn diện, bao gồm cả lý luận và thực tiễn về HTX, phát triển
HTX.
Nguyễn Thị Hồng Lâm (2005), Hợp tác xã ở nước ta hiện nay, những
vấn đề đặt ra và phương hướng phát triển, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội.
Tác phẩm đã làm rõ thực trạng phát triển HTX ở nước ta, từ đó kiến nghị một
số phương hướng phát triển HTX trong thời gian tiếp theo. Đây là một tác
phẩm đề cập cả đến những vấn đề lý luận và thực trạng phát triển HTX.
Phan Văn Hiếu - chủ nhiệm đề tài (2011), Điều tra, đánh giá thực
trạng, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã trên
5


địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Đề tài khoa học cấp tỉnh, Trường Chính trị tỉnh
Quảng Ngãi. Đề tài tiếp cận bằng phương pháp nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
và rút ra các bài học kinh nghiệm về các loại hình HTX, từ đó đề xuất mô
hình HTX hoạt động hiệu quả trong giai đoạn tới ở Quảng Ngãi. Đề tài góp
phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về quan điểm, đường lối, chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển HTX
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Bùi Văn Huyền, Phạm Văn Sáng, Nguyễn Quốc Thái (2011), Hợp tác
xã – nhìn từ thực tiễn Đồng Nai, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Các tác giả tập trung trình bày một số vấn đề lý luận về HTX, kinh nghiệm
phát triển HTX; đánh giá thực trạng phát triển HTX ở Đồng Nai và đề xuất
định hướng, giải pháp phát triển trong những năm tới.
Đặng Lễ Nghi (2001), “Để các hợp tác xã phát triển theo quỹ đạo xã
hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, 5/2001. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn
phát triển HTX theo Luật Hợp tác xã năm 1996 có nhiều hạn chế, bất cập, tác
giả đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển các HTX đúng định hướng
XHCN, hoạt động có hiệu quả, nâng cao vai trò, vị thế trong nền kinh tế.

Chử Văn Lâm (2002), “Sở hữu tập thể trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Dự báo kinh tế, 6/2002. Tác giả luận giải
những vấn đề lý luận về sở hữu, về kinh tế hợp tác theo quan điểm Chủ nghĩa
Mác - Lênin, phân tích quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại về kinh tế
HTX và xu hướng phát triển HTX trong nền kinh tế thị trường của các nước
trên thế giới. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và giải pháp phát triển HTX ở
nước ta trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Ngô Văn Lương (2004), “Tình hình phát triển kinh tế hợp tác ở vùng
đồng bằng sông Hồng nước ta hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 6/2004.
Trong đó, tác giả làm rõ thực trạng, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp
6


phát triển kinh tế hợp tác vùng đồng bằng sông Hồng. Với cách tiếp cận như
vậy, tác phẩm chưa đi sâu làm rõ những vấn đề lý luận về HTX, phát triển HTX.
Chu Tiến Quang (2009), “Những thay đổi về sở hữu tập thể trong hợp
tác xã ở Việt Nam nhìn từ góc độ pháp lý”, Tạp chí Quản lý kinh tế, số 24
(2/2009). Tác giả đề cập đến những thay đổi trong nhận thức về vấn đề sở hữu
tập thể trong HTX ở Việt Nam qua các giai đoạn: trước đổi mới 1986; từ năm
1986 đến trước khi Quốc hội thông qua Luật Hợp tác xã năm 1996; và sau khi
Luật Hợp tác xã năm 1996 có hiệu lực đến năm 2009. Từ đó đưa ra một số
vấn đề pháp lý về xây dựng và phát triển vốn, tài sản thuộc sở hữu tập thể
trong HTX ở nước ta.
Võ Thị Kim Sa (2012), “Một số góp ý cho Luật Hợp tác xã hiện hành”,
Tạp chí Cộng sản điện tử, 3/1/2012. Tác giả xuất phát từ nghiên cứu bản chất
và vai trò của HTX trong phát triển kinh tế hộ để chỉ ra sự cần thiết phải sửa
đổi Luật Hợp tác xã năm 2003. Theo đó, tác giả khẳng định: từ những kinh
nghiệm thành công trong và ngoài nước, chúng ta có thể tin tưởng rằng
với vai trò kép vừa là tổ chức hiệp hội vừa là doanh nghiệp, HTX có thể hoạt
động tốt như mọi doanh nghiệp. Thậm chí, HTX có thể hoạt động tốt hơn

công ty, nếu chúng ta am hiểu tường tận bản chất của nó, biết cách sử dụng và
khai thác công cụ tập thể độc đáo này. HTX là phương tiện hữu hiệu giúp
kinh tế gia đình của mỗi xã viên nâng cao sức cạnh tranh và phát triển.
Nguyễn Thiện Nhân (2015), “Hợp tác xã kiểu mới - Giải pháp đột phá
phát triển nông nghiệp Việt Nam”, báo Nhân dân, số ra ngày 16/3/2015. Tác
giả đã đánh giá những thành tựu to lớn, những yếu kém kéo dài của kinh tế
hợp tác ở nước ta sau 60 năm hình thành và phát triển; từ nghiên cứu về bản
chất và vai trò của HTX qua thực tiễn quốc tế, theo tác giả cần phải đột phá tư
duy về mô hình, vai trò, cơ chế hợp tác, trên cơ sở đó khẳng định: phát triển
HTX kiểu mới là giải pháp đột phá phát triển nông nghiệp Việt Nam hiện nay.
7


