Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Luận văn thạc sĩ quan niệm về thơ trong thơ tố hữu, xuân diệu, chế lan viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (244.45 KB, 34 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2

LÊ CÔNG THÀNH

QUAN NIỆM VỀ THƠ TRONG THƠ
TỐ HỮU, XUÂN DIỆU, CHÉ LAN VIÊN

Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 0120

LUẬN VĂN THẠC sĩ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÊ TRÀ MY

HÀ NỘI, 2015


Luận văn đã được người viết hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của TS.
Lê Trà My và các thầy cô giáo Tổ lý luận Văn học khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư
Phạm Hà Nội 2 và sự động viên, tin tưởng của người thân và bạn bè.
Trước tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Lê Trà My
người đã trực tiếp chỉ bảo và khích lệ tôi trong suốt quá trình triển khai đề tài. Cho
phép tôi được cảm ơn các thầy cô giáo trong Tổ lý luận Văn học, Khoa ngữ văn
Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2 vì những ý kiến quý báu của các thầy cô đã giúp
cho luận văn của tôi được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân và bạn bè,
những người luôn kịp thời động viên, chia sẻ giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Hà Nội, tháng 12 nãm 2015
Tác giả



Lê Công Thành
Tôi xin cam đoan kết quả đạt được của luận văn là trung thực, chưa từng được
công bố trong các công trình nghiên cứu nào khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 12 năm 2015
Tác giả

Lê Công Thành


MỤC LỤC


5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Từ xưa tới nay đã có rất nhiều quan niệm về thơ của các nhà nghiên cứu phê
bình, các nhà lập pháp tư tưởng, các chính trị gia... Có một hiện tượng rất đáng được
chú ý nữa là các nhà thơ phát biểu quan niệm của mình về thơ.
Các nhà thơ có một phương tiện hữu hiệu nữa để phát biểu quan niệm về thơ của
mình - đó là phát biểu bằng thơ. Đây là cách phát biểu độc đáo. Độc đáo ở chỗ quan
niệm trừu tượng lại được diễn tả bằng hình thức ngôn từ đầy sức mê hoặc của thơ.
Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên là ba nhà thơ lớn. Trong hành trình thơ ca
của mình, họ gửi gắm rất nhiều những suy ngẫm, trăn trở về thơ, về sứ mệnh của văn
chương, về nghề viết.
Việc nghiên cứu quan niệm về thơ trong thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan
Viên, không chỉ thấy ý thức về văn học của một thế hệ nhà văn Việt Nam mà còn giúp

ta hiểu sâu sắc hơn những tác phẩm cụ thể của các nhà thơ này, đặc biệt là các bài thơ
được lựa chọn ở trường phổ thông.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.
2.1.

Tố Hữu là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng. Sáng tác của ông trở thành đề
tài thu hút công sức nghiên cứu đông đảo giới phê bình. Trước hết phải nói đến
chuyên luận Thơ Tố Hữu của tác giả Lê Đình Kỵ, xuất bản lần đầu vào năm 1979.
Đây có thể coi là công trình đầu tiên nghiên cứu về thơ Tố Hữu một cách hệ thống,
toàn diện cả về nội dung và nghệ thuật. Tác giả Lê Đình Kỵ nghiên cứu thơ Tố Hữu
qua các tập thơ: Từ ấy (1937-1946), Việt Bắc (1946-1954), Gió lộng (1955-1961), Ra
Trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977). Tác giả đã khái quát những chủ đề lớn
trong thơ Tố Hữu như: chủ đề về Nhân dân - Đất nước - Đảng - Lãnh tụ. Những đặc
điểm phong cách tư tưởng - nghệ thuật trong sáng tác của nhà thơ lãng mạn cách
mạng - trữ tình cách mạng, phong cách dân tộc đậm đà ...Có thể nói Lê Đình Kỵ, đã
có những đánh giá hết sức khái quát, toàn diện về thơ Tố Hữu. Chuyên luận của ông
rất có ý nghĩa trong đời sống phê bình, nghiên cứu văn học. Tác giả của chuyên luận
buớc đầu tiếp cận thơ Tố Hữu về phuơng diện xã hội học là chủ yếu.


6

Tác giả Hà Minh Đức với công trình giới thiệu, phê bình Tố Hữu Cách mạng và
Thơ (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2004) tập hợp tất cả các bài viết của tác giả trong
khoảng thời gian gần hai muơi năm. Phần Trò chuyện và ghi chép về thơ có ý nghĩa
nhu một món quà của nhà thơ với bạn đọc mà tác giả Hà Minh Đức là nguời trực tiếp
lắng nghe và ghi chép đầy đủ. Trong công trình này Hà Minh Đức có những khái quát
lớn về đời thơ Tố Hữu. Ông đánh giá Tố Hữu là “một tài năng thơ ca thuộc về nhân
dân và dân tộc’’[ 14, tr.73], nêu bật đuợc sáng tác và thành tựu qua những chặng
đuờng thơ. Trong phần Tiểu luận văn học, tác giả có lời giới thiệu tập thơ Ta với ta của

Tố Hữu. Ông khẳng định: “Trên sáu muơi năm đã qua những dong thơ Tố Hữu vẫn đi
vào cuộc đời, vẫn giữa sức lay động và niềm tin ở con nguời, vẫn là giá trị tinh thần
cao đẹp gắn bó với đất nuớc và niềm tin ở con nguời, vẫn là những giá trị tinh thần
cao đẹp gắn với đất nuớc và nhân dân” [14, tr.235]. Qua công trình Tố Hữu cách mạng
và thơ, tác giả Hà Minh Đức góp phần vào giới thiệu, nghiên cứu các sáng tác của Tố
Hữu.
Nếu nhu Lê Đình Kỵ khai thác về nội dung, nghệ thuật thơ Tố Hữu về mặt chủ
đề, đề tài, về những nét trong phong cách nghệ thuật theo phuơng diện xã hội học thì
Trần Đình Sử lại huớng đến tiếp cận thơ Tố Hữu ở góc độ khác, góc thi pháp. Chuyên
luận Thi pháp thơ Tố Hữu đuợc xuất bản lần đầu tiên vào năm 1987 (NXB Hội Nhà
Văn), tái bản năm 1995 (NXB Giáo dục). Trong chuyên luận này Trần Đình Sử khẳng
định: “Hình tuợng không gian quan trọng nhất, đóng vai trò xuyên suốt trong thế giới
thơ Tố Hữu là con đuờng cách mạng. Hình tuợng con đuờng có thể nói là đặc điểm
chung của thơ ca cách mạng Việt Nam và thơ các cách mạng thế giới.
2.2.

