Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

bài tập hki môn đại cương VH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.09 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết mỗi đất nước đều có một nét đặc sắc riêng một nền văn
hóa riêng, và Việt Nam ta cũng vậy, một đất nước tươi đẹp với nền văn hóa đặc
sắc,đa dạng và phong phú. Ngay tại Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Đảng
ta đã nhận định: “văn hóa là một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải quan
tâm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ - nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc, cũng từng
nhấn mạnh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Đến Hội nghị Trung ương 5,
Khóa VIII, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là
động lực vừa là mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”. Hội nghị Trung
ương 10, Khóa IX tiếp tục phát triển: “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát
triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn đảng là then chốt với không ngừng
nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ cả
ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định để bảo đảm cho sự phát triển toàn
diện bền vững của đất nước”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ: “Xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa
gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành sức mạnh nội
sinh quan trọng của phát triển”. Và để làm rõ hơn về vấn đề này em xin chọn đề
số 1 “Tại sao nói: “Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội”? Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam hiện nay” cho phần bài làm của mình.


NỘI DUNG
I.

Một số khái niệm về văn hóa và phát triển.

1, Khái niệm văn hóa.
Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp, có đối tượng nghiên cứu đa dạng,
gồm nhiều ngành khoa học nghiên cứu như nhân loại học, dân tộc học, xã hội học,
triết học, Và tính đến nay, đã có hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hóa. Có thể


đưa ra một vài ví dụ như sau:
Theo Thai-lơ thì: “Văn há là toàn bộ phức thể gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật, tập quán, những khả năng khác mà con người có được
với tư cách là một thành viên xã hội”
Quan điểm của Mác về văn hóa đã chỉ ra được nguồn gốc cũng như bản chất
của văn hóa: “Căn cứ vào mức độ tự nhiên được con người biến thành bản chất
người tức là mức độ tự nhiên được con ngời khai thác cải tạo thì có thể xét được
trình độ văn hóa chung của con người”
Trên quan điểm mục đích lí luận, chức năng luận, chỉ ra nguồn gốc, bản chất,
những thành tố cơ bản của văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm về văn hóa
như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, những phương tiện phục vụ cho
việc ăn, mặc, ở, đi lại và cách thức sử dụng. Tất cả những phát minh, sáng tạo ấy là
văn hóa”.
Nói một cách chung nhất, thì văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra nhằm mục đích phục vụ cho sự tồn tại và phát triển


của cộng đồng loài người. Văn hóa được sáng tạo bởi con người với mục đích vì sự
tiến bộ của loài người. Văn hóa vừa là một khái niệm chỉ thuộc tính loài người, vừa
là khái niệm chỉ trình đô và chất lượng sống của con người trong hoạt động thực
tiễn xã hội. Văn hóa được biểu hiện sinh động và đa dạng trong những giá trị văn
hóa vật thể và phi vật thể và đặc biệt là biểu hiện trong nhân cách, lối sống, nếp
sống của cộng đồng xã hội, trong cách ứng xử của con người với tự nhiên, với xã
hội và với bản thân mình. “Văn hóa là tất cả những gì còn lại khi những cái khác
bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”(Edouard Herriot)
2, Khái niệm phát triển.
-

Phát triển là sự thay đổi hướng tới con gnười, hướng tới xã hội, làm tăng

phẩm chất người và tính đa dạng xã hội, “tạo ra những đặc tính, đặc trưng

-

-

của xã hội và cá nhân cá nhân”.
Phát triển hướng tới sự công bằng “không phải sẽ tạo nên sự cách biệt” gắn

-

với sự tiến bộ của xã hội.
Phát triển gắn phải phù hợp với đặc điểm, trình độ của mỗi cộng đồng. Nó

mang tính đa dạng, nhân văn, nhân bản.
Phát triển gắn với vai trò của văn hóa “sẽ đươc khởi đầu và truyền bá bởi văn
hóa”.
3. Mối liên hệ giữa văn hóa với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đời sống xã hội có hai mặt: vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật
chất của đời sống xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và chúng phải
đi đôi với nhau không thể tách rời nhau.
Ví dụ: Trong vài thập kỷ trước đây, có một số nước cho rằng: chỉ cần tăng
trưởng kinh tế với việc sử dụng cơ chế kinh tế thị trường cùng với việc phát triển
sử dụng khoa học công nghệ cao là có sự phát triển. Sau một thời gian thực hiện
kết quả cho thấy, các quốc gia đó đạt được một số mục tiêu về tăng trưởng kinh tế


nhưng đã vấp phải sự xung đột gay gắt trong xã hội, sự suy thoái về đạo đức, văn
hóa ngày càng tăng. Từ đó, kéo theo kinh tế phát triển chậm lại, mất ổn định xã
hội tăng lên và cuối cùng là sự phá sản của các kế hoạch phát triển kinh tế, đất