Phùng Quốc Chí (2010), Phát triển hợp tác xã trong quá trình công
nghiệp hoá đến năm 2020 ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Viện Chiến lược
phát triển, Hà Nội. Tác giả xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn của phát triển
HTX ở Việt Nam, kinh nghiệm một số nước trên thế giới để đề xuất định hướng
phát triển HTX trong quá trình công nghiệp hóa đến năm 2020 ở nước ta.
* Những công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển HTX nông
nghiệp ở nước ta
Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (1999), Đổi mới tổ chức và quản
lý hợp tác xã trong nông nghiệp, nông thôn, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà
Nội. Với mục đích nghiên cứu mô hình tổ chức và quản lý HTX nên các tác
giả đã khái quát toàn bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản
lý HTX trong nông thôn Việt Nam từ trước đổi mới đến khi chuyển sang kinh
tế thị trường và phân tích thực trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một
số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó, đề xuất một số phương hướng và giải
pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình
HTX trong nông nghiệp. Như vậy, ở công trình này, các tác giả chưa đề cập
nghiên cứu lý luận về phát triển HTX nông nghiệp.

Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác
trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội. Các tác giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh
tế hợp tác, HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế
hợp tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước
ta, đề xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, HTX trong
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. Công trình này đề cập nghiên cứu về HTX
trong nông nghiệp, nông thôn phạm vi cả nước. Vì vậy, những vấn đề lý luận
và thực tiễn phát triển HTX nông nghiệp ở phạm vi một địa phương cụ thể
chưa được đề cập.
8


Ngô Thị Cẩm Linh (2008), Một số giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã
nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Trường Đại
học Kinh tế và quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên. Tác giả luận văn đã
phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng của quá trình phát triển HTX nông
nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp.
Nguyễn Văn Lân (2010), Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ngoại
thành Hà Nội hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Học viện Chính trị,
Hà Nội. Tác giả đi từ nghiên cứu những vấn đề lý luận về HTX nông nghiệp,
phát triển HTX nông nghiệp, từ đó đánh giá khái quát thực trạng, dự báo xu
thế phát triển và để ra những quan điểm, giải pháp phát triển HTX nông
nghiệp ngoại thành Hà Nội.
Nguyễn Thanh Đức (2014), Phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở huyện
Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc gia, Hà Nội. Tác giả xuất phát từ những vấn đề lý luận chung
về kinh tế hợp tác, HTX và HTX nông nghiệp; đánh giá thực trạng phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng; từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm tiếp tục phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Lệ

Thủy, tỉnh Quảng Bình trong thời gian tới.
Hồ Văn Vĩnh (2005), “Phát triển hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số
8/2005. Bài viết đã bàn đến những cách thức chuyển đổi mô hình HTX nông
nghiệp kiểu cũ sang HTX nông nghiệp kiểu mới trên cơ sở quán triệt đường
lối đổi mới HTX nông nghiệp của Đảng. Tác giả đã phân tích mối quan hệ
biện chứng giữa phát triển HTX nông nghiệp với công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, đồng thời nêu lên nguyên nhân khó khăn, vướng mắc của phát triển HTX
nông nghiệp trong thời kỳ mới cùng những giải pháp tháo gỡ.
Phan Trọng An (2011), “Kinh nghiệm phát triển HTX nông nghiệp ở
Nhật Bản và bài học rút ra cho Việt Nam”, , 14/4/2011.
9


Bài viết đã khảo sát kinh nghiệm phát triển HTX nông nghiệp của Nhật Bản,
qua đó rút ra một số vấn đề và bài học để phát triển HTX nông nghiệp ở Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Tác giả kết luận: HTX nông
nghiệp chỉ phát triển và phát huy tác dụng tốt cho hộ nông dân khi HTX nông
nghiệp thực sự hoạt động theo nguyên tắc tự lực, tự chịu trách nhiệm, quản lý
dân chủ, hiệu quả hoạt động cao; việc lựa chọn khâu dịch vụ nào để HTX
nông nghiệp làm là hết sức quan trọng. Bốn khâu: cung ứng vật tư, hàng hoá
tiêu dùng, tín dụng tương hỗ, tiêu thụ sản phẩm và khuyến nông là rất phù
hợp với HTX nông nghiệp. Nhưng để chiến thắng tư nhân thì HTX nông
nghiệp nên tổ chức theo kiểu đa năng và tuyển chọn người giỏi làm giám đốc
để quản lý, điều hành. Ngoài ra để HTX nông nghiệp phát triển cũng cần sự
hỗ trợ của Nhà nước.
* Đánh giá khái quát kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đã
công bố và những vấn đề luận văn cần nghiên cứu
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu liên quan đã công bố và được
nghiên cứu, khảo sát dưới góc độ của nhiều chuyên ngành khác nhau, trong