Trong bài viết “Chế Lan Viên - một tâm hồn thi sĩ, một chân dung văn hóa”,
Vũ Tuấn Anh có tham vọng dựng lại “chân dung văn hóa” Chế Lan Viên. Những quan
niệm về thơ qua thơ thành một minh chứng cho bản chất“thi sĩ đích thực”, “khuôn mặt
văn hóa” của Chế Lan Viên. Tác giả khẳng định: “Thơ nhu một phuơng tiện thể hiện
nhung đồng thời cũng là một đối tuợng để ông tìm hiểu chiêm nghiệm và cũng chính
qua đấy, một lần nữa, bộc lộ tròn đầy bản chất thi sĩ”. Mặt khác: ‘‘Dưới hình thức
những đoạn thơ ngắn, những câu thơ có vẻ ‘‘ngẫu hứng”, “ghi vội” này là lý luận về


7

thơ, là kinh nghiệm tích lũy, là thể hiện mạnh dạn của một nhà thơ đã hơn 40 năm cầm
bút nghĩ rất nhiều về khía cạnh của nghề”.
Quan tâm đến quan niệm nghệ thuật Chế Lan Viên, đặc biệt những quan niệm

viết bằng thơ của Chế Lan Viên còn có chùm bài viết của PGS-TS Đoàn Trọng Huy:
Suy nghĩ về quan niệm thơ, quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên (TC Khoa học
ĐHSPHN số 2 /2002), Đôi điều về quan niệm nghệ thuật của Chế Lan Viên (TC
Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật số 3/1993), Chế Lan Viên - Nhà văn hóa (TC Nghiên
cứu văn hóa nghệ thuật số 5/1993), Người một đời nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ...
(TB Khoa học ĐHSPHN số 2/2002) với những suy nghĩ sâu sắc: ‘‘Quan niệm về thơ
của Chế Lan Viên cần được khảo sát, đối sánh trên hệ thống lớn các quan điểm thơ cổ,
kim, đông,tây nhằm chủ yếu để theo dõi khẳng định sự tiếp biến, phát triển một quan
niệm thơ tiến bộ,giàu cá tính sáng tạo” [30, tr.16]. ‘‘Thơ với ChếLanViên là một niềm
đam mê, nỗi ám ảnh mãnh liệt của một đời. Thơ với Chế Lan Viên không chỉ là một
đối tượng thẩm mĩ mà là còn là một đối tượng để phân tích và suy nghiệm. Ông đặt
thơ trong các hệ thống, các mối qua hệ với sự gắn bó hữu cơ và tương tác” [30, tr.17].
‘‘Trong các nhà thơ Việt Nam hiện đại, anh là người đã tưng viết nhiều nhất, bằng thơ
và cả văn xuôi, về quan niệm thơ, về nghề thơ trong đó có những vấn đề đi sâu vào
phép tắc và kĩ thuật thơ”[29]... Trong chùm bài này, chúng tôi đặc biệt chú ý đến bài
viết ‘‘Chế Lan Viên - Lý luận thơ tỏa sáng bằng hình tượng” (Văn nghệ công an
21/7/2007). Bài viết đưa ra một cái nhìn toàn diện: Từ nội dung: ‘‘Dần dần anh viết
thơ về thơ với tất cả mọi phương diện, với một khối lượng khá nhiều, có thể tập hợp
thành một hệ thống ký luận về thơ bằng thơ”, tới những yêu cầu về hình thức: Viết về
thơ cũng có một yêu cầu của một bài thơ bình thường: Hình tượng đẹp, từ ngữ và hàm
súc và có sức gợi, vần điệu thể hiện ý tưởng tình cảm, và phải có tứ như một bài thơ,
dẫu bài thơ ấy có nhiều câu hay chỉ hai câu. Có thế thơ về thơ mới có giá trị”. Đe cập
và giải quyết trực diện vấn đề phải kể tới tham luận ‘‘Thơ về thơ của Chế Lan Viên”
của Hồng
Diệu (Tạp chí Văn hóa văn nghệ công an số 7, 1999). Qua bài viết này, Hồng Diệu
nhận định thơ về thơ ‘Tà một phần trong sự nghiệp văn chương của anh (ChếLan


8


Viên), một sự nghiệp mà tác phẩm thể hiện rất rõ tính phức điệu đa dạng của một cá
tính sáng tạo thực sự độc đáo”.
2.3.

Mặc dầu ngay từ khi mới xuất hiện trên thi đàn, Xuân Diệu đã lọt vào ‘‘mắt
xanh” của những người tên tuổi có uy tín trong giới văn nghệ sĩ,nhưng nhìn chung các
bài viết mới chỉ đánh giá cao vị trí hàng đầu của Xuân Diệu đối với phong trào thơ
mới ở những góc độ cách tân, sáng tạo đặc sắc về cả ‘‘hồn” và ‘‘xác” trong thơ chưa
đề cập đến về quan niệm thơ Xuân Diệu.
Thế Lữ người đi tiên phong của phong trào thơ mới, trong bài viết đầu tiên giới
thiệu Xuân Diệu năm 1937, tuy có những nhân xét xác đáng biểu hiện sự trân trọng
đối với tài năng nhưng cũng chỉ ở góc độ ngợi ca cái đặc điểm riêng trong thơ Xuân
Diệu, Thế Lữu viết: ‘‘Thơ của ông không phải là ‘‘văn chương” nữa đó là lời nói, là
tiếng reo vui hay năn nỉ, là sự chân thành cảm xúc, hoặc là những tình ý rạo rực biến
lẫn trong những thanh âm, Xuân Diệu, nhà thi sĩ của tuổi xuân, của lòng yêu và ánh
sáng”. Năm 1938, trong lời tựa tâp Thơ thơ, Thế Lữ vẫn tiếp tục dành những lời nồng
nhiệt ngợi ca Xuân Diệu những cũng chỉ về những đặc điểm của hồn thơ Xuân Diệu
‘‘Thơ thơ là cụm đầu mùa chăng tặng cho nhân gian. Và từ đây, chúng ta có Xuân
Diệu. Loài người hãy hiểu con người ấy” [52, tr.12].
Giáo sư Hà Minh Đức trong “Những chặng đường thơ Xuân Diệu” in trong
Xuân Diệu về tác giả, tác phẩm phần thơ trước cách mạng sau khi phân tích, thẩm
bình đặc điểm kỳ diệu, tinh vi trong sáng tạo hình tượng, cảm xúc thơ đã đi đến kết
luận: ‘‘Xuân Diệu là nhà thơ của cuộc đời mới. Từ cách cảm nghĩcho đến những rung
động trong thơ đều mang màu sắc hiện đại” [52, tr. 169] và chính Xuân Diệu đã đưa:
‘‘Thơ mới lên ngôi trên thi đàn với khuôn mặt trẻ trung, tươi thắm và hấp dẫn chưa
từng có”. Sang phần thơ sau cách mạng ngoài việc phân tích những đóng góp lớn lao
của Xuân Diệu trong việc hòa mình vào quần chúng, vào hiện thực vĩ đại của dân tộc,
phản ánh không khí sôi nổi cuộc sống mới, con người mới, giáo sư đi đến kết luận
“trong nhiều thập kỷ phát triển của những chặng đương thơ cách mạng, Xuân Diệu đã
chín lại với thực tế mới và nguồn thơ đã tỏ ra dào dạt, sung sức” [52, tr.191].