nước rơi vào tình trạng suy thoái, không phát triển được. Đây là quan niệm phát
triển nhanh bằng cách hi sinh các giá trị văn hóa – xã hội cho sự phát triển. Trên
thực tế đã bị phá sản. Vì vậy phát triển kinh tế phải đi đôi với giữ gìn và phát
triển văn hóa.
Tóm lại mối liên hệ giữa văn hóa với việc phát triển kinh tế - xã hội là mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, kinh tế không tự mình phát triển nếu thiếu nền tảng
văn hóa và văn hóa không phải là sản phẩm thụ động của kinh tế. Phát triển văn
hóa do đó, phải trên cơ sở kết hợp hài hòa với phát triển kinh tế. Và chúng liên hệ
chặt chẽ với nhau để cùng nhau phát triển.
II. Tại sao nói .Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế
- xã hội?
1.1 Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Văn hóa là mục tiêu của sự phát triển bởi lẽ, văn hóa do con người sáng tạo ra,
chi phối toàn bộ hoạt động của con người, là hoạt động sản xuất nhằm cung cấp
năng lượng tinh thần cho con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện, xa
rời trạng thái nguyên sơ ban đầu khi từ con vật phát triển thành con người. Con
người tồn tại, không chỉ cần những sản phẩm vật chất mà còn có nhu cầu hưởng
thụ sản phẩm văn hóa tinh thần, con người và xã hội loài người càng phát triển thì
nhu cầu văn hóa tinh thần đòi hỏi ngày càng cao. Đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh
thần đó chính là đảm bảo sự phát triển ngày càng nhiều của cải vật chất cho con
người và xã hội.
Trên ý nghĩa đó, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là mục
tiêu của sự phát triển. Vì xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người quyết


định mà văn hóa thể hiện trình độ vun trồng ngày càng cao, càng toàn diện con
người và xã hội, làm cho con người và xã hội ngày càng phát triển, tiến bộ; điều
đó nghĩa là ngày một xa rời trạng thái nguyên sơ, mông muội để tiến tới một cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân
đạo của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng được bồi dưỡng; phát huy trở

thành giá trị cao quý và chuẩn mực tốt đẹp của toàn xã hội. Mục tiêu này phù hợp
với khát vọng lâu đời của nhân loại và là mục đích phát triển bền vững, tiến bộ
của các quốc gia, dân tộc. Đây là một nội dung quan trọng của Chủ nghĩa xã hội
mà chúng ta đang xây dựng
1.2 Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội
Với ý nghĩa văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, văn hóa vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển KT-XH. Trong mỗi chính sách KT-XH
luôn đòi hỏi phải bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa có khả năng khơi
dậy tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn lực quyết định sự phát triển xã hội.
Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị, xây dựng và
phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hóa.
Nói văn hóa là mục tiêu của phát triển KT-XH, có nghĩa là sự phát triển kinh tế
phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng đời sống xã hội, tạo cơ sở vật chất cho sự
phát triển lành mạnh về đời sống tinh thần. Muốn vậy, văn hóa phải điều tiết sự phát
triển của kinh tế, phải gắn sự phát triển của kinh tế với tiến bộ xã hội. Là mục tiêu
của sự phát triển, văn hóa thể hiện trình độ phát triển về ý thức, trí tuệ, năng lực
sáng tạo của con người. Với sự phát triển của văn hóa, bản chất nhân văn, nhân đạo
của mỗi cá nhân và cả cộng đồng được bồi dưỡng và phát huy, trở thành giá trị cao
quý và chuẩn mực của toàn xã hội.Phát triển KT-XH dân tộc chính là để đạt được
độc lập - tự do - hạnh phúc, Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII
viết: “Về đời sống vật chất và văn hóa nhân dân có cuộc sống no đủ, có nhà ở


tương đối tốt, có điều kiện thuận lợi về đi lại, học hành, chữa bệnh, có mức hưởng
thụ văn hóa khá. Quan hệ xã hội lành mạnh, lối sống văn minh, gia đình hạnh
phúc”.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, văn hóa luôn được xác định là
mục tiêu của sự nghiệp cách mạng và điều đó thể hiện một cách nhất quán trong
đường lối văn hóa của Đảng ta từ ngày mới thành lập đến nay. Đó là, mục tiêu của
sự nghiệp cách mạng là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho

nhân dân, vì mục tiêu: Dân giàu, Nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Văn hóa là động lực cho sự phát triển con người, là nhân tố bên trong, nhân tố nội
sinh. Văn hóa khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của con người, phát huy
năng lực bản chất người. Mối quan hệ con người với văn hóa là gắn liền nhau, văn
hóa vừa thể hiện trong con người, đồng thời văn hóa là môi trường, là điều kiện cho
sự hình thành, phát triển nhân cách con người. Tức là, văn hóa góp phần vào điều
tiết quá trình phát triển KT-XH.
Trong thời đại ngày nay, một đất nước giàu hay nghèo không phải có nhiều hay ít
lao động và tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là do có khả năng phát huy tiềm
năng sáng tạo của nguồn lực con người hay không. Tiềm năng sáng tạo này nằm
trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là nằm trong sự hiểu biết, tâm hồn, đạo lí,
lối sống, thị hiếu, trình độ thẩm mĩ của mỗi cá nhân và cộng đồng. Hàm lượng trí
tuệ, hàm lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao thì khả
năng phát triển KT-XH càng lớn và hiện thực.
III.

Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam

Ngày nay, trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
ngày càng có nhiều sản phẩm và dịch vụ văn hóa được đưa vào lưu thông trên thị
trường. Cơ cấu ngành của lĩnh vực văn hóa ngày một phức tạp hơn. Văn hóa ngày


nay không còn là một “thứ trang sức” tốn kém, mà đã trở thành một ngành kinh tế
công nghiệp đặc biệt, có khả năng tự trang trải và tạo ra lợi nhuận. Việc lĩnh vực
văn hóa trở thành ngành sản xuất - kinh doanh mang tính công nghiệp, chủ yếu là
do sự tăng nhanh những nhu cầu tinh thần của con người, và sự tác động của văn
hóa tới chất lượng nguồn vốn con người; từ đó, văn hóa tác động đến tăng trưởng
kinh tế, chất lượng sống và môi trường sống.
Tại Việt Nam, văn hóa cũng đang và đã trở thành một ngành công nghiệp với 2

nhóm ngành sau:
- Nhóm “công nghiệp thông tin - truyền thông” gồm toàn bộ các cơ sở thông
tin đại chúng điện tử và ấn loát (tác phẩm nghệ thuật, sách báo...), điện ảnh, ngành
kinh doanh nghe - nhìn, các dịch vụ thu thập, xử lý, truyền tải và sử dụng thông
tin,...
- Nhóm “công nghiệp giải trí và thư giãn” gồm công nghiệp sản xuất dụng
cụ thể dục thể thao, các liên hiệp và các tổ chức thể dục thể thao, máy ảnh và nhạc
cụ, chụp ảnh, mốt thời trang, quảng cáo, ngành thủ công mỹ nghệ, ngành kiến trúc,
các cơ quan văn hóa - nghệ thuật (nhà hát kịch, cải lương, tuồng, chèo, dàn nhạc
giao hưởng), các nhóm nhạc nhẹ, các viện bảo tàng, thư viện, các công viên văn
hóa, các trung tâm vui chơi giải trí, các hoạt động du lịch,...
Để đáp ứng được các nhu cầu văn hóa đa dạng trong xã hội và dưới sự tác động
của tiến bộ công nghệ mới, nhiều thiết chế văn hóa được tổ chức lại theo hướng
hình thành phức hợp văn hóa đa chức năng, đặc biệt tại Thành phố Hồ Chí Minh và
Hà Nội.
Sức phát triển của văn hóa ngày nay nằm chính ở tính kinh tế của nó. Văn hóa
do đó, tự quyết định được vận mệnh của mình, chứ không phải tùy thuộc vào các
“mạnh thường quân” ở bên ngoài văn hóa. Quá trình xã hội hóa văn hóa, như từ
thực tế Việt Nam trong những năm qua cho thấy, đã thúc đẩy ngày càng nhiều


người quan tâm đến văn hóa, chi tiêu nhiều cho văn hóa, và hơn thế còn tự mình tổ
chức các hoạt động văn hóa.
Quá trình xã hội hóa văn hóa đã làm giảm mức đầu tư của Nhà nước cho văn
hóa, song lại nâng cao vai trò “cầm cân nảy mực” của Nhà nước trong quá trình
phát triển văn hóa. Nhà nước tập trung vào việc xây dựng luật và các chính sách
thuế để khuyến khích (hoặc hạn chế) các lĩnh vực văn hóa. Nhà nước quan tâm đến
việc đầu tư phát triển những lĩnh vực mới nhằm đáp ứng và giữ vững những mức
độ chuẩn trong quá trình phát triển một cách đa dạng nhu cầu văn hóa của các tầng
lớp nhân dân, trước tiên ở lĩnh vực thông tin đại chúng, bảo vệ di sản văn hóa quan