đó chủ yếu là chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp.
Thứ hai, trong số các công trình này, chủ yếu đề cập nghiên cứu về
HTX, kinh tế tập thể nói chung, rất ít công trình trực tiếp nghiên cứu về HTX
nông nghiệp nói riêng, nhất là mô hình HTX nông nghiệp tổ chức lại và thành
lập mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012.
Thứ ba, chưa có công trình nào liên quan hoặc trực tiếp nghiên cứu về
phát triển HTX nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ.
Vì vậy, đề tài luận văn là nội dung mới, không trùng lặp với các công trình
đã công bố gần đây mà tác giả tiếp cận được. Với ý nghĩa như vậy, luận văn sẽ tập
trung nghiên cứu, luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất
quan điểm và giải pháp phát triển HTX nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ.
10


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó đề xuất quan
điểm và giải pháp phát triển HTX nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển HTX nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ.
- Đánh giá đúng thực trạng, xác định nguyên nhân và những vấn đề đặt
ra trong phát triển HTX nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ thời gian qua.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp đẩy mạnh phát triển HTX nông
nghiệp ở tỉnh Phú Thọ thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu sự phát triển HTX nông nghiệp dưới góc độ kinh
tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới theo

Luật Hợp tác xã năm 2012, bao gồm cả dịch vụ nông nghiệp và sản xuất nông
nghiệp trong trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản.
Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Về thời gian: Số liệu, tài liệu khảo sát sự phát triển HTX nông nghiệp ở
tỉnh Phú Thọ từ năm 2010 đến 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử để phân tích, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn
phát triển HTX nông nghiệp, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp
phát triển HTX nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ thời gian tới.
* Phương pháp nghiên cứu
11


Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học, kết hợp lô gíc
với lịch sử và vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học
xã hội như: điều tra, thống kê, khảo sát thực tế, so sánh, phân tích, tổng hợp
và phương pháp chuyên gia...
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài được thực hiện thành công sẽ góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho lãnh đạo, chính quyền tỉnh Phú Thọ hoạch định chủ trương, chính sách
phát triển HTX nông nghiệp.
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
nghiên cứu khoa học, giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
đề tài kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.

12



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP
Ở TỈNH PHÚ THỌ

1.1. Những vấn đề chung về hợp tác xã và hợp tác xã nông nghiệp
1.1.1. Quan niệm về hợp tác xã
Hợp tác, với tư cách là đặc tính xã hội của lao động, được thực hiện từ
khi loài người xuất hiện và ngày càng phát triển như là hình thức tất yếu trong
lao động sản xuất của con người. Theo từ điển Hán Việt thì “hợp tác” có
nghĩa là hợp nhau lại chung sức làm việc.
Nhận định về quá trình sản xuất của loài người, C.Mác đã chỉ rõ: Người
ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó
để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được,
người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ
của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất, chỉ diễn ra trong khuôn khổ và
những mối liên hệ và quan hệ đó. Như vậy, hợp tác là hình thức tất yếu trong
lao động, sản xuất của loài người. Hợp tác bắt nguồn từ tính chất xã hội của
hoạt động thực tiễn nói chung, lao động sản xuất và hoạt động kinh tế nói
riêng của con người.
Có thể nói hợp tác là một phạm trù rộng, quá trình hợp tác được biểu
hiện ra ở nhiều hình thức và cấp độ khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp, từ
đơn ngành đến đa ngành. Hợp tác trong sản xuất vật chất phát triển đến mức
độ nhất định sẽ hình thành nên hình thức kinh tế hợp tác.
Kinh tế hợp tác là một hình thức quan hệ kinh tế tự nguyện hợp tác,
phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh
của từng thành viên với ưu thế và sức mạnh của tập thể để giải quyết tốt hơn
những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống kinh tế, nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên [17, tr.7]. Mỗi loại hình kinh

tế hợp tác phản ánh đặc điểm, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và
13