Theo tác giả Lý Hoài Thu, trong ‘‘Thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8-


9

1945”. Trong chuyên luận này tác giả Lý Hoài Thu đã chỉ rõ: ‘‘Xuân Diệu là người có
hệ thống quan niệm tương đối hoàn chỉnh về mục đích vai trò của sáng tạo nghệ thuật,
mặc dầu có lúc ông đã tự mâu thuẫn giữa lời tuyên ngôn với quá trình sáng tác’’[56,
tr.20]. Tác giả còn đưa ra một luận điểm có sức thuyết phục là: Việc khẳng định quan
niệm về sự tồn tại cá nhân, của ‘‘cái tôi” nghệ sĩ đã quyết định và chi phối hệ thống
quan niệm nghệ thuật của chính nhà thơ. Tác giả đã phân tích và lý giải chứng minh
cụ thể không chỉ ở lý luận mà còn trong cả thực tiễn sáng tác. Chẳng hạn khi tác giả
cho rằng: ngoài ‘‘Lời đưa duyên” cho tập ‘‘Thơ thơ” Xuân Diệu còn có hai bài thơ bộc
lộ quan điểm sáng tác của Xuân Diệu. Đó là hai bài ‘‘Cảm xúc”, ‘‘Lời thơ vào tập gửi
hương”.
Những công trình nghiên cứu này phát biểu về thơ qua tiểu luận, phê bình,phát
biểu về thơ được viết trong thơ. Đây là những gợi ý để tôi thực hiện đề tài, nghiên cứu
quan niệm về thơ trong thơ của Tố Hữu, Xuân Diệu, ChếLan Viên. Chọn đề tài quan
niệm về thơ trong thơ của Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Tố Hữu, người viết tiếp tục
hướng đi của các nhà nghiên cứu trước đó với mong muốn thông qua luận văn này
chúng tôi mong muốn có một cái nhìn hệ thống cùng một số ý kiến riêng, đóng góp sự
nghiên cứu chung trên cơ sở học hỏi, kế thừa kết quả lâu nay của giới nghiên cứu.
3. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM vụ, PHẠM VI NGHIÊN cứu.
Luận văn này tập chung tìm hiểu quan niệm về thơ qua thơ củaT0 Hữu, Xuân
Diệu, Chế Lan Viên. Phần khảo sát là mảng thơ về thơ. Nói một cách chung nhất đó là
những vần thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên viết về nghề thơ, nhà thơ, về nghệ
thuật làm thơ... Nó có thể là nằm trong những bài thơ mang chủ đề khác, có khi là
riêng một bài thơ ngắn chỉ một vấn đề của thơ, có khi cả những bài thơ dài với nhiều
vấn đề của thơ được ngắt thành nhiều đoạn nhỏ ...
Văn bản được chúng tôi sử dụng được rút từ các nguồn chính là:Chế Lan Viên

toàn tập I, II (Nxb Văn học, 2002), Xuân Diệu tập I (Nxb Văn học, 1983), Xuân
Diệu toàn tập II, III, IV (NxbVăn học 2001), Xuân Diệu, Công việc làm thơ (Nxb Văn
học 1984), Thơ Tố Hữu (Nxb Giáo dục, 1994).
Những quan niệm thơ qua thơ được chúng tôi chú trọng tìm hiểu ở cả hai


1

phương diện: về nội dung, đó là những chiêm nghiệm về thơ, về nghệ thuật, chúng tôi
đi sâu khám phá những hình thức biểu hiện quan niệm nghệ thuật bằng thơ, sử dụng
đặc trưng thơ như vũ khí khi sắc bén khám phá bản chất của chính nó.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu
-

Phương pháp đối chiếu so sánh

-

Phương pháp hệ thống

-

Phương pháp phân tích tác phẩm

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn phân tích, đánh giá, tổng kết các quan niệm về thơ trong thơ Tố Hữu,
Xuân Diệu, Chế Lan Viên.Việc nghiên cứu quan niệm về thơ trong thơ của ba nhà thơ
lớn không chỉ giúp ta thấy được ý thức về văn học của một thế hệ nhà văn Việt Nam
mà còn giúp ta hiểu sâu sắc hơn những tác phẩm cụ thể của Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, đặc biệt là các bài thơ được lựa chọn ở trường phổ thông.

6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn chúng tôi được triển khai thành 4
chương lớn:
Chương 1: Nhà thơ và phương thức thể hiện quan niệm về thơ trong thơ Chương
2: Quan niệm về thơ trong thơ Tố Hữu.
Chương 3: Quan niệm về thơ trong thơ Xuân Diệu Chương 4: Quan niệm về
thơ trong thơ Chế Lan Viên


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHÀ THƠ VÀ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN
1
QUAN NIỆM VỀ THƠ TRONG THƠ
1.1.

Thể loại thơ và hình thức ngôn luận trong thơ

1.1.1.

Đặc trưng thơ.
Thơ là sự thổ lộ tình cảm mãnh liệt đã được ý thức. Đặc trưng nổi bật nhất của

thơ. Vần, nhịp đều cần cho thơ nhưng chưa phải bản chất của thơ. Trong mỹ học,
Hêgel viết “Đối tượng thơ không phải là mặt trời, núi non phong cảnh, cũng không
phải là hình dáng và các biểu hiện bên ngoài của con người, máu thịt, thần kinh....Đối
tượng thơ là hứng thú tinh thần”. “Nhiệm vụ chính của thơ là gợi lên cho ý thức nhận
thấy sức mạnh của cuộc sống tinh thần và tất cả những gì lay động ta, làm xúc cảm
trong các duy vọng và tình cảm nhân tính”.[45, tr.256]. Thơ là biểu hiện các xúc cảm
nội tâm, những tình cảm, cảm nhận con người trước sự việc. Nhà thơ
ChiLêPaloNerudu cũng nói: “Làm thơ phải có tình cảm mãnh liệt”. Tình cảm là sinh

mệnh của thơ.Tình cảm mãnh liệt ở đây có nghĩa là nhà thơ phải sống rất sâu vào tâm
hồn mình, lắng nghe cái xác động trong tâm hồn mình, đau đớn sướng vui với những
gì trong ấy. Nhà thơ Cuba JoseMarti nói: “Thiếu tình cảm thì có thể trở thành người
thợ làm những câu có vần, chứ không làm được nhà thơ”. Lê Qúy Đôn từng nói: “Ta
cho thơ ba điều chính: một tình, hai cảnh, ba sự”. Trước hết là tình, tình nảy sinh ra
cảnh và sự. Vì vậy tình cảm trong thơ là tình cảm lớn, tình cảm lớn, tình cảm đẹp, cao
thượng thấm nhuần bản chất nhân văn, chính nghĩa. Tình cảm tầm thường không làm
nên thơ. Như vậy một tình cảm mãnh liệt được ý thức, siêu thoát, không lệ thuộc vào
đối tượng miêu tả cụ thể, làm cho thơ trở thành nghệ thuật đẹp, nghệ thuật tự do nhất
của các nghệ thuật.
Neu tình cảm là sinh mệnh của thơ thì tưởng tượng là đối cánh của thơ. Tưởng
tượng là hành động tâm lý phân giải, tổ hợp các biểu tượng đã có thể tạo ra hình tượng
hoàn toàn mới. Thơ không xây dựng các hình tượng khách thể như nhân vật trong
truyện hay kí mà xây dựng hình tượng của bản thân dòng ý thức, cảm xúc đang diễn


ra, vì thế tưởng tượng ở đây chủ yếu là liên tưởng, giả tưởng, huyền tưởng. Như trong
bài “Bẽn lẽn” của Hàn Mặc Tử:
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