trọng của quốc gia. Nhà nước phối hợp với các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước
hỗ trợ cho các loại hình văn hóa - nghệ thuật phi thương mại;... Nhờ thế, mối quan
hệ giữa các thiết chế nhà nước với các tổ chức văn hóa thuộc mọi thành phần kinh
tế trở nên khăng khít, và có “sức nặng” thực tế trong việc quản lý, điều tiết quá
trình xã hội hóa văn hóa.
Xã hội hóa văn hóa tại Việt Nam cũng như tại nhiều nước trên thế giới, đã thúc
đẩy phát triển các hình thức sáng tạo, thưởng thức văn hóa theo hướng hiện đại
đồng thời cũng phục hồi cả nhiều loại hình văn hóa truyền thống. Ở Việt Nam hiện
nay, nhiều họa sĩ và nhà điêu khắc đang sử dụng những vật liệu mới cùng các
phương tiện điện tử để xử lý chúng. Các nhạc sĩ cũng sử dụng máy tính và công
nghệ điện tử để tạo ra những âm thanh, giai điệu mới. Một số nghệ sĩ đang dàn
dựng những hình thức nghệ thuật sắp đặt - trình diễn mang đậm dấu ấn cá nhân
hiện đại và mang tính toàn cầu, tức là ít lệ thuộc vào gốc rễ văn hóa truyền thống.
Nhiều chương trình nghệ thuật biểu diễn sử dụng cả nghệ thuật đặc thù của phim
ảnh và truyền hình. Những viện bảo tàng lớn được nối mạng và có website. Các
buổi biểu diễn ca nhạc, tạp kỹ lớn được phát trên truyền hình, và đáp ứng nhu cầu
người xem theo thời gian tại bất cứ nơi nào trên đất nước.


Các dòng người du lịch cũng làm cho Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào thế
giới. Nhu cầu du lịch hiện nay phong phú, từ nhu cầu tham quan các danh lam
thắng cảnh thiên nhiên và lịch sử văn hóa, các viện bảo tàng đến các hình thức vận
động thể thao, giải trí, học tập và chữa bệnh, kể cả du lịch kết hợp với công việc
(hội thảo khoa học, tư vấn, tiếp cận thị trường,...). Việt Nam có bờ biển dài, có sự
đa dạng văn hóa vùng (miền),... để phát triển du lịch văn hóa. Trong quá trình hội
nhập quốc tế, việc trao đổi sản phẩm văn hóa nghệ thuật với nước ngoài được đẩy
mạnh, chẳng hạn thông qua các Festival quốc tế; theo lời mời của các đối tác, các
nhà tài trợ; tham gia các cuộc thi âm nhạc quốc tế; những ngày văn hóa Việt Nam
tại các nước hay những ngày văn hóa nước ngoài tại Việt Nam. Việt Nam đã phối
hợp với một số nước để tạo ra một số sản phẩm văn hóa nghệ thuật chung, thí dụ

các vở kịch chung giữa nghệ sĩ Việt Nam với nghệ sĩ Mỹ, Pháp;… tác phẩm điện
ảnh chung giữa Việt Nam với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật,… Đặc biệt, việc khai
thác một số loại hình nghệ thuật truyền thống dân tộc, như rối nước, đã mang lại
giá trị giao lưu văn hóa và kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế.
Giao lưu, tiếp biến văn hóa có thể nói là một vấn đề có tính quy luật trong quá
trình tồn tại, phát triển của văn hóa dân tộc, đặc biệt trong hội nhập quốc tế với sự
tác động của các quá trình toàn cầu hóa như hiện nay. Trong quá trình hội nhập
quốc tế về kinh tế và văn hóa, cùng với việc xuất hiện những loại hình văn hóa
mang tính toàn cầu, thì việc bảo tồn, phát triển và phát huy nhiều loại hình văn hóa
dân tộc là một phương châm rất quan trọng, có tầm ảnh hưởng sống còn đến tương
lai phát triển của văn hóa Việt Nam.
C. KẾT LUẬN
Vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội không phải chỉ là sự trợ
giúp, là phương tiện mà cao hơn thế nữa là mục tiêu, là động lực của sự phát triển.
Sinh thời, Bác Hồ đã dạy: “Phải làm sao cho văn hóa thấm sâu vào tâm lý quốc


dân”. Điều đó có nghĩa, văn hóa phải trở thành nhận thức, tình cảm, ý chí, động
cơ hành động của mọi người trong xã hội. Văn hóa và con người phải là một; văn
hóa cùng với chính trị, kinh tế cũng như các lĩnh vực khác phải đồng hành để có
được “năng lực nội sinh” cho phát triển. Chỉ có như vậy, sự nghiệp đổi mới đất
nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới thành hiện thực.

Danh mục tài liệu tham khảo:
-

/>
-


su-tro-thanh-nen-tang-tinh-than-vung-chac-cua-xa-hoi.html
/>

-

/>
-

493020159591346.html
/>Một số hình ảnh đẹp về văn hóa Việt Nam




×