hình thức phân công lao động tương ứng. Trong đó, kinh tế hợp tác phát triển
và được tổ chức ở trình độ cao chính là HTX.
HTX là một mô hình của kinh tế hợp tác được phát triển ở trình độ cao
hơn, xuất hiện trong nền kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản từ giữa thế
kỷ XIX, bởi trong nền kinh tế tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản, để tồn
tại và phát triển, những người sản xuất nhỏ phải hợp sức, hợp vốn với nhau
chống lại sự chèn ép, khống chế của các nhà tư bản.
Bàn về HTX, nhiều quan điểm thừa nhận: HTX là mô hình kinh tế hợp
tác, ra đời, phát triển ở trình độ cao hơn loại hình kinh tế hợp tác giản đơn.
Tuy nhiên, do cách tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu khác nhau nên đã có rất
nhiều quan niệm khác nhau về HTX:
Quan điểm của các nhà CNXH không tưởng cho rằng: “Chỉ cần tập hợp
dân cư vào hợp tác xã là có thể biến kẻ thù của giai cấp thành người hợp tác
giai cấp, biến đấu tranh giai cấp thành hòa bình giai cấp” [17, tr.4]. Như vậy,
các nhà không tưởng chưa đưa ra được định nghĩa về HTX vì quan điểm trên
chỉ mang tính mơ hồ, gắn với học thuyết không tưởng về CNXH.
Kế thừa và phát triển lý luận của C.Mác, trong “Chính sách kinh tế
mới” và “Bàn về chế độ hợp tác xã”, V.I.Lênin xác định: Chỉ có tổ chức các
HTX mới thực hiện kiểm kê, kiểm soát về kinh tế. Trong thời kỳ thực hiện
chính sách kinh tế mới, kiểm kê, kiểm soát được thực hiện thông qua liên
doanh, liên kết và hợp đồng được ký kết giữa nhà nước với HTX. Theo
V.I.Lênin, HTX là hình thức phát huy sức mạnh của quần chúng lao động.
Người viết: “hợp tác xã tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên hợp và tổ chức
hàng triệu người, sau đó toàn thể dân chúng và tình hình ấy lại là một điều lợi
lớn cho bước quá độ tương lai từ chủ nghĩa tư bản nhà nước lên chủ nghĩa xã
hội [27, tr.273]. V.I.Lênin không chỉ quan tâm đến việc tìm kiếm và khẳng

định tính tất yếu của con đường hợp tác hóa, mà Người còn nhấn mạnh
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và tôn trọng lợi ích của HTX.
14


Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” viết năm 1927, Hồ Chí Minh đã
có một chuyên mục viết về HTX. Lập luận về hợp tác theo Hồ Chí Minh rất
đơn giản khi Người nêu ra các câu tục ngữ Việt Nam: “nhóm lại thành giàu,
chia nhau thành khó”, “một cây làm chẳng nên non, nhiều cây nhóm lại thành
hòn núi cao”. Hình thức hợp tác có 4 loại, hay 4 cách, đó là: HTX tiền bạc;
HTX mua; HTX bán và HTX sinh sản nhằm mục đích giúp nhau, nhờ lẫn
nhau, “làm sao cho ai trồng cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì giùm vào
trồng cây”. Đặc biệt, người chỉ ra đặc trưng của HTX “khác hội buôn, vì hội
buôn lợi riêng, hợp tác xã lợi chung”; “hợp tác xã tuy là để giúp đỡ nhau,
nhưng không giống các hội từ thiện. Vì các hội ấy có tiêu đi mà không làm
ra, và giúp đỡ bất kỳ ai nhưng có ý bố thí, hợp tác xã có tiêu đi, có làm ra, chỉ
giúp cho người trong hội, nhưng giúp một cách bình đẳng, một cách “cách
mệnh” ai cũng giúp mà ai cũng bị giúp [40, tr.344].
Còn Liên minh Hợp tác xã quốc tế (International Covperatise Alliance
– ICA, thành lập tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Vương quốc Anh), đã định
nghĩa: “Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp
lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và
văn hóa qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ” [6, tr.18].
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: “Hợp tác xã là sự liên kết
của những người đang gặp phải những khó khăn kinh tế giống nhau, tự
nguyện liên kết nhau lại trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, sử
dụng tài sản mà họ đã chuyển giao vào hợp tác xã phù hợp với các nhu cầu
chung và giải quyết những khó khăn đó chủ yếu bằng sự tự chủ, tự chịu trách
nhiệm và bằng cách sử dụng các chức năng kinh doanh trong tổ chức hợp tác,
phục vụ cho lợi ích vật chất và tinh thần chung” [6, tr.15].

Mặc dù có nhiều định nghĩa hay quan niệm khác nhau về HTX, song
tựu chung, các định nghĩa hay quan niệm đều cho thấy các loại hình HTX trên
thế giới có đặc điểm chung: là tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự
15


nguyện góp vốn, góp sức hình thành; hoạt động chủ yếu nhằm mục đích phục
vụ hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ
lẫn nhau, cũng là giúp đỡ chính mình; nguyên tắc cơ bản của HTX là tự
nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ.
Để tạo hành lang pháp lý cho HTX đứng vững và phát triển, ngày
20/3/1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX kỳ
họp thứ 9 đã thông qua Luật Hợp tác xã.
Theo Điều 1 của Luật này: “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do
những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn,
góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể
và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước” [34, tr.5].
Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi, thành lập HTX theo Luật Hợp
tác xã năm 1996, Hội nghị Trung ương 5 khoá IX (3/2002) đã ra Nghị quyết
về “Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể” để lãnh
đạo phát triển kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX. Trên cơ sở nghị quyết của
Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, ngày 26/11/2003, tại kỳ họp
thứ 4, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật Hợp tác xã sửa đổi, bổ sung Luật
Hợp tác xã năm 1996. Theo đó, HTX được định nghĩa: “Hợp tác xã là tổ chức
kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là
xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo
quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất,

kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.” [35, tr.7,8].
Với mục tiêu khuyến khích và phát triển mô hình HTX kiểu mới, đồng
thời định hướng phát triển các HTX hiện có hoạt động theo đúng bản chất của
16