1

Đợi gió đông về để lả lơi Hoa lá
ngây tình không muốn động Lòng e
hồi hộp chị Hằng ơi.
Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên cũng mở đầu bằng một
thoáng hoang tưởng:
Con tàu này lên Tây Bắc anh đi chăng.
Hegel nói trong thơ có sự tự biểu hiện của chủ thể. Thơ bao giờ cũng tự biểu
hiện cái tôi của tác giả của nó, dù nhà thơ có ý thức điều đó hay không. Thơ là gương

mặt riêng của mỗi con người. Thơ gắn liền với ý niệm về cái tôi thi nhân của nhà thơ
là điều hiển nhiên. Đối với các nhà thơ lãng mạn thì cái tôi là một nguyên tắc cơ bản
của thơ. Nhà thơ nào cũng đặt nhiệm vụ đi tìm biểu hiện cái tôi: “Tôi làm con nai
chiều bị đánh lưới”, “Tôi là một cô hồn”, “Tôi là một chiếc thuyền say”, “Tôi là khách
bộ hành phiêu lãng”, “Tôi là kẻ lạc loài”...Cái tôi là yếu tố tất yếu để chiếm lĩnh đời
sống, nhưng không có nghĩa rằng cái tôi chính là nội dung của thơ. Nội dung của thơ
phải mang ý nghĩa nhân loại. Thơ cần tình cảm, nhưng tình cảm trong thơ không phải
là tình cảm cá nhân, mà là tình cảm xã hội, nhân loại, nhưng cá nhân tạo nên ác tính
cho tình cảm ấy. Cái tôi trong thơ là một vũ trụ riêng, khác với cái tôi thực tại của nhà
thơ. Cái tôi này là trong tâm giá trị thẩm mĩ, là cái tôi thứ hai của nhà thơ.
Điều đặc biệt trong nội dung thơ là chất của thơ. Người xưa thường nói chất thơ
nằm ở ngoài (ý tại ngôn ngoại). Thơ không nói ở những điều nó viết ra, mà nói ở
những chỗ trống không viết ra, ở chỗ trống, chữ im lặng giữa các câu chữ, các lời. Cái
ý nghĩa có tình thơ là nghĩa ngoài lời, ngoài hình ảnh, do chính lời và hình ảnh gợi lên.
Nhà mĩ học Pháp là Jacques Maritain có viết: “Cái giá trị ý niệm hàng đầu, cơ bản
nhất của thơ là cái ý nghĩa mang tính thơ. Bởi vì ý nghĩa mang tính thơ gần gũi nhất
với cội nguồn sáng tạo một thứ ý nghĩa trong bầu trời đêm của trực giác khi khái niệm
biểu thị trực tiếp và ý thức chủ quan của nhà thơ” [48, tr.265].


Thơ biểu hiện bằng biểu tượng, mang các ý tượng, hình ảnh ngụ ý. Hegel nói:
“Thơ cũng như nhạc đều xây dựng trên nguyên tắc dùng nội cảm để tri giác nội cảm”,
1 kiến trúc, trong điêu
Trần Đình Sử nhấn mạnh “tức là một nguyên tắc không có trong
khắc và trong hội họa. Hơn thế nữa, thơ còn mở rộng đến mức độ dùng các biểu
tượng, các trực giác và các tình cảm bên trong đặng dựng lên một thế giới quan”[45,
tr.266]. Có thể nói thơ là nghệ thuật của biểu tượng, là cái làm nên giá trị họa của thơ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông chăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?
(Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử)
Biểu tượng cho phép thơ không phải kể lể, không chạy theo tính liên tục bề
ngoài, mà nắm bắt thẳng những hình ảnh nổi bật nhất, cô đọng nhất, giàu hàm ý nhất
củ đời sống vào mục đích biểu hiện. Các biểu tượng trong thơ nảy sinh nhờ sức liên
tưởng, tưởng tượng, sáng tạo mạnh mẽ của thơ.
Trong thơ còn chú ý đến ngôn từ thơ. Ngôn từ thơ là ngôn từ được cấu tạo đặc
biệt. Trước hết, đó là ngôn từ có nhịp điệu. Tiếng nói trong thơ là tiếng nói đầy âm
nhạc, tiếng nói có nhịp điệu - nhịp điệu của âm thanh vật chất của tiếng nói con người
và nhịp điệu của ý nghĩa. Những câu thơ đầu tiên trong bài thơ “Đất Nước” của
Nguyễn Đình Thi là một ví dụ sinh động cho điều này:
-

Sáng mắt trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới

-

Cỏ mòn thơm mãi dấu chân

-

Gió thơ mùa thu và Hà Nội

-

Phố dài xao xác heo may

-


Nắng soi ngõ vắng
Thềm cũ ra đi lá rụng đầy
(Sáng mắt trong như sáng năm xưa)

Ngôn từ thơ không có tính liên tục và tính phân tích như ngôn từ văn xuôi,
ngược lại nó có tính nhảy vọt, gián đoạn, tạo thành những khoảng lặng giàu ý nghĩa:


Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non Chén
rượu hương đưa say lại tỉnh Vừng

1

trăng bóng xế khuyết chưa tròn Xiên
ngang mặt đất rêu từng đám Đâm toạc
chân mây đá mấy hòn
(Tự Tình II - Hồ Xuân Hương)
Ngôn từ thơ không phải là ngôn từ tuyến tính mà là ngôn từ phức hợp:
Trăng nhập vào giây cung nguyệt lạnh,
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lạnh, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
(Nguyệt Cầm - Xuân Diệu)
Ngôn từ thơ giàu nhạc tính với những âm thanh luyến thanh, những từ ngữ
trùng điệp, sử dụng các biện pháp tư từ: ẩn dụ, nhân hóa, so sánh.............sự phối hợp
bằng trắc với những cách ngắt nhịp có giá trị gợi cảm:
Câu thơ hiền như nước Xanh như

Lác đác mây chiều ngơ ngác trôi

(Ngoảnh lại - Lâm Thị Mỹ Dạ)
Nhạc điệu trong thơ là nhạc của cảm xúc tâm hồn như trong bài thơ “Vội Vàng”
của Xuân Diệu:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn Ta
muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu Ta
muốn thâu trong cái hôn nhiều
Và non nước, và cỏ cây, và cỏ rạng,


Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
1
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
Nhạc điệu thơ rất đa dạng, tương ứng với sự đa dạng của cảm xúc dâng trào.
1.1.2.

Hình thức ngôn luận trong thơ.
Ngôn luận trình bày những quan niệm của nhà văn trong tác phẩm của mình

bằng nhiều các hình thức khác nhau như: tiểu luận, phê bình, văn xuôi, thơ, kí, tự sự...
dưới các hình thức như trực tiếp hay phát biểu qua các hình tượng, tác phẩm nghệ
thuật.
Trong truyện ngắn “Phấn thông vàng” của Xuân Diệu. Ngay từ lời nói đầu
truyện Xuân Diệu viết: “Người viết văn đem ghi lại sự đã xảy ra, nhưng viết xong họ
thấy rằng họ chỉ ghi chép những âm điệu của lòng mình. Mà câu chuyện vẫn còn ở đó
để làm vì để lấy cớ ! Câu chuyện cũng giống như cái giá để áo, một cài giàn hoa ...Kể
gì cái truyện ! Miễn là có ý tưởng chảy thành tràng giang, nhưng tình cảm chảy ra,

một bóng chiều ôm ấp một trái đủ gợi trăm truyện trong cõi sống bên trong. Tâm hồn
người có biết bao nhiêu là truyện ... Truyện chỉ là đời, mà đời phải nhường chỗ cho
mơ, cái bên ngoài lùi lại sau nội tâm, sau nỗi lòng”.
Truyện ngắn “Đời Thừa” nhà văn Nam Cao đã thông qua nhân vật Hộ, nhà văn
giàu khát vọng nhưng đồng thời cũng là một tuyên ngôn nghệ thuật. Qua nhân vật Hộ,
Nam Cao đã gửi gắm những suy tư về những quan niệm sâu sắc của mình về nghề viết
văn và sứ mạng của người cầm bút, ông viết “Văn chương không cần những người thợ
khéo tay làm, theo một vài kiểu khuôn mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được
những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những gì chưa ai có”.
Ở mảng văn xuôi Xuân Diệu cũng có tác phẩm “Chú lái khờ” để bộc lộ quan
niệm về nghệ sĩ “Thi sĩ ghé vào dân gian trọ một vài đêm, tìm đôi an ủi ...Và họ lấy
chưa vừa ủ, thì người thi sĩ trẻ tự tay lấy vào cái lõi sống còn của mình, để mà phân
phát”.


Chế Lan Viên cũng có một tập bút ký văn chương - triết luận như để hoàn
thành chân dung của nhà thơ đó là tập văn “Vàng sao”. Tập văn vừa chứa đựng những
1
kí thác, kỳ vọng của người thi sĩ trẻ mới bước vào địa hạt văn chương: “Trong ba chữ
tên rõ ràng cái nợ hồ của cả một đời kết đọng. Ta ngỡ đấy là một viên ngọc rạng ngời
và nó chói ngời lên cho đến hư vô” vừa thể hiện mong muốn xây dựng cá tính riêng,
tạo lập một cõi riêng trong văn giới: “Một kiếp sống phụng khai thần bút. Thế là cuộc
đời mở cửa, bao nhiêu sức mạnh trong sáng ùa ra, ruộng đất khởi sự cày bừa, sông
suối bắt đầu tuôn chảy”. Tập văn này “xuyên qua sự phức tạp và đầy tính trừu tượng
của ngôn ngữ tùy bút - triết lý, đây đó sáng lên những ý tưởng sâu sắc và độc đáo của
người thi sĩ trẻ nhất thơ mới. Lệ, Chiều tư tưởng, Trốn lửa, Đêm giao thừa, Tuổi vàng,
Khai bút ...mỗi bài là một mảng tâm tưởng, một lời tự thú, là những dằn vặt muôn đời
của người nghệ sĩ nhạy cảm hơn ai hết trong việc đi tìm lẽ tồn tại của con người”. [1,
tr.40]

ở trong tự sự, nhà văn thể hiện bằng cách thông qua nhân vật, tình huống, cốt
truyện...Nhà văn chú ý vào thân phận con người, tính cách của nhân vật như trong tác
phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Ông đã lấy con người làm đối
tượng phản ánh thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn
với cái chung, với cộng đồng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện quan niệm văn
chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong
phú trước hết phải là câu chuyện của con người. Nguyễn Minh Châu đã thông qua
nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người lính xưa giờ là phóng
viên trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất
nước, đi tìm vẻ đẹp bí ẩn của màn sương buổi sáng cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh. Thế
nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình nhận ra
một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân lam lũ. “Cuộc sống cứ lênh đênh
khắp cả một vùng phá mêng mông. Cưới xin, sinh con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng
chỉ trên một chiếc thuyền”. Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người
phải ngỡ ngàng, thông qua nhân vật người đàn bà làng chài, Nguyễn Minh Châu chỉ rõ


cho chúng ta: Cách mạng không phải là giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều,
con người phải đối diện với những bi kịch của đời mình, dung hòa với nó. Chính
1
Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những đường tròn
đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo văn nghệ).
Nguyễn Minh Châu còn xây dựng biểu tượng được thể hiện rất rõ trong tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa” như đặt tên nhân vật là người đàn bà làng chài và đến biểu
tượng trọng tâm là chiếc thuyền ngoài xa, chiếc thuyền ngoài xa hay là sự bất khả thi,
là một hiện thực khác nhau chìm khuất sau những điều chúng ta có thể kiểm soát và
kiểm chứng được ? Chiếc thuyền ngoài xa mãi mãi là khát vọng tìm kiếm, với tới để
níu giữ, để nhìn lại. Khi chiếc thuyền vẫn còn ở ngoài xa, những định giá huyễn tưởng
về nó vẫn nằm trong một lớp xương mờ mờ mà thôi. Nguyễn Minh Châu từng phát
biểu “Sáng tác văn học là quá trình đi tìm hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn con

người”.
Ngoài tự sự, kí, văn xuôi ...thì trong kịch thì nhà văn xây dựng bi kịch để thể
quan niệm của mình như trong vở kịch “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đà” của Nguyễn Huy
Tưởng đã xây dựng hình tượng Vũ Như Tô một người nghệ sĩ có tài, một kiến trúc sư
tài hoa nhưng rơi vào bi kịch xuất phát từ nhận thức và hành động mù quáng, lầm lạc
không hiểu được hoàn cảnh cụ thể. Khát vọng nghệ thuật của Vũ Như Tô lớn lao
nhưng tách khỏi hiện thực cuộc sống, đi ngược lại quyền lợi thiết thực và trước hết
của nhân dân. Do đó, người nghệ sĩ phải trong lòng cuộc sống, trên lập trường của
nhân dân. Tác phẩm nghệ thuật không thể chỉ mang cái đẹp thuần túy, nó phải có mục
đích chân chính là phục vụ nhân dân, phục vụ cuộc đời. “Văn chương không chỉ là
văn chương mà thực chất là cuộc đời là nơi xuất phát và là nơi đi tới của văn chương”.
Thơ có lẽ là một trong những lĩnh vực nghệ thuật hấp dẫn vừa mời gọi những
đào sâu tìm tòi lại như cách thức cần phải vượt qua. Quan niệm về thơ xưa nay xuất
hiện nhiều với những hình thức đặc biệt phong phú. Song thơ lại là lĩnh vực mơ hồ,
khó nắm bắt, đôi khi chỉ có thể cảm nhận về nó mà không sao diễn đạt được. Đây
chính là hình thức nhưng đồng thời cũng lại là sức hấp dẫn riêng của thơ. Ở khía cạnh