HTX, ngày 20/11/2012 Quốc hội đã thông qua Luật Hợp tác xã 2012, có hiệu
lực thi hành từ 01/7/2013. Trong đó, HTX được định nghĩa:“Hợp tác xã là tổ
chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên
tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã. Khi
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành
các doanh nghiệp của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; doanh nghiệp của hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật doanh nghiệp [36, tr 8].
Định nghĩa này đã xác định rõ hơn bản chất của HTX: là tổ chức kinh
tế tập thể, nhằm đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên, trên cơ sở tự chủ,
tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý HTX. Mục tiêu của
HTX là mang lại lợi ích cho thành viên. Phân phối của HTX chủ yếu theo
mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên; theo công sức lao động,
phần còn lại chia theo vốn góp. Bản chất của HTX là phục vụ lợi ích của
thành viên; còn bản chất của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, phân phối
lợi nhuận của doanh nghiệp chia theo vốn góp. Vì vậy, Luật Hợp tác xã năm
2012 bỏ quy định “hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp”.
1.1.2. Quan niệm về hợp tác xã nông nghiệp
Trên cơ sở kế thừa, phát triển các kết quả nghiên cứu lý luận về hợp
tác, kinh tế hợp tác và HTX, tác giả cho rằng: HTX nông nghiệp là tổ chức
kinh tế tự nguyện được thành lập theo quy định của Luật Hợp tác xã nhằm
nâng cao hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nông nghiệp,

trên cơ sở đó nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của thành viên và cộng
đồng dân cư.
Ngoài những đặc điểm chung của HTX, HTX nông nghiệp còn có đặc
điểm mang tính đặc thù sau:

17


Thứ nhất, mục tiêu hoạt động của HTX nông nghiệp là mục tiêu kép,
vừa phục vụ lợi ích của HTX, đảm bảo lợi nhuận để duy trì sự phát triển của
HTX, vừa phục vụ cộng đồng dân cư nông thôn và thành viên. Sản phẩm dịch
vụ HTX nông nghiệp không chỉ cung cấp cho các thành viên (xã viên) của
HTX mà là cả cộng đồng dân cư ở nông thôn, bao gồm cả những người không
phải là thành viên của HTX. Ngoài ra, HTX nông nghiệp không chỉ cung cấp
các dịch vụ kinh doanh đầu vào, đầu ra phục vụ sản xuất nông nghiệp mà còn
cả các dịch vụ công ích ở nông thôn như: thủy lợi, nước sạch, vệ sinh môi
trường, chuyển giao khoa học kỹ thuật... nhằm nâng cao phúc lợi, giải quyết
việc làm cho lao động và đảm bảo an sinh xã hội ở nông thôn. Vì vậy chính
sách hỗ trợ HTX nông nghiệp phải khác biệt với chính sách hỗ trợ HTX phi
nông nghiệp, nhất là đối với HTX nông nghiệp cung cấp dịch vụ thiết yếu và
các dịch vụ công ích cho cộng đồng dân cư nông thôn và ở các vùng khó khăn.
Thứ hai, HTX nông nghiệp có thể hoạt động trong một lĩnh vực sản xuất
ngành nghề trong nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản …), hoặc có thể
tham gia hoạt động ở nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau (đa ngành, đa nghề).
Thứ ba, liên kết sản xuất, kinh doanh đang trở thành xu thế tất yếu
trong quá trình phát triển và hội nhập của ngành nông nghiệp, nên HTX nông
nghiệp có vai trò quan trọng của quá trình này nhằm gắn kết nông dân với các
doanh nghiệp. HTX nông nghiệp có vai trò là cầu nối giúp doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp thực hiện liên kết với nông dân để sản xuất,
chế biến, tiêu thụ nông sản hiệu quả hơn. Do đó, cần có cơ chế, chính sách để

làm sao phát huy được tính chủ động của HTX trong vay vốn, tìm nguồn vốn,
quyết định trong các khâu tham gia trong quá trình sản xuất để lựa chon khâu
nào cần thiết HTX tham gia liên kết với doanh nghiệp và đối tác bên ngoài.
Thứ tư, đa số HTX nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ
công tác quản lý nhà nước về nông nghiệp ở địa phương cấp xã. Bên cạnh đó
HTX nông nghiệp hoạt động hiệu quả cũng là một tiêu chí đánh giá kết quả
18