này, quan niệm về thơ được biểu hiện bằng thơ chính là cách nhìn, một tiếng nói riêng
độc đáo. Thơ ở dạng ý tưởng trìu tượng mà được diễn đạt bằng hình thức thơ dưới các
1
hình thức như dùng hình ảnh, biểu tượng, dùng các biện pháp nghệ thuật tu từ, tứ thơ
hay nhạc tính để diễn đạt ý thơ.
Trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên trùng điệp các hình ảnh
biểu tượng trong đó nổi bật nhất là biểu tượng con tàu và biểu tượng Tây Bắc: Đất
nước mêng mông đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi sao chửa ra đi Chẳng có thơ đâu
giữa lòng đói khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia.
Hay:
Ôi chim én bay không chim én Đến
những đảo xa đến những đảo mờ ở đâu

chưa đi thì lòng anh sẽ đến Lúc trở về
lòng ngậm những cành thơ.
Tố Hữu cũng mượn hình ảnh cánh chim để nói về người chiến sĩ cộng sảncòn rất
trẻ bị bỏ trong lồng một cái nhà lao, muốn phá nát nhà tù của bọn thực dân để được tự
do đó là bầu trời cao rộng:
Tôi chỉ làm một con chim non bé nhỏ
Vứt trong lồng giữa một lồng to Chuyển
đời quanh theo tiếng gọi tự do Tôi chỉ
một muôn người chiến đấu vẫn đứng
thẳng trên đường đầy lửa máu
(Tâm tư trong tù)
Ngoài mượn các hình ảnh biểu tượng để diễn tả ý thơ, các nhà thơ còn đặc biệt
chú ý tới việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ như: ẩn dụ, so sánh, nhân
hóa ...để diễn tả ý thơ. Bài thơ “Viết” của Phan Huyền Thư sử dụng biện pháp lặp từ
“viết” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong một bài thơ để trải lòng mình cùng câu chữ,
cho tìm đến bến đỗ bình yên:
Viết
Buồn thành mưa Trút vào giếng đầy


lên ...Viết
Buồn thành gió Lang thang cánh
1

đồng ....Viết
Nỗi buồn của tôi thành tình yêu của anh
Tình yêu vô sinh
Nỗi buồn thụ tinh ý nghĩ
Viết
Viết

Viết đi, chữ không còn là chữ Viết chỉ
như ý nghĩ Lách qua khe cửa hẹp trong
đầu Vội vã ùa về với lẻ sầu Âm u lòng
mẹ
Khao khát được ngủ yên như thế
Không phải ra đời
Viết nỗi sống buồn của tôi

Hoàng Tố Nguyên đã dùng biện pháp nghệ thuật so sánh để ví thơ của mình
như chiếc hôn dầu:
Thơ tôi như chiếc hôn dầu Gò
Công yêu dấu, đâu nào má em?
(Gò Me - Hoàng Tổ Nguyên)
Hay:
Câu thơ hiền như nước Xanh như lá
Lác đắc mây chiều ngơ ngác trôi
(Ngoảnh lại - Lâm Thị Mỹ Dạ)
Trần Quang Long - một cây bút sinh viên Sài Gòn cũng sử dụng biện pháp nghệ
thuật tu từ so sánh để nói lên nhận thức của mình, đồng thời cũng là lớp lớp tuổi trẻ
miền Nam trong trách nhiệm với non sông Lạc Hồng:
Con sẽ vuốt nhọn thơ thành chông
Xuyên vào gan lũ giặc
Con sẽ mài thơ như kiếm sắc


Con xin nguyện trọn đời Dùng chính
quả tim làm trái phá Sống chết một
2

lần thôi


(Thưa mẹ, Trái tim - Trần Quang Long)
Các nhờ thơ còn sử dụng những câu hỏi tu từ để diễn tả sự ngơ ngác đến giật
mình của chính bản thân nhà thơ:
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu Ai đem
tôi bỏ dưới trời sâu?
(Những giọt lệ- Hàn Mặc Tử)
Việc sử dụng các hình ảnh biểu tượng và biện pháp tu từ nhằm diễn đạt ý nghĩa
của thơ, các nhà thơ còn dùng tứ thơ để diễn tả ý niệm trong thơ. Trong “Buồm trăng”
của Xuân Diệu tứ thơ ở đây là “huy hoàng trong nỗi buồn thi sĩ” đã gợi ra những cảm
nhận chưa từng có về trăng của cái ngàn xưa trong cái nhìn hướng từ mặt đất:
Gà gáy sáng bay về, thi sĩ nhớ
Thương ai không biết buồm trăng
Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió
Xanh biếc trời cao bậc đất bằng
Hay trong bài thơ “Thơ duyên” là thi phẩm được đánh giá là “trong trẻo” trong
thế giới thơ của Xuân Diệu trước cách mạng. Song cái tứ là “chiều thu - người mối lái,
hòa duyên giữ vạn vật và lòng người”. Từ đó, có cuộc hòa thơ của tạo vật, có nhánh
duyên để cặp chim ríu rít, có sự hòa trộn của sắc xanh lá cây với bầu trời, có sự lan tỏa
lay động của mùa thu trong sự sống vạn vật:
Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chim chuyền Đổ trời
xanh ngọc qua muôn lá Thu đến nơi nơi
động tiếng huyền
Hơn thế âm nhạc trong thơ cũng là một trong những phuơng diện đặc biệt đuợc
các nhà thơ chú ý và đuợc mọi nguời thừa nhận không có nhạc điệuthì không phải là


thơ. Sóng Hồng viết: “Thơ là tình cảm của lý trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có
nghệ thuật. Tình cảm và lý trí ấy đuợc diễn đạt bằng hình tuợng đẹp đẽ qua những lời