về hình thức tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới và thực hiện tái
cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp, theo quy định tại Điều 7 Luật
Hợp tác xã năm 2012 thì cơ bản HTX nông nghiệp được tổ chức và hoạt động
theo các nguyên tắc sau:
Một là, tự nguyện gia nhập và ra khỏi HTX: tất cả nông dân và những
người lao động có đủ điều kiện theo qui định của Luật Hợp tác xã, tán thành Điều
lệ hợp tác xã nông nghiệp, đều có thể trở thành thành viên HTX nông nghiệp; xã
viên có quyền ra khỏi HTX nông nghiệp theo qui định của Điều lệ từng HTX.
Hai là, quản lý dân chủ và bình đẳng: Thành viên HTX nông nghiệp có
quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc
quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của HTX nông nghiệp; được cung cấp
thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài
chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ.
Ba là, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX nông nghiệp tự chịu
trách nhiệm về kết quả hoạt động dịch vụ, sản xuất, kinh doanh. Thu nhập của
HTX nông nghiệp được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm,
dịch vụ của thành viên.
Bốn là, HTX nông nghiệp có trách nhiệm quan tâm giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng cho thành viên, cán bộ quản lý, người lao động trong HTX, và
thông tin về bản chất, lợi ích của HTX.

Năm là, hợp tác và phát triển cộng đồng: thành viên HTX nông nghiệp
phải phát huy và nâng cao ý thức hợp tác giữa các HTX trong nước và ngoài
nước theo qui định của pháp luật.
Thứ năm, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối trong HTX nông
nghiệp kiểu mới:
Về quan hệ sở hữu: Trong mô hình HTX nông nghiệp kiểu cũ, một đặc
điểm quan trọng nhất quyết định các quan hệ khác là chế độ sở hữu tập thể về
19


tư liệu sản xuất. Người nông dân khi vào HTX nông nghiệp phải góp ruộng
đất, trâu bò, công cụ sản xuất chủ yếu; xóa bỏ sở hữu của hộ gia đình, sở hữu
cá nhân không được thừa nhận. Chính điều này đã làm nảy sinh tình trạng vô
chủ và sự thiếu trách nhiệm của nhiều thành viên đối với tài sản của HTX
nông nghiệp. Trong HTX nông nghiệp kiểu mới, sở hữu của thành viên HTX
nông nghiệp đồng sở hữu với mục đích chính là sử dụng dịch vụ của HTX.
Như vậy trong HTX nông nghiệp, tập hợp thành viên có tính chất rất đặc biệt
- thành viên vừa là người đồng sở hữu, quản lý hợp tác xã theo nguyên tắc
dân chủ, vừa là người sử dụng dịch vụ của HTX nông nghiệp.
Về quan hệ quản lý: Trong cơ chế quản lý của HTX nông nghiệp kiểu
cũ, quan hệ giữa xã viên với HTX là quan hệ phụ thuộc, xã viên bị tách khỏi
tư liệu sản xuất, trở thành người lao động làm công theo sự điều hành tập
trung của HTX nông nghiệp; tính chất hợp tác đích thực trong HTX nông
nghiệp không còn, người lao động phụ thuộc, bị động, thiếu chủ động sáng
tạo. Đặc trưng của HTX nông nghiệp kiểu mới là hoạt động sản xuất, kinh
doanh của HTX nông nghiệp không bao trùm toàn bộ hoạt động sản xuất,
kinh doanh của thành viên, mà chỉ diễn ra ở từng công đoạn, khâu công việc
nhằm hỗ trợ, phát huy thế mạnh của từng thành viên. Do đó, HTX nông
nghiệp kiểu mới phát huy được quyền làm chủ của họ. Thành viên trực tiếp
tham gia quản lý, giám sát hoạt động của HTX theo nguyên tắc quản lý dân

chủ, thành viên quyết định các công việc quan trọng của HTX một cách bình
đẳng, không phân biệt vốn góp ít hay nhiều.
Về quan hệ phân phối: Trong các HTX nông nghiệp kiểu cũ, chế độ
phân phối mang nặng tính bình quân, bao cấp, không khuyến khích xã viên
tích cực, hăng say lao động; xã viên thiếu gắn bó với HTX nông nghiệp.
Trong HTX nông nghiệp kiểu mới thu nhập của HTX nông nghiệp được phân
phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hoặc
theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc
20


làm. Đây là động lực khuyến khích xã viên hăng say làm việc, gắn bó với
HTX. Thành viên cùng góp vốn gây dựng sản nghiệp chung, cùng sử dụng
dịch vụ, cùng chia sẻ chi phí, cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi từ
hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. Thành quả của HTX nông
nghiệp được phân phối lại một cách công bằng (chứ cũng không phải là cào
bằng) cho mọi thành viên. Thành viên nào giao dịch càng nhiều với HTX
nông nghiệp thì nhận được phần phân phối lại càng cao. Điều này góp phần
gia tăng mức độ trung thành của thành viên với HTX nông nghiệp và là tiền
đề để HTX nông nghiệp phát triển bền vững.
1.1.3. Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp trong thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Kinh tế HTX ra đời và phát triển trong nhiều giai đoạn khác nhau, cả
trong kinh tế hàng hóa giản đơn lẫn trong kinh tế hàng hóa phát triển, cả trong
chủ nghĩa tư bản lẫn trong thời kỳ quá độ lên CNXH và cả khi các yếu tố của
CNXH đã chiếm ưu thế. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn phát triển, HTX nông
nghiệp có một vai trò nhất định phản ánh đặc trưng của nó. Trong thời kỳ quá
độ lên CNXH ở nước ta, HTX nông nghiệp có các vai trò chủ yếu như sau:
Thứ nhất, HTX nông nghiệp là một hình thức tổ chức kinh tế góp phần
đưa người nông dân từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn

Bằng cơ sở lý luận và thực tiễn khoa học, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin khẳng định tính tất yếu và vai trò to lớn của kinh tế HTX
trong nền kinh tế quốc dân. Các ông đều cho rằng kinh tế hợp tác là con
đường để đưa nông dân đi tới CNXH. Trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở
Pháp và Đức”, Ph.Ăngghen nhấn mạnh, sau khi giành chính quyền: nhiệm vụ
của chúng ta đối với tiểu nông, trước hết phải chuyển quyền sở hữu cá thể và
nền kinh doanh cá thể của họ vào con đường kinh doanh hợp tác, không phải
bằng bạo lực mà bằng những tấm gương và bằng sự giúp đỡ của xã hội. Vì
theo các ông, kinh tế HTX có vai trò hết sức quan trọng, lôi cuốn đại bộ phận
21


dân cư hoạt động trong nền kinh tế, cũng là hình thức tổ chức kinh tế mà qua
đó có thể dần xoá bỏ tình trạng bóc lột, nhưng mặt khác là hình thức có hiệu
quả để đảm bảo sự kết hợp hài hòa lợi ích của những tiểu nông với lợi ích của
xã hội. Hợp tác hoá là con đường để lôi cuốn những người sản xuất nhỏ vào
công cuộc xây dựng CNXH.
Kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, bằng phương pháp biện
chứng mác-xít và bằng hoạt động thực tiễn của mình, V.I.Lênin đã nghiên
cứu và phát triển các luận điểm của kinh tế HTX trong thời kỳ quá độ lên
CNXH và vận dụng vào nước Nga Xô viết với Chính sách kinh tế mới (NEP).
Trong tác phẩm “Bàn về chế độ hợp tác xã”, V.I.Lênin chỉ ra vai trò quan
trọng của HTX: “hợp tác xã là bước quá độ sang một chế độ mới bằng con
đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân”. Bởi vì,
theo V.I.Lênin, HTX là cơ sở để thiết lập và củng cố khối liên minh công
nông, đồng thời là tổ chức mà thông qua đó phát huy được sức mạnh của quần
chúng lao động. Người viết “hợp tác xã tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên
hợp và tổ chức hàng triệu người, sau đó toàn thể dân chúng; và tình hình ấy
lại là một điều lợi rất lớn cho bước quá độ tương lai từ chủ nghĩa tư bản nhà
nước lên chủ nghĩa xã hội” [28, tr.272].

Thứ hai, HTX nông nghiệp góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, làm cho sức sản xuất được giải phóng, các nguồn tiềm năng phục vụ sản
xuất như vốn, đất đai, lao động, công nghệ… được khai thác và sử dụng ngày
càng hợp lý và hiệu quả.
Cùng với sự giúp đỡ, kiểm soát, hướng dẫn của Nhà nước và tác động
của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, HTX nông nghiệp là môi trường
thuận lợi để áp dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật trong các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, tạo điều kiện tăng khả năng đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ,
làm phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả lao động, từ đó tác động
tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ lạc hậu, què quặt, ít hiệu
22


quả sang một cơ cấu ngày càng phù hợp xu hướng phát triển của nền sản xuất
hiện đại. Như vậy, có thể nói HTX nông nghiệp có vai trò to thúc đẩy nền
kinh tế nhỏ phát triển và tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ
lên nền đại công nghiệp cơ khí như V.I.Lênin khẳng định: “Chính sách hợp
tác một khi thành công, sẽ giúp cho nền kinh tế nhỏ phát triển và sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho nền kinh tế nhỏ quá độ trong một thời hạn không nhất định
lên nền đại sản xuất trên cơ sở tự nguyện kết hợp” [27, tr.273].
Thứ ba, HTX nông nghiệp là cầu nối cho sự phát triển, trao đổi hàng
hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, đồng thời
là cơ sở để thúc đẩy sự phân công lao động xã hội
HTX nông nghiệp với nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
phát triển làm cầu nối cho sự trao đổi hàng hoá giữa công nghiệp và nông
nghiệp, giữa nhà nước và nông dân thuận lợi, trên cơ sở đó thúc đẩy phân
công lao động xã hội phát triển, tác động phân bố lại dân cư, tài nguyên thiên
nhiên, khai thác lợi thế so sánh giữa các vùng. Mặt khác, phân công và hợp
tác là hai mặt của quá trình phát triển kinh tế, nếu phân công lao động là con
đường nâng cao hiệu quả kinh tế thì hợp tác tạo điều kiện và thúc đẩy quá