2
thơ trong sáng vang lên nhạc điệu khác thuờng”. [27, tr.243]. Nhóm Xuân Thu nhã
tập, Đinh Hùng và nhóm Dạ Đài cũng rất chú ý đến nhạc điệu trong thơ. Các nhà thơ
tuợng trung cho rằng, để thế giới tiên nghiệm cần phải đem tinh thần âm nhạc vào thơ
ca. Câu thơ phải có nhạc điệu và âm huởng để đi sâu vào trực giác con nguời. Nhà thơ
Bích Khê xem nhạc là yếu tố hàng đầu, đem lại sự linh diệu cho thơ. Theo Bích Khê,
thơ phải gắn với nhạc:
Đàn và thơ kết thành dây tinh huyết Có
nguồn thơ trào vọt miếng phong trần
Cho ta xin ý điệu của tình cảm Là giãi
hết bí huyền nuơng bóng tối
(Ẩn mày, Tinh huyết)
Thơ và âm nhạc có sự kết hợp mật thiết với nhau đến mức Bích Khê gọi thứ thơ
là “đàn thơ”:
Đây đàn thơ ai sáng kiến cho ra?
Đây đàn từ điệu, sắp ngân nga Cho vàng
ngọc của hông va sảng sốt
(Cô gái ngây thơ, Tinh huyết)
Đây đàn thơ rất xốn sang Là đôi mắt
biếc của mơ màng
Mùa thu lướt mướt trong làn sóng
Run rẩy căm hờn nức nở than
(Châu, Tinh huyết)
Lưu Trọng Lư nhấn mạnh yếu tố âm điệu. Trong bức thư thứ nhất gửi lên Khê
Thượng cho Tản Đà tiên sinh, Lưu Trọng Lư viết: “....Cái điệu thơ có quan hệ đến bài
thơ. Sống trong cuộc đời mới mẻ, lòng thấy và cái tình cảm khác muốn diễn tả cho
hết, không thể không tìm đến những cái điệu rộng rãi, mềm mại hơn” [67, tr.185].


“Cái điệu rộng rãi, mềm mại hơn” mà thi nhân nói ở đây chính là nhạc điệu. Thơ là

‘Tâu đài của những âm vang” mà yếu tố đầu tiên tạo nên sức ngân vang của đài kỳ
2
diệu đó là nhạc điệu. Nhờ có nhạc điệu, mà thơ là một thể loại dễ đi vào lòng người và
neo lại đó như một cảm xúc rất riêng tư.
Thơ là gì? Điều đó thật khó trả lời. Chính vì thế mà thơ có sức hấp dẫn riêng cho
nên các nhà thơ diễn đạt thơ của mình bằng hình thức của thơ như dùng hình ảnh, biểu
tượng, các biện pháp tu từ, tứ thơ hay nhạc tính để diễn đạt ý thơ.
1.2.

Một số quan niệm về thơ Việt Nam.

1.2.1.

Một số quan niệm về thơ thời trung đại.
Ngay từ đầu thế kỷ XV, trong Lời tựa cho quyển ‘‘Việt âm thi tập”, Phan Phu

Tiên (đậu thái học sinh -1399) đã viết: “Tâm hữu sở chi tất hình ư ngôn, cố thi dĩ ngôn
chí dã” tức là. (Nếu trong lòng có chí hướng thì ắt thể hiện ra lời nói, cho nên thơ là để
nói nên cái chí của mình). Như vậy, quan niệm ‘‘Thi dĩ ngôn chí” trong văn học trung
đại Việt Nam đã được xuất hiện từ thế kỷ XV.
Quan niệm “Thi dĩ ngôn chí” xem mục đích của thơ không phải là ‘‘nhận thức và
phản ánh hiện thực”. Mà chủ yếu là để bộc lộ cái chí của mình. Cái chí ở đây cũng
muôn hình muôn vẻ, nó cỏ thể là cái tâm, cái hồn, cái mục dich, cái phong cốt ...của
con người, của lớp nho sĩ tri thức luôn ôm hoài bão “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ” hay nói như Nguyễn Công Trứ:
Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây Cho
phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển
Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rõ hơn nội dung của ẩn chí: “Có kẻ chí để ở đạo
đức, có kẻ chí để ở công danh, có kể chí để ở ẩn dật”. Phải chia và đề cập hơn từng
loại chí, Phùng Khắc Khoan lại viết: “Chí mà ở đạo đức thì tất là phát ra lời lẽ hồn

hậu,chí mà ở sự nghệp thì tất là nhả ra khí phách hào hùng, chí ở rừng suối, gò hang
thì thích giọng thơ liêu tịch, chí ở gió mây trăng tuyết thì thì thích vẻ thanh cao, chí ở
nỗi uất úc thì làm ra lời thơ ưu tư, chí ở niềm cảm thương thì ra điệu thơ ai oán”.
Lê Qúy Đôn còn coi thơ: “Thơ ca là việc làm khi nhàn rỗi của các bậc thánh


nhân”.Đồng thời ông bàn thêm về quá trình sáng tạo thơ.Trong “Lời đề tựa” của “Tân
Việt thi lục” ông viết: “ý thú tiên lập,từ tòng điêu chí” tức là:ý tứ lập trước còn từ điệu
2
theo sau. Ngôn ngữ thơ phải phục tùng ý đồ tư tưởng và quan niệm của tác giả.
Nguyễn Văn Siêu cũng đã từng quan niệm đúng đắn, và đầy sức thuyết phục về
chức năng và của văn học: “Văn chương có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ.
Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở văn chương”.
Trong thơ ca trung đại, “tư duy thơ không được quan niệm như là sự phát triển
tự do của trí tưởng tượng phóng túng, tài hoa mà là sự học tập theo khuôn phép cổ
nhân” [51, tr.39]. Cho nên một trong những đặc điểm cơ bản của thơ ca trung đại là
mang tính ước lệ, tượng trưng với dày đặc các điển tích, điển cố. Lê Qúy Đôn viết:
“Nếu muốn học làm thơ, tất phải theo cổ nhân từng bước, lấy đáy làm khuôn mẫu, ra
công mài giũa lâu ngày, tự nhiên phép luật và âm vận hợp thơ cổ” [51, tr.39].
Với quan niệm‘‘sùng cổ” lấy cổ nhân làm khuôn vàng thước ngọc cho nên thơ bị
trói buộc bởi nguyên tắc, quy chuẩn hà khắc. Nhà thơ khi sáng tác phải hết sức giữ gìn
thận trọng trong dùng chữ, đặt câu, luyện ý. Lê Hữu Kiều viết: “Này, làm thơ, nên lập
ý không linh hoạt thì mắc vào việc phù phiếm, luyện cách điệu không trang nhã thì
mắc vào bệnh quê mùa, đặt câu không sắc sảo thì mắc vào bệnh thô lỗ, kém cỏi, dùng
chữ không âm hưởng thì mắc vào bệnh tầm thường, tục tằn”. Mang ý nghĩa tiến bộ,
quan niệm “Thi dĩ ngôn chí” coi thơ cũng là sản phẩm tinh thần gắn liền với chue thể
sáng tạo. Bởi thế, thơ đôi khi là sự phản ánh trực tiếp những tình cảm, tâm trạng cá
nhân ở từng thời điểm nhất định. Các bài thơ “Cảm tác”, ‘‘Ngôn hoài ”, “Tức cảnh” là
một minh chứng cho thực tế trên. Nhưng nhìn chung, người xưa vẫn quan niệm thơ là
một công cụ để gióa huấn đạo đức, gũi gìn phong hóa, kỉ cương,tôn trọng trật tự xã