trình phân công lao động được thực hiện. Khi nghiên cứu về các loại hình
HTX, V.I.Lênin khẳng định sự cần thiết đối với HTX sản xuất và HTX tiêu
dùng. Người định nghĩa: “hợp tác xã là sự tập hợp công nhân và nông dân,
nhằm mục đích cung cấp và phân phối những sản phẩm cần thiết cho họ. Hợp
tác xã sản xuất là tập hợp những người tiểu nông và thợ thủ công nhằm mục
đích sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm vừa nông nghiệp (chẳng hạn như rau,
sản phẩm sữa và…), vừa phi nông nghiệp (sản phẩm công nghiệp đủ mọi loại,
đồ bằng gỗ, bằng sắt, bằng da…)” [28, tr.301].
Tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã nhận rõ vai trò quan trọng và Người đã đặc biệt quan tâm đến
kinh tế hợp tác trong việc định ra đường lối và chỉ đạo thực tiễn cho cách
23


mạng Việt Nam. Từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người
đã dành hẳn một chương để nói về HTX, qua đó lý giải nhiều vấn đề cốt lõi,
cơ bản và mang tính định hướng về hình thức HTX. Trong đó, Người viết:
“Hợp tác xã trước là có ích lợi cho dân, sau là bớt sức bóp nặn của tụi tư bản
và đế quốc chủ nghĩa” [40, tr.343]. Người kết luận: “Nói tóm lại, hợp tác xã là
rất có lợi cho nên dân các nước làm nhiều lắm” [40, tr.346].
Người xác định trong thời kỳ quá độ “chúng ta phải xây dựng nền tảng
vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”, “phải công nghiệp hoá xã hội chủ
nghĩa”. Người cho rằng: “muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói
chung phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính” [40, tr.180].
Song, muốn cho nông nghiệp thịnh, phát triển đầy đủ và người nông dân giàu
có, ấm no, hạnh phúc thì cần phải có HTX, con đường đó là: “nông thôn phải
trải qua hai cuộc cách mạng: cải cách ruộng đất là một cuộc, cuộc thứ hai là
từ chỗ thực hiện tổ đổi công, hợp tác xã, nông trường tập thể đến chỗ xã hội
hoá nông nghiệp” [41, tr.181]. Và Người chỉ rõ: “Muốn nâng cao đời sống thì
chỉ có một cách là tổ chức nông dân làm ăn tập thể, tức là tổ chức nông dân

vào hợp tác xã nông nghiệp. Tổ chức hợp tác xã tốt thì mới có thể tăng gia sản
xuất, thực hành tiết kiệm, do đó mà nâng cao dần đời sống vật chất và văn hoá
của nông dân và củng cố khối liên minh công nông” [42, tr.161]. Vì vậy, kinh
tế tập thể, nòng cốt là HTX có vai trò to lớn đối với sự phát triển, trao đổi
hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, đồng
thời là cơ sở để thúc đẩy sự phân công lao động xã hội.
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
HTX phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thức XII của Đảng đã xác định: xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN “có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư
24


nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ thể thuộc các thành
phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” [15, tr.102].
Trên cơ sở đó, thông qua các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính
sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước đã từng bước tạo điều kiện để tiếp tục đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTX, để kinh tế HTX thực sự trở
thành nòng cốt của kinh tế tập thể, cùng với kinh tế nhà nước thực hiện tốt vai
trò dẫn dắt và tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác phát triển phù
hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Qua sự phân tích trên, chúng ta có thể khẳng định: phát triển HTX nói
chung, HTX nông nghiệp nói riêng là một trong những con đường giải quyết
mâu thuẫn của sản xuất nhỏ, manh mún với sản xuất hàng hoá lớn trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam. Kinh
tế HTX - sản phẩm tất yếu của sự phát triển kinh tế hàng hoá, là xu hướng
khách quan có tính quy luật trong quá trình không ngừng phát triển sức sản
xuất; tồn tại song song, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với các thành phần kinh tế

khác. HTX nông nghiệp phục vụ, hỗ trợ kinh tế hộ vươn lên sản xuất hàng
hoá. Kinh tế hộ sản xuất hàng hoá phát triển cao tạo điều kiện tất yếu để HTX
nông nghiệp phát triển. Vì vậy, cần đặt ra yêu cầu phát triển HTX nông
nghiệp trong bối cảnh chuyển mạnh sản xuất hàng hoá có chất lượng, nâng
cao sức cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, đảm bảo tính hiệu
quả và bền vững, đẩy mạnh liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế,
nhất là các doanh nghiệp nhà nước, mở rộng thị trường, tăng năng lực sản
xuất cho HTX nông nghiệp và các thành viên.
1.2. Quan niệm, nội dung, các yếu tố tác động đến phát triển hợp
tác xã nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ
1.2.1. Quan niệm về phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về HTX; kế thừa,
phát triển các quan niệm về HTX nông nghiệp; xuất phát từ thực tiễn công tác
25


×