hội. Quan niệm ấy là cơ sở cho mỹ lệ hóa thơ ca, đè cao thơ, rằng “ngắm” thơ “nếm”
thơ không thể bằng con mắt khẩu với thông thường. Khi khen thơ hay, Nguyễn Du
thường dùng “tú khẩu”, “cẩm tâm”, “Lời lời châu ngọc”, “Hàng gấm thêu”... Như vậy
người xưa quan niệm, thơ là một đặc sản tinh thần cao quý dùng để bày tỏ tình cảm,
để tặng cho nhau. Họ “coi thơ là phương tiện truyền âm và gián tiếp rất cao sang của


những người có học. Thơ cũng là công cụ hóa nhân tâm, khuyến điều thiện, răn điều
ác, giữ gìn phong hóa, di dưỡng tâm tình” [51, tr.41].
2
Phép làm thơ trước hết phải lập ý, sâu đó mới tìm lời. Ngôn chí, minh đạo, trưng
thánh, tôn kinh là những nguyên tắc tư tưởng tối cao choi phối quá trình sáng tác cũng
như nội dung, hình thức thơ ca trung đại.Mặc dù quan niêm “thi dĩ ngôn chí” hay “văn
dĩ tải đạo” (Theo giáo sư Nguyên Lộc: tuy nói hai mệnh đề nhưng tựu chung vẫn là
một. Bởi vì, một thời gian khá dài trong lịch sử người ta chưa có phân biệt cụ thể giữa
văn và thơ.Vì vậy quan niệm “thi dĩ ngôn chí”được bao hàm trong quan niệm “văn dĩ
tải đạo”. Chỉ ở đây thực chất cũng chính là đạo [54, tr.56] là những quan niệm mang
tính chất chủ đạo chi phối sáng tác của hầu hết các nhà nho trong thời kỳ phong kiến
nhưng nói như thế không có nghĩa là nó bao quát hết toàn bộ lịch sử phát triển rực rỡ
của thơ ca trung đại.
Một bộ phận rất lớn của thơ Nôm và một bộ phận không nhỏ của thơ ca yêu
nước và rất nhiều thơ ca dân gian đã vượt ra ngoài kỷ cương của kinh và đạo đức để
hướng vào đời sống hiện thực sinh đọng. Biết bao nhà nho bắt đắc dĩ đã mất lòng tin ở
đạo lý thánh hiền. Họ đã dùng thơ, một thứ thơ vượt lên trên tầm thời đại để chống trả
lại trật tự xã hội và sự hà khắc của chế độ quan liêu bảo thủ trì trệ.
Tóm lại, có thể nói, hầu hết các nhà nghiên cứu cho rằng văn học thời trung đại
Việt Nam dường như chỉ có một quan niệm văn học chính thống của nho giáo. Đó là
quan niệm “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”. Quan niệm này xuất hiện cùng với sáng
tác của các nhà nho khoảng cuối đời Trần. Đen thế kỷ XV trở thành chính thống và
kéo dài đến đầu thế kỷ XX mới dần dần bước cho những quan niệm văn học mới.

1.2,2,

Một số quan niệm về thơ thời hiện đại.
Đây là thời kỳ văn học chỉ diễn ra chưa đầy nửa thế kỷ nhưng có một vị trí hết

sức quan trọng trong tiền trình phát triển của lịch sử văn học Việt Nam. Với đặc điểm
của nền văn học đag được hiện đại hoá mạnh mẽ, phát triển với một nhịp độ đặc biệt
đạt được nhiều thành tựu rực rỡ và có sự phân hóa phức tạp nhiều khu vực và trào lưu,
quan niệm văn học thế kỷ XX đã có những chuyển biến một cách rõ rệt. Khi nói văn


học hiện đại hóa là nói văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp của văn học cổ phong
kiến. Nói chung, quan niệm thẩm mỹ thời phong kiến, lấy chuẩn mực cái đẹp trong
2
thiên nhiên và chân lý quá khứ, ý thức cá nhân có điều kiện phát triển, cá tính không
được coi trọng, cái “tôi” bị xem thường. Người làm thơ phải tuân thủ theo cả hệ thống
ước lệ chung của cả cộng đồng, của những “tao nhân mặc khách”. Do vậy tính chất
uyên bác và cách điệu hóa, tính sung cổ và phi ngã đã chi phối quan niệm về thơ văn
trong sáng tác.
Bước sang đầu thế kỷ XX-1945, cùng với những hình ảnh to lớn của mưa Âu,
gió Á. Giờ đây đội ngũ sáng tác văn học không phải chỉ là những nhà nho uyên thâm
Hán mà chủ yếu là lớp tâng lớp tri thức Tây học tử tư sản ở các đô thị.Công chúng văn
học cũng thay đổi, chữ Quốc ngữ và kỹ thuật in ấn ra đời ...đã làm nên những thay đổi
sâu sắc và to lớn đời sống văn học. Phan Bội Châu cũng như các sĩ phu yêu nước đã
đưa đến cho lịch sử văn học dân tộc một kiểu mẫu về quan niệm văn chương. Văn
chương không đẻ lập thân mà là đẻ truyền quan điểm chính trị. Với Huỳnh Thúc
Kháng thì “đối với ông không có cái văn chương nào hơn cái văn chương làm cho dân
khôn và nước mạnh.Khách đa tình thì thiên lệch về tình. Nhà thi sĩ thì thiên lệch về
nước”. [49, tr.4].
Theo Lưu Trọng Lư, sự khác nhau về đời sống tinh thần, về quan điểm thẩm mỹ

sẽ dẫn đến những quan niệm thơ ca khác nhau. Xưa, cuộc sống của thi nhân “giản dị,
êm đềm”, nên tâm hồn họ cũng nghèo nàn, phang lặng”, nay tình cảm thi nhân “muôn
hình vạn trạng”nên thơ ca phải phóng túng, bay bổng réo rắt ...và khi tâm trạng, tình
cảm mới ắt phải có những hình thức biểu đạt mới đó là một tất yếu.
Trên văn đàn công khai của những năm 30 thế kỷ XX, Tản Đà nổi lên nhu một
nhân vật kiệt xuất. Là một nhà nho nhung lại ảnh huởng tu tuởng duy tân. Ông quan
niệm: “có văn có ích,có văn chơi” và cái “văn chơi”của ông đã báo hiệu “thời đại
trong thi ca”mà sau Hoài Thanh đã tổng kết, ở đây lần đầu tiên trong văn học Việt
Nam, cái tôi trữ tình trực tiếp đuợc coi là nhân vật trữ tình số một. Ông quan niệm khi
làm thơ: “Nếu không phá cách, vứt điệu luật thì khó cho thiên hạ đến bao giờ”. Cái tôi


×